Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Giáo trình mô hình kinh tế thị trường việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884 KB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
********************

MÔ HÌNH
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VIỆT NAM
(TÀI LIỆU THAM KHẢO-LƯU HÀNH NỘI BỘ)

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1: TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ TRONG PHÁT

7

TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái lược về lịch sử hình thành, phát triển của kinh tế thị trường

7

1.2. Bản chất và các đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường

15

1.3. Một số mô hình kinh tế thị trường tiêu biểu trên thế giới

24


1.4. Điều kiện phát triển kinh tế thị trường

36

1.5. Những nhân tố chủ yếu quy định sự khác biệt của các mô hình

39

1.6. Quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội

41

CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM

45

2.1. Khái quát quá trình hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam

45

2.2. Các nhân tố tác động đến mô hình kinh tế thị trường Việt Nam

50

2.3. Những đặc trưng chủ yếu của mô hình kinh tế thị trường Việt Nam

68

CHƯƠNG 3: NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở


74

VIỆT NAM
3.1. Những thành tựu trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam

74

những năm qua
3.2. Những hạn chế và những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế thị

80

trường ở Việt Nam
CHƯƠNG 4: CÁC QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI

88

PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
4.1. Các quan điểm

88

4.2. Các hệ giải pháp định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh

89

tế thị trường ở Việt Nam
Kết luận


115

Danh mục tài liệu tham khảo

116

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

:

chủ nghĩa xã hội

KTTT

:

kinh tế thị trường

3


LỜI MỞ ĐẦU
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, năm 1991 đã đề cập một
vấn đề kinh tế quan trọng: Phát triển triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu về kinh tế- xã hội và hội
nhập kinh tế quốc tế trong những năm qua đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối
đó.

Kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường, xét cả về phương diện

lý luận và thực tiễn, đã được hình thành, phát triển và kiểm nghiệm ở hầu hết các
quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển nhất. Vào nửa sau của thế kỷ XX, thế
giới đã chứng kiến quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và sự thiết lập cơ chế
thị trường ở các nước thuộc địa sau khi giành được độc lập. Từ thập niên bảy mươi
của thế kỷ XX, hàng loạt quốc gia áp dụng mô hình kinh tế Xô-Viết đã cảm nhận
được sự bất ổn của mô hình này và chuyển sang mô hình kinh tế thị trường với
những cách thức và bước đi khác nhau. Trong xu thế chung của thời đại, Việt Nam
và Trung Quốc từng bước chuyển đổi nền kinh tế, phát triển kinh tế thị trường. Tuy
nhiên, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Do đó, nền kinh tế thị trường ở các nước này sẽ phải thực hiện mục tiêu
đó và sẽ có những đặc thù riêng. Đây là một mô hình kinh tế hoàn toàn mới, chưa
từng có trong lịch sử. Vì vậy, nhiều vấn đề, về lý luận cũng như thực tiễn cần làm
sáng tỏ và nghiên cứu sâu hơn.
Như trên đã đề cập, kinh tế thị trường được phát triển ở tất cả các nước tư
bản phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở các khu vực khác nhau, thậm chí
những nước khác nhau lại có sắc thái khác nhau. Theo cách phân loại của các học
giả Phương Tây, trên thế giới hiện nay có ba loại hình kinh tế thị trường điển hình.
Đó là kinh tế thị trường kiểu Anh- Mỹ, kinh tế thị trường kiểu Nhật- Bản- Đông Á;
kinh tế thị trường xã hội của các nước Châu Âu lục địa. Nếu xem xét kỹ thì có thể
nhận thấy là, nền kinh tế thị trường phát triển hay kém phát triển đều là những nền
kinh tế hỗn hợp, có sự kết hợp giữa thị trường và chính sách điều tiết của Nhà nước.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước, hay sự tương quan giữa điều
tiết thị trường và chính sách kinh tế Nhà nước trong từng nước là khác nhau. Chính
vì vậy, về cơ bản thì kinh tế thị trường xã hội cũng chỉ khác các mô hình kinh tế thị

trường khác ở mức độ tương quan giữa chính sách kinh tế của Nhà nước và cơ chế
điều tiết của thị trường với nền kinh tế. Bản chất của mô hình này vẫn là nền kinh tế
thị trường với vai trò của khu vực tư nhân là chủ đạo trong nền kinh tế. Cần phải

4


thấy rằng vai trò chủ đạo của khu vực tư nhân không có nghĩa là loại bỏ sự tồn tại
của khu vực nhà nước và trên thực tế có sự khác biệt khá lớn ngay trong nhóm nước
có nền kinh tế thị trường phát triển. Khu vực nhà nước ở Hoa Kỳ có quy mô rất nhỏ
trong khi ở Áo lại rất lớn. Hơn nữa sự điều phối của cơ chế thị trường và sự can
thiệp chính sách của nhà nước cũng rất khác nhau. Chính phủ Anh ít can thiệp mang
tính quan liêu vào nền kinh tế, trong khi đó với Pháp và Thụy Điển thì sự can thiệp
mang tính quan liêu của nhà nước lại lớn hơn nhiều. Vì vậy, về bản chất chúng đều
là kinh tế thị trường. Theo Kornai zánas, đây chỉ là các phiên bản khác nhau của
cùng một hệ thống 1.
Vậy thì, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có điểm gì giống và khác với kinh
tế thị trường và kinh tế thị trường xã hội? Kornai Zános

2

có một số công trình

nghiên cứu về các hệ thống kinh tế của các nước trên thế giới đã đưa ra 3 mô hình
về ba hệ thống kinh tế tiêu biểu đã và đang tồn tại, đó là hệ thống kinh tế XHCN cổ
điển, hệ thống kinh tế XHCN cải cách và hệ thống kinh tế TBCN. Ông đã chỉ ra mô
hình kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam, được coi là các nền kinh tế XHCN cải
cách theo hướng thị trường với đặc điểm như: Cơ cấu quyền lực vẫn thuộc Đảng
cộng sản, tự do hoá chính trị có mức độ và ưu ái khu vực sở hữu công, đồng thời

chấp nhận ( hay ủng hộ) sở hữu tư nhân. Về hình thức sở hữu, chiếm ưu thế là sở
hữu Nhà nước nhưng sở hữu tư nhân được chấp nhận và có vai trò quan trọng. Ông
cũng chỉ ra cơ chế điều phối của các quốc gia này dựa vào thị trường nhưng với sự
can thiệp hành chính mang tính quan liêu mạnh, ngoài ra Ông còn chỉ ra một số đặc
điểm như méo mó giá cả do can thiệp của chính phủ, độc quyền… Bên cạnh đó Ông
cũng cho rằng các nước XHCN cải cách theo con đường một đảng cầm quyền là
Đảng cộng sản, nhưng trên thực tế thân thiện với khu vực tư nhân và ủng hộ cơ chế
thị trường và lý thuyết ba đại diện của Chủ tịch Giang Trạch Dân được phổ quát thì
đây là một sự thay đổi căn bản về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều này theo
Ông có thể dẫn tới một tiến trình cho sự xuất hiện nền dân chủ ở Trung Quốc.
Sự kết hợp giữa CNXH và kinh tế thị trường, hay kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam cũng được nhiều nhà nghiên cứu, học giả cũng như các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Việt Nam và Trung Quốc nghiên cứu. Hai nước
có các đợt tiếp xúc, hội thảo thường xuyên trong các năm gần đây với nội dung tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm và nhất
quán các quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN. Về cơ bản, mô hình kinh tế của hai nước đều có những điểm chung giống nhau
như: Vai trò chủ đạo hay chủ yếu của khu vực sở hữu công, phát triển kinh tế đi liền với giải quyết các vấn đề xã hội và công bằng xã hội… Về

1

Mô hình Kornai về các hệ thống kinh tế – Talawas, />
Nhà kinh tế học nguời Hungary, Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa h ọc Hungary, Giáo sư kinh tế Đại học
Havard và Collegium Budapest
2

5


chính trị, không đa nguyên chính trị, không đảng đối lập, không tam quyền phân lập. Hai bên cũng đề ra các giải pháp để từng bước tạo lập các
điều kiện cần thiết cho mô hình kinh tế của mỗi nước phát triển theo định hướng đã lựa chọn. Báo cáo của Giáo sư - Tiến Sỹ Nguyễn Phú Trọng
tại hội thảo: “CNXH và kinh tế thị trường: Kinh nghiệm của Trung Quốc và kinh nghiệm của Việt Namô tại Bắc Kinh, ngày 8-9/10/2003 (Tạp chí
Cộng sản điện tử) đã đề cập tới một số vấn đề về bản chất và đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Về bản chất, đây là

một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường và kinh tế thị trường là “cái phổ biến” còn kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam và đây là mô hình kinh tế trong thời kỳ qúa
độ đi lên CNXH3. Trong báo cáo cũng đề cập tới các đặc trưng về cấu trúc sở hữu, cơ chế quản lý nền kinh tế, chế độ phân phối, mục tiêu của
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Trong một nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước, chương trình KX.01 “Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Namô do GS.TS Vũ Đình Bách4 thực hiện đã lý giải được khá nhiều vấn đề còn tranh cãi xung quanh mô hình kinh tế tổng thể của Việt Nam.
Tác giả đã nêu ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam với kinh tế thị trường nói
chung, kinh tế thị trường xã hội nói riêng và cũng có một số điểm khác biệt với kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc. Tác giả cho rằng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam như là bước chuyển đổi đặc thù trong tiến trình chung của nhân loại sang xã hội hậu công
nghiệp và kinh tế tri thức. Bên cạnh đó đề tài cũng đi sâu phân tích các 5 đặc trưng của nền kinh tê thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
Đặc trưng về chế độ sở hữu; Đặc trưng về cơ cấu kinh tế; Đặc trưng về khu vực kinh tế tư nhân; Đặc trưng về cơ chế phân phối; Đặc trưng về
lực lượng sản xuất. Như vậy, cách lý giải về đặc trưng của đề tài đã giành một phần nội dung cho các vấn đề liên quan tới trình độ phát triển của
nền kinh tế như cấu trúc cơ cấu kinh tế và lực lượng sản xuất, hơn nữa cũng chỉ ra những đặc trưng của khu vực tư nhân ở Việt Nam.

PGS.TS. Hà Huy Thành cùng các cộng sự cũng đã bàn về chủ đề này. Các Tác
giả bắt đầu từ việc nghiên cứu về kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường, từ
khái niệm, cấu trúc… đến những mô hình tiêu biểu ở các nước phát triển và các
nước đang phát triển. Các tác giả đã dành nhiều công sức để nghiên cứu thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, từ nhận thức lý luận đến các hoạt
động thực tiễn nhằm xây dựng thể chế kinh tế này.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, công trình tập trung nghiên cứu
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và hệ thống thể
chế tương ứng. Sau khi trình bày thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các Tác giả
cho rằng việc thay thế thể chế đó bằng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu. Từ đó, công trình trình bày quá trình hình thành
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và đưa ra các
nhận xét đánh giá về những thành công và hạn chế. Cuối cùng, công trình đưa ra
các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ việc làm rõ những vấn đề trên, chuyên đề góp phần giải quyết những vấn

đề thực tiễn bức xúc có liên quan đến phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Tạp chí Cộng sản điện tử 21/01/2007

35
4

Chủ nhiệm đề tài, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội

6


hiện nay: xử lý tương quan giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân; vai trò của nhà
nước và tự do hoá kinh tế; hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện mục tiêu chủ nghĩa
xã hội; các điều kiện cơ bản và các thể chế đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam...
Lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là nội dung
quan trọng của lý luận Kinh tế chính trị. Ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu vấn đề
này sẽ góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy Kinh tế chính trị ở
bậc đại học và sau đại học.

CHƯƠNG 1:
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái lược về lịch sử hình thành, phát triển của kinh tế thị trường
Thời nguyên thuỷ, để tồn tại con người phải sống thành bầy đàn; sống dựa
vào săn bắn và hái lượm; làm chung ăn chung. Như thế, trong mỗi cộng đồng người
nguyên thuỷ (công xã, bộ tộc, bộ lạc), sự tồn tại của mỗi cá nhân trực tiếp phụ thuộc
vào cộng đồng. Lực lượng sản xuất quá thấp kém sẽ không thể có trao đổi sản
phẩm.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, sản phẩm thặng dư xuất hiện, quan hệ trao

đổi giữa các công xã, bộ tộc, bộ lạc bắt đầu hình thành; sản xuất hàng hóa bắt đầu từ
đó. Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa ở thời kỳ này hết sức sơ khai, mang tính ngẫu
nhiên. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ hàng hóa-tiền tệ cũng
ngày càng phát triển cả về quy mô và trình độ. Kinh tế hàng hoá phát triển đến trình

7


độ mà toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị
trường thì kinh tế thị trường xuất hiện.
Như vậy, xét về mặt lịch sử, kinh tế thị trường là sản phẩm tất yếu của sản
xuất hàng hoá, của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và phương thức sản
xuất phong kiến, mặc dù lực lượng sản xuất từng bước phát triển nhưng vẫn chưa
thể có kinh tế thị trường vì mục đích của sản xuất vẫn là để thỏa mãn nhu cầu trực
tiếp của người sản xuất; sản xuất mang tính khép kín. Đến chủ nghĩa tư bản, mục
đích của sản xuất là cho “người khác”, cho xã hội; hoạt động sản xuất mang tính
“mở” trên phạm vi địa phương, khu vực và quốc gia nên kinh tế thị trường mới xuất
hiện và ngày càng phát triển. Bởi vậy, sự hình thành phát triển kinh tế thị trường
gắn liền với quá trình xã hội hóa sản xuất - xã hội hóa cả lực lượng sản xuất và cả
quan hệ sản xuất.
Trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường có liên quan mật
thiết với các giai đoạn xã hội hóa sản xuất. Tương ứng với ba giai đoạn xã hội hóa
sản xuất là ba trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội từ kinh tế hàng hoá giản
đơn sang kinh tế thị trường tự do và đến kinh tế thị trường hiện đại.
Sản xuất hàng hóa giản đơn xuất hiện khi phân công lao động xã hội đạt đến
trình độ nhất định và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã tương đối phổ biến. Phân
công lao động xã hội là biểu hiện, là thước đo trình độ xã hội hóa sản xuất. Khi có
phân công lao động xã hội, các chủ thể kinh tế (cá nhân, tập thể...) lao động không
phải chỉ cho mình, mà còn cho xã hội; lao động của họ sẽ trở thành một bộ phận lao

động xã hội. Tuy nhiên, trong sản xuất hàng hóa giản đơn, lực lượng sản xuất còn
thấp kém, sản phẩm có thể trao đổi rất ít nên quan hệ giữa người sản xuất với
“người khác”, với xã hội còn rất đơn giản, mang tính ngẫu nhiên. Đồng thời, “người
sản xuất” mới chỉ là những người tư hữu nhỏ với hình thức phổ biến là các cá nhân
và hộ gia đình. Nói cách khác, trình độ xã hội hóa còn rất thấp.
Kinh tế thị trường tự do là sự phát triển tất yếu của sản xuất hàng hoá giản
đơn. Khi lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, năng
suất lao động xã hội và của cải xã hội tăng lên đặc biệt nhanh chóng. Đây là tiền đề
vật chất quyết định việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm. Nhờ sản phẩm hàng
hoá tăng nhanh, mọi nhu cầu của con người đều có thể được thoả mãn thông qua thị
trường nên người sản xuất có thể sản xuất cả những sản phẩm họ không có nhu cầu
tiêu dùng; bán tất cả sản phẩm được sản xuất ra. Ngay các yếu tố sản xuất (đầu vào)

8


cũng dần trở thành hàng hoá (“đầu vào” của ngành này là “đầu ra” của ngành khác;
vốn, đất đai và sức lao động cũng trở thành hàng hoá) và người sản xuất hoàn toàn
có thể tìm mua được trên thị trường. Khi đó kinh tế thị trường tự do thay thế cho
sản xuất hàng hóa giản đơn.
Bước chuyển này trùng với sự quá độ từ chế độ phong kiến sang CNTB diễn
ra trong các thế kỷ XV đến XVII ở nước Anh và một số nước châu Âu. Tạo lập
KTTT có các nội dung:
- Thực hiện các cải cách tư sản trong lĩnh vực nông nghiệp, nhằm phá vỡ kết cấu
kinh tế phong kiến và tạo ra các tiền đề kinh tế – xã hội cần thiết cho nền KTTT
TBCN. Đó là cuộc cách mạng trong nông nghiệp nói chung cũng như cách mạng kỹ
thuật canh tác và cách mạng quan hệ ruộng đất, cho phép tăng cung ứng nông phẩm
cho xã hội, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động nông nghiệp – nông thôn
truyền thống, hình thành phương thức kinh doanh TBCN trong nông nghiệp.
- Mở rộng cơ sở xã hội của KTTT. Đó là tạo ra tầng lớp lao động làm thuê và giới

chủ doanh nghiệp trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đây là
các nhân vật trung tâm và giữ vai trò quyết định trong thời đại KTTT. Chính là giới
chủ tư bản chứ không phải ai khác, với tài năng kinh doanh và động cơ lợi ích của
giai cấp mình, đã lãnh đạo và thực hiện thành công cuộc cách mạng công nghiệp ở
Anh, biến nước này thành quốc gia công nghiệp TBCN và “công xưởng của thế
giới”.
- Phát triển ngoại thương và thực hiện chính sách thực dân xâm chiếm thuộc địa.
Đây là yếu tố đặc thù có tính bổ trợ quan trọng và không thể thiếu đối với những
nước đi tiên phong trong mô hình phát triển KTTT cổ điển. Ngoại thương và sự
cướp bóc thuộc địa đã cung cấp cho chính quốc các yếu tố đầu vào giá rẻ (nguyên
liệu, vốn, sức lao động) và cho phép mở rộng thị trường tiêu thụ ra ngoài nước. Đặc
biệt, lợi dụng việc bán hàng không ngang giá, buôn bán nô lệ và chế độ đồn điền đã
cho phép đẩy nhanh với tốc độ phi thường quá trình tích luỹ nguyên thuỷ và chuẩn
bị tích cực cho cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh trong thế kỷ XVII - XVIII.
Một điều kiện quan trọng để thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc chính là sự phát triển của phân công lao động xã hội. Việc sử dụng
máy móc làm cho người lao động trở thành lao động bộ phận. Họ chỉ đảm nhận một
công đoạn của quá trình sản xuất; chỉ sản xuất ra những chi tiết sản phẩm. Điều đó
có nghĩa là lao động của mỗi cá nhân lệ thuộc chặt chẽ vào lao động của các các
nhân khác và vào lao động xã hội. “Người sản xuất” giờ đây đã lớn lên rất nhiều.
Ngoài các cá nhân và hộ gia đình (những chủ thể kinh tế và cũng là hình thức tổ

9


chức sản xuất), công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã
trở thành các hình thức doanh nghiệp mang tính phổ biến. Như vậy, tính chất xã hội
hoá của kinh tế thị trường tự do cao hơn hẳn sản xuất hàng hóa giản đơn.
Giai đoạn này kéo dài ở các nước phương Tây, từ cuối thế kỷ thứ XVII tới
nửa cuối thế kỷ thứ XIX. Trong giai đoạn này các chủ thể kinh tế tư nhân được xác

lập. Nền kinh tế được xây dựng chủ yếu trên hệ thống các doanh nghiệp tư nhân –
hệ thống tư bản cá biệt và là nền tảng của chế độ xã hội. Cơ chế thị trường trở
thành cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế. Với cơ chế này, toàn bộ hoạt động
của nền kinh tế do thị trường quyết định và chủ yếu chịu sự chi phối bởi bàn tay vô
hình. Trong giai đoạn này lý thuyết về “bàn tay vô hình” và sự hạn chế vai trò chính
phủ của A. Smith đã có hiệu lực và thể hiện rõ nét.
Trong nền kinh tế thị trường tự do, các doanh nghiệp đã hoàn toàn tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, tự do cạnh tranh, không bị tác động do sự can thiệp của
Nhà nước. Trong giai đoạn này, Nhà nước chủ yếu cung cấp dịch vụ công cộng –
quan trọng nhất là quốc phòng và an ninh cũng như những qui định về thể chế cho
phép các thị trường phát triển mạnh mẽ. Điều đó cũng có nghĩa việc ra quyết định là
phi tập trung hoá và tuỳ thuộc vào người chủ của các nhân tố sản xuất. Trong điều
kiện như vậy những thành tựu của nền kinh tế như giải quyết công ăn việc làm mức
độ tăng trưởng được hoàn toàn quyết định bởi thị trường và hệ thống doanh nghiệp
của các nhà tư bản. Nhà nước tồn tại không phải với tính cách một chủ thể kinh tế
lớn, bao trùm. Mức độ sở hữu và phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước còn rất nhỏ bé.
Do đó, tác động của nó đến nền kinh tế quốc dân cũng hết sức hạn hẹp.
Kinh tế thị trường hiện đại là sự kế tục tự nhiên của kinh tế thị trường tự do.
Sự phát triển của kinh tế thị trường tự do, một mặt làm cho bản thân khái niệm xã
hội cũng không ngừng được mở rộng. Sự hình thành thị trường quốc tế cũng là một
tất yếu và điều này làm cho nền kinh tế thị trường của các quốc gia phụ thuộc chặt
chẽ vào nhau; phân công lao động và hợp tác lao động được thực hiện trên phạm vi
quốc tế (khu vực hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế); kinh tế thị trường là điều kiện
cho sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ và đến lượt mình, những
tri thức khoa học - công nghệ lại trở thành nền tảng cho sự phát triển của nền kinh
tế này... Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ngoài các cá nhân, hộ gia đình và các
hình thức doanh nghiệp truyền thống là sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền: cátten, xanh-đi-ca, tờ-rớt, công-xoóc-xi-om. Ngày nay, tổ chức độc quyền đang tồn tại
dưới hình thức phổ biến là các tập đoàn xuyên quốc gia (TNC S) và chi phối đời
sống kinh tế quốc tế.


10


Mặt khác, quá trình phát triển của kinh tế thị trường tự do làm cho những
khuyết tật của nó cũng không ngừng phát triển và trở thành trở ngại cho sự phát
triển của nền sản xuất. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những khuyết tật của
nền kinh tế thị trường đã phát triển rất cao. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh
tế trở thành đòi hỏi bức xúc từ nhiều phía, nhưng quan trọng nhất là đòi hỏi của tính
chất và trình độ xã hội hoá cao của nền sản xuất. Sự phát triển của khu vực kinh tế
nhà nước, mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước là một đặc trưng quan trọng
của nền kinh tế thị trường hiện đại. Bên cạnh khu vực kinh tế tư nhân có vai trò nền
tảng, kinh tế nhà nước đã trở thành một thực thể kinh tế lớn và là công cụ kinh tế
mà nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng ổn định, công bằng và hiệu quả.
Khu vực kinh tế nhà nước chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá
dịch vụ công cộng và các doanh nghiệp thuộc những ngành then chốt của nền kinh
tế quốc dân. Sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà nước trong giai đoạn kinh tế thị
trường hiện đại là một tất yếu khách quan. Nó gắn với mục đích khắc phục khuyết
tật vốn có của cơ chế thị trường, tối đa hoá phúc lợi xã hội và trong chừng mực nhất
định còn có tác dụng thúc đẩy, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát
triển.
Như vậy, khu vực hoá, toàn cầu hoá; phát triển dựa vào tri thức; sự xuất hiện
của những doanh nghiệp quy mô lớn; sự hình thành khu vực kinh tế nhà nước và sự
can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế... trở thành những đặc trưng chủ yếu của
kinh tế thị trường hiện đại. Những đặc trưng đó cho thấy Kinh tế thị trường hiện đại
dựa trên tính chất xã hội hoá rất cao cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Việc hình thành và gia tăng số lượng DNNN ở các nước TBCN trong thời
gian sau Chiến tranh thế giới lần thứ II không thể không kể tới sự tác động của mô
hình Xô - Viết, mà ở đây với số lượng áp đảo các DNNN đã cho phép CNXH tạo ra
bước đột phá trong quá trình công nghiệp hóa. Nhưng khi một tỷ lệ về lượng
DNNN vượt quá một giới hạn nào đó thì sẽ làm cho nền kinh tế trở nên phi hiệu

quả.
Trong nền KTTT TBCN, vị trí của khu vực kinh tế nhà nước không phải là
nhất thành bất biến. Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX ở các nước công nghiệp
phát triển đã diễn ra quá trình tư nhân hoá rộng rãi các DNNN. Thực chất đây là
quá trình đa dạng hoá các hình thức sở hữu, chuyển giao quyền kiểm soát trực tiếp
của nhà nước trong một số ngành công nghiệp, dịch vụ cho các công ty cổ phần tư
nhân hoặc các công ty hỗn hợp. Đây được coi là một chiến lược có tính chất phổ
biến nhằm giảm gánh nặng và thâm hụt ngân sách, tránh sa lầy vào tính phi hiệu
quả cố hữu của kinh doanh trực tiếp của hệ thống DNNN, khai thác những động lực

11


mới của khu vực kinh tế tư nhân và nền kinh tế thị trường, tăng thêm chất lượng và
khả năng thâm nhập thị trường của hàng hoá - dịch vụ trong điều kiện cạnh tranh
toàn cầu ngày càng quyết liệt. Quá trình này đồng thời cho phép nâng cao hơn nữa
vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước theo mô hình của nền kinh tế hỗn hợp. Nhà
nước TBCN thông qua đó, một mặt, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của mình và
mặt khác, để có thể tập trung vào thực hiện tốt chức năng quản lý chung bằng các
chính sách và công cụ kinh tế vĩ mô.
Nhìn từ lát cắt xã hội hoá sản xuất, kinh tế thị trường là vừa là điều kiện, vừa
là biểu hiện trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Đó là thành tựu của nền
văn minh nhân loại được hình thành qua hàng ngàn năm.
Con đường phát triển kinh tế thị trường ở các quốc gia trên thế giới có thể
chia thành hai loại: phát triển tuần tự và phát triển rút ngắn.
Các nước phát triển kinh tế thị trường theo con đường tuần tự điển hình là:
Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Mỹ… Khi chế độ phong kiến sụp đổ cũng là lúc kinh tế
thị trường tự do hình thành. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, kinh tế
thị trường ở các quốc gia này phát triển ngày càng cao. Giai đoạn này kéo dài ở các
nước phương Tây từ cuối thế kỷ XVII tới nửa cuối thế kỷ XIX, gắn với sự ra đời

của nền KTTT dân tộc theo chủ nghĩa tự do. Phát triển KTTT thời kỳ này có những
nội dung sau:
- Phát triển LLSX và cơ sở vật chất - kỹ thuật, phân công lao động xã hội, cải biến
cơ cấu nền kinh tế quốc dân và phát triển thị trường dân tộc. Kinh nghiệm lịch sử
cho thấy rằng: nếu không có tích luỹ nguyên thuỷ thì CNTB rất khó ra đời trong
một khoảng thời gian ngắn, nhưng nếu không biết phát triển nền kinh tế thị trường
dân tộc, đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá cơ sở vật chất – kỹ thuật của các ngành sản
xuất trong nước, thì CNTB không thể phát triển các tiềm lực kinh tế của mình lên
gấp bội và chiến thắng hoàn toàn đối với sản xuất nhỏ, tiểu nông. Ví dụ, Hà Lan là
cường quốc kinh tế và nước TBCN điển hình của thế kỷ XVII, nhưng sau đó suy
yếu và phải nhường ngôi vị hàng đầu cho nước Anh. Bởi ở Hà Lan, các nhà tư bản
chủ trương làm giầu bằng buôn bán trục lợi, họ không chú trọng phát triển một nền
công nghiệp dân tộc vững mạnh. Trong khi đó, các nhà kinh doanh nước Anh đã
biết kết hợp nguồn vốn tích luỹ từ bên ngoài với điều kiện tài nguyên, lao động
trong nước, đặc biệt, với các phát minh công nghệ - kỹ thuật quan trọng của thời đó
là máy động lực - hơi nước và máy công tác - dệt len. Nhờ đó, đã tạo nên cuộc cách
mạng công nghiệp vĩ đại, trước hết từ công nghiệp nhẹ - ngành dệt, sau đó tới công
nghiệp nặng - các ngành chế tạo cơ khí phục vụ cho ngành dệt. Theo đó, CNTB đại

12


công nghiệp – công xưởng điển hình đã ra đời sớm nhất ở nước Anh. Quá trình này
diễn ra trong 4 thế kỷ XVI - XIX gọi là cuộc cách mạng công nghiệp. Phân công và
máy móc ra đời đã thúc đẩy lực lượng sản xuất cũng như KHCN phát triển mạnh
mẽ, đạt được những tiến bộ khổng lồ, cho phép ngày nay nhân loại chuyển mình
sang xã hội mới: hậu công nghiệp và kinh tế tri thức.
- Củng cố chế độ sở hữu TBCN như là cơ sở của KTTT. Vịệc chuyển từ chế độ tiểu
tư hữu sang chế độ tư hữu lớn TBCN dựa trên cơ sở kết hợp TLSX của nhà tư bản
với SLĐ của những công nhân làm thuê là có ý nghĩa quyết định để chuyển kinh tế

hàng hoá nhỏ, giản đơn sang thời đại KTTT TBCN – theo phương thức kinh tế tích
luỹ và tăng trưởng. Những khả năng tích luỹ ở đây là vô cùng to lớn, chỉ phụ thuộc
vào quy mô tư bản và số lượng sức lao động làm thuê được sử dụng. Sự tích luỹ này
về nguyên tắc khác biệt với phương thức tích luỹ rất hạn chế chỉ dựa vào “sự tiết
kiệm và tiết dục” của người sản xuất hàng hoá nhỏ, bởi họ vừa là người chủ sở hữu
đồng thời vừa là người lao động trực tiếp, nên không thể tự bóc lột mình. Việc cải
biến sở hữu này dựa trên hai tiền đề: a) Về khách quan, đó là kết quả của sự phân
hoá bởi quy luật giá trị đối với những người sản xuất hàng hoá nhỏ, b) Về chủ quan,
đó là các thủ đoạn tích luỹ nguyên thuỷ như đã nói trên.
Trên thực tế, quá trình chuyển hoá sở hữu này diễn ra trong các thế kỷ XVII
- XX, còn bao gồm đồng thời ba quá trình bộ phận có tác động qua lại làm điều kiện
và tiền đề cho nhau, giúp thúc đẩy KTTT TBCN ra đời: Một là, từ sở hữu nhỏ của
tư bản cá biệt chuyển sang sở hữu lớn của tập thể các nhà tư bản hay sở hữu tư bản
tập thể - sở hữu cổ phần, thậm chí là sở hữu của các công ty cổ phần hay tập đoàn
xuyên quốc gia. Hai là, bên cạnh sở hữu tư nhân TBCN còn có sở hữu nhà nước
TBCN, được ra đời trên cơ sở quốc hữu hoá xí nghiệp tư nhân hay thành lập các xí
nghiệp nhà nước mới hoàn toàn. Ba là, sự hình thành các hình thức sở hữu đa dạng
về các TLSX chủ yếu như đất đai, sức lao động, hàng hoá và vốn - tư bản, do đó, là
cơ sở cho hình thành các thị trường riêng cũng như đề ra yêu cầu phát triển đồng bộ
các thị trường.
- Phát triển mở rộng KTTT TBCN xét trên các khía cạnh: dung lượng, cơ cấu và hạ
tầng kỹ thuật cuả thị trường. Về dung lượng: thị trường ngày càng mở rộng với khối
lượng hàng hoá nhiều hơn và chủng loại hàng hoá cũng đa dạng, phong phú hơn.
Về mặt cơ cấu, cũng có nghĩa rằng thị trường ngày càng phức tạp và gắn bó hữu cơ
giữa các bộ phận cấu thành, đặc biệt, giữa các thị trường riêng như thị trường hàng
hoá - dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường
KH – CN. Về hạ tầng kỹ thuật thị trường cũng ngày càng hiện đại, hoàn thiện, đáp

13



ứng yêu cầu giao dịch và thông tin thị trường thuận lợi hơn. Nhờ thế, tính đồng bộ
và phụ thuộc lẫn nhau giữa các thị trường, các bộ phận và lĩnh vực riêng cũng có
yêu cầu cao hơn và được đáp ứng tốt hơn. Tính đồng bộ và phụ thuộc của KTTT
ngày nay là trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ, chỉ riêng sự khủng hoảng của thị trường
tài chính hay một thị trường khu vực nào đó cũng có thể gây ra chấn động tới toàn
bộ nền KTTT TBCN thế giới;
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tích tụ và tập trung sản xuất ở các quốc
gia này đã đến mức rất cao, kinh tế thị trường tự do trở nên không còn thích hợp
nữa. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933 là biểu hiện rõ ràng cho điều
này. Sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước vào nền kinh tế thị trường theo học thuyết
kinh tế của J. M Keynes trong thời kỳ tiếp theo chính là giai đoạn chuyển đổi sang
mô hình kinh tế thị trường hiện đại (hỗn hợp). Từ thập niên bảy mươi của thế kỷ
XX trở đi, ở nhiều nước phát triển, mô hình kinh tế thị trường hiện đại đã xuất hiện
và trở nên phổ biến ở trên thế giới.
Các nước phát triển kinh tế thị trường theo con đường “rút ngắn” điển hình
là: Nhật Bản và các nước, các lãnh thổ công nghiệp mới (NICS, NIES) Châu Á.
Thành công của Nhật Bản xuất phát từ những lý do sau:
- Tận dụng được lợi thế của nước đi sau để rút ngắn thời gian, tăng tốc đuổi
kịp và vượt các nước phát triển tuần tự. Nhật Bản đã học tập được kinh nghiệm
thành công, tránh được những thất bại, kế thừa được những thành tựu của các nước
đi trước.
- Nhật Bản đã vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm nước ngoài, phù hợp
với điều kiện và truyền thống dân tộc. Các giá trị Phương Tây được tiếp thu và
được Nhật Bản hoá.
- Nhật Bản xây dựng được một nhà nước thông minh, chủ động tạo dựng môi
trường thể chế thuận lợi, kịp thời hiệu chỉnh, bổ sung và can thiệp khi nền kinh tế
có những mất cân đối; đề ra các định hướng phát triển kết hợp với việc vận dụng
linh hoạt, mềm dẻo hệ thống các chính sách, cơ chế và công cụ điều tiết.
- Thực hiện nhất quán chiến lược mở cửa, hội nhập để tranh thủ các nguồn

ngoại lực vào phục vụ cho phát triển đất nước.
Các nước, các lãnh thổ công nghiệp mới (NIC S, NIES) Châu Á (Singapore,
Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Công) thực hiện thành công mô hình “rút ngắn hiện
đại”. Một mặt, mô hình hội tụ được ưu điểm của con đường phát triển rút ngắn cổ
điển nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế thị trường với sự điều tiết mạnh
và "thông minh" của nhà nước. Mặt khác, có sự khác biệt cơ bản so với mô hình

14


phát triển rút ngắn cổ điển ở mức độ sử dụng tư bản nước ngoài và độ mở cửa nền
kinh tế.
Nếu như Nhật Bản đã tiến hành công nghiệp hoá từ lĩnh vực nông nghiệp và
xây dựng mô hình kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây thì các nước, lãnh thổ
công nghiệp mới tiến hành công nghiệp hoá bằng cách ngay từ đầu dựa vào ngoại
lực (thu hút vốn, công nghệ nước ngoài, chủ yếu của Hoa Kỳ và Nhật Bản) và xây
dựng mô hình kinh tế thị trường đặc thù hướng ngoại (hướng về xuất khẩu). Điều
này chỉ có thể thực hiện dựa vào các tiền đề:
- Lợi dụng xu hướng của thời đại là toàn cầu hóa sản xuất và đầu tư thông qua vai
trò các công ty xuyên quốc gia.
- Phát huy vai trò tích cực của nhà nước trong việc tạo ra những điều kiện bên trong
thuận lợi để tận dụng các cơ hội đầu tư bên ngoài;
- Ngay từ đầu kết hợp tốt giữa “bàn tay hữu hình” với “bàn tay vô hình” nhằm khắc
phục khuyết tật của thị trường và hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường hiện
đại.
Những nước, lãnh thổ nói trên do biết sử dụng “lợi thế” và nắm bắt "cơ hội"
để rút ngắn con đường phát triển của mình, đuổi kịp và vượt một số nước đã phát
triển trước đó. Mô hình phát triển này không có sự đốt cháy giai đoạn mà là kết quả
của sự phát huy tính năng động chủ quan của các nước đi sau. Họ đã biết kết hợp
một cách nhuần nhuyễn những yếu tố dân tộc và yếu tố thời đại. Điểm khác nhau cơ

bản giữa hai loại mô hình này là: Nhật Bản phát huy nội lực bằng việc mở cửa, hội
nhập... Trái lại, các nước, lãnh thổ công nghiệp mới châu Á đã lợi dụng cơ hội và
sức mạnh của thế giới thông qua hoạt động của các công ty xuyên quốc gia, mở cửa
nền kinh tế để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu, nên rút
ngắn thời gian nhanh hơn so với Nhật Bản.
Mô hình phát triển kinh tế thị trường rút ngắn-đúng như tên gọi-chỉ rút ngắn
thời gian thực hiện các trật tự tiến hoá, mà không bỏ qua những bước tuần tự. Hay
nói khác đi, đây là mô hình có sự kết hợp hài hoà giữa phát triển tuần tự và phát
triển nhảy vọt.
1.2. Bản chất và các đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường
1.2.1. Bản chất của kinh tế thị trường
Từ cách tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của kinh tế thị trường, có thể
hiểu: Kinh tế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế được quy định bởi trình độ
xã hội hoá sản xuất; là kiểu tổ chức xã hội về lao động trong đó các yếu tố “đầu
vào” và “đầu ra” đều là hàng hoá; các chủ thể kinh tế độc lập và lệ thuộc lẫn

15


nhau, cạnh tranh và hợp tác với nhau nhằm thực hiện mục tiêu giá trị gia tăng ngày
càng nhiều hơn.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó các hoạt động
kinh tế gắn chặt với nhau và với thị trường. Lực lượng sản xuất xã hội ngày càng
phát triển, trình độ phân công lao động xã hội ngày càng cao thì các quan hệ kinh tế
và thị trường cũng càng được mở rộng và trở nên phức tạp. Hệ thống thị trường
quốc gia trở nên thống nhất, thông suốt và gắn kết chặt chẽ hơn với thị trường thế
giới. Các doanh nghiệp và các nền kinh tế lệ thuộc vào nhau chặt chẽ hơn cả “đầu
vào”, “đầu ra” và nhìn chung, cả người sản xuất và người tiêu dùng đều được hưởng
lợi từ sự lệ thuộc đó. Vì thế, mặc dù trong lịch sử đã từng xuất hiện những lực lư ợng xã hội phản đối kinh tế thị trường nhưng với tư cách quy luật phát triển tất yếu,
kinh tế thị trường đã cuốn trôi, gạt bỏ mọi sự ngáng trở để phát triển. Ngày nay,

kinh tế thị trường đã phát triển và phổ biến trên phạm vi toàn thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế vận hành theo cơ chế,
nguyên tắc riêng, gọi là cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố các quan hệ cơ bản của nền kinh
tế, vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường, trong môi trường cạnh
tranh, nhằm mục tiêu giá trị gia tăng (lợi nhuận). Nhân tố cơ bản của cơ chế thị
trường là cung cầu và giá cả thị trường.
1.2.2. Các đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường
Cơ chế thị trường có những đặc trưng khác biệt với cơ chế kinh tế tự nhiên
và cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung-hành chính-bao cấp.
Thứ nhất, quan hệ giữa các chủ thể kinh tế mang hình thức tiền tệ
Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên thường được
biểu hiện dưới hình thức quan hệ giữa vật và vật; trong cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hoá tập trung-hành chính-bao cấp: kế hoạch nhà nước. Chỉ trong nền kinh tế
thị trường, tiền tệ được sử dụng một cách phổ biến.
Đặc trưng này dẫn đến hàng loạt hệ quả tích cực. Khi đồng tiền được sử
dụng phổ biến, trao đổi sản phẩm được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng hơn, đáp
ứng tốt hơn các nhu cầu của sản xuất và đời sống. Tiền tệ còn có chức năng thước
đo giá trị. Do đó, khi đồng tiền được sử dụng phổ biến, sản xuất có thước đo, người
sản xuất biết rõ đầu tư vào sản xuất, kinh doanh cái gì sẽ đạt hiệu quả. Khi những
người sản xuất đều chuyển sang sản xuất, kinh doanh những mặt hàng hiệu quả đối
với họ sẽ làm cho hiệu quả của nền sản xuất tăng lên.

16


Tiền tệ là hiện thân của giá trị, của của cải. Khi tiền tệ được sử dụng phổ
biến, tiền tệ sẽ trở thành mục tiêu của các hoạt động kinh tế. Các chủ thể kinh tế sẽ
tập trung các hoạt động của mình vào những lĩnh vực thu được nhiều giá trị (lợi
nhuận), chỉ sản xuất một vài loại sản phẩm, thậm chí chỉ sản xuất ra những chi tiết

sản phẩm. Điều đó có nghĩa là phân công lao động xã hội sẽ ngày càng phát triển.
Vì thế, mặc dù phân công lao động xã hội là điều kiện hình thành kinh tế thị trường
nhưng đến lượt mình, kinh tế thị trường lại là nhân tố thúc đẩy phân công lao động
xã hội phát triển. Phân công lao động xã hội càng phát triển, năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế càng cao.
Tiền tệ còn có chức năng phương tiện cất trữ của cải. Do đó, trong nền kinh
tế thị trường, của cải thường được cất trữ dưới hình thái tiền tệ. Hình thức cất trữ
này có nhiều ưu điểm so với việc cất trữ các giá trị sử dụng. Vì thế, khi đồng tiền
được sử dụng phổ biến, các chủ thể kinh tế có điều kiện thuận lợi hơn để cất trữ của
cải và tạo động lực cho hoạt động này. Trong nền kinh tế thị trường, việc nhượng
quyền sử dụng đồng tiền của mình cho người khác có thể nhận được thu nhập. Càng
tiết kiệm tiêu dùng trong hiện tại, càng có cơ hội để nâng cao thu nhập trong tương
lai. Điều đó tạo động lực tiết kiệm tiêu dùng, tăng đầu tư.
Khi tiền tệ được sử dụng phổ biến và là mục tiêu của các hoạt động kinh tế
thì bất cứ nhu cầu nào (dù là nhu cầu cho sản xuất hay cho đời sống) cũng có thể
được thoả mãn thông qua thị trường. Do nền kinh tế thị trường dựa trên phân công
lao động xã hội ngày càng phát triển nên các nhu cầu sẽ được đáp ứng nhanh hơn,
chất lượng tốt hơn. Điều đó sẽ tác động tích cực đến sự phát triển của sản xuất, cải
thiện và nâng cao chất lượng đời sống của dân cư.
Thứ hai, các nguồn lực được phân bổ khách quan, thông qua sự tác động
của các quy luật thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế chịu sự chi phối của các
quy luật thị trường. Đó là quy luật giá trị và giá trị gia tăng, quy luật cạnh tranh, quy
luật cung – cầu.
- Quy luật giá trị là quy luật chung của kinh tế hàng hoá. Quy luật này yêu
cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Điều
quan trọng là khi thừa nhận sự tồn tại và vận hành của quy luật giá trị, thì mọi hình
thức can thiệp trực tiếp của nhà nước hay các chủ thể kinh doanh vào mức giá cả thị
trường đều làm méo mó giá cả. Quy luật giá trị là quy luật chung của kinh tế thị
trường, tự bản thân nó không mang đặc trưng và bản chất xã hội. Các quốc gia đi


17


theo con đường xây dựng nền kinh tế thị trường thực sự, các chủ thể kinh tế và nhà
nước cần phải và có thể tính đến quy luật giá trị trong các hoạt động của mình.
- Quy luật giá trị gia tăng - quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường tự do
và kinh tế thị trường hiện đại. Trong kinh tế thị trường, Người sản xuất không chỉ
căn cứ vào giá trị xã hội hoá của hàng hoá để quyết định sản xuất cái gì?, sản xuất
như thế nào? Cho ai? mà còn chịu sự chi phối của bộ phận giá trị gia tăng trong
hàng hoá. Chính bộ phận giá trị gia tăng quyết định sự phát triển của các chủ thể và
của nền kinh tế. Theo đuổi giá trị gia tăng trở thành động lực vô cùng mạnh mẽ của
kinh tế thị trường. Trong chủ nghĩa tư bản, quy luật này mang bản chất và dấu ấn
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhằm phục vụ cho mục tiêu của tư bản nhằm
chiếm đoạt gía trị thặng dư, tăng lợi nhuận và tích lũy của cải làm giàu cho giới chủ,
còn phía kia trái lại, là tích lũy sự nghèo khổ và bần cùng đối với người lao động.
Đó là mâu thuẫn xã hội và tính chất tư bản chủ nghĩa của quy luật giá trị gia tăng
(được gọi là quy luật giá trị thặng dư).
- Quy luật cạnh tranh là quy luật đặc trưng cho vận hành của cơ chế thị
trường. Trong nền kinh tế tự nhiên và cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung
không có cơ sở kinh tế cho cạnh tranh nên thiếu đi động lực quan trọng cho sự phát
triển. Cạnh tranh mang tính tích cực: nó thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, giảm chi phí và hạ giá thành sản xuất,
tăng năng suất lao động và phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, cạnh tranh
không lành mạnh có mặt tiêu cực là gây lãng phí các nguồn lực; gây phương hại
cho xã hội về an ninh và kinh tế...
Vận động của nền kinh tế thị trường do các quy luật thị trường chi phối. Điều
này có nghĩa là các phạm trù của kinh tế thị trường như cung - cầu, giá trị, giá cả,
giá thành, lợi nhuận, tiền tệ, cạnh tranh... phải được tôn trọng. Sự vi phạm các quy
luật thị trường không tránh khỏi phải trả giá.

Trong nền kinh tế tự nhiên, nhìn chung người sở hữu các nguồn lực thường
cũng là người sử dụng các nguồn lực đó. Chẳng hạn, người nông dân gia trưởng sử
dụng ruộng đất, trâu bò, cày bừa... nhằm thoả mãn các nhu cầu trong gia đình mình.
Điều này được lặp đi, lặp lại qua nhiều thế hệ. Như thế, việc phân bổ lại các nguồn
lực ít khi được thực hiện và việc nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực diễn ra
rất chậm chạp. Cũng vì vậy, nền kinh tế tự nhiên về bản chất là chậm phát triển.
Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung-hành chính-bao cấp, nhà nước
phân bổ các nguồn lực. Do các nguồn lực có hạn, việc phân bổ bình quân cho các

18


ngành, các địa phương là không tránh khỏi. Điều đó cũng có nghĩa là các nguồn lực
đã được phân bổ cả vào những lĩnh vực không hiệu quả, tính hiệu quả thấp.
Trong cơ chế thị trường, các quy luật thị trường như quy luật giá trị, quy luật
cạnh tranh, quy luật cung-cầu... sẽ phân bổ các nguồn lực. Nguyên tắc phân bổ các
nguồn lực của cơ chế thị trường là hiệu quả. Ở đâu các nguồn lực được sử dụng có
hiệu quả, các quy luật thị trường sẽ phân bổ các nguồn lực vào đó. Do vậy, hiệu quả
sử dụng các nguồn lực trong cơ chế thị trường cao hơn trong các cơ chế kinh tế
khác.
Thứ ba, giá trị, lợi nhuận tối đa trở thành động lực bên trong, chi phối
hoạt động của các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, giá trị là hiện thân của của cải nên mục tiêu
quan trọng nhất của các hoạt động kinh tế là giá trị gia tăng, là lợi nhuận. Theo đuổi
giá trị gia tăng, lợi nhuận trở thành động lực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh
tế thị trường.
Để thực hiện mục tiêu đó, các doanh nghiệp có thể làm tất cả những gì có
thể. Họ phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý... để hạ thấp chi
phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhưng
họ cũng có thể đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả…

Động lực giá trị gia tăng rất mạnh mẽ và không có giới hạn. Điều đó làm cho
các hoạt động kinh tế không ngừng được mở rộng về quy mô và được nâng cao về
trình độ; lực lượng sản xuất, trình độ kỹ thuật của nền kinh tế thị trường phát triển
nhanh chóng.
Thứ tư, qúa trình phát triển kinh tế thị trường gắn liền với đa dạng hoá
các hình thức sở hữu.
Sự hình thành, phát triển của kinh tế thị trường dựa trên tính chất tư nhân của
sản xuất, hay nói cách khác là dựa trên sự đa dạng hoá các chủ thể kinh tế. Nền kinh
tế thị trường phát triển càng cao, các loại chủ thể kinh tế hay các hình thức sở hữu
tư liệu sản xuất càng đa dạng. Điều đó đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Đó là
cho phép khai thác những tiềm năng đa dạng của nền kinh tế; tạo quan hệ cạnh
tranh, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, người tiêu dùng được
quan tâm...
Sự đa dạng của các hình thức sở hữu tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng,
nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy tính chủ động sáng tạo, linh hoạt

19


của các chủ thể kinh tế, cải tiến phương pháp quản lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật… làm cho nền kinh tế phát triển năng động và có hiệu quả hơn.
Vì vậy, nhiều tham luận khi bàn về vấn đề này đều cho rằng, kinh tế thị
trường nhất định sẽ có nhiều hình thức sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước và sở hữu
tư nhân đều có vai trò rất quan trọng. Trình độ xã hội hoá sản xuất càng cao, sở hữu
nhà nước càng phải được chú ý.
Thứ năm, nền kinh tế mở cửa, hội nhập.
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất là để đáp ứng nhu cầu của thị trường, của
xã hội. Việc đáp ứng các nhu cầu đó càng tốt bao nhiêu, người sản xuất càng có lợi bấy
nhiêu. Do đó, bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa, trên phạm vi địa phương, khu
vực và trên phạm vi quốc gia.

Hàng hoá, vốn, lao động, công nghệ ngày càng được tự do lưu thông trong
mỗi nước, với nước ngoài, trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Khi phân
tích về xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế do sự phát triển đại công nghiệp sinh
ra, C.Mác đã chỉ rõ: “Những ngành công nghiệp dân tộc cũ đã bị tiêu diệt và đang
ngày càng bị tiêu diệt. Những ngành công nghiệp dân tộc bị thay thế bởi những
ngành công nghiệp mới, tức là những ngành công nghiệp không dùng những
nguyên liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa xôi nhất trên
trái đất và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được
tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa”5.
Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế lên trình độ cao hơn, hình thành xu hướng toàn cầu hoá kinh tế mà
không một nước nào có thể đứng ngoài, không một nước nào có thể đóng cửa, xây
dựng một cơ cấu kinh tế khép kín.
Thứ sáu, kinh tế thị trường có đặc trưng riêng về văn hoá
Điều kiện kinh tế của cơ chế thị trường là cơ sở vật chất cho sự phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ xã hội. Trong cơ chế thị trường, con người có cách ứng
xử riêng, không chỉ trong quan hệ kinh tế, mà trong cả trong các quan hệ khác.
Trình độ kinh tế quyết định trình độ phát triển các mặt khác của đời sống xã hội.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường cao hơn kinh tế tự nhiên và cơ chế quản lý
kinh tế hành chính - bao cấp nên trình độ phát triển văn hoá của kinh tế thị trường
cũng cao hơn. Trong cơ chế thị trường, con người năng động hơn, thực tế hơn...

5

C.Mác và Ph.Ănghen, toàn tập, tập 4, NXB CTQG, Hà Nội 1995, tr 601.

20


Điều đó tác động trở lại các hoạt động kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng

nhanh và hiệu quả hơn.
Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hoá riêng, gắn liền hoàn cảnh lịch sử, điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mình. Bản sắc văn hoá được thể hiện đậm nét
trong các mô hình kinh tế thị trường.
Thứ bảy, tự do hóa kinh tế và dân chủ hóa xã hội.
Quá trình xã hội hóa sản xuất và trao đổi hàng hóa chính là quá trình lao
động được giải phóng khỏi các quan hệ lệ thuộc lẫn nhau trực tiếp của kinh tế tự
nhiên, trở thành lao động tư nhân, độc lập. Đây là điều kiện tất yếu của sự hình
thành, phát triển của kinh tế thị trường. Bởi vậy, tự do và dân chủ không phải là
những ý tưởng từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là vấn đề nội tại mang tính quy
luật của tiến trình vận động của kinh tế thị trường. Nhưng một khi tự do và dân chủ
là tất yếu và quy luật của bản thân hệ kinh tế thị trường, nó trở thành những giá trị
căn bản của nền kinh tế và xã hội thị trường. Tự do và dân chủ lại được chính quan
hệ kinh tế và xã hội thị trường tạo điều kiện phát triển. Đến lượt mình, chính sự
phát triển của tự do và dân chủ cho phép mở rộng và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực; thúc đẩy các quan hệ thị trường phát triển. Sự hình thành, phát triển của
tự do, dân chủ là một tiến trình lịch sử tự nhiên và là những giá trị căn bản của tiến
trình kinh tế thị trường. Vì thế, tự do, dân chủ đã được phản ánh trong khát vọng và
trong lý thuyết. Những học thuyết về tự do, dân chủ và bình đẳng, công bằng đã
phát sinh và nở rộ vào đêm trước của cuộc cách mạng thị trường – công nghiệp,
cách mạng tư sản. Nó hình thành nên một động lực, một sinh khí trong việc thúc
đẩy tiến trình kinh tế thị trường. Đến lượt mình, chính tiến trình kinh tế thị trường
làm tan rã xã hội truyền thống và xác lập nên xã hội thị trường với những giá trị cơ
bản của mình: tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng và phồn vinh.
1.2.3. Những ưu thế của cơ chế thị trường
Những phân tích trên cho thấy: cơ chế thị trường có những ưu thế hơn hẳn so
với kinh tế tự nhiên và cơ chế quản lý kinh tế hành chính - bao cấp.
Thứ nhất, cơ chế thị trường rất năng động. Bất kỳ nhu cầu nào xuất hiện, dù
là nhu cầu cho sản xuất hay cho đời sống, cơ chế thị trường sẽ hướng tới đáp ứng
các nhu cầu đó. Những thay đổi của cung, của cầu lập tức được phản ánh ở giá cả;

khi giá cả thay đổi lập tức tác động đến cung, đến cầu. Ưu việt này góp phần thúc
đẩy sản xuất phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư.
Thứ hai, cơ chế thị trường sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn. Sự tồn tại,
phát triển của mọi chủ thể kinh tế đều phụ thuộc vào hiệu quả nên mọi hoạt động

21


kinh tế đều phải tính toán hiệu quả. Các quy luật kinh tế đều đòi hỏi các hoạt động
kinh tế phải có hiệu quả và góp phần nâng cao hiệu quả các nguồn lực. Ở đâu các
nguồn lực được sử dụng hiệu quả hơn, cơ chế thị trường sẽ phân bổ các nguồn lực
vào đó. Bởi vậy, hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong cơ chế thị trường cao hơn
trong cơ chế kinh tế tự nhiên, trong cơ chế quản lý kinh tế hành chính-bao cấp.
Thứ ba, cơ chế thị trường duy trì động lực mạnh mẽ cải tiến kỹ thuật, phát
triển lực lượng sản xuất. Động lực đó là giá trị, lợi nhuận. Vì giá trị, lợi nhuận
không có giới hạn nên động lực này mạnh mẽ và không có giới hạn. Theo đuổi giá
trị, lợi nhuận, các doanh nghiệp buộc phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao
chất lượng sản phẩm, quan tâm đến người tiêu dùng... Động lực này làm cho nền
kinh tế thị trường phát triển nhanh, không giới hạn.
Thứ tư, cơ chế thị trường loại bỏ được nhanh chóng những nhân tố lạc hậu,
không hiệu quả; khuyến khích được các nhân tố tích cực, hiệu quả. Đó là do sự tác
động của các quy luật thị trường. Các quy luật này sàng lọc, loại bỏ không thương
tiếc những nhân tố lạc hậu, không hiệu quả; tạo điều kiện cho các nhân tố hiệu quả
mở rộng quy mô hoạt động của mình…
Từ những ưu việt trên đây có thể rút ra kết luận là các nước muốn tăng
trưởng kinh tế nhanh, phát triển các mặt của đời sống kinh tế-xã hội phải sử dụng cơ
chế thị trường.
1.2.4. Những khuyết tật của cơ chế thị trường
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường phát triển không ổn định. Các hoạt động
kinh tế trong cơ chế thị trường chịu sự chi phối của các quy luật thị trường. Do đó,

các hoạt động đó mang tính tự phát. Chẳng hạn, khi giá cả mặt hàng nào đó tăng
lên, doanh nghiệp lập tức mở rộng sản xuất, làm cho cung hàng hoá đó tăng lên. Chỉ
khi nào cung hàng hoá vượt cầu hàng hoá thể hiện bằng giá cả hàng hoá giảm
xuống, doanh nghiệp mới ngừng mở rộng sản xuất, thậm chí phải thu hẹp sản xuất.
Sản xuất thu hẹp đến mức nào đó giá cả hàng hoá lại tăng lên, một chu kỳ mới lại
bắt đầu. Nền kinh tế thị trường dựa trên tính chất tư nhân của sản xuất nên mang
tính tự phát, thường xuyên tạo ra sự mất cân đối, bất hợp lý ở tầm vĩ mô (biểu hiện
rõ nhất là khủng hoảng chu kỳ), làm giảm hiệu quả trên quy mô nền kinh tế quốc
dân.
Khi nền kinh tế vận động theo chu kỳ như vậy có thể sẽ dẫn đến sự không ổn
định cả về kinh tế và chính trị. Khi nền sản xuất ở giai đoạn đi xuống, quy mô sử
dụng các nguồn lực bị thu hẹp, một phần các nguồn lực bị lãng phí. Đồng thời, khi

22


nền sản xuất đi xuống, cầu về lao động giảm xuống, thất nghiệp tăng lên, làm nảy
sinh nhiều vấn đề cả về kinh tế, chính trị và xã hội.
Để hạn chế tính bất ổn của nền kinh tế, nhà nước phải can thiệp. Khi nền
kinh tế ở vào trạng thái quá “nóng”, nhà nước phải “hạ nhiệt” bằng các biện pháp
như: tăng thuế, tăng lãi xuất... Và khi nền kinh tế ở giai đoạn đi xuống, nhà nước
phải áp dụng các biện pháp ngược lại: giảm thuế, giảm lãi xuất, tăng đầu tư nhà
nước...
Thứ hai, sự xuất hiện của độc quyền. Ngay khi nền kinh tế thị trường còn ở
trình độ thấp, độc quyền vẫn có thể xuất hiện do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của một
số ngành. Hiện tượng độc quyền này được gọi là độc quyền tự nhiên. Chẳng hạn,
ngành điện lực, ngành đường sắt... mang tính độc quyền tự nhiên.
Độc quyền gây thiệt hại lợi ích người tiêu dùng và lợi ích xã hội. Khi có độc
quyền, người tiêu dùng phải mua hàng hoá, dịch vụ với mức giá cao hơn mức cân
bằng trên thị trường. Các nhà độc quyền không cung ứng hàng hoá, dịch vụ ở sản

lượng tối ưu nên gây mất không lợi ích xã hội. Vì vậy, độc quyền được coi là
khuyết tật của cơ chế thị trường.
Để khắc phục khuyết tật này, nhà nước phải can thiệp bằng việc kiểm soát
giá cả và sản lượng. Khi doanh nghiệp bán hàng với mức giá cân bằng trên thị
trường hoặc cung ứng hàng hoá, dịch vụ ở sản lượng tối ưu, lợi ích xã hội và lợi ích
người tiêu dùng sẽ được tối đa hoá.
Thứ ba, hiện tượng ngoại ứng. Trong quá trình cung ứng hàng hoá, dịch vụ,
hiện tượng ngoại ứng thường xuất hiện. Một ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất
hoặc tiêu dùng một mặt hàng ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoặc người tiêu
dùng không liên quan gì đến việc sản xuất hoặc tiêu dùng mặt hàng đó, khi những
ảnh hưởng tràn ra ngoài đó không được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Đó
là hiện tượng ngoại ứng tiêu cực.
Hiện tượng ngoại ứng không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp
hoặc người tiêu dùng, mà còn gây mất không lợi ích xã hội vì các doanh nghiệp
không cung ứng hàng hoá, dịch vụ ở sản lượng tối ưu.
Để hạn chế, khắc phục hiện tượng ngoại ứng, nhà nước phải can thiệp. Nhà
nước can thiệp bằng cách yêu cầu doanh nghiệp phải xử lý các ngoại ứng tiêu cực
hoặc bỏ tiền đền bù cho các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng chịu tác động của
ngoại ứng đó. Khi đó, đường cung của doanh nghiệp sẽ trùng với đường cung của
xã hội; lợi ích mất không của người tiêu dùng và của xã hội sẽ tiến đến không.

23


Thứ tư, vấn đề hàng hoá công cộng. Đó là những hàng hoá mà khi người này
đã tiêu dùng thì người khác vẫn tiêu dùng được. Chẳng hạn, đường cao tốc, dịch vụ
quốc phòng, an ninh... là những hàng hoá công cộng. Trong cơ chế thị trường,
doanh nghiệp rất cần các hàng hoá công cộng, nhưng doanh nghiệp lại không đầu tư
để cung ứng những hàng hoá đó.
Để khắc phục khuyết tật này, nhà nước phải đầu tư để cung ứng những hàng

hoá đó. Nhà nước phải đầu tư để xây dựng những công trình kết cấu hạ tầng; nhà
nước phải đầu tư để củng cố quốc phòng, an ninh...
Thứ năm, vấn đề thông tin. Kinh tế thị trường là nền kinh tế sản xuất cho
người khác. Do đó, doanh nghiệp rất cần thông tin về thị trường, giá cả... Nhưng
doanh nghiệp không đủ khả năng để thu thập và xử lý thông tin. Sự thiếu hụt và
méo mó thông tin được coi là khuyết tật của cơ chế thị trường.
Để khắc phục khuyết tật này, nhà nước phải cung cấp thông tin cho doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp xử lý thông tin.
Thứ sáu, kinh tế thị trường làm nảy sinh những vấn đề xã hội và môi trường.
Đó là tình trạng phân hoá giàu nghèo; sự nảy sinh những tệ nạn xã hội; tình trạng
khai thác và sử dụng tài nguyên quá mức dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm
môi trường... Những vấn đề xã hội và môi trường nếu không được khắc phục sẽ tác
động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế và đời sống dân cư. Do đó, nhà nước sẽ
phải can thiệp để hạn chế, khắc phục những vấn đề xã hội; bảo vệ tài nguyên và môi
trường.
Thứ bảy, trên phạm vi quốc tế, cơ chế thị trường dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa
các nước, các trung tâm kinh tế, đặc biệt dễ tạo ra trật tự kinh tế bất công giữa các
nước giàu và nước nghèo. Cơ chế thị trường ngày càng làm sâu sắc thêm tình trạng
bất bình đẳng xã hội (thể hiện trên cả ba mặt - thu nhập, tài sản và cơ hội kinh
doanh). Cơ chế thị trường làm cho những tác động tiêu cực từ bên ngoài: khủng
hoảng tài chính - tiền tệ, khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, khủng
bố quốc tế… ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến mọi quốc gia.
Để khắc phục khuyết tật này, nhà nước phải có lộ trình phù hợp trong quá
trình hội nhập và có các chính sách tận dụng các cơ hội, vượt qua các thách thức
của quá trình hội nhập.
Như vậy, kinh tế thị trường có không ít khuyết tật. Hạn chế, khắc phục các
khuyết tật của kinh tế thị trường là chức năng của nhà nước. Bởi vậy, sự can thiệp

24



của nhà nước vào nền kinh tế thị trường hiện đại mang tính phổ biến ở tất cả các
nước.
1.3. Một số mô hình kinh tế thị trường tiêu biểu trên thế giới
1.3.1. Mô hình kinh tế thị trường tự do của Mỹ
Mô hình này còn được thực hiện ở Canada, Ôxtrâylia. Mô hình kinh tế thị
trường tự do của Mỹ có đặc trưng là sở hữu tư nhân chiếm ưu thế; cơ chế thị trường
cạnh tranh và sự năng động của kinh doanh; sự can thiệp thấp của chính phủ và
chấp nhận sự phân hoá xã hội ở mức độ cao.
Nhà nước chỉ can thiệp vào các hoạt động kinh tế khi cạnh tranh trên thị
trường xuất hiện những trục trặc, những khiếm khuyết như: độc quyền, độc quyền
nhóm hay những cấu trúc không hoàn hảo của thị trường cạnh tranh khiến việc phân
bổ các nguồn lực không hiệu quả; khi cơ chế giá cả không đảm bảo cung cấp thông
tin chuẩn xác; khi xuất hiện những hàng hoá gây độc hại cho người tiêu dùng; khi
có khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính...
Nhà nước thực hiện trợ cấp thất nghiệp và các quỹ an sinh xã hội để cung
cấp công cụ bảo vệ những người lâm vào tình trạng khó khăn. Tuy nhiên, các
chương trình phúc lợi xã hội ở Hoa Kỳ được đưa vào thực hiện chậm hơn nhiều và
chưa được hoàn thiện như ở nhiều quốc gia phát triển khác. Thực tế ở Mỹ cho thấy,
tuy nhà nước ít can thiệp thông qua trợ cấp và tín dụng, nhưng lại thường sử dụng
các chính sách ưu đãi về thuế khoá, đặc biệt là giảm thuế lợi tức. Để giúp đỡ các
ngành công nghiệp thích nghi với điều kiện phát triển kinh tế, nhà nước không chi
tiêu thêm mà giảm các khoản thu ngân sách. Bằng cách sử dụng chủ yếu các công
cụ giảm thuế doanh nghiệp và đặc biệt là thuế lợi tức, nhà nước đã tạo điều kiện
thuận lợi cho những doanh nghiệp nào biết cách thích nghi tốt hơn với thị trường.
Cách thức can thiệp vào nền kinh tế của nhà nước Mỹ là không trực tiếp
can thiệp vào quyết định kinh doanh của doanh nghiệp, mà bằng cách đặt ra các luật
chơi. Đạo luật chống tơ-rớt là luật chơi nổi tiếng nhất trong những luật chơi mà nhà
nước Mỹ đặt ra. Đạo luật này không cản trở việc thành lập các tập đoàn công
nghiệp có thế lực hay bảo vệ các doanh nghiệp nhỏ chống lại các doanh nghiệp lớn.

Mục đích của đạo luật chống tơ-rớt là nhằm làm cho hiệu quả sản xuất tăng lên để
tác động tích cực đến giá cả của hàng hóa ở trong nước chứ không phải hướng tới
việc tập trung hóa doanh nghiệp. Một mặt, trong đạo luật này, nhà nước Mỹ muốn
tránh những thoả thuận về giá cả và tình trạng độc quyền quá mức trên thị trường
nội địa, nhưng mặt khác lại cho phép các doanh nghiệp làm điều này trên thị trường
nước ngoài.

25


×