Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bến Tre hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.95 KB, 126 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sản xuất nông nghiệp hiện đóng một vai trò rất quan trọng trong toàn
bộ quá trình phát triển của đất nước. Để có một nền nông nghiệp phát triển
cao, hiệu quả, bền vững, đủ sức hội nhập với thế giới, Đảng ta chủ trương đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn,
đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất,
nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng,
từng địa phương, bảo đảm phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, sản
xuất hàng hóa lớn, đồng thời giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp. Đây là
một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa quyết định đối với con
đường phát triển của Việt Nam nói chung, tỉnh Bến Tre nói riêng.
Tỉnh Bến Tre, nằm ở cuối nguồn của sông Cửu Long, với ba dãy cù lao
và ba vùng nước: mặn, lợ, ngọt tạo thành một vùng sản xuất nông nghiệp đa
dạng, phong phú, nhiều tiềm năng. Cùng với cả nước bước vào thời kỳ đổi
mới, những năm qua nông nghiệp Bến Tre có bước phát triển đáng trân trọng
góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỉnh nhà. Đó là thành
tựu bước đầu của việc ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ (KH, CN) vào
sản xuất, nhất là công nghệ sinh học (CNSH). Do vậy, tỉnh đã tập trung đầu
tư, chuyển giao những tiến bộ KH, CN cho nông dân trong phát triển nông
nghiệp, mà cụ thể là ngành trồng trọt và chăn nuôi, từng bước cải thiện đời
sống và nâng cao thu nhập cho người dân.
Tuy nhiên, so với tốc độ phát triển của KH, CN và tiềm năng của địa
phương, việc ứng dụng tiến bộ của KH, CN vào sản xuất nông nghiệp để khai
thác, phát huy tiềm năng thế mạnh của Bến Tre những năm qua còn nhiều hạn
chế, chưa đồng bộ và rộng khắp. Nhiều nơi còn sử dụng kinh nghiệm sản xuất
truyền thống và công nghệ lạc hậu, năng suất kém. Việc chuyển giao KH, CN
cho nông dân ứng dụng vào sản xuất gặp nhiều khó khăn, chưa tương xứng với



2
trình độ tay nghề của họ, chưa phù hợp từng vùng, từng lĩnh vực. Do đó, đã triệt
tiêu ít nhiều vai trò, động lực của KH, CN đối với phát triển nông nghiệp.
Xuất phát từ tình hình trên, tôi quyết định chọn đề tài: “ Ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bến Tre
hiện nay”, để viết luận văn thạc sỹ kinh tế với mong muốn đóng góp chút
công sức nhỏ bé vào việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho
việc đề xuất phương hướng, giải pháp sát hợp, đưa nhanh tiến bộ KH, CN
vào sản xuất nông nghiệp tỉnh Bến Tre, góp phần khai thác, phát huy vai
trò, động lực của KH, CN, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của địa phương;
từng bước đưa tỉnh nhà vươn lên sánh vai các tỉnh bạn và cùng cả nước hội
nhập sâu với thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc đưa tiến bộ khoa học, công nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, nông nghiệp nói riêng là đề tài đã và đang thu hút nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ
thể một số tên đề tài, bài viết có liên quan như:
- GS, TS Đặng Hữu: Khoa học và công nghệ với sự phát triển kinh tế
- xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989.
- PTS Danh Sơn (chủ biên): Quan hệ giữa phát triển khoa học và
công nghệ với phát triển kinh tế - xã hội trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.
- TS Phan Xuân Dũng: Khoa học, công nghệ cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Cộng sản, số 11, 6/ 1999.
- GS, Chu Tuấn Nhạ: Tác động của khoa học, công nghệ đến chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Khoa học xã hội, số 3/2000.
- Nguyễn Đức Lợi: Vận dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong phát
triển nông nghiệp nước ta, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.



3
- Ngô Anh Thư: Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp ở tỉnh Bình Định. Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ
kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- Cao Quang Xứng: Tiến bộ khoa học, công nghệ và tiến trình hình
thành kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- Nguyễn Thị Vân: Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào phát
triển nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, bài tổng kết, của Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn được truy cập từ mạng Internet.
Những đề tài nghiên cứu khoa học, bài viết nêu trên chủ yếu xoay
quanh vấn đề ứng dụng tiến bộ KH, CN vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở
những góc độ khác nhau, phần lớn đi vào nghiên cứu mặt kinh tế - kỹ thuật.
Tuy có nhiều đề tài nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị trong quản lý
nông nghiệp, nhưng việc nghiên cứu kết hợp giữa kinh tế học và kinh tế chính
trị nhất là thiêng về kinh tế chính trị là chưa được chú ý khai thác nhiều. Vì
vậy, việc nghiên cứu lý luận để góp phần thúc đẩy ứng dụng tiến bộ KH, CN
vào phát triển nông nghiệp Bến Tre là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Đề tài: Ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất nông nghiệp ở tỉnh
Bến Tre nhằm mục đích nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa cơ sở lý luận và thực
tiễn của KH, CN với sản xuất nông nghiệp. Qua đó, đánh giá đúng những nấc
thang tiến bộ của KH, CN trong sản xuất nông nghiệp, nhằm đạt được những mục
tiêu kinh tế đã định trong kế hoạch, chiến lược mà tỉnh đã đề ra.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, Luận văn sẽ thực hiện một số nhiệm vụ sau:



4
+ Khái quát về ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất nông nghiệp ở
nước ta hiện nay.
+ Làm rõ thực trạng của việc ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất
nông nghiệp ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh quá trình
ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất nông nghiệp ở Bến Tre, góp phần phát
triển nền sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là ứng dụng tiến bộ KH,CN vào
sản xuất nông nghiệp ở Bến Tre, mà cụ thể là đối với cây trồng và vật nuôi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
+ Về không gian: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KH,
CN vào sản xuất nông nghiệp tỉnh Bến Tre , đưa tiến bộ KH, CN vào lĩnh vực sản
xuất cây trồng và vật nuôi trên địa bàn tỉnh Bến Tre hiện nay.
+ Về thời gian: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh
giá những ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất ngành trồng trọt và chăn
nuôi ở tỉnh Bến Tre từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Xuất phát từ cơ sở lý luận của các nhà kinh điển, nhà
khoa học trong và ngoài nước, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về nghiên cứu, đầu tư cho KH, CN vào phát triển nông nghiệp. Luận
văn có sự kế thừa những thành tựu đạt được trong việc đưa KH, CN vào sản
xuất nông nghiệp ở nước ta.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu trừu tượng hoá khoa học, cùng với các phương pháp cụ thể như: phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…để chứng minh và rút ra kết luận khoa học

cho luận văn.


5
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những khó khăn trong việc chuyển giao
KH, CN và ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bến Tre.
- Cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách đầu tư
nghiên cứu, phát triển, ứng dụng KH, CN có hiệu quả cho sản xuất nông
nghiệp của tỉnh.
- Nâng cao nhận thức, góp phần đẩy nhanh việc nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ KH, CN vào quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp ở Bến Tre, cho
bản thân tác giả và đội ngũ giảng viên Trường Chính trị tỉnh Bến Tre trong
nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC,
CÔNG NGHỆ VÀO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. TIẾN BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA
HỌC, CÔNG NGHỆ VÀO SẢN XUẤT

1.1.1. Khoa học, công nghệ và tiến bộ khoa học, công nghệ
1.1.1.1. Các quan niệm về khoa học, công nghệ
Ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất

trực tiếp, năng suất lao động không ngừng được nâng cao, cơ cấu kinh tế của
các quốc gia có sự chuyển biến mạnh mẽ, mọi mặt của đời sống xã hội loài
người thay đổi sâu sắc. Tuy nhiên, khi bàn về thuật ngữ khoa học, công nghệ,
vẫn còn có nhiều quan niệm khác nhau:
Khoa học, tiếng Latin là “Scientia”, có nghĩa là “kiến thức” hoặc “hiểu
biết”, là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết của
con người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh. Thông
qua các phương pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan sát các dấu
hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập
dữ liệu, phân tích thông tin để giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự
vật, hiện tượng. Một trong những cách thức đó là phương pháp thử nghiệm
bằng mô phỏng hiện tượng tự nhiên dưới điều kiện kiểm soát được và các ý
tưởng thử nghiệm. Tri thức trong khoa học là toàn bộ lượng thông tin mà các
nghiên cứu đã tích luỹ được. Định nghĩa về khoa học được chấp nhận phổ
biến đó là khoa học là tri thức tích cực đã được hệ thống hoá.
Theo Luật Khoa học và công nghệ năm 2000 “ Khoa học là hệ thống tri
thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy” [28, tr.8].
Viện Ngôn ngữ học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội cho rằng: Khoa học
là hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng


7
minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như
các hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế
giới hiện thực [56, tr.526].
Theo ý kiến của các nhà triết học: Khoa học (Science) là hệ thống tri
thức gồm những quy luật về tự nhiên, xã hội và tư duy, được tích lũy trong
quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể hiện bằng những khái niệm,
phán đoán, học thuyết.
Những quan niệm trên cho thấy, bản chất của khoa học là hệ thống tri

thức mang tính quy luật. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng: nhận thức và cải
tạo thế giới tự nhiên, phục vụ nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã
hội loài người.
Bên cạnh đó, cũng có những quan niệm nhấn mạnh về mặt cơ cấu –
chức năng của khoa học, xem xét nó như là một hình thái ý thức xã hội. Có
quan niệm khác chú trọng tới những yếu tố sản xuất của nó, chẳng hạn: Khoa
học là một lĩnh vực nghiên cứu nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới
về tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong đó bao gồm tất cả những yếu tố của sự
sản xuất: các nhà khoa học, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của họ; sự phân
công và hợp tác lao động khoa học; những cơ quan khoa học; những trang
thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu khoa học; những phương pháp nghiên
cứu khoa học; hệ thống các khái niệm, phạm trù, hệ thống thông tin khoa học
cũng như toàn bộ những tri thức hiện có với tư cách là tiền đề hoặc kết quả
của lao động khoa học.
Như vậy, về thực chất khoa học là một dạng hoạt động đặc biệt của
đời sống xã hội, là sự khám phá của con người đối với các hiện tượng và
thuộc tính vốn tồn tại một cách khách quan, từ đó làm thay đổi nhận thức của
con người và biến chúng thành hiện thực. Phạm vi ảnh huởng của khoa học
rất lớn, cả bề rộng lẫn bề sâu. Xã hội loài người càng phát triển thì khoa học
cũng ngày càng phát triển và phân ngành của khoa học càng chi tiết hóa và
phức tạp hóa hơn. Hiện nay phổ biến có ba cách phân loại cơ bản:


8
Theo đối tượng nghiên cứu:
Khoa học tự nhiên, nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, quá trình trong
tự nhiên.
Khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu hiện tượng, quá trình, quy
luật vận động, phát triển của xã hội và bản thân của con người.
Theo mục tiêu nghiên cứu: Có khoa học cơ bản; khoa học ứng dụng.

Theo phân loại của UNESCO: Thì bao gồm khoa học tự nhiên; khoa
học kinh tế; khoa học nông nghiệp; khoa học y học; khoa học kỹ thuật; khoa
học xã hội và nhân văn.
Tóm lại, khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực
hoạt động nghề nghiệp xã hội có tính đặc thù nhằm tìm kiếm, sắp xếp một
cách có hệ thống các tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy trên cơ sở tổng
hợp, khái quát những tri thức kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình
lịch sử, từ thực tiễn hoạt động sản xuất và đời sống để định hướng, dẫn dắt
hoạt động thực tiễn của con người.
Công nghệ: Thuật ngữ Công nghệ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
“Technologia” hay “vexvonopơ”. “Techne” có nghĩa là “thủ công” và “logia”
là “châm ngôn”; “Technologia” là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ
và mưu mẹo của con người. Trong tiếng Anh, công nghệ là “Technology” có
nghĩa là “tài nghệ học”, sự tinh xảo của tay nghề, một nghệ thuật hay một kỹ
năng, bí quyết… để đạt tới sản phẩm chất lượng cao của nghề thủ công trước
đó. Tùy theo ngữ cảnh và góc độ nghiên cứu mà thuật ngữ công nghệ có thể
được hiểu:
Công cụ hoặc máy móc giúp con người giải quyết các vấn đề.
Các kỹ thuật bao gồm các phương pháp, vật liệu, công cụ và các tiến
trình để giải quyết một vấn đề.
Các sản phẩm được tạo ra phải hàng loạt và giống nhau.
Thuật ngữ công nghệ vì vậy thông thường đặc trưng bởi các phát minh
và cải tiến sử dụng các nguyên lý và quy trình đã được khoa học phát hiện ra


9
gần đây nhất. Tuy nhiên thậm chí cả phát minh cổ nhất như bánh xe cũng là
một minh họa cho công nghệ.
Các nhà kinh tế học thì xem công nghệ như là trạng thái hiện tại của
kiến thức của con người trong việc kết hợp các nguồn lực để sản xuất ra các sản

phẩm mong muốn (và kiến thức của con người về sản xuất như thế nào?). Như
vậy, công nghệ có thể thay đổi khi kiến thức kỹ thuật của con người tăng lên.
Theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO):
“Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết
quả nghiên cứu và xử lý một cách có hệ thống và có phương pháp” [26, tr.43].
Định nghĩa này chỉ xét ở một khía cạnh nào đó của khoa học trong việc sử dụng
nó một cách có hiệu quả (như trong lĩnh vực công nghiệp mà thôi).
Tổ chức Uỷ ban kinh tế - xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP)
thì đưa ra định nghĩa: “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ
thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin”. Sau đó định nghĩa được mở
rộng, “nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử
dụng trong chế tạo, dịch vụ, quản lý thông tin”[26, tr.43]. Định nghĩa này
được mở rộng hơn trên các lĩnh vực chế tạo, dịch vụ, quản lý thông tin và đã
đi sâu nghiên cứu khía cạnh công nghệ thực thụ.
Theo khoa học luận: Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình,
kỹ năng, bí quyết, công cụ và phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành
sản phẩm. Đây là khái niệm mang tính khái quát tương đối đầy đủ.
Viện Ngôn ngữ học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội cho rằng: Công
nghệ là tổng thể nói chung các phương tiện kỹ thuật, các phương pháp tổ
chức, quản lý được sử dụng vào quy trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm vật
chất và dịch vụ [56, tr.270].
Nhìn chung các quan niệm đều đi vào làm rõ công nghệ là môn khoa
học ứng dụng nhằm vận dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa
học bao gồm các phương tiện kỹ thuật, công cụ, kỹ năng, bí quyết, phương


10
pháp… sử dụng trong quá trình sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và
tinh thần của con người.
Ngày nay, công nghệ về mặt nội dung gồm bốn bộ phận hợp thành

được gọi là bốn thành phần công nghệ:
Một là, phần kỹ thuật là phần công nghệ được hàm chứa ở trong các
phương tiện kỹ thuật; bao gồm: các công cụ, thiết bị máy móc, phương tiện và
các cấu trúc hạ tầng khác. Trong công nghệ, các thành phần này thường làm
thành dây chuyền để thực hiện quá trình biến đổi, ứng với một quy trình công
nghệ nhất định, đảm bảo tính liên tục của quá trình công nghệ. Các phần kỹ
thuật của công nghệ chính là “phần cứng”.
Hai là, phần con người là phần công nghệ hàm chứa trong kỹ năng con
người trong quá trình hoạt động công nghệ bao gồm: kiến thức, kinh nghiệm,
kỹ năng, kỹ xảo, tay nghề, khả năng học hỏi và các tố chất của con người.
Ba là, phần thông tin là phần công nghệ được hàm chứa trong các dữ
liệu và nhờ đó con người có thể sử dụng, thực hiện nó một cách hiệu quả các
hoạt động công nghệ, bao gồm bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ liệu, bản
thiết kế…nó được bảo vệ theo Luật Bản quyền sở hữu công nghiệp.
Bốn là, phần tổ chức, quản lý là phần công nghệ hàm chứa trong khung
của thể chế, xây dựng cấu trúc của tổ chức bao gồm các quy định về trách
nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ, sự phối hợp giữa các cá nhân và các bộ phận
trong hoạt động khoa học, công nghệ. Kích thích người lao động làm việc để
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các thành phần của một công nghệ có quan hệ mật thiết với nhau, bổ
sung cho nhau. Bất kỳ quá trình sản xuất nào đều phải đảm bảo bốn thành
phần trên. Mỗi thành phần đều đảm nhiệm những chức năng nhất định. Sự kết
hợp chặt chẽ bốn thành phần trên là điều kiện để đảm bảo cho hoạt động sản
xuất đạt hiệu quả cao. Do đó, khi muốn đổi mới công nghệ phải đồng thời
nâng cấp cả bốn thành phần công nghệ một cách tương thích.


11
Trong thế giới công nghệ đứng ở giữa một bên là con người và một bên
là giới tự nhiên. Công nghệ là bàn tay của con người được nối dài ra trong quá

trình cải tạo tư nhiên.
Tóm lại, công nghệ là toàn bộ hệ thống các công cụ, phương tiện kỹ
thuật, bí quyết, phương pháp tổ chức, quản lý nhằm khai thác, biến đổi nguồn
lực tự nhiên thành các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu
của con người.
1.1.1.2. Tiến bộ khoa học, công nghệ
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ
Hầu hết các bước ngoặt trong lịch sử kinh tế thế giới đều gắn với các
phát minh khoa học và sáng chế công nghệ. Chúng là những yếu tố chủ yếu,
động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Mặt dù cả hai
đều có điểm chung về mục đích và hoạt động dựa trên cơ sở phát triển trí tuệ của
con người, nhưng giữa chúng có những khác biệt quan trọng cần chú ý:
Một là, xét về chức năng thì nhiệm vụ của khoa học là tìm ra các quy
luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, còn công nghệ lại là việc ứng dụng các
nguyên lý, quy luật mà khoa học đã tìm ra vào sản xuất và đời sống. Như vậy,
khoa học là hình thức tồn tại của lý luận, còn công nghệ là hình thức tồn tại
của thức tiễn và đời sống.
Hai là, khoa học tập trung giải quyết câu hỏi “tại sao?” tức là nhằm lý
giải tìm ra nguyên nhân; còn công nghệ liên quan đến câu hỏi “làm như thế
nào?” nghĩa là tìm ra bí quyết để áp dụng.
Ba là, nếu các tri thức khoa học có thể phổ biến không hạn chế, thì
công nghệ lại là một thứ hàng hoá dùng để mua bán gắn với các yếu tố sở hữu
và giá cả.
Bốn là, thường các hoạt động khoa học được đánh giá bằng các thước
đo trực cảm, trong khi đó thước đo đối với công nghệ lại là phần đóng góp cụ
thể đối với việc giải quyết các mục tiêu kinh tế – xã hội.


12
Năm là, các hoạt động khoa học thường đòi hỏi phải có một thời gian

giải quyết dài hơn và yếu tố bất định luôn là đặc trưng của hoạt động này.
Ngược lại, đối với các hoạt động công nghệ thời gian giải quyết thường ngắn
hơn. Mặc dù, giữa khoa học, công nghệ có điểm khác nhau như vậy, nhưng cả
hai đều thống nhất, tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại như sau:
Khoa học tạo cơ sở lý thuyết và phương pháp cho ứng dụng triển khai
công nghệ mới vào sản xuất và đời sống.
Công nghệ kích thích sự phát triển của khoa học và cung cấp các
phương tiện, công cụ cho nghiên cứu khoa học.
Lịch sử phát triển của khoa học, công nghệ cho thấy ở thời kỳ đầu phát
triển, nhờ hoạt động thực tiễn, con người đã dần tích lũy được những kinh
nghiệm nhất định. Việc tổng kết các kinh nghiệm này đã tạo ra những công
nghệ khác nhau. Đồng thời, việc hệ thống hoá các tri thức tích luỹ được đã
dẫn tới sự ra đời của khoa học. Về mặt lịch sử thì sản xuất đi trước công nghệ
và công nghệ lại đi trước khoa học.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội vai trò của khoa học ngày
càng tăng trong xã hội. Khoa học có vai trò quyết định đối với sự phát triển.
Nhờ những phát minh lớn của khoa học, một xu hướng mới đã hình thành là
nhiều ngành công nghiệp mới như điện tử và tin học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu composit, sợi quang học, công nghệ
biến đổi gen, công nghệ vũ trụ, công nghệ nano… là kết quả trực tiếp của việc
vận dụng các thành quả của hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản.
Nếu khoa học chính là sự phản ánh các quy luật của thế giới khách
quan vào bộ óc con người và được kết tinh thành hệ thống lý luận, thì công
nghệ là quá trình triển khai những hiểu biết của con người vào thực tiễn để
khai thác và cải biến thực tiễn đó nhằm phục vụ cho lợi ích của con người.
Quá trình này chính là sự ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và
đời sống.


13

Tiến bộ khoa học, công nghệ
Ngày nay, trong quá trình phát triển của xã hội, những tri thức khoa học
thuộc các lĩnh vực khác nhau luôn được phát triển do những yêu cầu của sản
xuất và đời sống. Sự phát triển liên tục những tri thức của con người về thế
giới tự nhiên, xã hội và bản thân được gọi là những tiến bộ khoa học. Những
tiến bộ khoa học đó lại phát huy tác dụng đối với thực tiễn sản xuất thông qua
công nghệ cụ thể. Có thể nói, tiến bộ khoa học đánh dấu sự phát triển mới của
khoa học, còn công nghệ sản xuất là sự cụ thể hoá việc vận dụng tiến bộ khoa
học đó vào sản xuất thông qua một hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp. Nói
cách khác, sự tăng lên về trình độ hiểu biết của con người được đánh dấu
bằng sự xuất hiện của những tiến bộ khoa học. Đến lượt mình, những tiến bộ
khoa học đó lại được thực hiện qua các công nghệ sản xuất cụ thể.
Trong sản xuất, tiến bộ KH, CN xét về nội dung được phát triển theo
một số hướng chính, bao gồm: cơ khí hoá, điện khí hoá, tự động hoá, điện tử
và tin học, vật liệu mới, công nghệ tin học… Nó đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, tần suất phát minh mới và thời gian ứng dụng vào sản xuất
ngày càng ngắn, phạm vi ứng dụng ngày càng mở rộng, mang tính liên ngành,
thậm chí liên quốc gia đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường (KTTT), xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế, làm cho sản phẩm hàng hoá tạo ra từng bước đáp ứng được
yêu cầu trong và ngoài nước. Từ đó, đặt ra cho chúng ta phải làm sao kích
thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, ứng dụng những tiến bộ của KH,
CN vào sản xuất và đời sống có hiệu quả và ngày càng phát triển. Tiến bộ
KH, CN là một động lực, một yếu tố có tính chất quyết định đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, làm cho lực lượng sản xuất ngày càng hoàn thiện, trình
độ của người lao động ngày càng thành thạo, năng suất lao động xã hội ngày
càng tăng lên trong điều kiện xã hội ngày càng thuận lợi; của cải xã hội ngày
càng dồi dào và phúc lợi xã hội ngày càng được thực hiện tốt hơn.



14
1.1.2. Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất
1.1.2.1. Các quan niệm khác nhau về ứng dụng khoa học, công nghệ
Sự phong phú và đa dạng của sản xuất nông nghịêp với những đặc
điểm riêng của nó làm cho việc ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất nông
nghiệp cũng rất đa dạng và phong phú. Đứng trên các giác độ khác nhau có
thể xét dưới những góc độ khác nhau như:
- Xét dưới góc độ là một quan hệ kinh tế, người ta phân chia thành
từng loại sau đây:
+ Ứng dụng tiến bộ KH, CN về công cụ sản xuất là việc đưa vào sản
xuất những công cụ sản xuất mới có tác dụng giảm nhẹ cường độ lao động,
tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng công việc, cải tạo đất…
+ Ứng dụng tiến bộ KH, CN theo ngành. Tức là đưa tiến bộ
KH, CN vào các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản và theo chi tiết từng ngành, từng sản phẩm trong nông nghiệp. Chẳng
hạn như đưa tiến bộ KH, CN vào sản xuất lúa gạo, cây ăn trái, chăn nuôi bò,
lợn, tôm, cá…
Việc phân loại này vừa mang tính khái quát giúp chúng ta có những
định hướng và giải pháp bao quát cho việc phát triển các ngành trồng trọt
chăn nuôi…còn tính cụ thể trong việc sản xuất từng cây, con sẽ làm phong
phú hơn nội dung ứng dụng tiến bộ KH, CN bởi tính chất đặc thù của chúng.
+ Theo công việc. Sản xuất nông nghiệp là sự tiếp nối liên tiếp các
khâu như làm đất sản xuất giống, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch trong ngành
trồng trọt hay sản xuất giống, thức ăn gia súc, chăm sóc nuôi dưỡng đàn gia
súc, gia cầm trong ngành chăn nuôi. Ứng dụng tiến bộ KH, CN ở các khâu
công việc được nối tiếp như một chuỗi dây chuyền liên tục trong suốt quá
trình sản xuất nông nghiệp. Việc ứng dụng đó ở các khâu công việc trong cả
quá trình sản xuất một cách tương xứng đồng bộ về trình độ sẽ tạo nên tính hệ
thống nhằm đạt mục tiêu hiệu quả tổng hợp của sản xuất nông nghiệp.



15
- Xét dưới góc độ kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ KH, CN cũng được phân
loại dựa trên các tiêu chí sau:
+ Về vật tư kỹ thuật cho sản xuất: những vật tư kỹ thuật như giống
mới, phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc bảo vệ gia súc…Có ưu thế về
tính hiệu quả trong sử dụng và hơn hẳn của năng suất sản phẩm. Các yếu tố
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tính chất tiền đề của yếu tố
giống đòi hỏi một loạt các tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp về phân bón hoặc thức
ăn gia súc, về chăm sóc nuôi dưỡng…
+ Về quy trình kỹ thuật và những biện pháp kỹ thuật mới: việc hình
thành nên những tiêu chuẩn kỹ thuật trong các quy trình sản xuất nông nghiệp
nói lên sự chủ động của con người đối với sự vận động bên trong của sinh vật
(cây trồng, vật nuôi). Tác dụng của những tiến bộ KH, CN này đảm bảo chắc
chắn cho việc phát huy một cách có hiệu quả những tiến bộ về vật tư, kỹ thuật
cho sản xuất.
+ Trong lĩnh vực kỹ thuật tổ chức quản lý và điều phối các quan hệ
kinh tế trong lĩnh vực tái sản xuất nông nghiệp. Đây là những đổi mới trong
quan điểm, chính sách, biện pháp quản lý vĩ mô và vi mô. Nhờ có kỹ thuật tổ
chức, sắp xếp, điều phối nhân sự và hoạt động sản xuất kinh doanh đã tăng
thêm tính hiệu quả. Những tiến bộ KH, CN loại này thuộc kết quả hoạt động
của khoa học xã hội và nhân văn.
Nhìn chung, những ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất nông
nghiệp có những nội dung khác nhau. Song, chúng đều có những bộ phận hợp
thành như nhau trên cơ sở thỏa mãn các yêu cầu sau:
Thứ nhất, tính khoa học và mới mẻ của tiến bộ KH, CN. Sự thừa nhận
về giá trị khoa học của công trình được công bố là thành công đạt được trong
nghiên cứu, còn giá trị thực tiễn của tiến bộ KH, CN được thể hiện qua việc
so sánh với những công nghệ sản xuất đã có trước đó. Chẳng hạn ưu thế cho
năng suất cao của giống lúa lai, tính khoa học và hiệu quả của phương pháp

bón phân hợp lý, tính triệt để của một loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ…


16
Thứ hai, những tiêu chuẩn cụ thể về các yêu cầu kỹ thuật của một tiến
bộ KH, CN. Chẳng hạn: thời gian sinh trưởng của một giống lúa mới, trọng
lượng hay kích thước hạt lúa, thành phần dinh dưỡng trong tiêu chuẩn thức ăn
của bò sữa… Vấn đề này rất cần thiết cho các nhà nghiên cứu cũng như người
ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất. Những tiêu chuẩn đó là những thành
phần cụ thể của một tiến bộ KH, CN.
Thứ ba, cơ chế vận hành hay phương thức kết hợp các yếu tố vật chất
của tiến bộ KH, CN. Yêu cầu này đặc biệt cần thiết cho người ứng dụng tiến
bộ KH, CN vào sản xuất vì nó chứa đựng những chỉ dẫn cụ thể về quy tắc
hành động.
Thứ tư, những hạn chế của nó về mặt kỹ thuật và phạm vi ứng dụng. Ở
đây chúng ta sẽ thấy được mức độ của sự tiến bộ, tức là mức độ thoả mãn về
kỹ thuật của quá trình sản xuất. Có những điều mà ở những thời điểm nhất
định, tiến bộ KH, CN chưa đạt được mong đợi của người sản xuất. Đó cũng là
những hạn chế đòi hỏi sự xuất hiện liên tiếp của những tiến bộ KH, CN mới.
1.1.2.2. Các mô hình về ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Trong chặng đường phát triển của nền kinh tế đất nước, những tiến bộ
về KH, CN đã tác động rất lớn đối với quá trình CNH, HĐH. Ứng dụng tiến
bộ KH, CN góp phần nâng cao chất lượng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ,
tăng nhanh sức cạnh tranh trên thị trường, đồng thời rút ngắn khoảng cách về
trình độ khoa học giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thể hiện rõ nét nhất ở lĩnh vực công nghiệp và nông nghịêp.
Trong lĩnh vực công nghiệp. Theo nhận định của các chuyên gia kinh
tế, trong lộ trình phát triển mới và hội nhập kinh tế quốc tế, KH, CN sẽ được
coi trọng hơn nữa, bởi khi hàng hoá các nước ồ ạt vào nước ta, nếu không có
những công nghệ sản xuất mới và hiện đại thì giá trị gia tăng của sản phẩm sẽ

thấp và không thể cạnh tranh được. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh
của sản phẩm, các công ty lớn cần tập trung đầu tư công nghệ chế tạo tiên


17
tiến, hiện đại và quy mô lớn; thay đổi cấu trúc sản xuất và kinh doanh; làm
chủ công nghệ của ngành công nghiệp chế tạo và kinh doanh dịch vụ từ vật
tư, thiết bị đầu vào đến sản phẩm đầu ra; phát huy tối đa độ hiệu ứng quy mô
của công nghệ sản xuất. Việt Nam đã ứng dụng thành công một số mô hình
công nghệ chủ yếu như sau:
Một là: Công nghệ vật liệu mới tạo ra các vật liệu thay cho vật liệu
thiên nhiên. Sự xuất hiện của các vật liệu mới không những giảm bớt sự phụ
thuộc của con người vào tài nguyên thiên nhiên, mà còn thúc đẩy việc nghiên
cứu chế tạo và phát triển các loại sản phẩm có trình độ KH, CN cao.
Ngày nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu và chế tạo thành công
những vật liệu như: Vật liệu nano; linh kiện điện tử vô hình và các màng hình
trong suốt; gạch lát không nung Terrazzo; hợp kim lưỡng tính cho ứng dụng
tốc độ cao của wexco; kỹ thuật nano trong sản xuất các sợi nano vô định hình,
vật liệu thông minh cong lại dưới nguồn nội nhiệt; chế tạo chất graphane; các
chất siêu dẫn mới nhiệt độ cao; gỗ dẻo - vật liệu thay thế cho chất dẻo; kim
loại chống động đất; tấm EVG - vật liệu cho nhà cao tầng…đang được đưa
vào sản xuất và đời sống.
Hai là: Công nghệ cơ khí chế tạo máy - tự động hoá: Ứng dụng công
nghệ thích hợp, phát triển kỹ thuật rô bốt thông minh, rô bốt song song.
Nghiên cứu công nghệ thiết kế, chế tạo các hệ điều khiển cơ - điện tử; phát
triển kỹ thuật, mô phỏng, kỹ thuật tạo mẫu ảo, công nghệ điều khiển số trong
các ngành cơ khí, dệt may, giầy da. Chế tạo ra máy động lực, máy nông
nghiệp, máy xay xát gạo, máy cày, bừa, máy khai hoang cải tạo đồng ruộng,
máy bơm nước, phụ tùng máy động lực…góp phần tăng năng suất lao động,
giảm được giá thành hàng hoá.

Ba là: Công nghệ trong lĩnh vực năng lượng: Nghiên cứu ứng dụng các
dạng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các công nghệ sử dụng năng lượng
tiết kiệm, công nghệ chế tạo thiết bị cơ khí năng lượng như: tổ hợp thiết bị


18
thuỷ điện, hệ thống truyền dẫn điện, thiết bị điện cao áp, năng lượng truyền
thống có hiệu quả. Nghiên cứu ứng dụng năng lượng bức xạ và các vấn đề
phục vụ xây dựng, quản lý và vận hành an toàn nhà máy điện hạt nhân.
Các nhà khoa học đã lựa chọn và sử dụng năng lượng gió để nén khí
nhằm lưu trữ các thùng chứa hoặc hầm chứa dưới lòng đất, sau đó sử dụng
khí để chạy máy phát điện. Năng lượng này sẽ cung cấp điện cho các động cơ
nén không khí xuống tầng hầm ngập nước tự nhiên ở độ sâu 610m. Ngày nay,
các nhà nghiên cứu vừa phát triển một nhà máy biogas hoạt động chỉ dựa vào
rác thải thay vì dựa vào nguyên liệu thô từ lương thực, mang lại một phương
pháp mới chuyển rác thải thành nguyên liệu có giá trị. Nhà máy này sản xụất
được nhiều hơn 30% khí biogas so với nhiều nhà máy truyền thống khác.
Ngoài ra, đã có đề tài nghiên cứu “ Triển khai ứng dụng thiết bị năng lượng
mặt trời tại các hộ gia đình vùng nông thôn, miền núi thành phố Đà Nẵng” do
PGS-TS Hoàng Dương Hùng thực hiện tại “làng năng lượng mặt trời” Bình
kỳ 2 được Hội đồng khoa học Thành phố Đà Nẵng nghiệm thu tháng 12-2008.
Nguồn năng lượng này đã giúp người dân được giải quyết vấn đề chất đốt và
có ý thức bảo vệ môi trường.
Năng lượng địa nhiệt là năng lượng triển vọng thay thế cho sản xuất điện
từ than đá và dầu mỏ. Một dự án thử nghiệm các kỹ thuật khoan và địa chấn tiên
tiến ở Kenya. Đây là dự án nhằm đấu tranh chống lại biến đổi khí hậu, đồng thời
nhằm khai thác nguồn năng lượng địa nhiệt từ các tầng đá dưới lòng đất, giảm
được chi phí sản xuất điện, cung cấp điện giá rẻ cho người tiêu dùng…
Bốn là: Công nghệ bảo quản và chế biến nông sản, thực phẩm: Nghiên
cứu ứng dụng các công nghệ sơ chế quy mô nhỏ và vừa, công nghệ bảo quản

sau thu hoạch, công nghệ chế biến tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng , giá trị
gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản, thực phẩm, đặc biệt là một số sản
phẩm có lợi thế và triển vọng xuất khẩu như: gạo, cà phê, chè, điều, cao su,
thuỷ sản, các sản phẩm thịt, rau, hoa, quả, dầu thực vật.


19
Năm là: Công nghệ vũ trụ: Công nghệ vũ trụ bao gồm việc nghiên cứu
và chế tạo các thiết bị máy móc cho việc bay vào vũ trụ như: vệ tinh nhân tạo,
phi thuyền chở người, phóng tên lửa, v.v.., cũng bao gồm việc sử dụng các
lĩnh vực nghiên cứu khoa học phục vụ việc bay vào vũ trụ như khí tượng , tài
nguyên khoa học về đời sống. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thông,
công nghệ định vị toàn cầu phục vụ thông tin và truyền thông, điều tra và
quản lý tài nguyên thiên nhiên, giám sát môi trường, phòng tránh thiên tai,
quy hoạch sử dụng và vùng lãnh thổ, đánh bắt thuỷ sản, quản lý phương tiện
giao thông vận tải, phục vụ quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Xây
dựng năng lực thiết kế, chế tạo một số trạm thu phát mặt đất, khí cụ bay để
tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành ngành công nghiệp công nghệ vũ trụ
và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông.
Trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngày nay, các nhà khoa học đều nhất trí
cho rằng công nghệ sinh học (CNSH) là “sự may mắn” và là yếu tố quan
trọng bậc nhất để các nước đang phát triển tranh thủ đón bắt, đuổi kịp trình
độ tiên tiến của thế giới. Với đà phát triển này, chỉ trong vòng thập niên thứ
nhất của thế kỷ XXI, nhiều thách đố lớn về khoa học và kỹ thuật sẽ được
giải đáp và trở thành hiện thực. Người ta dự đoán rằng khoảng 10-15 năm
nữa, nhân loại sẽ đạt đỉnh cao về CNSH và vi điện tử. Vì vậy chúng ta phải
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để cùng tham gia nghiên cứu, tiếp thu, ứng
dụng những thành quả của CNSH, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp,
một lợi thế của nước ta tiến vào CNH, HĐH. Do vậy, chúng ta cần ứng dụng
một số mô hình sau:

Một là, kỹ thuật cấy mô: Đây là phương pháp cấy mô đã được áp dụng
từ lâu bởi các nhà trồng hoa và các nhà chọn giống muốn nhân nhanh những
giống đặc cấp, cải thiện hiệu quả của từng thời kỳ chọn lọc.
Ngày nay, với tiến bộ của kỹ thuật nuôi cấy mô người ta có thể sản xuất
giống trong phòng thí nghiệm để đưa ra sản xuất nhanh chóng hơn nhiều lần


20
phương pháp cổ điển. Nhờ kết quả này mà một người có thể sản xuất ra
130.000 cây hồng trong một năm và chỉ cần có một cây hồng gốc, so với
phương pháp cũ như dâm cành thì người đó chỉ có thể sản xuất tối đa 50 cây
mà thôi. Như vậy, với công nghệ mới này năng suất của người công nhân
nông nghiệp đã tăng lên 2.500 lần - không có lĩnh vực kỹ thuật nào có thể so
sánh nổi. Kỹ thuật sản xuất giống trong phòng thí nhiệm còn là biện pháp hữu
hiệu để xây dựng những chương trình chọn lọc tối ưu. Kỹ thuật nuôi cấy mô
còn cho phép với một quy trình dài có được những sản phẩm có tính di truyền
hoàn hảo như nhau và như thế có thể sử dụng như “bố mẹ lai” và cũng dùng
để tạo ra những dòng mới.
Hai là, kỹ thuật sinh học phân tử: Đây là mô hình có phạm vi ứng dụng
rộng rãi, cho phép chúng ta phát hiện những độc hại trong quá trình sản xuất,
trong thức ăn hay trong hệ sinh thái (trong đất, các nôi vi sinh…). Kỹ thuật
sinh học phân tử còn giúp cho việc chọn lọc các giai đoạn rất sớm từ phôi hay
mầm non của những cá thể mang những đặc tính có lợi như giới tính, sức
sống chịu bệnh, sức kháng trong những điều kiện đặc biệt. Chẳng hạn như
phôi của bê 6 ngày tuổi đã xác định được là bê đực hay bê cái. Điều này có ý
nghĩa rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp.
Những “ống thăm dò phân tử” cũng được dùng để xác định cấu trúc của
các tổ chức, các bộ phận cho phép tách rời được AND đặc thù của một bộ
phận hay một tính năng cụ thể, đánh giá được chính xác chất lượng tinh dịch
và sự phát triển của phôi. Với kỹ thuật sinh học phân tử người ta đã sản xuất

ra chất kháng thể monoclinaux có tác dụng rất đa dạng trong việc chẩn đón.
Vì vậy, ứng dụng đặc biệt nổi bậc của sinh học phân tử được thực hiện trong
lĩnh vực chẩn đón (bệnh dịch cây trồng và gia súc) và trong chọn giống.
Ba là, kỹ thuật di truyền: Cho đến nay, cách mạng chính về CNSH là
kỹ thuật di truyền (hay kỹ thuật tái tổ hợp gen). Giờ đây người ta có thể thực
hiện đưa 1 gen lạ vào bất cứ bộ phận nào chỉ cần kiểm tra “sự đồng ý” của tế
bào tiếp nhận gen mới. Thành công này có ý nghĩa đặc biệt lớn lao bởi nó cho


21
phép tách rời quy trình sinh học phức tạp thành những phần đơn giản, từ đó
dễ dàng xác định được nhiệm vụ và kiểu hoạt động của từng gen, cho phép
xác định được mối tương quan giữa cấu trúc với nhiệm vụ của những phân tử.
Kỹ thuật di truyền đã mở ra những triển vọng, viễn cảnh mới về lý
thuyết là không có giới hạn: con người có thể thiết kế và chế tạo ra những vi
sinh vật, những tế bào mà trước đây chưa hề có. Những vi sinh vật nhân tạo này
có thể tổng hợp ra ở quy mô công nghiệp và những sản phẩm có giá trị phục vụ
đắc lực cho việc bảo vệ sức khoẻ và nâng cao chất lượng sống của con người.
Đương nhiên, nông nghiệp và y tế ứng dụng thành quả kỹ thuật di truyền nhiều
nhất, đây là những lĩnh vực đột phá thực hiện cuộc cách mạng CNSH.
Về trồng trọt, việc chuyển vào tế bào thực vật một gen lạ của vi khuẩn
(chẳng hạn: gen cố định nitơ, gen kháng thuốc diệt cỏ, gen kháng côn trùng,
gen kháng bệnh…) sẽ khiến cho cây trồng có được những phẩm chất đặc biệt.
Mới đây Mỹ đã chế tạo được loại ngô kháng sâu bệnh do từng tế bào của loại
ngô này đã mang gen sản sinh tinh thể diệt côn trùng của loài vi khuẩn trừ sâu
bacillus thuringgiensis.
Việc tạo ra cây khoai - cà (pomato) nhờ quá trình dung hợp tế bào của
cây khoai tây với tế bào của cây cà chua là một thành tựu độc đáo. Cây khoai
- cà mọc ra củ khoai tây ở bộ rễ dưới đất và sinh ra quả cà chua ở trên cây.
Đối với chăn nuôi, kết quả có phần hạn chế hơn do việc thực hiện khá

tốn kém và thời gian theo dõi rất dài. Tuy vậy, đã có trên 10 loại bao gồm bò,
heo, dê, cừu, thỏ, gà, cá…được chú ý nghiên cứu. Hướng nghiên cứu nhằm
tạo ra được những giống gia súc và vật nuôi có sức đề kháng bệnh tật, có khả
năng cải thiện đáng kể về chất lượng của thịt, sữa và trứng.
Với kỹ thuật cấy ghép gen, cấy ghép hợp tử, nuôi cấy tế bào, việc chọn
lọc nhân giống gia súc đã đạt được bước tiến có ý nghĩa rất quan trọng. Từ
một con bò giống tốt được chọn lọc cho thụ tinh nhân tạo với một giống tốt
khác sẽ tạo được một hợp tử lai mang đặc tính chọn lọc cần thiết, có thể dễ
dàng lấy được hợp tử này ra và vận chuyển từ nước này sang nước khác để


22
cấy vào tử cung của các con bò địa phương bắt chúng mang thai để đẻ ra
những con bê có những đặc tính ưu việt được chọn lọc. Hơn thế nữa, người ta
còn có thể tạo ra được rất nhiều phôi bằng cách tách từng tế bào ra khi hợp tử
bắt đầu phân chia. Các phôi này được kiểm tra nhiễm sắc thể (để giữ lại toàn
những phôi tạo ra bê cái), những phôi này được bảo quản lâu dài bằng kỹ
thuật đông lạnh để có thể vận chuyển đến khắp mọi nơi trên thế giới.
Kỹ thuật di truyền còn cho phép các nhà tạo giống lấy bỏ nhân từ trứng
đã thụ tinh của một con bò bình thường rồi cấy thay vào đó nhân của tế bào
một con bò có những đặc tính tốt được chọn lọc, tạo ra được trứng thụ tinh có
nhân mới. Đến đây có thể đưa trở lại trứng này vào tử cung của con bò bình
thường để cho nó mang thai và đẻ ra bê con có những đặc tính như các
chuyên gia tạo giống mong muốn.
Bốn là, công nghệ tế bào và phôi: Hiện nay chúng ta đã làm chủ và tạo
công nghệ nhân in vitro cho nhiều loại cây trồng nông, lâm nghiệp. Hoàn
chỉnh được quy trình công nghệ nuôi cấy bao phấn lúa, ngô phục vụ công tác
tạo giống. Kỹ thuật cứu phôi cũng được áp dụng đối với một số loài mà hạt có
sức sống kém hoặc khi tiến hành lai xa. Các nhà khoa học cũng đã hoàn thiện
quy trình tái sinh cây có múi bằng phôi vô tính kết hợp với công nghệ vi ghép

đỉnh sinh trưởng để nhân nhanh và tạo giống cam, quýt sạch bệnh. Trong lâm
nghiệp, đã nghiên cứu thành công phương pháp vi nhân giống bằng nuôi cấy
mô phân sinh kết hợp với công nghệ nhân hom ở quy mô lớn cho một số loài
cây lấy gỗ (bạch đàn, keo, bông, lát hoa). Trong chăn nuôi, công nghệ cấy
truyền phôi được áp dụng để tạo đàn bò giống hạt nhân và bò lai hướng sữa.
Các nghiên cứu về cắt phôi, thụ tinh trong ống nghiệm cũng đã đạt được kết
quả ban đầu.
Năm là, Công nghệ vi sinh vật: Đã nghiên cứu hoàn thiện một số công
nghệ sản xuất phân vi sinh vật, thức ăn bổ sung cho gia cầm, chế phẩm thuốc
bảo vệ thực vật và bả diệt chuột sinh học; ứng dụng thành công công nghệ
biogas để xử lý chất thải hữu cơ… Sử dụng vi sinh vật để làm phân bón (phân


23
vi sinh vật cố định Nitơ tự do hoặc hội sinh; phân vi sinh vật phân giải phót
phát khó tan từ vi khuẩn hoặc nấm mốc để dùng xạ khuẩn) cho cây lâm
nghiệp. Công nghệ sản xuất chế phẩm bả diệt chuột sinh học trên cơ sở vi
khuẩn gây bệnh chuyên tính Salmonella enteriditis lsachenco có hiệu lực
phòng trừ chuột 80 - 90% cũng đã được ứng dụng trong sản xuất. Nhiều kết
quả nghiên cứu sử dụng nấm có ích diệt côn trùng đã đạt được kết quả tốt như
metarhizium flovoviridae trừ mối, châu chấu hại mía (hiệu quả phòng trừ đạt
76%)… [8, tr.4].
Chế phẩm thuốc bảo vệ thực vật sinh học được ứng dụng rộng rãi như
NPV, V-Bt để trừ sâu khoang, sâu xanh hại rau, màu, bông, đay, thuốc lá; chế
phẩm vi khuẩn huỳnh quang (Pseudomonas fluorescens) phòng trừ bệnh hại
rễ cà phê, vải thiều, lạc.
Trong lĩnh vực xử lý môi trường: đã ứng dụng thành công công nghệ
biogas để chuyển các chất thải hữu cơ thành khí đốt. Đã xử lý rác thải, than
bùn… làm phân bón. Những nghiên cứu trong ứng dụng công nghệ vi sinh để
xử lý nước thải, chuyển đổi sinh học các mùa vụ, phế thải nông, lâm nghiệp

cũng đang được tiến hành.
Sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu bằng các phế, phụ liệu trong nông
nghiệp - nông thôn như: cám, trấu, mùn cưa, bã mía, lỏi ngô, rơm rạ… đã thu
được nhiều kết quả, vừa tăng thu nhập, vừa giải quyết việc làm cho người dân.
Sáu là, công nghệ enzyme: Hiện nay công nghệ enzyme được ứng dụng
trong chế biến lương thực, thực phẩm nhằm làm tăng năng suất, chất lượng
sản phẩm. Một số kết quả tốt thu được trong nghiên cứu hoàn thiện công nghệ
sản xuất vacxin nhược độc, vô hoạt phòng bệnh cho gia súc, gia cầm.
Sử dụng kỹ thuật phân tích enzyme xác định hàm lượng các độc tố nấm
mức độ tồn dư thuốc trừ sâu trong sản phẩm nông nghiệp, trong lên men lá,
củ sắn để giảm hàm lượng độc tố (xyanua - glucozit), tăng protein. Đã thu
được một số kết quả trong việc sử dụng công nghệ enzyme để chế biến thực
phẩm như: sản xuất chế phẩm đậu tương lên men từ vi khuẩn (Bacillus


24
subtilis nato); hương thơm trên cơ chất gạo, ngô và một số loại trái cây ít
hương thơm; rượu vang; chế phẩm lturin A để bảo quản nông sản và bảo vệ
cây trồng; chế phẩm Bacteriocin để bảo quản thực phẩm tươi sống. Đang tiếp
tục nghiên cứu sản xuất axit amin L-lysin, methionin từ phế phụ phẩm của
công nghiệp đường; men từ cám gạo [8, tr.1].
Việc ứng dụng rộng rãi những thành tựu công nghệ sinh học ở nước ta
hiện nay sẽ tạo ra bước đột phá về công nghệ sản xuất nông nghiệp và cải tạo
cơ bản ngành nông nghiệp đi vào CNH, HĐH.
1.2. ĐẶC THÙ ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀO
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

1.2.1. Tính quy luật của quá trình sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi
1.2.1.1. Ảnh hưởng của tài nguyên, khí hậu và mùa vụ đến sinh
trưởng của cây trồng và vật nuôi

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nguồn tài
nguyên phong phú về đa dạng sinh học đảm bảo cung cấp các nguồn nguyên
liệu cần thiết cho sự phát triển CNSH. Tuy nhiên, tình trạng suy thoái tài
nguyên và môi trường ngày càng nghiêm trọng, đã ảnh hưởng trực tiếp đến
việc ứng dụng tiến bộ KH, CN vào sản xuất nông nghiệp là nguy cơ to lớn đối
với sự phát triển bền vững của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Do
đó, nó tác động mang tính hai mặt đến sản xuất cây trồng và vật nuôi ở nước
ta. Cụ thể là:
Đối với cây trồng
Đã tạo ra những nguồn gen phong phú và quý hiếm cho chọn, lai tạo
giống và phát triển kỹ thuật di truyền. Cung cấp nguồn nguyên liệu đa dạng,
dồi dào cho quá trình ứng dụng CNSH như công nghệ lên men, công nghệ
enzym, công nghệ chiết rút các loại hoạt chất sinh học…Ngoài ra, nguồn bức
xạ mặt trời và sự phân bố đều trong năm đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển thực vật, như việc ứng dụng nuôi cấy mô và tế bào trong lai tạo,
chọn giống cây trồng, rút ngắn thời gian sản xuất giống, thu hoạt chất tạo nên


25
một nền nông nghiệp với 3 - 4 vụ trồng trọt năng suất cao sẽ là nguồn cung
cấp nguyên liệu phong phú như tinh bột, đường, sinh khối cho sự phát triển
CNSH. Sự thuận lợi của tài nguyên, khí hậu, bức xạ ánh sáng…, đã tạo ra tính
đa dạng của hệ sinh thái, tức là tập hợp các quần thể khác nhau cùng chung sống
trong một vùng sinh thái nhất định nào đó. Các cơ thể sinh vật và điều kiện môi
trường trong đó sinh vật tồn tại và phát triển, tương tác qua lại tạo nên một hệ
thống cân bằng động rất đa dạng giúp cho cây trồng sinh trưởng nhanh.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế thì nguồn tài nguyên và khí hậu
nhiệt đới gió mùa cũng gây không ít khó khăn như là, thoái hoá rễ, úng hom,
thoái hoá men, giảm lượng tinh bột, giảm lượng đường và sinh khối…cho sự
phát triển CNSH, nhất là đối với công nghệ vi sinh, từ ảnh hưởng trực tiếp

đến sản lượng cây giống cung cấp cho sản xuất nông nghiệp, hạn chế đến quá
trình sinh trưởng của cây trồng.
Đối với vật nuôi
Sự đa dạng về điều kiện khí hậu, thời tiết, đất đai, sinh vật… và những điều
kiện khác trong sản xuất vật nuôi vừa tạo thuận lợi, vừa đặt ra những tình huống
phức tạp trong việc lựa chọn tiến bộ KH, CN và phương pháp tổ chức ứng dụng
những tiến bộ KH, CN đó vào sản xuất, cải tạo giống vật nuôi có năng suất cao,
cho phẩm chất tốt, thích nghi với điều kiện sinh thái vùng chăn nuôi.
Trong điều kiện khí hậu, môi trường thuận lợi sẽ ít xảy ra dịch bệnh đối
với giống vật nuôi, tạo ra giống khoẻ mạnh, có sức sinh trưởng lớn. Từ đó,
giúp cho việc ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy tế bào, chuyển gen, thụ tinh và cấy
chuyển phôi vào tế bào động vật một cách an toàn, hiệu quả để cho ra đời
những giống vật nuôi chất lượng cao, tăng năng suất chăn nuôi, sản xuất
nhiều thịt, trứng, sữa… có chất lượng tốt. Ngược lại, sự xuất hiện hiện tượng
tự hoại tế bào, thể hiện ở chổ AND bị đứt mảnh và tạo thành những đặc trưng
trên bề mặt tế bào, hạn chế khả năng sinh trưởng khi môi trường không còn
phù hợp. Do vậy, phải chuyển sang môi trường mới thuận lợi, sẽ tiếp tục sinh
trưởng tốt, đó là quy luật tất yếu của quá trình sinh tồn và phát triển vật nuôi.


×