Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 172 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

Tễ VN CHU

PHáP LUậT Về THựC HIệN DÂN CHủ TRONG HOạT ĐộNG
CủA CƠ QUAN HàNH CHíNH NHà NƯớC ở VIệT NAM

LUN N TIN S
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut

H NI - 2016


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

Tễ VN CHU

PHáP LUậT Về THựC HIệN DÂN CHủ TRONG HOạT ĐộNG
CủA CƠ QUAN HàNH CHíNH NHà NƯớC ở VIệT NAM

LUN N TIN S
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 62 38 01 01

Ngi hng dn khoa hc: GS.TS. PHAN TRUNG Lí

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của


riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực và có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Tô Văn Châu


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những
vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án

6
6
26

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN
CHỦ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM


2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
2.2. Nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
2.3. Các tiêu chí đánh giá và các yếu tố tác động đến quá trình hoàn
thiện pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

30
30
52

62

Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC
TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

3.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước ở Việt Nam
3.2. Thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

72

72
80


Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
4.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

121
121
128
149
152
153


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CQHCNN


:

Cơ quan hành chính nhà nước

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

KTTT

:

Kinh tế thị trường

KTNN

:

Kiểm toán Nhà nước

QPPL

:

Quy phạm pháp luật

THDC


:

Thực hiện dân chủ

TTHC

:

Thủ tục hành chính

UBND

:

Ủy ban nhân dân

UBTVQH

:

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là khát vọng gắn liền với lịch sử phát triển nhân loại. Ngày
nay, đề cao dân chủ và thượng tôn pháp luật là một trong những tiêu chí
không thể thiếu của nhà nước pháp quyền. Dân chủ trên thực tế chứ không chỉ
được ghi trên những biểu ngữ. Dân chủ sẽ không còn là những khẩu hiệu
chung chung, nếu như các yêu cầu về dân chủ được thể chế hóa thành các quy
định pháp luật và được bảo đảm bởi hành động của toàn bộ hệ thống chính trị.
Nói cách khác, dân chủ sẽ không còn là những khẩu hiệu chung chung, nếu
trên toàn lãnh thổ và trong toàn bộ hoạt động của nhà nước, quyền làm chủ
của nhân dân được pháp luật hóa và được hiện thực hóa.
Thực tiễn cho thấy, thực hiện dân chủ (THDC) trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước (CQHCNN) là đòi hỏi tất yếu, xuất phát từ yêu cầu
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và từ tính chất phục vụ của nền hành
chính nhà nước. Để bảo đảm mọi người dân, cơ quan, tổ chức sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, thì THDC trong hoạt động của CQHCNN
không thể không được thể chế hóa bằng pháp luật.
Mặc dù vậy, pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Biểu hiện rõ nhất là các quy định pháp luật rời
rạc, chưa đầy đủ, chồng chéo, thiếu tính khả thi, thậm chí mâu thuẫn. Hậu quả
đương nhiên là hiện tượng mất dân chủ vẫn đang phổ biến, đi đôi với nó là
suy giảm niềm tin của người dân và sự kém hiệu lực, hiệu quả trong hoạt
động của các CQHCNN.
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng, một yêu cầu đã được đặt ra cho cả hệ
thống chính trị là đến năm 2020, phải “tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ” [42, tr.100], “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế
quyền làm chủ trực tiếp” [42, tr.239] nhằm phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng
tạo và bảo đảm đồng thuận trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Vừa



2
qua, Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua Hiến pháp mới (Hiến
pháp năm 2013) bổ sung nhiều nội dung liên quan đến quyền cơ bản của công dân
và cơ chế thực hiện các quyền đó. Điều này đặt ra đòi hỏi các văn bản QPPL phải
nhanh chóng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để các quyền của công dân trong
Hiến pháp không chỉ nằm trên giấy, mà đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, đây là một
nhiệm vụ không hề dễ, nếu không muốn nói là còn nhiều khó khăn.
Để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn đang đặt
ra cho pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN, nghiên cứu sinh đã
chọn vấn đề: “Pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu lý luận và thực tiễn của pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam, từ đó đưa ra các quan điểm,
giải pháp hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến
nội dung nghiên cứu của luận án, đánh giá giá trị của các công trình nghiên
cứu đó và chỉ ra các vấn đề luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ.
- Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về THDC trong hoạt động của
CQHCNN ở Việt Nam: khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của pháp luật
về THDC trong hoạt động của CQHCNN. Nghiên cứu chỉ ra: các tiêu chí
đánh giá, các yếu tố tác động đến quá trình hoàn thiện pháp luật về THDC
trong hoạt động của CQHCNN; những kinh nghiệm có liên quan từ các nước
có thể áp dụng vào quá trình hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt động
của CQHCNN ở nước ta.
- Đánh giá khách quan, đầy đủ ưu điểm, nhược điểm và xác định đúng

nguyên nhân của những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật về THDC trong


3
hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam hiện nay, thông qua nghiên cứu: Quá
trình hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về THDC trong hoạt động
của CQHCNN ở Việt Nam.
- Luận chứng và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về THDC trong
hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam dưới góc độ của chuyên ngành Lý luận
và lịch sử nhà nước và pháp luật. Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án
nghiên cứu các quan điểm, QPPL ở trong cũng như ngoài nước về THDC
trong hoạt động của CQHCNN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về góc độ nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung, hình thức “Pháp luật về
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt
Nam” dưới góc độ của khoa học Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, nội dung của luận án hướng chủ yếu vào hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Về không gian: Nghiên cứu các quy định pháp luật về THDC trong hoạt
động của CQHCNN từ cấp huyện trở lên. Bởi vì, các quy định pháp luật về
THDC ở xã, phường, thị trấn điều chỉnh các quan hệ xã hội với những đặc thù
riêng đã được các công trình khác nghiên cứu, mặt khác theo quy định của Bộ
Giáo dục, nội dung luận là có hạn, nếu phạm vi nghiên cứu rộng sẽ khó bảo đảm.
Về thời gian: Nghiên cứu pháp luật về THDC trong hoạt động của
CQHCNN từ sau đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ sau Chỉ thị số 30-CT/TW
ngày 18.2.1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở (trong đó bao gồm cả THDC trong hoạt động của
CQHCNN) đến nay và trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới
đất nước.


4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên nền tảng lý luận của Học thuyết MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng về nhà
nước và pháp luật, về dân chủ XHCN, đặc biệt là về pháp luật THDC trong
hoạt động của CQHCNN, đồng thời tham khảo các công trình có liên quan
đến đề tài đã được công bố.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
triết học Mác-Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể,
như: phương pháp lôgic, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử cụ thể,
phương pháp xã hội pháp luật, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, để
phát hiện và xử lý tất cả các vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn có liên quan,
từ đó giải quyết toàn diện nội dung của đề tài một cách lôgic, khoa học:
- Chương 1 sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản: phân tích,
lôgic, hệ thống, so sánh, tổng hợp để xác định các vấn đề đã được nghiên cứu
toàn diện, sâu sắc; những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án.
- Chương 2 sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản: phân tích,
lôgic, hệ thống, so sánh để xác định và trình bày một cách có hệ thống: quan
niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, tiêu chí đánh giá pháp luật về THDC trong
hoạt động của CQHCNN.
- Chương 3 sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản: phân tích,
lôgic, hệ thống, so sánh, tổng hợp, lịch sử cụ thể, xã hội học pháp luật trong
quá trình làm rõ và trình bày một cách có hệ thống những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế trong pháp luật về THDC trong
hoạt động của CQHCNN.
- Chương 4 sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản: phân tích,

lôgic, hệ thống, lịch sử cụ thể để kiến giải, đề xuất và sắp xếp một cách
lôgic các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về THDC trong hoạt
động của CQHCNN.


5
5. Những đóng góp về khoa học
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện,
có hệ thống và sâu sắc về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về THDC
trong hoạt động của CQHCNN và vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật này
trong những năm tới, vì vậy, có những đóng góp mới về khoa học, như sau:
- Xây dựng được khái niệm, xác định đặc điểm, nội dung của pháp luật
về THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam; làm rõ vai trò của pháp
luật trong lĩnh vực này đối với: sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động
của Nhà nước; thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, cán bộ, công chức; sự
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
- Làm rõ các yếu tố tác động vào quá trình hoàn thiện pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN.
- Làm rõ quá trình hình thành, phát triển, đánh giá đúng những thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong pháp luật về
THDC trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp phù hợp nhằm phát huy thành
tựu, khắc phục những hạn chế của pháp luật về THDC trong hoạt động của
CQHCNN ở nước ta trong những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Với những đóng góp mới của mình về khoa học,
Luận án đã cung cấp cơ sở lý luận của pháp luật về THDC trong hoạt động
của CQHCNN cho chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Luận án có giá trị tham khảo cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện

pháp luật về THDC trong hoạt động của CQHCNN, cũng như pháp luật thực
hiện dân chủ nói chung.
+ Luận án cũng có giá trị tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy về Nhà nước và pháp luật trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 9 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu được công bố ở trong nước
Để thuận lợi cho việc thực hiện Đề tài luận án, các công trình nghiên cứu
đã được công bố ở trong nước có liên quan được chia thành các nhóm cơ bản.
Nhóm thứ nhất, các công trình nghiên cứu liên quan đến dân chủ,
THDC, gồm các công trình tiêu biểu sau:
- Về đề tài khoa học, sách
+ Báo cáo Tổng quan Đề tài khoa học cấp bộ: “Mối quan hệ giữa các
yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông
thôn hiện nay” của Trần Ngọc Khuê [74] đã phân tích làm rõ tác động qua lại
giữa một số yếu tố tâm lý xã hội cơ bản với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm thực
hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn trong thời kỳ mới.
+ Báo cáo Tổng quan kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ sở:
“Mở rộng và phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp” của Tào Thị Quyên
[119] đã nghiên cứu, khái quát lịch sử ra đời, phát triển của dân chủ, khẳng

định vai trò của dân chủ XHCN, làm rõ và nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của dân
chủ trực tiếp, các hình thức dân chủ trực tiếp. Đánh giá thực trạng thực hiện
các hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị về mở
rộng và phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp.
+ “Dân chủ tư sản và dân chủ XHCN” của Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo
[103] đã rút ra những kết luận hết sức quan trọng về: Dân chủ và tiến bộ của
lịch sử; Dân chủ tư sản, lý luận và thực tiễn; Dân chủ XHCN: Bản chất và sự
hình thành; Một số vấn đề cấp bách của dân chủ hóa ở nước ta hiện nay. Theo
đó, chúng ta cần nghiên cứu, kế thừa các khẳng định: xem xét tiến bộ lịch sử


7
trong mối liên hệ với CNXH hiện thực với tính cách là sự lựa chọn tất yếu
hợp lý, có triển vọng của lịch sử. Xét về mặt thực tiễn, CNXH và dân chủ
XHCN chưa trở thành một hiện thực phổ biến, nó còn ở trong quá trình hình
thành, phát triển. Dân chủ là yếu tố hợp thành nội dung của tiến bộ lịch sử.
Đời sống xã hội có bao nhiêu lĩnh vực và các mối liên hệ qua lại lẫn nhau
giữa cá nhân và xã hội, thì cần đến bấy nhiêu những tác động và ảnh hưởng
của dân chủ và dân chủ hóa, trong đó dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong
chính trị là quan trọng nhất. Dân chủ là một hiện tượng lịch sử-xã hội, là sản
phẩm trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động của các giai cấp trong
đấu tranh giai cấp. Dân chủ là thước đo về trình độ giải phóng con người và
xã hội loài người đạt được trong mỗi thời đại. Dân chủ trở thành thước đo của
tiến bộ xã hội. Dân chủ trở thành một hình thức tổ chức nhà nước, là cơ sở và
nguyên tắc của lãnh đạo và quản lý xã hội. Chế độ tập trung dân chủ là cần
thiết khách quan để tổ chức một xã hội phù hợp với văn hóa dân chủ và nền
văn minh chính trị XHCN...
+ “Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với Nhà nước” của
Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành [49] đã phân tích và lý giải mối quan hệ
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa Nhà nước và công dân dưới

CNXH. Sở dĩ như vậy là vì, dưới chế độ CNXH không thể cho phép một bên
chỉ có quyền, bên kia chỉ có nghĩa vụ, đó là mối quan hệ biện chứng. Các tác
giả phân tích các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm
1992 của nước ta. Đồng thời, các tác giả cũng đã phân tích các yếu tố bảo
đảm pháp lý về cơ chế, về hệ thống các quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ
giữa Nhà nước và cá nhân công dân.
+ “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của
Đỗ Trung Hiếu [63], trong đó chương 1 trình bày kết quả nghiên cứu về dân
chủ và nhà nước và có những kết luận quan trọng: dân chủ là một khái niệm
đa diện; không phải nhà nước sinh ra xã hội công dân, mà xã hội công dân
sinh ra nhà nước; công dân là chủ thể đích thực của nhà nước, xét về bản chất


8
nhà nước không có chủ quyền, mà chủ quyền ấy thuộc về nhân dân; không
nên đánh đồng mục tiêu dân chủ XHCN với hiện thực dân chủ. Chương 2 có
những khẳng định quan trọng về quan hệ giữa dân chủ và nhà nước trong tiến
trình lịch sử, như: dân chủ hóa là nhu cầu nội tại của nhà nước; hiện nay, phần
lớn người dân ở các nền dân chủ phương Tây chấp nhận các hình thức cải cách
cho phép người dân tham gia nhiều hơn vào hoạch định chính sách và ra quyết
định... Chương 3 khẳng định về vai trò hết sức to lớn của Nhà nước XHCN trong
tạo dựng nền dân chủ ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
+ “Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới” của
Hoàng Chí Bảo [12] đã dành một phần trình bày quan điểm về dân chủ XHCN
(tr.37-51) cần nghiên cứu, kế thừa: Dân chủ XHCN được xây dựng và hình
thành trong tiến trình xây dựng CNXH, mang bản chất của giai cấp công
nhân, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối
với xã hội; nhà nước pháp quyền thực sự là chế độ ủy quyền của dân, chống
được quan liêu và tham nhũng...
+ “Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng

và Nhà nước: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đào Trí Úc [150] đã
trình bày quan điểm về Bản chất của nền dân chủ XHCN ở nước ta (tr.19 38): dân chủ là bản chất của CNXH, bản chất đó thể hiện ở chế độ dân chủ
cho nhân dân; đòi hỏi Nhà nước phục vụ lợi ích, ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân; dân chủ trước hết là quyền lực
thuộc về nhân dân, vì lợi ích của nhân dân; dân chủ XHCN là một hình thức
chính trị - nhà nước của xã hội, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công
dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực; chất lượng dân chủ của
một xã hội được đo bằng sự chuẩn bị thông tin, cung cấp thông tin đầy đủ, đa
chiều, có thực chất; bằng sự thảo luận, chất vấn các vấn đề được nêu ra một
cách thấu đáo; sự thảo luận và phản biện có thực chất; quyết định có hiệu lực
và được nhân dân đồng tình; dân chủ được thực hiện cơ bản bằng dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện...


9
+ “Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến
pháp năm 1992” của Trần Ngọc Đường [50] đã dành một phần phân tích, lý giải
trong xã hội dân chủ, quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao. Quyền lực nhà
nước là do một phần cơ bản quyền lực nhân dân ủy lại. Phần quyền lực còn lại
của nhân dân do nhân dân tự thực hiện. Quyền lực nhà nước là của nhân dân
nhưng nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực của mình mà giao cho nhà
nước, đó là lý do tất yếu làm nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên là phải
kiểm soát quyền lực nhà nước. Nội dung phân công, phối hợp quyền lực và kiểm
soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền thực chất là giải quyết các
mối quan hệ cơ bản: giữa Đảng và Nhà nước; giữa nhân dân và Nhà nước; giữa
các thành tố cấu thành bộ máy nhà nước (giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp)
và giữa quyền lực nhà nước ở Trung ương và quyền lực nhà nước ở địa phương.
Sau khi đánh giá thực trạng, tác giả đã đưa ra các phương hướng, giải pháp tiếp
tục hoàn thiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, trong
đó có hoàn thiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa

nhân dân và Nhà nước; hoàn thiện việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền
lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước...
- Các luận án, luận văn là kết quả nghiên cứu ở bậc sau đại học:
“Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân
dân ở Việt Nam hiện nay” của Trần Thị Băng Thanh [129] đã có cái nhìn khá
toàn diện về dân chủ dưới góc độ triết học: dân chủ là một hiện tượng phức
tạp, đa diện, “có lẽ không thể có một khái niệm, một quan niệm, một định
nghĩa duy nhất”, mà “phải hình thành một quan niệm chung về nó” “từ những
đặc trưng bản chất của dân chủ”, như: bao giờ cũng liên hệ với nhân dân,
nguyện vọng, lợi ích và quyền lực của họ; là hiện tượng phức tạp và đa diện,
được biểu hiện khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống... Bước
đầu, Luận án đưa ra quan niệm có giá trị tham khảo về Quyền dân chủ: là các
yêu cầu, các giá trị được thể chế hóa thành luật, được bảo đảm bằng hệ thống
pháp luật.., là tổng số các quyền có nội dung, tính chất dân chủ, mà mỗi một


10
người với tư cách là thành viên của chế độ dân chủ, chủ thể của quyền lực có
thể và cần phải được hưởng. Nhà nước XHCN ngày càng thể hiện rõ vai trò
không thể thiếu được trong THDC, thực hiện các quyền dân chủ của nhân
dân, đem lại và tạo ra cho họ những khả năng thực tế để thực hiện quyền dân
chủ và hưởng thụ thành quả của dân chủ. Luận án khẳng định tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân là phương hướng chủ yếu nâng cao vai trò, hiệu quả của Nhà nước
trong thực hiện quyền dân chủ của nhân dân...
- Công trình nghiên cứu công bố trên các báo, tạp chí:
+ “Củng cố các hình thức dân chủ vì sự vững mạnh của Nhà nước ta”,
của Đào Trí Úc [149] đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về dân chủ, như:
dân chủ thể hiện thế giới quan chính trị của giai cấp, là một giá trị trong từng
xã hội; dân chủ là hình thức của chế độ Nhà nước và là phạm trù chỉ trạng thái

của cơ cấu chính trị, của xã hội. Bài viết cũng phân tích quan hệ giữa dân chủ
và tự quản, kết hợp dân chủ trực tiếp với dân chủ đại diện nhằm thu hút sự tham
gia của đông đảo nhân dân vào việc giải quyết công việc của Nhà nước và xã
hội, đồng thời để xác định rõ phạm vi trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối
với nhân dân; tăng cường phát huy dân chủ là một quy luật khách quan.
+ “Từ di sản của V.I. Lênin về dân chủ” của Phạm Xuân Mỹ [99] đã
trình bày các quan điểm của mình qua nghiên cứu quan điểm V.I. Lênin về
dân chủ với phát triển, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ vô sản, dân chủ
trong XHCN. Theo đó, tác giả cũng có một số khẳng định có ý nghĩa quan
trọng về dân chủ, như: không bao giờ quên bản chất giai cấp của dân chủ; dân
chủ luôn gắn với tự do; bản chất của dân chủ vô sản biểu hiện ở khả năng
sáng tạo vô hạn và phong phú của quần chúng; bất cứ nền dân chủ nào, xét
đến cùng đều do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết định,
nếu tách dân chủ trong sản xuất ra khỏi các thứ dân chủ khác thì không có ý
nghĩa gì cả; dân chủ XHCN không phải là tự do vô Chính phủ mà dân chủ
phải đi đôi với kỷ luật...


11
+ “Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ”
của Trần Hậu Thành [133] đã đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng
chung quy lại đều thống nhất ở luận điểm: dân chủ là quyền lực thuộc về nhân
dân. Đặc trưng của dân chủ vô sản là làm cho đại đa số quần chúng lao động
bị áp bức và bóc lột trước đây thực sự tham gia công việc quản lý nhà nước,
làm cho người lao động có thể thực sự hưởng thụ những thành quả văn hóa,
văn minh của nhân loại. Dân chủ là bản chất của CNXH. Quan hệ biện chứng
giữa dân chủ và pháp luật là đặc trưng của nhà nước pháp quyền. Không thể
có dân chủ tách ra khỏi pháp luật và cũng không thể có pháp luật mà không
có dân chủ. Quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ là quan hệ biện
chứng: muốn có nhà nước pháp quyền với đầy đủ ý nghĩa của nó, thì phải xây

dựng được nhà nước thật sự dân chủ. Nhà nước pháp quyền XHCN, chính
quyền dân chủ nhân dân phải luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ là cơ
chế hữu hiệu của nền dân chủ XHCN trong điều kiện nhà nước pháp quyền.
+ “Tư tưởng dân chủ của V.I. Lê nin, Hồ Chí Minh - Một di sản quý
báu trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị và dân chủ hóa đời sống xã hội
ở Việt Nam hiện nay” của Lương Văn Duyên [37] đã trình bày quá trình Đảng
ta vận dụng các quan điểm của V.I. Lê nin, Hồ Chí Minh về dân chủ vào xây
dựng chế độ chính trị, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước từ sau Đại hội lần
thứ VIII của Đảng.
+ “Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”
của Hoàng Văn Hảo [55; 56] đã phân tích, kiến giải, đưa ra những quan điểm
liên quan đến vấn đề dân chủ, THDC, mối quan hệ giữa nhà nước và dân chủ.
Theo đó, dân chủ có mối quan hệ hữu cơ với nhà nước pháp quyền; dân chủ
thực sự gắn với pháp luật, gắn với một nhà nước được tổ chức chặt chẽ bằng
pháp luật, hoạt động theo pháp luật, đặt mình dưới pháp luật, một nhà nước
pháp quyền; giá trị đích thực, bền vững của nhà nước pháp quyền trong lịch
sử: một là nhà nước pháp quyền khẳng định nguồn gốc của chính quyền nhà


12
nước là ở nhân dân, hai là nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp
pháp trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, rằng “nhà nước chỉ được làm
những điều pháp luật cho phép” còn nhân dân “được làm tất cả những điều
pháp luật không cấm”. Bài viết cho rằng, Nhà nước của các nước XHCN tồn
tại lâu trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, dường như không có nhu
cầu phát triển dân chủ, dẫn tới tình trạng mất động lực phát triển. Tác giả nêu
ra những nét đặc thù tạo nên những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, như là những định hướng suy nghĩ.
+ “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Hoàng Văn Hảo [57] đã có
những khẳng định khái quát về dân chủ và nhà nước pháp quyền: yêu cầu
phát triển dân chủ đòi hỏi nhà nước phải trở thành nhà nước pháp quyền và
đến lượt mình, nhà nước pháp quyền lại thành điều kiện cơ bản để phát triển
nền dân chủ. Mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và nhà nước pháp quyền
là vấn đề mang tính quy luật của sự phát triển đời sống chính trị xã hội.
Những nét đặc thù tạo nên những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân: Mục đích của nhà nước pháp quyền XHCN là
bảo đảm và phát triển quyền công dân, quyền con người; Nhân dân trong “nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” là nhân dân lao động; Nhà
nước pháp quyền XHCN quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước; Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước pháp quyền.
+ “Vấn đề dân chủ XHCN: Nội dung, hình thức biểu hiện, điều kiện
bảo đảm” của Phạm Ngọc Quang [109] đã đề cập đến những khía cạnh cơ bản
của dân chủ XHCN: Cách mạng XHCN lấy việc giải phóng con người khỏi
mọi sự tha hóa, bất công làm mục tiêu cơ bản; CNXH sẽ không duy trì được
thắng lợi, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ; dân chủ XHCN trước
hết là dân chủ đối với quần chúng nhân dân lao động và những người đang
đấu tranh cho lợi ích của nhân dân; dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích


13
của đa số; dân chủ trong CNXH bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội,
trong đó dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở; dân chủ XHCN kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ; dân chủ
và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không loại trừ và phủ định nhau, trái lại là
tiền đề tồn tại và phát triển của nhau; mặc dù có sự khác nhau về bản chất giai
cấp nhưng các dạng thức dân chủ có một số giá trị chung, đó là quyền tự do
cá nhân, nhưng quyền của cá nhân này không được làm ảnh hưởng đến quyền

của cá nhân khác... Nói riêng trên lĩnh vực chính trị, dân chủ có nghĩa là tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể chân chính và duy nhất của
quyền lực xã hội; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền tự do tư
tưởng, tự do ý chí; nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, tôn trọng quyền của
thiểu số...
+ “Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của Tô Huy Rứa
[122] đã khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh: quản lý xã hội bằng pháp
luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội đương đại.
Pháp luật dân chủ ở Hồ Chí Minh được xem xét trong các quan hệ hết sức đặc
trưng. Trong quan niệm về thực chất dân chủ, thì: khi chưa đưa ra kết luận thì
tha hồ bàn cãi, nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có
bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành, không phải để đề nghị không thực
hiện, phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn. Trong xác định giới hạn
của quyền tự do cá nhân, thì mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn
trọng tự do của người khác, người nào sử dụng quyền tự do của mình quá
mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm pháp, không thể có tự do cho
bạn phá hoại tự do của nhân dân. Trong xử ký quan hệ giữa quyền và nghĩa
vụ của công dân, thì pháp luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích của
công dân, nhưng cũng quy định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện.
Pháp luật phải nghiêm minh, phát huy hiệu lực và để được như vậy, thì: pháp
luật phải đúng và phải đủ, phải đến được với dân, đi vào giữa dân gian, cán


14
bộ trực tiếp thực thi pháp luật phải công tâm và nghiêm minh. Theo Người
pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện
lợi ích của con người.
+ “Nền dân trị Mỹ và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân” của Đỗ Thị Ngọc Lan [77] đã nghiên cứu tác phẩm Nền dân trị Mỹ

của Alexis de Tocqueville, bài viết khẳng định cốt lõi của “nhà nước của dân, do
dân, vì dân” - đó là “nhà nước dân chủ” - nhà nước mà ở đó quyền làm chủ của
người dân được thực hiện - đó là sự cai trị bằng quyền làm chủ của người dân cai trị bằng dân chủ. Qua đó, tác giả bài viết khẳng định, quan niệm của Hồ Chí
Minh và Abraham Lincohn về nhà nước không hoàn toàn giống nhau, dẫn đến
việc tổ chức, xây dựng quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam không giống
Mỹ. Thứ nhất, để thực hiện quyền làm chủ thực sự của người dân, ngay sau khi
giành được độc lập, Hồ Chí Minh yêu cầu tổ chức Tổng tuyển cử, để toàn thể
người dân Việt Nam thực hiện quyền bầu ra cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất; Người nhận thức sâu sắc rằng quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân,
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Thứ hai, Người chủ trương thống nhất quyền
lực và có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lực
nhà nước. Với Abraham Lincohn quyền lực nhà nước chia theo nguyên tắc tam
quyền, phân lập. Thứ ba, theo Hồ Chí Minh, dân chủ thực sự, trước hết đó là
quyền của con người trong tham gia quản lý nhà nước thông qua các cơ chế khác
nhau, quyền làm thành viên bình đẳng trong một tập thể nào đó, quyền có điều
kiện thể hiện quan điểm của mình và được lắng nghe...
+ “Dân chủ trong hệ thống mục tiêu đổi mới phát triển” của Phan Tân
[126] đã phân tích mối quan hệ giữa dân chủ với các mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, làm rõ quan niệm về dân chủ ở Việt
Nam trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ;
phân tích một số vấn đề đặt ra từ việc thực hành dân chủ trong tình hình mới.
+ “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và thực hành
dân chủ (trước và từ khi đổi mới đến nay)" của Nguyễn Viết Thông [139] đã


15
hệ thống hóa quan điểm của Đảng về dân chủ và thực hành dân chủ trong giai
đoạn trước và từ khi đổi mới đất nước đến nay, nhận thức của Đảng về dân
chủ, thực hành dân chủ ngày càng sâu sắc hơn, đúng đắn hơn. Những quan
điểm của Đảng về dân chủ và thực hành dân chủ được thể chế hóa bằng Hiến

pháp, pháp luật.
+ “Dân chủ trực tiếp trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam” của
Vũ Công Giao [51], trong Kỷ yếu hội thảo về: "Một số vấn đề lý luận, thực
tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam" đã có
một phần khái lược về dân chủ trực tiếp đề cập đến nền dân chủ Athens cổ
đại, nền dân chủ Thụy Sĩ hiện nay, bốn hình thức dân chủ trực tiếp mà các
quốc gia trên thế giới đang áp dụng. Phần hai của bài viết cho thấy tình hình
sử dụng các hình thức dân chủ trực tiếp ở các nước trên thế giới đang gia tăng
đáng kể trong những thập niên gần đây. Tiếp theo, tác giả đề cập tình hình áp
dụng hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam. Cuối cùng tác giả đưa ra một số
nhận xét, kết luận cả về ưu điểm, nhược điểm của dân chủ trực tiếp và một số
đề xuất nhằm thúc đẩy dân chủ trực tiếp ở Việt Nam.
Nhóm thứ hai, các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật
THDC và pháp luật về THDC trong hoạt động của cơ quan hành chính, gồm
các công trình tiêu biểu:
- Về đề tài khoa học, sách, luận án, luận văn cao học:
+ “Dân chủ và pháp luật dân chủ” của Ngô Huy Cương [34] đã được
chia thành 3 chương. Chương I trình bày nhận thức chung về dân chủ: tính tất
yếu, bản chất, cũng như mặt trái và bổ khuyết của dân chủ... Chương II bàn về
tiêu chuẩn và đánh giá tính dân chủ trong pháp luật... Chương III đề cập xây
dựng dân chủ, pháp luật dân chủ ở Việt Nam, như: xây dựng nền văn hóa
chính trị, xây dựng Hiến pháp dân chủ; xây dựng chính quyền dân chủ... Đây
là chuyên khảo khá công phu của tác giả. Với mục tiêu xuyên suốt là dân chủ,
pháp luật và mối quan hệ giữa chúng, tác giả trình bày nhiều khía cạnh, tình
huống của các vấn đề cơ bản: dân chủ, tính dân chủ trong pháp luật, vấn đề


16
xây dựng dân chủ và pháp luật dân chủ. Tuy nhiên, để độc giả có cái nhìn rõ
ràng về các vấn đề được đề cập, thì cuốn sách chưa đạt được, vẫn chủ yếu là

khảo cứu các quan điểm...
+ “Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành chính Việt Nam” của
Học viện Hành chính [66] đã có một số nội dung liên quan đến Đề tài luận án,
như: Chương III Cơ quan hành chính nhà nước - chủ thể cơ bản của Luật
hành chính Việt Nam; Chương IV Công vụ, cán bộ, công chức; Chương VI
Địa vị pháp lý - hành chính của công dân; Chương IX Kiểm soát đối với hoạt
động hành chính nhà nước... Mặc dù, nội dung còn có phần đơn giản, nhưng
cũng phần nào có giá trị tham khảo trong quá trình thực hiện Luận án.
+ “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở
trên thế giới và ở Việt Nam” của Viện Chính sách công và pháp luật, Viện
Nhà nước và pháp luật [154] đã tập hợp các bài viết phản ánh phong phú, đa
dạng các vấn đề có liên quan với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp và dân
chủ ở cơ sở cả ở trong nước và ở một số quốc gia trên thế giới, trong lịch sử
cũng như đương đại. Trong đó có những nội dung liên quan đến đề tài luận
án, như: Dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp bổ sung cho nhau; Dân chủ
trực tiếp đang ngày càng được đề cao, tuy nhiên việc lựa chọn các hình thức
dân chủ trực tiếp khi nào, ở đâu cần phải được cân nhắc cẩn thận; các kiến
nghị về hoàn thiện cơ chế pháp lý THDC trực tiếp trong nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam...
+ “Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện Việt Nam
hiện nay” của Đỗ Minh Khôi, luận án bảo vệ năm 2006 [73] đã tập trung
nghiên cứu mối quan hệ đó cả về lý luận, cũng như thực tiễn ở Việt Nam.
Theo đó, luận án trình bày các khái niệm dân chủ, pháp luật dưới góc độ
nghiên cứu của mình. Luận án khẳng định dân chủ phải cần pháp luật và pháp
luật cần dân chủ, dân chủ là sức sống của pháp luật, còn pháp luật là phương
tiện và đại lượng của dân chủ. Mối quan hệ đó biểu hiện qua Hiến pháp, các
đạo luật, qua hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Luận án phân tích,


17

xác định các yếu tố tác động đến mối quan hệ đó. Qua nghiên cứu lý luận và
thực tiễn quan hệ, Luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện mối quan hệ đó.
- Các công trình nghiên cứu đã công bố trên các báo, tạp chí:
+ “Tình hình thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động ở cơ quan
hành chính sự nghiệp của nhà nước” của Đặng Quốc Tiến [142] đã báo cáo
bước đầu về tình hình triển khai và kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
quan hành chính sự nghiệp sau khoảng 3 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của
Bộ Chính trị và một vài kiến nghị về vấn đề này. Bài phát biểu này phản ánh
thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính ở
nước ta đã hơn 10 năm trước, đến nay tính thời sự của nó không còn nhiều.
+ “Xu hướng dịch chuyển quyền lực trong bộ máy hành chính và vấn
đề dân chủ” của Phạm Hồng Thái [131] đã khẳng định, nhìn một cách tổng
thể thì sự dịch chuyển quyền lực trong cơ quan hành pháp của các nước theo
2 xu hướng trái ngược nhau: một là, chuyển từ cơ chế “nội các chế” sang cơ
chế “thủ tướng chế” trong đó đề cao vai trò của người đứng đầu cơ quan hành
pháp cao nhất, khi chế độ “nội các chế tỏ ra kém hiệu quả”, trì trệ trong giải
quyết công việc; xu hướng thứ hai, lại chuyển từ cơ chế “thủ tướng chế” sang
cơ chế “nội các chế”. Tuy nhiên, “nội các chế dần bộc lộ những nhược tật của
nó, nên nhiều quốc gia trên thế giới lại có những cải cách theo hướng tăng
quyền hạn của người đứng đầu cơ quan hành pháp cao nhất. Cứ thế, quyền
lực được dịch chuyển theo những chu kỳ nhất định, không thể có một mô hình
nào là bất biến. Cùng với cơ chế này, có sự thay đổi về tính chất dân chủ
trong hoạt động của các CQHCNN. Ngày nay, nhiều công trình nghiên cứu ở
các mức độ khác nhau, phần lớn đều nêu ra các khuyến nghị là chuyển
CQHCNN ở địa phương từ chế độ làm việc tập thể sang chế độ thủ trưởng
chế. Nếu pháp luật đi theo hướng này thì vấn đề dân chủ cũng được đặt ra. Để
đảm bảo chế độ dân chủ thì CQHCNN chỉ có thể còn lại những quyền hạn
thuộc lĩnh vực điều hành hành chính, mà không có quyền quyết định những
vấn đề có chất chính trị ở địa phương. Khi chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch



18
tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN đã dần khơi dậy sức sống
những nguyên lý dân chủ trong đời sống nhà nước và xã hội. Cơ chế thị
trường đòi hỏi các CQHCNN phải đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động,
cách thức giải quyết công việc. Trước hết, bộ máy hành chính phải ngày càng
gọn nhẹ hơn, có sự phân công rạch ròi hơn nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp,
dần bớt can thiệp vào công việc làm ăn của xã hội công dân, mặt khác phi tập
trung hóa dần được hình thành qua chế độ phân cấp trong quản lý và đề cao
trách nhiệm từng cấp hành chính, của từng CQHCNN với đầy đủ nghĩa của từ
trách nhiệm. Các CQHCNN ở trung ương chuyển những công việc đã từng
được coi là “đặc quyền” của mình cho các cấp chính quyền địa phương.
Chính chế độ phân cấp đã mở ra xu hướng dân chủ trong hoạt động nhà nước.
Dân chủ thể hiện ở chỗ cấp hành chính phải tự quyết định và chịu trách nhiệm
về mọi hoạt động của mình, càng phân cấp càng thể hiện tính dân chủ trong
đời sống nhà nước và trong hoạt động của bộ máy hành chính.
+ “Đảng lãnh đạo xây dựng nền hành chính nhà nước Việt Nam trong
sạch, dân chủ và hiện đại” của Nguyễn Khánh [70] đã khẳng định nhà nước
ta là bộ máy do dân lập ra để thực hiện và bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân. Nhà nước ta mang bản chất dân chủ. Tính chất dân chủ được biểu hiện
qua hoạt động cụ thể của bộ máy và con người trong bộ máy nhà nước, qua
nội dung, cách thức xây dựng, quyết định và tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách, qua cơ chế tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan chính
quyền từ trung ương đến cơ sở. Tính chất dân chủ trong CQHCNN còn thể
hiện ở chế độ làm việc. Trong các CQHCNN, phải thực hiện đồng thời hai
chế độ làm việc gắn kết với nhau, chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ thủ
trưởng, cá nhân người đứng đầu chỉ huy và chịu trách nhiệm trước cơ quan có
thẩm quyền. Tính chất dân chủ của nền hành chính phải được thể hiện qua ý
thức trách nhiệm, phong cách của cán bộ, công chức. Để xây dựng nền hành
chính dân chủ, phải bảo đảm dân chủ, phát huy dân chủ, đồng thời giữ vững

kỷ luật, kỷ cương nhà nước.


19
+“Đánh giá việc thực hiện các Nghị định của Chính phủ về Quy chế
thực hành dân chủ ở cơ sở” của Bộ Nội vụ [18] chỉ mới dành một phần nội
dung để đánh giá về THDC trong hoạt động của CQHCNN tính đến trước
năm 2005.
+ “Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Thái Bình - thành tựu và kinh
nghiệm” của Nguyễn Hạnh Phúc [107] đã có một phần đánh giá tình hình
triển khai thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động CQHCNN ở Thái Bình
(từ năm 2004 trở về trước) và rút ra một số bài học kinh nghiệm chung cho
THDC cơ sở trên địa bàn Tỉnh.
+ “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở - Thành tựu và những vấn đề đặt
ra” của Hoàng Chí Bảo [13] đã đưa ra những đánh giá, khẳng định giá trị lý
luận và thực tiễn của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung, và có
gợi ra một số ý kiến để các nhà nghiên cứu tham khảo khi xác định sự thay
đổi trong THDC trong hoạt động của CQHCNN.
+ “Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần
Quang Nhiếp [101] đã viết tương đối mới, nhưng chỉ đánh giá một cách
chung chung về tình hình THDC ở cơ sở, trong đó chủ yếu đề cập đến khía
cạnh nhận thức về Quy chế, sự bộc lộ về mặt xã hội những kết quả, hạn chế
của quá trình triển khai thực hiện Quy chế, chứ chưa đi sâu tìm hiểu những
hạn chế và tác động của Quy chế.
+ “Thẩm quyền tự chủ, tự quyết và thẩm quyền mặc nhiên của cơ quan
hành chính nhà nước” của Phạm Hồng Thái [132] đã khẳng định, pháp luật
dù có đầy đủ đến đâu, cũng là mô hình hành vi có tính khái quát, điển hình,
không bao giờ tính được đầy đủ mọi hoàn cảnh, tình huống, các vụ việc diễn
ra trong thực tiễn quản lý; hơn nữa trong mô hình khái quát mà pháp luật dự
liệu cũng chỉ đặt ra “một giới hạn” hay “một hàng lang” để CQHCNN hành

động trong giới hạn, hành lang đó. Như vậy, pháp luật đã tạo ra một “khoảng
trống” cho sự sáng tạo của CQHCNN trong giải quyết các vụ việc, các vấn đề
phát sinh của đời sống nhà nước và xã hội. Chính ở đây xuất hiện quyền tự


20
chủ, tự quyết của CQHCNN và tính hợp lý của sử dụng thẩm quyền là quyền
tự chủ, tự quyết của CQHCNN. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định thẩm
quyền bắt buộc phải hành động của CQHCNN trong những hoàn cảnh, tình
huống mà pháp luật đã dự liệu trước. Quyết định hoặc hành vi hành chính cụ
thể đó là giải pháp duy nhất được phép và phải thực hiện. Tính hợp lý của các
quyết định, hành vi hành chính là sự phù hợp của nó với những quy luật của
tự nhiên và đời sống xã hội, nó nằm ngoài những quy định của pháp luật, mặc
dù trong pháp luật đã có yếu tố hợp lý. Trong điều kiện, hoàn cảnh không
bình thường thì xuất hiện thẩm quyền mặc nhiên của CQHCNN, có nghĩa là
nó có quyền được toàn quyền quyết định, hành động tùy theo sự xem xét xuất
phát từ lợi ích của quốc gia, dân tộc, cộng đồng, mà không dựa trên căn cứ
của pháp luật được ban hành để áp dụng cho điều kiện bình thường.
+ “Những bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở” của Hà Thị Khiết [72] đã khái quát những kết quả nổi bật về xây
dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, cũng như những yếu kém,
khuyết điểm cần khắc phục, đặc biệt đã chỉ rõ nguyên nhân và những bài học
kinh nghiệm sau 10 năm triển khai thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
+ “Trung Quốc thực hiện dân chủ ở cơ sở sau 30 năm cải cách mở
cửa” của Nguyễn Thành Lợi [84] đã cho thấy công cuộc phát triển dân chủ ở
cơ sở của Trung Quốc 30 năm qua thông qua chế độ nông dân tự quản, chế độ
tự quản ở tổ dân phố và chế độ quản lý dân chủ ở CQHCNN sự nghiệp và
doanh nghiệp. Dân chủ ở cơ sở rất đề cao chế độ tự quản ở nông thôn và đô
thị. Chế độ quản lý dân chủ ở CQHCNN sự nghiệp nhấn mạnh chế độ đánh
giá dân chủ đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và bảo đảm quyền lợi cho người

lao động và công chức... trong đó đạt được bước tiến nổi bật là coi công đoàn
không chỉ là tổ chức chăm lo lợi ích của công nhân, viên chức, mà còn là tổ
chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Nói chung, cho đến nay
THDC ở CQHCNN sự nghiệp chưa đạt được kết quả đáng kể. Đối với THDC
trong hoạt động của CQHCNN, có thể nghiên cứu tiếp thu chọn lọc một số


×