CÔNG CỤ KINH TẾ GIẢM Ô NHIỄM NÔNG
NGHIỆP
ĐỀ TÀI SỐ 11: CÔNG CỤ KINH TẾ GIẢM Ô NHIEMX NÔNG NGHIỆP
MỤC LỤC
CHƯƠNG I:
CHƯƠNG II:
CHƯƠNG III:
CHƯƠNG IV:
Lời nói đầu
Sản xuất nông nghiệp không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, đảm bảo nguồn
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực
phẩm mà còn sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện tại
cũng như trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài
người, không ngành nào có thể thay thế được. Trên 40% số lao động trên thế giới đang tham gia vào hoạt
động nông nghiệp. Đảm bảo an ninh lương thực là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, góp phần ổn định
chính trị, phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên tình trạng ô nhiễm do sản xuất nông nghiệp ngày càng nghiêm
trọng và phổ biến.
Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển, cùng theo đó là hàng loạt các vấn đề cần giải quyết. Hiện nay vấn
đề là làm sao để bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề không chỉ diễn ra trên nước ta mà còn diễn ra trên
toàn thế giới.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì vấn đề môi trường ngày càng nghiêm trọng, và hiện
tượng ô nhiễm môi trường không chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ở cả các nước đang phát triển trong
đó có đất nước Việt Nam ta. Hiện nay ô nhiễm môi trường đang ngày càng càng nghiêm trọng hơn không
chỉ ô nhiễm về không khí mà còn ô nhiễm về đất, nước trong tấc cả các lĩnh vực kinh tế kể cả nông
nghiệp và hậu quả mà chúng mang lại là ảnh hưởng rất nhiều về mọi mặt đối với cuộc sống của con
người.Các chất thải ngày càng nhiều và phong phú hơn, trong khi đó các biện pháp xử lý thì kém hiệu quả
cùng với sự quan tâm không chính đáng đã làm cho môi trường ngày càng tồi tệ hơn. Vì vậy bảo vệ môi
trường đang là một vấn đề cấp bách.
Dựa trên những vấn đề trên chúng tôi quyết định chọn tiểu luận “các công cụ kinh tế để giảm ô nhiễm
nông nghiệp” để thấy rõ hơn về thực trạng tình hình ô nhiễm nông nghiệp cũng như có nên sử dụng công
cụ kinh tế để giải quyết tình trạng ô nhiễm do sản xuất nông nghiệp gây ra hay không?
Nghiên cứu đề tài này không những giúp sinh viên có những hiểu biết tổng quát đặc điểm và nội dung của
các công cụ kinh tế khi áp dụng vào nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam có khác gì ở trên thế giới
hay không?
Thông qua việc nghiên cứu, tìm tòi, chọn lọc nhiều tài liệu, bằng phương pháp lí luận biện chứng nên bài
tiểu luận này được biên soạn một cách rất chi tiết và dễ hiểu. Mặt dù tập thể đã có nhiều cố gắng trong
quá trình biên soạn song bài tiểu luận không tránh khỏi có nhiều thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, rất mong các
tác giả thông cảm cho.
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
I.
Các cơ sở lý luận về quản lý môi trường cũng như quản lý ô nhiễm nông nghiệp.
1.
Quản lý môi trường là gì?
"Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội
thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia".
Các mục tiêu chủ yếu của công tác quản lý nhà nước về môi trường bao gồm:
- Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động
sống của con người.
- Phát triển bền vững kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền
vững do hội nghị Rio-92 đề xuất. Các khía cạnh của phát triển bền vững bao gồm: Phát triển bền
vững kinh tế, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không tạo ra ô nhiễm và suy thoái chất luợng
môi trường sống, nâng cao sự văn minh và công bằng xã hội.
- Xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ.
Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư.
2.
Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường gồm những nguyên tắc nào?
Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường bao gồm:
- Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững kinh tế xã hội đất
nước, giữ cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
- Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư trong việc
quản lý môi trường.
- Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp
thích hợp.
- Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn việc
phải xử lý, hồi phục môi trường nếu để gây ra ô nhiễm môi trường.
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây ra và các
chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm. Người sử dụng các thành phần môi trường phải trả tiền
cho việc sử dụng gây ra ô nhiễm đó.
3. Cơ sở triết học của quản lý môi trường là gì?
Nguyên lý về tính thống nhất vật chất thế giới gắn tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống rộng
lớn "Tự nhiên - Con người - Xã hội", trong đó yếu tố con người giữ vai trò rất quan trọng. Sự thống nhất
của hệ thống trên được thực hiện trong các chu trình sinh địa hoá của 5 thành phần cơ bản:
- Sinh vật sản xuất (tảo và cây xanh) có chức năng tổng hợp chất hữu cơ từ các chất vô cơ dưới tác
động của quá trình quang hợp.
- Sinh vật tiêu thụ là toàn bộ động vật sử dụng chất hữu cơ có sẵn, tạo ra các chất thải.
- Sinh vật phân huỷ (vi khuẩn, nấm) có chức năng phân huỷ các chất thải, chuyển chúng thành các
chất vô cơ đơn giản.
- Con người và xã hội loài người.
- Các chất vô cơ và hữu cơ cần thiết cho sự sống của sinh vật và con người với số lượng ngày một
tăng.
Tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội" đòi hỏi việc giải quyết vấn đề môi trường
và thực hiện công tác quản lý môi trường phải toàn diện và hệ thống. Con người nắm bắt cội nguồn sự
thống nhất đó, phải đưa ra các phương sách thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong hệ
thống đó. Vì chính con người đã góp phần quan trọng vào việc phá vỡ tất yếu khách quan là sự thống nhất
giữa tự nhiên - con người - xã hội. Sự hình thành những chuyên ngành khoa học như quản lý môi trường,
sinh thái nhân văn là sự tìm kiếm của con người nhằm nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống
nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội".
4. Cơ sở khoa học - kỹ thuật - công nghệ của quản lý môi trường là gì?
Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp
nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia. Các nguyên tắc
quản lý môi trường, các công cụ thực hiện việc giám sát chất lượng môi trường, các phương pháp xử lý
môi trường bị ô nhiễm được xây dựng trên cơ sở sự hình thành và phát triển ngành khoa học môi trường.
Nhờ sự tập trung quan tâm cao độ của các nhà khoa học thế giới, trong thời gian từ năm 1960 đến nay
nhiều số liệu, tài liệu nghiên cứu về môi trường đã được tổng kết và biên soạn thành các giáo trình,
chuyên khảo. Trong đó, có nhiều tài liệu cơ sở, phương pháp luận nghiên cứu môi trường, các nguyên lý
và quy luật môi trường.
Nhờ kỹ thuật và công nghệ môi trường, các vấn đề ô nhiễm do hoạt động sản xuất của con người đang
được nghiên cứu, xử lý hoặc phòng tránh, ngăn ngừa. Các kỹ thuật phân tích, đo đạc, giám sát chất lượng
môi trường như kỹ thuật viễn thám, tin học được phát triển ở nhiều nước phát triển trên thế giới.
Tóm lại, quản lý môi trường cầu nối giữa khoa học môi trường với hệ thống tự nhiên - con người - xã hội
đã được phát triển trên nền phát triển của các bộ môn chuyên ngành.
5. Cơ sở kinh tế của quản lý môi trường là gì?
Quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và thực hiện điều tiết xã
hội thông qua các công cụ kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động phát triển và sản xuất của cải vật chất diễn ra dưới sức ép của sự
trao đổi hàng hoá theo giá trị. Loại hàng hoá có chất lượng tốt và giá thành rẻ sẽ được tiêu thụ nhanh.
Trong khi đó, loại hàng hoá kém chất lượng và đắt sẽ không có chỗ đứng. Vì vậy, chúng ta có thể dùng
các phương pháp và công cụ kinh tế để đánh giá và định hướng hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho
công tác bảo vệ môi trường.
Các công cụ kinh tế rất đa dạng gồm các loại thuế, phí và lệ phí, cota ô nhiễm, quy chế đóng góp có bồi
hoàn, trợ cấp kinh tế, nhãn sinh thái, hệ thống các tiêu chuẩn ISO. Một số ví dụ về phân tích kinh tế trong
quản lý tài nguyên và môi trường như lựa chọn sản lượng tối ưu cho một hoạt động sản xuất có sinh ra ô
nhiễm Q nào đó, hoặc xác định mức khai thác hợp lý tài nguyên tái tạo v.v...
6. Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường là gì?
Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường là các văn bản về luật quốc tế và luật quốc gia về lĩnh vực môi
trường.
Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các
quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường
của từng quốc gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường
được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu
Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về "Môi trường con người" tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Ðiển và sau
Hội nghị thượng đỉnh Rio 92 có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay
đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường, trong đó nhiều văn bản đã được chính phủ Việt
Nam tham gia ký kết.
Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật, trong đó Luật Bảo vệ Môi
trường được quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 là văn bản quan trọng nhất. Chính phủ
đã ban hành Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị
định 26/CP ngày 26/4/1996 về Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Bộ Luật hình sự, hàng
loạt các thông tư, quy định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện luật môi trường đã được
ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ
môi trường được đề cập trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật
Lao động, Luật Ðất đai, Luật Phát triển và Bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, Pháp lệnh về
đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Pháp luật bảo vệ các công trình giao thông.
Các văn bản trên cùng với các văn bản về luật quốc tế được nhà nước Việt Nam phê duyệt là cơ sở quan
trọng để thực hiện công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
7. Công cụ quản lý môi trường gồm những gì?
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý môi trường của nhà
nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi một công cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất
định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Cơng cụ quản lý mơi trường có thể phân loại theo chức năng gồm: Cơng cụ điều chỉnh vĩ mơ, cơng cụ
hành động và cơng cụ hỗ trợ. Cơng cụ điều chỉnh vĩ mơ là luật pháp và chính sách. Cơng cụ hành động là
các cơng cụ có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử
phạt v.v... và cơng cụ kinh tế. Cơng cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của các tổ chức mơi trường
trong cơng tác bảo vệ mơi trường. Thuộc về loại này có các cơng cụ kỹ thuật như GIS, mơ hình hố, đánh
giá mơi trường, kiểm tốn mơi trường, quan trắc mơi trường. Cơng cụ quản lý mơi trường có thể phân loại
theo bản chất thành các loại cơ bản sau:
- Cơng cụ luật pháp chính sách bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản
khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách mơi trường quốc gia, các ngành kinh tế, các địa phương.
- Các cơng cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của hoạt động sản xuất
kinh doanh. Các cơng cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
- Các cơng cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm sốt và giám sát nhà nước về chất lượng và
thành phần mơi trường, về sự hình thành và phân bố chất ơ nhiễm trong mơi trường. Các cơng cụ kỹ thuật
quản lý có thể gồm các đánh giá mơi trường, minitoring mơi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng
chất thải. Các cơng cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành cơng trong bất kỳ nền kinh tế phát
triển như thế nào.
II.
i.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Phương pháp luận
Tư tưởng chủ đạo chi phối xuyên suốt tiến trình thực hiện đề tài là cố gắng khai thác và vận
dụng tối đa các thành tựu của kinh tế môi trường để nghiên cứu giải quyết một cách hợp lý và hài hòa
các mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế xã hội và cạn kiệt các nguồn tài nguyên; giữa tăng trưởng
kinh tế và suy giảm chất lượng môi trường trong sản xuất nơng nghiệp.
ii.
Các bước nghiên cứu cụ thể
- Tiếp cận các tài liệu liên quan đến lónh vực nghiên cứu của đề tài.
- Phân tích đánh giá những nguyên nhân kinh tế của sự suy thoái môi trường và tài nguyên tại
một số ngành nơng nghiệp.
- Phương pháp mô hình cơ sở dữ liệu nhằm nghiên cứu một số trường hợp điển hình để minh
họa và làm sáng tỏ thêm về bản chất kinh tế của suy thoái môi trường.
iii.
Nguồn số liệu
Chủ yếu từ các cuộc điều tra KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG tại thành phố Hồ Chí Minh từ Tổng cục
thống kê (2003,2004). Niên giám thông kê hàng năm (2002,2003). Ngoài ra, còn có Cơ quan Bảo vệ
Mơi trường Đan Mạch(DEPA), năm 1999, cơng cụ kinh tế trong bảo vệ mơi trường ở Đan Mạch,
Copenhagen.
Ecotec, CESAM, CLM, Đại học Gothenburg, UCD, và IEEP (2001) Nghiên cứu những ảnh hưởng kinh
tế và môi trường của việc sử dụng các loại thuế và phí môi trường trong Liên minh châu Âu và các nước
thành viên, báo cáo Ủy ban châu Âu.
Ecotec, CESAM, CLM, Đại học Gothenburg, UCD, và IEEP (2001) Nghiên cứu những ảnh hưởng kinh
tế và môi trường của việc sử dụng các loại thuế và phí môi trường trong Liên minh châu Âu và các nước
thành viên, báo cáo Ủy ban châu Âu.
Ecotec, CESAM, CLM, Đại học Gothenburg, UCD, và IEEP (2001) Nghiên cứu những ảnh hưởng kinh
tế và môi trường của việc sử dụng các loại thuế và phí môi trường trong Liên minh châu Âu và các nước
thành viên, báo cáo Ủy ban châu Âu.
Ecotec, CESAM, CLM, Đại học Gothenburg, UCD, và IEEP (2001) Nghiên cứu những ảnh hưởng kinh
tế và môi trường của việc sử dụng các loại thuế và phí môi trường trong Liên minh châu Âu và các nước
thành viên, báo cáo cho Liên minh châu Âu.
Oosterhuis, F.H., Brouwer, F.M. và Wijnants, HJ (2000) EU có thể rộng phí trên Cadmium trong
phosphate phân bón: Những ảnh hưởng kinh tế và môi trường, Báo cáo cuối cùng để Ủy ban châu Âu.
Thụy Điển Cơ quan Bảo vệ môi trường (SEPA) (1997a), thuế môi trường ở Thụy Điển - công công cụ
kinh tế của Báo cáo môi trường, chính sách 4745.
CHƯƠNG II: MÔ TẢ VÀ GIẢI THÍCH VỀ MẶT LÝ THUYẾT.
I.
CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ GIẢM Ô NHIỄM NÔNG NGHIỆP.
Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của tổ chức
kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử của nhà sản xuất có lợi cho môi trường. Các công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường gồm :
-Thuế và phí môi trường.
- Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm".
-Ký quỹ môi trường.
- Trợ cấp môi trường.
- Nhãn sinh thái.
Việc sử dụng các công cụ kinh tế trên ở các nước cho thấy một số tác động tích cực như các hành vi
môi trường được thuế điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí của xã hội cho công tác bảo vệ môi
trường có hiệu quả hơn, khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ
môi trường, gia tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân sách nhà
nước, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc gia.
1. Thuế và phí môi trường.
Thuế và phí môi trường là các nguồn thu ngân sách do các tổ chức và cá nhân sử dụng môi trường
đóng góp. Khác với thuế, phần thu về phí môi trường chỉ được chi cho các hoạt động bảo vệ môi
trường.
Dựa vào đối tượng đánh thuế và phí có thể phân ra các loại sau:
• Thuế và phí chất thải.
• Thuế và phí rác thải.
• Thuế và phí nước thải.
• Thuế và phí ô nhiễm không khí.
• Thuế và phí tiếng ồn.
• Phí đánh vào người sử dụng.
• Thuế và phí đánh vào sản phẩm mà quá trình sử dụng và sau sử dụng gây ra ô nhiễm (ví dụ
thuế sunfua, cacbon, phân bón...).
• Thuế và phí hành chính nhằm đóng góp tài chính cho việc cấp phép, giám sát và quản lý
hành chính đối với môi trường.
2. Côta gây ô nhiễm.
Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải chất thải có thể chuyển nhượng mà thông qua đó, nhà
nước công nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp, v.v... được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi
trường".
Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào môi trường, sau đó phân
bổ cho các nguồn thải bằng cách phát hành những giấy phép thải gọi là côta gây ô nhiễm và chính thức
công nhận quyền được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một giai đoạn xác
định cho các nguồn thải.
Khi có mức phân bổ côta gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và bán côta gây ô
nhiễm. Họ có thể linh hoạt chọn lựa giải pháp giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm với chi phí thấp
nhất: Mua côta gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư xử lý ô
nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép. Nghĩa là những người gây ô nhiễm mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp hơn
so với việc mua côta gây ô nhiễm thì họ sẽ bán lại côta gây ô nhiễm cho những người gây ô nhiễm có
mức chi phí cho xử lý ô nhiễm cao hơn.
Như vậy, sự khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm sẽ thúc đẩy quá trình chuyển nhượng côta gây ô
nhiễm. Thông qua chuyển nhượng, cả người bán và người mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm được
chi phí đầu tư cho mục đích bảo vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng môi trường.
3. Ký quỹ môi trường.
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các ngành kinh tế dễ gây ra ô nhiễm môi trường. Nội
dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp trước khi đầu tư phải đặt cọc tại ngân
hàng một khoản tiền nào đó đủ lớn để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và công tác bảo vệ
môi trường. Số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần để khắc phục môi trường nếu doanh
nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
•
Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu cơ sở có các biện pháp chủ động khắc phục,
không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái ra môi trường đúng như cam kết, thì số tiền ký quỹ sẽ
được hoàn trả lại cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết hoặc phá
sản, số tiền trên sẽ được rút ra từ tài khoản ngân hàng chi cho công tác khắc phục sự cố ô nhiễm
đồng thời với việc đóng cửa doanh nghiệp.
•
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích, đối với nhà nước không phải đầu tư kinh phí khắc phục môi
trường từ ngân sách, khuyến khích xí nghiệp hoạt động bảo vệ môi trường. Xí nghiệp sẽ có lợi
ích do lấy lại vốn khi không xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
4. Trợ cấp môi trường.
Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở rất nhiều nước châu Âu thuộc Tổ chức
Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Trợ cấp môi trường gồm các dạng sau:
Trợ cấp không hoàn lại.
Các khoản cho vay ưu đãi.
Cho phép khấu hao nhanh.
Ưu đãi thuế.
Chức năng chính của trợ cấp là giúp đỡ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác khắc
phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện, khi tình trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng
tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng được đối với việc phải xử lý ô nhiễm môi trường. Trợ cấp
này chỉ là biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc kéo dài có thể dẫn đến phi hiệu quả
kinh tế, vì trợ cấp đi ngược với nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
5. Nhãn sinh thái.
Nhãn sinh thái là một danh hiệu của nhà nước cấp cho các sản phẩm không gây ra ô nhiễm môi trường
trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc quá trình sử dụng các sản phẩm đó".
Được dán nhãn sinh thái là một sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất. Vì thế các sản
phẩm có nhãn sinh thái thường có sức cạnh tranh cao và giá bán ra thị trường cũng thường cao hơn các
sản phẩm cùng loại. Như vậy, nhãn sinh thái là công cụ kinh tế tác động vào nhà sản xuất thông qua phản
ứng và tâm lý của khách hàng. Do đó, rất nhiều nhà sản xuất đang đầu tư để sản phẩm của mình được
công nhận là "sản phẩm xanh", được dán "nhãn sinh thái" và điều kiện để được dán nhãn sinh thái ngày
càng khắt khe hơn. Nhãn sinh thái thường được xem xét và dán cho các sản phẩm tái chế từ phế thải
(nhựa, cao su,...), các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm tác động xấu đến môi trường, các sản phẩm có
tác động tích cực đến môi trường hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó ảnh hưởng tốt đến
môi trường
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO và Ngân hàng thế giới WB thì: Nhãn sinh thái là một loại nhãn
được cấp cho những sản phẩm thoả mãn một số tiêu chí nhất định do một cơ quan chính phủ hoặc một tổ
chức được chính phủ uỷ nhiệm đề ra. Các tiêu chí này tương đối toàn diện nhằm đánh giá tác động đối
với môi trường trong những giai đoạn khác nhau của chu kỳ sản phẩm: từ giai đoạn sơ chế, chế biến, gia
công, đóng gói, phân phối, sử dụng cho đến khi bị vứt bỏ. Cũng có trường hợp người ta chỉ quan tâm đến
một tiêu chí nhất định đặc trưng cho sản phẩm, ví dụ mức độ khí thải phát sinh, khả năng tái chế, v.v…
Theo Mạng lưới nhãn sinh thái toàn cầu (GEN) định nghĩa Nhãn sinh thái là nhãn chỉ ra tính ưu việt về
mặt môi trường của một sản phẩm, dịch vụ so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại dựa trên các đánh giá
vòng đời sản phẩm.
Theo Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO: Nhãn sinh thái là sự khẳng định, biểu thị thuộc tính môi trường của
sản phẩm hoặc dịch vụ có thể dưới dạng một bản công bố, biểu tượng hoặc biểu đồ trên sản phẩm hoặc
nhãn bao gói, trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí, kỹ thuật, quảng cáo các hình thức khác.
Về mặt hình thức, nhãn sinh thái có thể mang tên gọi khác nhau ở từng nước. Ví dụ các nước Bắc Âu có
nhãnThiên nga trắng, Đức có nhãn Thiên thần xanh, trong khi ở Singapore lại gọi là Nhãn xanh.
Ngoài nhãn sinh thái do một cơ quan đứng ra cấp, còn có một loại nhãn khác do nhà sản xuất tự gắn lên
sản phẩm của mình như một hình thức quảng cáo với người dùng. Ta thấy có tủ lạnh dán nhãn "Không có
CFC" (CFC là một loại hợp chất gây phá huỷ tầng ozone) hoặc có loại pin ghi "Không có thuỷ ngân".
Cả hai loại nhãn trên, nhãn sinh thái và nhãn do nhà sản xuất tự dán, đều gọi chung là nhãn môi trường
CHƯƠNG III: KINH NGHIỆM THẾ GIỚI
I.
Thuế Thuốc trừ sâu Đan Mạch.
Vấn đề môi trường: vấn đề môi trường và sức khỏe phát sinh từ việc sử dụng thuốc trừ sâu
Loại công công cụ kinh tế:
Sản phẩm / phí đầu vào
Tương tự như ví dụ: Thụy Điển, Bỉ.
Chỉ tiêu: cắt giảm 50% lượng tiêu thụ thuốc trừ sâu năm 1997
Quản lý tổ chức: Bộ Thuế
Các bên liên quan: sản xuất phân bón, nông dân, cơ quan quản lý
Mô tả
Một loại thuế đánh vào thuốc trừ sâu đã được đưa ra tại Đan Mạch vào năm 1986 như là một phần trong
kế hoạch quốc gia về thuốc bảo vệ thực vật. Mục đích của Kế hoạch quốc gia gồm hai phần, trước hết là
để giảm tiêu thụ thuốc trừ sâu 50% trong một khoảng thời gian mười năm cả về tần sốxử lý và số lượng
của thành phần hoạt chất, và thứ hai, để thay đổi mô hình tiêu thụ đối với thuốc trừ sâu ít độc hại hơn. Các
mục tiêu cụ thể đặt ra cho năm 2002 là giảm tần suất xử lý từ 2,5 đến 2,0 hoặc thấp hơn, tức là tần số xử
lý hàng năm trên diện tích xử lýở mức 2.0 hoặc thấp hơn, thuế là một biện pháp sử dụng để thực hiện việc
cắt giảm này.
Thuế thuốc bảo vệ thực vật được áp dụng như là một tỷ lệ giá bán lẻ. Việc sử dụng thuốc trừ sâu thường
được đo về liều lượng áp dụng cho đất canh tác (tần số xử lý) và cũng có thể về số lượng các thành phần
hoạt chất (ví dụ kg) trong vòng một sản phẩm cụ thể. Những khó khăn trong đo lường có nghĩa là nó
không thể triển khai thực hiện thuế trên cơ sở độc tính hoặc các chỉ số khác liên quan đến sức khỏe và tác
động môi trường (DEPA, 1999).
Nhà sản xuất trong nước và nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật được yêu cầu phải nộp thuế khi bán một sản
phẩm thuốc trừ sâu được sử dụng trong nông nghiệp. Năm 1986, thuế bước đầu đã được đưa ra như là
một khoản thuế giá trị gia tăng (VAT) với tỷ lệ 3% của giá bán trên tất cả các thuốc trừ sâu. Hiệu quả này
thay thế một khoản phí trước đây đã được áp dụng để tài trợ cho chính quyền đăng ký thuốc trừ sâu. Năm
1996, tỷ lệ tăng trung bình 15% của giá bán lẻ (đặc biệt là thuốc trừ sâu là 27% của giá bán lẻ thuốc diệt
cỏ, thuốc diệt nấm và điều hòa sinh trưởng là 13% của giá bán lẻ và đại lý vi sinh là 3% của giá bán).
Trong năm 1998, thuế được tiếp tục tăng lên trung bình 37% của giá bán lẻ (thuốc trừ sâu 35% của giá
bán lẻ bao gồm thuế nhưng không bao gồm thuế giá trị gia tăng, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt nấm và điều hòa
sinh trưởng là 25% của giá bán lẻ bao gồm thuế nhưng không bao gồm thuế giá trị gia tăng và các tác
nhân vi sinh vật 3% của giá bán).
Việc tăng thuế đã được tiếp tục triển khai để đáp ứng các mục tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia về
thuốc trừ sâu. Các cơ sở thuế là giá bán lẻ thuốc trừ sâu. Mức thuế suất hiện hành là 53.85% của giá bán
lẻ (không bao gồm thuế GTGT) của thuốc trừ sâu, 33% của giá bán lẻ (bao gồm cả thuế GTGT) của thuốc
diệt cỏ, thuốc diệt nấm và điều hòa sinh trưởng và 3% của tổng giá trị (bao gồm cả thuế GTGT) của các
tác nhân vi sinh vật (Nienhaus và Knickel, 2004).
Năm 1994, doanh thu từ thuế thuốc trừ sâu là khoảng € 5,9 triệu. Như là một kết quả của sự gia tăng trong
tỷ lệ thuế, doanh thu từ thuế tăng lên khoảng € 40,1 triệu vào năm 1998. Doanh thu từ thuế đã được
chuyển hướng sang nông nghiệp thông qua giảm thuế tài sản và các biện pháp khác. Khoảng 55% doanh
thu thuế đã được sử dụng để giảm thuế tài sản / đất trong khi 35% giám sát các quỹ doanh thu và các
chương trình nghiên cứu liên quan đến thuốc trừ sâu và môi trường. Còn lại doanh thu thường bao gồm
các chi phí liên quan đến quản lý thuế (Ecotec et al, 2001).
Thuế thuốc trừ sâu Đan Mạch cung cấp một ví dụ về một trường hợp một công công cụ kinh tế được đưa
ra như là một phần của một gói các biện pháp thực hiện để giải quyết một vấn đề môi trường cụ thể.
Ngoài thuế, công cụ chính sách bổ sung đã được thực hiện bao gồm quy định (để bán và tiêu thụ thuốc
bảo vệ thực vật), các thỏa thuận tự nguyện giữa Bộ Môi trường và chính quyền địa phương Đan Mạch về
loại bỏ dần thuốc trừ sâu, và các biện pháp nhằm cung cấp tư vấn cho nông dân làm thế nào để giảm sử
dụng thuốc trừ sâu.
Ecotoc et al (2001) báo cáo rằng vụ cụ thể xử lý tần số trung bình giảm từ 15-20% giữa năm 1995 và
1998 (lượng giảm nhiều này là do giảm nhu cầu đối với thuốc diệt nấm), như mục tiêu thiết lập bởi các
chính.
Kế hoạch quốc gia đã không đạt được. Hơn nữa, những cắt giảm này đã được bù đắp bởi một xu hướng
đối với các loại cây trồng đòi hỏi một cường độ ngày càng tăng của thuốc trừ sâu. Trong điều kiện các
thành phần hoạt chất, doanh số bán hàng giảm40% trong giai đoạn 1985 đến năm 1996 (6.972 tấn xuống
4.238 tấn). Mức giảm này một phần do các Kế hoạch hành động quốc gia, nhưng cũng giảm 11% đất canh
tác trồng và sử dụng thuốc trừ sâu liều thấp hơn (OECD, 1998).
II.
Thuế Thuốc trừ sâu Thụy Điển.
Vấn đề môi trường: vấn đề môi trường và sức khỏe phát sinh từ việc sử dụng thuốc trừ sâu
Loại công công cụ kinh tế:
Sản phẩm / phí đầu vào
Tương tự như ví dụ: Đan Mạch, Bỉ.
Mục tiêu quan trọng: giảm 50% thuốc trừ sâu sử dụng vào năm 1990 và thêm 50% của năm 1996
Quản lý tổ chức: Cục Thuế quốc gia Thụy Điển
Các bên liên quan: sản xuất phân bón, nông dân, cơ quan quản lý
Mô tả
Một cách tương tự như Đan Mạch, Thụy Điển đã đưa một loại thuế về thuốc trừ sâu trong năm 1984 với
mục đích thể hiện của việc giảm rủi ro môi trường và sức khỏe liên quan với việc sử dụng của họ. Một lần
nữa, thuế là một phần lớn của chương trình quốc gia nhằm giảm bớt việc sử dụng thuốc trừ sâu 50% vào
năm 1990 và thêm 50% vào năm 1996 (SEPA, 1997).
Cho đến năm 1994, thuế thuốc trừ sâu, trên thực tế, một phụ trách, có thu được sử dụng để tài trợ cho kế
hoạch hành động thuốc trừ sâu khác nhau. Tuy nhiên, tăng tỷ lệ thuế trong năm 1994 tăng đáng kể mức
độ tăng doanh thu và các khoản thu này, đã được chuyển giao cho ngân sách quốc gia Thụy Điển. Trước
khi thảo luận về các chi tiết của thuế thuốc bảo vệ thực vật Thụy Điển, đoạn sau đây phác thảo phí bổ
sung đã được đánh vào việc sử dụng thuốc trừ sâu ở Thụy Điển.
Ngoài ra sự ra đời của thuốc trừ sâu thuế / phí, chính phủ Thụy Điển cũng thực hiện điều chỉnh giá một
loại thuốc trừ sâu thêm phí vào năm 1986 và phí đăng kí sử dụng thuốc trừ sâu. Giá phí quy định cơ bản
là 3.2 Euro trên một lần sư dụng. Doanh thu từ phí điều chỉnh giá đã được sử dụng để hỗ trợ xuất khẩu
các sản phẩm nông nghiệp. Trong năm 1992, phí hỗ trợ giá đã bị bãi bỏ cùng với kết thúc của giá đảm
bảo cho ngũ cốc. Phí đăng ký thuốc bảo vệ thực vật được dùng để tài trợ cho hoạt động của Thanh tra
Hóa học quốc gia về kiểm soát thuốc trừ sâu. Phí đăng ký được áp dụng hàng năm là 1,8% doanh số bán
hàng của thuốc trừ sâu trong năm, với một số lượng tối đa và tối thiểu khoảng € 22.000 € 220 năm.
Ngược lại thuế thuốc trừ sâu Đan Mạch, thuế Thụy Điển vào thuốc trừ sâu được đánh với một tỷ lệ cố
định. Ban đầu, mức thuế suất là khoảng € 0,4 cho mỗi kg hoạt chất. Điều này sau đó đã được nâng lên gần
€ 0,9 cho mỗi kg vào năm 1988 và tiếp tục € 2,2 cho mỗi kg vào năm 1994 (Ecotec et al, 2001). Các nhà
sản xuất và nhập khẩu thuốc trừ sâu, người chịu trách nhiệm về thuế, được yêu cầu phải đăng ký với Ban
Thuế quốc gia Thụy Điển. Ngoài ra, tất cả các thuốc trừ sâu phải được đăng ký và được chấp thuận, do
Thanh tra hóa chất quốc gia.
Doanh thu từ thuế thuốc bảo vệ thực vật Thụy Điển trong giai đoạn 1995 - 2001 là € 6,6 triệu € 8,7 triệu
(Nienhaus và Knickel, 2004). Trong thời kỳ này, có 44 người nộp thuế đăng ký bao gồm cả các nhà nhập
khẩu và nhà sản xuất trong nước. Cơ quan Bảo vệ môi trường Thụy Điển báo cáo ước tính các chi phí
hành chính thuế, phí phát sinh do Hội đồng Thuế quốc gia ít hơn 1% tổng thu thuế (SEPA, 1997).
Ecotec et al (2001) báo cáo rằng thuế thuốc bảo vệ thực vật đã có một ảnh hưởng đáng kể về việc tiêu thụ
và sử dụng thuốc trừ sâu. Đặc biệt, 1600 tấn thuốc trừ sâu được sử dụng trong năm 1994 là 35% tiêu thụ
trung bình hàng năm của các thuốc trừ sâu từ năm 1991 và 1985. Tuy nhiên, tác động của đơn lẻ của thuế
là khó để xác định do các biện pháp một phần là chính sách khác bao gồm một số dịch vụ tư vấn cho nông
dân cũng như thuốc trừ sâu và nghiên cứu phát triển (một cách tương tự như Kế hoạch hành động quốc
gia Đan Mạch). Ngoài ra, trong thời gian này có một số thay đổi chính sách nông nghiệp (đặc biệt là trong
việc bãi bỏ trợ giá cho cây trồng), bãi bỏ phí hỗ trợ giá và cấm việc sử dụng thương mại của một số sản
phẩm thuốc trừ sâu.
Tóm lại, Cơ quan Bảo vệ môi trường Thụy Điển (1997) báo cáo rằng mức thuế là quá thấp để ảnh hưởng
đến tiêu thụ lâu dài và hành vi sử dụng. Thuế chiếm từ 5-8% của giá bán các sản phẩm thuốc trừ sâu. Để
giảm sử dụng 10% trong tương lai, sự gia tăng các mức thuế suất 25% có thể được yêu cầu. Liên quan đặc
biệt ở đây, là một thực tế rằng hiện nay có tồn tại thay thế vài việc sử dụng thuốc trừ sâu, do đó, tiêu thụ
của nó là đặc biệt nhạy cảm với những thay đổi trong giá cả.
III.
Hệ thống Hà Lan Minas - Nitơ và phốt pho.
Vấn đề môi trường: Chất thải của các cơ quan thủy lợi, ô nhiễm nước uống, quá trình axit hóa của đất và
các tác động khác gây ra bởi việc sử dụng phân bón trong nông nghiệp
Loại kinh tế
nhạc cụ:
Sản phẩm / phí đầu vào
Tương tự như ví dụ: Áo (bãi bỏ thuế phân bón vào năm 1994), Phần Lan (bãi bỏ thuế vào năm 1994),
Thụy Điển (thuế phân đạm).
Chỉ tiêu: giảm trong thặng dư khoáng sản và tăng hiệu quả khoáng sản kết hợp với Chỉ thị Nitrate.
Quản lý tổ chức: Cục tiền
Các bên liên quan: Chính phủ, nông dân, cơ quan quản lý
Mô tả
Chỉ thị Nitrate EU yêu cầu được giảm ô nhiễm nước ngầm và nước bề mặt từ nitrat. Minas Hà Lan (hệ
thống hoạch toán khoáng sản) và hệ thống tiền cho ngành nông nghiệp đã được đưa ra cho mục đích
thặng dư nitơ và phốt pho trong năm 1998. Nông dân được yêu cầu để ghi lại mua hàng đầu vào nitơ và
phốt pho trong thức ăn chăn nuôi, phân bón, phân bón và đầu ra trong sản phẩm thực vật và động vật.
Điều này cho phép thiết lập can bằng nitơ và phốt pho ở cấp độ trang trại. Dư nitơ và phốt pho ở trên mức
độxác định cho trước, sau đó áp đặt người nông dân phải trả tiền. Thặng dư tiền miễn thuế được giảm
theo thời gian.
Thặng dư được tính như đầu vào, nitơ, phốt pho, mỗi ha trừ đi sản lượng mỗi ha. Trong năm 2003, số tiền
miễn thuế của nitơ là 140kg trên một ha đồng cỏ và 100kg cho mỗi ha đất canh tác được. Đối với phốt
pho, lượng tiền miễn thuế thặng dư là 20kg cho mỗi ha. Đối với thặng dư trên số tiền miễn thuế, thuế suất
thuế năm 2003 là € 2,3 cho mỗi kg nitơ và € 9,1 kg phốt pho (Nienhaus và Knickel, 2004). Trước đây
trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2002 mức thuế suất tương ứng là € 0,7 cho mỗi kg nitơ và € 2,2
cho mỗi kg phốt pho (Ecotec et al, 2001).
Nhìn chung, Nienhaus và Knickel (2004) báo cáo rằng chất dinh dưỡng dư thừa đã giảm từ 512 triệu kg
nitơ năm 1998 đến 334 triệu kg nitơ trong năm 2002. Đối với phốt pho, dư thừa chất dinh dưỡng đã giảm
từ 140 triệu kg năm 1998 để 87 triệu kg trong năm 2002.
Doanh thu từ các khoản thu không được dành riêng và đóng góp trực tiếp cho Bộ Tài chính ngân sách
trung ương Hà Lan. Doanh thu được tạo ra bởi Minas được báo cáo là khoảng € 47,5 triệu (Nienhaus và
Knickel, 2004).
Hệ thống Minas được điều hành bởi Văn phòng các khoản thu, trong đó có trách nhiệm thực hiện và chạy
chương trình. Quản lý đề án liên quan đến một Dịch Vụ Tổng kiểm soát. Bộ Nông nghiệp Hà Lan ước
tính rằng chi phí của dịch vụ này sẽ là € 11,5 triệu trong khi chi phí hành chính khác để Cục tiền sẽ là €
12,7 triệu USD mỗi năm. Về quản lý chi phí phát sinh do trang trại, chẳng hạn như ghi âm của đầu vào và
đầu ra của nitơ và phốt pho và sản xuất các tài khoản yêu cầu, Ecotec et al ước tính là khoảng € 220 đến
€580 mỗi năm.
Trong khi một ví dụ thú vị, theo một phán quyết của Tòa án EU Tư pháp, hệ thống Minas cần phải được
sửa đổi hoặc bãi bỏ trong tương lai gần vì nó đề cập đầy đủ theo quy định của Chỉ thị EU Nitrates.
IV.
Thụy Điển: phí thành phần Cadmium trong phân bón.
Vấn đề môi trường: Cadmium rò thoát ra môi trường
Loại công công cụ kinh tế:
Sản phẩm / phí đầu vào
Ví dụ tương tự: Áo (bãi bỏ thuế phân bón vào năm 1994), Phần Lan (bãi bỏ thuế phân bón năm 1994), Hà
Lan (nitơ và phốt phát tiền), Thụy Điển (nitơ phân bón thuế).
Chỉ tiêu: Giảm hàm lượng cadmium trong phân bón
Quản lý tổ chức: Hội đồng thuế Quốc gia
Các bên liên quan: sản xuất phân bón, nông dân, cơ quan quản lý
Mô tả
Năm 1994, Thụy Điển đã đưa ra một khoản phí phân bón cadmium, thay thế một khoản phí trên phốt pho
đã được áp dụng kể từ năm 1984 (ngoài ra, một khoản phí trên nitơ trong phân bón đã tồn tại từ năm 1984
tại Thụy Điển). Thuế đã được đưa ra để làm giảm việc sử dụng phân bón trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp và cũng để tạo ra một động lực liên tục để làm giảm hàm lượng cadmium trong phân bón. Phí là
khoảng € 3,3 cho mỗi gramcadmium khi thành phần cadmium vượt quá 5 mg cho mỗi kg phốt pho
(Oosterhuis et al, 2000).
Theo cùng một cách như thuế Thụy Điển vào thuốc trừ sâu trước đó, thuế đánh vào nhà sản xuất trong
nước và nhập khẩu của các sản phẩm phân bón được yêu cầu phải đăng ký với cơ quan quản lý. Hơn nữa,
cadmium phụ trách là thực sự thuế từ doanh thu cho ngân sách nhà nước. Trước năm 1994, doanh thu
được tạo ra bởi các loại thuế phân bón tài trợ dự án môi trường và nghiên cứu. Doanh thu từ phí cadmium
là khoảng € 1 triệu trong năm 1996, trong đó chi phí hành chính khoảng 1% (Drake và Hellstrand, năm
1998).
Trong thời hạn hai năm đưa ra phí cadmium, giảm đáng kểthành phần cadmium phân bón đã được nhìn
thấy. Trước khi đưa ra phí, có nghĩa là nồng độ cadmium là khoảng 35-40 gram mỗi tấn phốt pho. Sau khi
thực hiện phí, có nghĩa là nồng độ cadmium đã giảm đến 20 gram mỗi tấn phốt pho (SEPA, 1997). Tuy
nhiên, mức độ mà điều này xuất phát từ phí cadmium là không chắc chắn vì nó là chỉ có một khía cạnh
của chính sách của chính phủ cũng bao gồm thỏa thuận tiêu chuẩn và tự nguyện (Drake và Hellstrand
1998).
Phí cadmium được quản lý bởi Hội đồng quản trị thuế quốc gia (cùng với thuế nitơ). Sản xuất và nhập
khẩu được yêu cầu phải báo cáo số lượng và thành phầncadmium trong phân bón mỗi tháng. Thực thi
được giới hạn kiểm toán (25 đó đã được thực hiện vào năm 1999), nhưng thành phần cadmium thực tế
không phải đo bằng chính quyền.
CHƯƠNG IV: KINH NGHIỆM VIỆT NAM.
Kinh nghiệm Việt Nam
1. Đặt vấn đề
Tại Việt Nam, quan điểm về áp dụng CCKT trong quản lý môi trường đã được đề cập trong Chỉ thị số 36CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004
và gần đây nhất là nghị quyết số 27/BCSĐBTNMT ngày 2/12/2009 của Ban cán sự Đảng Bộ TN&MT về
việc tăng cường chủ trương kinh tế hóa ngành TN&MT.
2. Đánh giá các công cụ kinh tế trong giảm thiểu ô nhiễm.
a. Thuế và phí môi trường
Thuật ngữ thuế và phí môi trường thường được sử dụng để chỉ khoản thu với hai mục đích: Tạo động lực
giảm phát thải ô nhiễm và tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Có hai loại thuế/phí môi trường chính:
Thuế đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường (thuế Pigovian), và thuế nguyên liệu/sản phẩm (hay
còn gọi là thuế gián tiếp).
Hiện tại ở Việt Nam, loại thuế/phí đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường đang được áp
dụng dưới hình thức phí BVMT đối với nước thải, đối với chất thải rắn và khai thác khoáng sản.
Phí BVMT đối với nước thải được quy định tại Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003. Tuy nhiên,
sau hơn 6 năm thực hiện, phí BVMT đối với nước thải vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Các cơ quan quản lý
còn lúng túng trong cách thu và tính phí. Các doanh nghiệp còn tìm cách trốn tránh và nợ phí. Kết quả là
tỷ lệ thu phí nước thải công nghiệp còn thấp. Phí BVMT đối với chất thải rắn thông thường và chất thải
rắn nguy hại được quy định trong nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007. Ngoài ra, phí vệ sinh
được áp dụng 2003 theo quy định tại Thông tư số 71/2003/TT-BTC ngày 30/7/2003 của Bộ Tài chính.
Tuy nhiên, khoản thu từ các khoản phí này không đủ bù đắp chi phí thu gom, xử lý chất thải rắn.
Ngoài ra, các văn bản hiện tại không quy định rõ trách nhiệm thu phí của các đơn vị, tổ chức nên
việc thu phí ở các địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được thực hiện theo Nghị định số 63/2008/NĐ-CP ngày
13/5/2008 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thu phí còn gặp nhiều khó khăn do đối tượng phải nộp phí chưa
tự giác thực hiện nghĩa vụ này. Còn tình trạng doanh nghiệp kê khai sản lượng khai thác thấp hơn thực tế
để giảm số phí phải nộp.
Ngoài ba loại phí thuộc nhóm thuế/phí Pigouvan nêu trên còn có Luật Thuế BVMT mới được thông qua
và sẽ có hiệu lực từ tháng 7/2011. Đây là quy định thuế đánh vào nguyên liệu/sản phẩm, nhóm hạn chế sử
dụng như: thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối và thuốc khử trùng kho. Một điểm đáng lưu
ý là thuế BVMT được định nghĩa là “loại thuế giãn thu, thu vào một số sản phẩm, hàng hóa gây tác động
xấu đến môi trường”. Định nghĩa này là định nghĩa hẹp của thuế BVMT vì mới đề cập đến loại thuế
nguyên liệu/sản phẩm chứ chưa bao hàm loại thuế đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường. Ưu
điểm của việc áp dụng thuế BVMT đối với nguyên liệu/sản phẩm là dễ tính toán và dễ áp dụng. Nhược
điểm, loại thuế này chỉ khuyến khích gây ô nhiễm mà không khuyến khích đầu tư xử lý ô nhiễm trong quá
trình sản xuất ra sản phẩm đó. Vì vậy, tác động giảm ô nhiễm của loại thuế này chỉ là tác động gián tiếp
(thông qua việc sản xuất ít đi) chứ không phải tác động trực tiếp vào quá trình phát thải ô nhiễm. Đối với
những hàng hóa thuộc loại xa xỉ thì loại thuế này có tác dụng nhiều trong việc hạn chế ô nhiễm (thông
qua hạn chế tiêu dùng/sản xuất) nhưng với hàng hóa thiết yếu thì loại thuế này ít có tác dụng giảm ô
nhiễm.
Có thể nói một số lượng đáng kể các CCKT trong quản lý ô nhiễm đã được triển khai ở Việt Nam. Tuy
nhiên, hiệu quả của các công cụ này còn chưa được như mong đợi do các quy định còn bất cập, năng lực
thực hiện còn hạn chế đặc biệt là các chế tài chưa đủ mạnh để tạo động lực tuân thủ các quy định này.
Đăk Lăk: Suy giảm nghiêm trọng nguồn nước ngầm
Nguyên nhân là do công tác quy hoạch, quản lý, sử dụng tài nguyên nước ngầm chưa đi vào nề
nếp, thậm chí có lúc còn buông lỏng, làm cho việc khai thác nguồn nước ngầm quá mức, suy
giảm nghiêm trọng.
Mỗi năm, Đăk Lăk sử dụng trên 1.037 triệu mét khối nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp (kể
cả nước mặt và nước ngầm), trong đó có trên 553 công trình thuỷ lợi, với dung tích trữ lượng
trên 421,17 triệu mét khối và chỉ mới đảm bảo tưới cho 17.863 ha lúa nước vụ đông xuân,
40.608 ha cây cà phê.
Theo điều tra sơ bộ, trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk hiện có trên 2.500 giếng khoan, hàng ngàn giếng
đào, vào những tháng mùa khô này khai thác sử dụng nước ngầm cho các mục đích lên đến 1,
528 triệu mét khối/ ngày.
Mặt khác, sự suy giảm tài nguyên nước ngầm còn do độ che phủ của rừng ngày càng giảm.
Ngành nông nghiệp, hiện nay nhu cầu sử dụng nước là nhiều nhất lên tới 70% lượng nước cung
cấp để phục vụ cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, theo các chuyên gia về tài
nguyên nước, việc định giá tài nguyên nước dùng cho ngành này được tính toán riêng rẽ để thấy
được giá trị kinh tế của nước và để quản lý việc phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả nhất.
Hiện đã có một số phương pháp được đề xuất tính toán trong đó, giá trị kinh tế của nước tưới cho
nông nghiệp có thể được tính bằng cách lấy tổng giá trị đầu ra của sản xuất nông nghiệp trừ
đi các giá trị đầu vào ngoài nước.
Khi tính giá trị kinh tế của nước ngầm dùng trong tưới tiêu nông nghiệp tiến
hành trao đổi với người dân giúp họ hiểu rõ hơn về giá trị tính được lẫn cách
tính sau đó thu phí(lấy phí này tạo lập quỹ bảo vệ nguồn nước ngầm) đễ giúp
người dân tưới tiêu tiết kiệm để bảo vệ nguồn nước ngầm(Đây chỉ mới là đề xuất
của nhóm 11)
b. Côta gây ô nhiễm.
Giấy phép phát thải có thể chuyển nhượng (tradable permits): kiểm soát mức độ phát thải qua việc xác
định tổng số giấy phép hoặc hạn ngạch thích ứng với khả năng tiêu huỷ chất thải của môi trường. Các chủ
nguồn thải có thể trao đổi hạn ngạch phát thải sao cho chi phí phát thải ở mức thấp nhất. Công cụ này có
tiềm năng áp dụng cho những khu vực các nguồn ô nhiễm và phạm vi tác động tương đối dễ xác định, ví
dụ như các khu công nghiệp.
c. Ký quỹ môi trường.
Ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của
Thủ tướng Chính phủ. Ký quỹ môi trường đã đem lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ trong công
tác kiểm soát ô nhiễm đối với các hoạt động khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này
trên thực tế chỉ mới dừng lại các dự án quy mô nhỏ hoặc còn ở giai đoạn thử nghiệm do công thức
dự toán chi phí cải tạo, phục hồi môi trường, chưa cụ thể, khó thực hiện.
d. Trợ cấp môi trường.
Cơ chế hỗ trợ tài chính cho các các hoạt động BVMT được thực hiện theo quy định tại Nghị định số
04/2009/NĐ-CP ngày 14/1/2009. Ngoài ra, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có
những điều khoản ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, thiết
bị và công nghệ môi trường. Mặc dù đã có cơ chế hỗ trợ tài chính song chưa có nhiều doanh nghiệp
tham gia các hoạt động này vì nhu cầu đầu tư cho môi trường chưa cao. Nói cách khác, “cầu” cho
hoạt động BVMT chưa đủ cao để kích thích các hoạt động “cung”.
e. Nhãn sinh thái.
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam phải hội nhập và tuân thủ những giá trị
kinh doanh chung của thế giới, trong đó có các giá trị về BVMT. Các ngành tiêu biểu gồm, lâm sản
xuất khẩu và thủy sản.
Hiện cả nước có 450 doanh nghiệp chuyên sản xuất xuất khẩu, trong đó có khoảng 20% các doanh nghiệp
xuất khẩu sản phẩm gỗ đang tham gia Mạng lưới kinh doanh Lâm sản Việt Nam, một thành viên thuộc
Mạng lưới kinh doanh Lâm sản toàn cầu. Mục đích của mạng lưới này là hỗ trợ kinh doanh sản phẩm gỗ
theo phương thức phù hợp với việc bảo vệ rừng, thông qua “Chứng chỉ rừng” của Hội đồng Quản trị rừng
thế giới. “Chứng chỉ rừng” bảo đảm với người tiêu dùng và tất cả những ai quan tâm đến bảo vệ rừng và
môi trường rằng, sản phẩm gỗ có chứng chỉ được sản xuất trên cơ sở rừng được tái tạo lâu dài, không làm
giảm tính ĐDSH của rừng và ảnh hưởng đến môi trường.
Về thủy sản, đã có 48 doanh nghiệp chế biến thủy sản được cấp nhãn Tiêu chuẩn quản lý thực hành
(BMP), 25 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ đạt tiêu chuẩn ISO 14.000 về hệ thống quản lý môi trường
doanh nghiệp, 25 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn HACCP về kiểm soát môi trường điểm tới hạn. Có thể nói,
nhãn sinh thái, một CCKT được doanh nghiệp tự nguyện áp dụng sẽ tiếp tục phát triển trong thời
gian tới do yêu cầu của thị trường.
3. Kinh nghiệm.
a. Cota ô nhiễm.
Thị trường quota khí thải CO2 chính thức mở cửa vào năm 2005 tại châu Âu. Việt Nam hiện đang
hướng đến bán lượng tiết kiệm khí thải cho các quốc gia tiên tiến khác để thu về ngoại tệ, phục vụ
phát triển nông thôn. Trong đó, ĐBSCL đang có những động thái tích cực hưởng ứng thị trường này…
Tiết kiệm khí thải, được tiền
Người dân ĐBSCL từ nhiều năm qua đã xử lý chất thải chăn nuôi bằng cách ủ phân gia súc nuôi
tạo khí đốt vừa xử lý được vấn đề ô nhiễm môi trường, vừa tiết kiệm chi phí khí đốt phục vụ sinh
hoạt hàng ngày. Theo đánh giá của các chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu quốc tế Nhật Bản về
khoa học nông nghiệp (JIRCAS), mô hình VACB (vườn-ao-chuồng-biogas) được nhiều hộ gia đình thực
hiện thời gian qua đã tiết kiệm được một lượng khí thải rất lớn. Việc tiết kiệm này có thể được quy ra
ngoại tệ nếu được thực hiện bài bản và được cấp giấy xác nhận (CER) hoặc “Quỹ khí Carbon” của Liên
Hiệp Quốc
Từ năm 2008, JIRCAS đã phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ bắt đầu nghiên cứu cấp cơ sở bằng cách
thực hiện thí điểm xây dựng 200 túi biogas cho hộ gia đình tại ấp Mỹ Phụng, xã Mỹ Khánh (huyện
Phong Điền, TP Cần Thơ). Kết quả đánh giá hiệu quả từ mô hình này rất cao. Xử lý chất thải từ chăn nuôi
tạo ra khí đốt, giúp giảm chi phí khoảng 200.000 - 300.000 đồng/hộ/tháng từ nhiên liệu đốt. Có
biogas, người dân không đốn cây làm củi, giữ lại sinh khối cây xanh, góp phần cải thiện môi trường, tăng
lượng ô-xy trong không khí, xử lý được lượng khí thải CO2. “Nếu tính bình quân mỗi hộ đốt 1,5-2 tấn
củi/năm cho sinh hoạt hàng ngày, nhân lên cho 100.000 hộ ở khu vực nông thôn TP Cần Thơ như hiện
nay là một con số rất lớn. Việc đốt củi sẽ làm giảm mật độ che phủ, sinh khối cây xanh và gây ô nhiễm
môi trường. Trong khi sử dụng khí đốt từ biogas vừa tiết kiệm chi phí, vừa xử lý được vấn đề môi trường
đồng nghĩa với việc sản xuất theo cơ chế sạch đang được khuyến khích trên toàn thế giới. Nếu phát triển
rộng rãi, lượng tiết kiệm khí thải bán được là rất lớn. Tất cả đều được quy ra bằng ngoại tệ...”, các chuyên
gia phân tích.
Hiện nay, JIRCAS đang tiếp tục phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ thực hiện phát triển mô hình sản
xuất sạch ở nông thôn, tiến tới bán quota giảm khí thải tại TP Cần Thơ. Theo kế hoạch, có khoảng 1.000
hộ tham gia mô hình này tại 2 quận Cái Răng, Bình Thủy và huyện Phong Điền. Theo tính toán, các hộ
này sẽ tiết kiệm được 6.000 tấn khí thải trong vòng 7 năm. Sinh khối này sẽ được cấp chứng nhận và bán
lại cho các quốc gia, doanh nghiệp thải khí CO2 ra môi trường, thu về ngoại tệ để đầu tư cho nông dân
phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững. Ông Đào Anh Dũng, Phó Chủ tịch
UBND TP Cần Thơ, cho biết: “Mô hình VACB thời gian qua đã tác động tích cực đến sản xuất, đời sống
của người dân. Đây là mô hình khép kín giúp tăng thu nhập, cải thiện sinh kế và chất lượng cuộc sống.
Thành phố sẵn sàng trong việc phối hợp thực hiện cơ chế sản xuất sạch triển khai trên địa bàn. Ngoài ra,
thành phố cũng đã có kế hoạch hành động hưởng ứng chiến lược sản xuất sạch của Chính phủ...”.
Thị trường tiềm năng
Tại Việt Nam, dự án cơ chế phát triển sạch đầu tiên thu về ngoại tệ là hai bãi chôn lấp rác Phước Hiệp I
(Củ Chi) và Đông Thạnh (Hóc Môn) ở TP Hồ Chí Minh. Đối tác đã thỏa thuận giá 1 tấn CO2 là 14 USD.
Theo tính toán, giai đoạn 2008-2012, hai bãi rác này thu được 4 triệu tấn CO2 (dạng quy đổi tương
đương), bán ra được tổng cộng 56 triệu USD. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam có nhiều lợi
thế từ việc mua bán khí thải. Dự kiến, trong 4 năm (2008-2012) sẽ thu được khoảng 250 triệu USD từ
quota này. Ngoài ra, Việt Nam còn hàng triệu héc-ta rừng nếu được quy ra quota khí thải sẽ thu được
nguồn ngoại tệ lên đến hàng tỉ USD.
Ở ĐBSCL, TP Cần Thơ là địa phương đầu tiên được triển khai nghiên cứu và tiến tới bán quota
khí thải. Thành phố rất chủ động trong việc phối hợp và có nhiều giải pháp thực hiện cơ chế phát triển
sạch trên địa bàn. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Chiếm, Phó trưởng Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên
(Trường Đại học Cần Thơ), cho biết: Thị trường quota khí thải nhà kính hiện nay rất sôi động. Hoạt động
sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL đang tiết kiệm được lượng khí thải rất lớn, có thể biến thành hàng hóa để
bán cho các nước công nghiệp. Trong khuôn khổ dự án, lượng khí CO2 tiết kiệm được 1.000 tấn/năm
bán quota cho các quốc gia khác. Số tiền này được dùng vào phát triển vùng thực hiện dự án. Đó là
chưa kể nhiều mô hình tiết kiệm khí thải khác có thể biến thành hàng hóa như mô hình biogas để
thu ngoại tệ.
Theo thông tin từ các nhà khoa học chuyên về cơ chế phát triển sạch, CER hiện được dùng như một sản
phẩm có giá trị; hoạt động mua bán tăng lên nhanh nhất là từ khi có Nghị định thư Kyoto. Ngân hàng Thế
giới, Nhật Bản, Hà Lan... hiện có nhu cầu mua rất lớn. Năm 2010, Nhật Bản đã ký kết các thảo thuận với
nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, về việc xuất khẩu công nghệ và thiết bị carbon thấp để đổi lấy
quota khí thải. Mua bán quota khí thải là sáng kiến của Liên Hiệp Quốc nhằm giảm bớt chi phí cho các
doanh nghiệp về hạn chế khí thải CO2 trong sản xuất. Đồng thời, giúp các nước nghèo, các nước đang
phát triển vốn giữ một lượng lớn về sinh khối này thu được nguồn ngoại tệ để đầu tư, phát triển. Đó là sự
công bằng, chia sẻ giữa quốc gia thải nhiều khí thải và quốc gia tiết kiệm, xử lý được khí thải.
b. Phí bảo vệ môi trường.
Đánh thuế trên 5% trên máy phun thuốc trừ sâu
Tổng cục Hải quan vừa có công văn gửi Cục Hải quan các tỉnh, thành phố yêu cầu thực hiện thống nhất
trong việc áp dụng thuế GTGT đối với mặt hàng máy hoặc bình phun thuốc trừ sâu.
bình phun thuốc trừ sâu
Tổng cục Hải quan cho biết, theo quy định hiện hành tại điểm k khoản 2 Điều 8 Luật Thuế GTGT số
13/2008/QH 12 và điểm 2.10 Mục II Phần B và Thông tư 129/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn
chi tiết về thuế GTGT, thì: “Máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm
máy cày, máy bừa, máy cấy, máy gieo hạt, máy tuốt lúa, máy gặt, máy đập liên hợp, máy thu hoạch sản
phẩm nông nghiệp, máy hoặc bình bơm thuốc trừ sâu” thuộc đối tượng áp dụng thuế GTGT là 5%.
Cũng theo quy định của Thông tư 131/2008/TT-BTC quy định: “Trường hợp hàng hoá được quy định cụ
thể thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT hoặc áp dụng thuế suất thuế GTGT 5%, 10% theo quy định
tại Luật Thuế GTGT, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP và Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành
Luật thuế GTGT và Nghị định 123/2008/NĐ-CP thì thực hiện theo quy định tại các văn bản này”.
Với các quy định hiện hành thì mặt hàng “máy phun thuốc trừ sâu dùng cho nông nghiệp” có thuế suất
thuế GTGT là 5%.
Giảm thiểu nhập khẩu và sử dụng máy phun thuốc trừ sâu cũng như hạn chế sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật.
c. Nhãn sinh thái.
Với mục tiêu vì một nền sản xuất nông nghiệp sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, Hiệp hội Nông
nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOA) ra đời thực sự là động lực tạo nền tảng để thúc đẩy mục tiêu trên.
Xu thế tất yếu
Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống canh tác và chăn nuôi tự nhiên, không sử dụng hóa chất làm phân bón và
thuốc trừ sâu, giúp giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo sức khỏe cho người và vật nuôi. Trên thế giới, đã thành
lập Tổ chức Liên đoàn những nhà sản xuất hữu cơ quốc tế (IFOAM) với 130 nước thành viên.
Sự ra đời của Hiệp hội Nông
nghiệp hữu cơ sẽ giúp tạo ra
nhiều sản phẩm nông sản an
toàn.
Trong khi đó, ở Việt Nam nhận thấy tính ưu việt của sản xuất nông nghiệp hữu cơ đối với sức khỏe
con người, môi trường sinh thái và góp phần phát triển nền nông nghiệp tiên tiến, bền vững, do đó,
từ năm 1995, đã có một số tổ chức trong nước và quốc tế, cùng với các hộ nông dân bắt đầu đi tiên
phong trong việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ với quy mô thực hiện
các dự án như: T.Ư Hội Nông Nam được Chính phủ phê duyệt và giao thực hiện “Dự án Nông
nghiệp hữu cơ” với sự tài trợ của Tổ chức ADDA (Đan Mạch). Dự án đã được thực hiện tại các tỉnh,
thành: Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Lào Cai, Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Bắc Giang.
Các sản phẩm đã được triển khai và trồng bằng nông nghiệp hữu cơ là rau các loại cá nước ngọt, cam
sành và vải thiều. Đến nay, dự án cũng đã xây dựng được 88 nhóm nông dân trên 3 mô hình canh tác
nông nghiệp hữu cơ với diện tích 25ha cho cây rau, cây ăn quả và nuôi cá nước ngọt. Đồng thời, đào tạo
và xây dựng được đội ngũ cán bộ Hội Nông dân ở các tỉnh thực hiện dự án về sản xuất nông nghiệp hữu
cơ, đến nay vẫn duy trì ở các cấp hội, huấn luyện được 3.345 nông dân về kỹ thuật canh tác nông nghiệp
hữu cơ.
Tuy nhiên, theo đánh giá, nông nghiệp hữu cơ nước ta mới đang ở giai đoạn đầu phát triển, các
chính sách cụ thể để hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp hữu cơ chưa nhiều. Hơn nữa, sản phẩm
nông nghiệp hữu cơ của nông dân chưa được chứng nhận để đưa ra thị trường đúng với chất
lượng, chưa có hệ thống kiểm định, chưa có tổ chức đứng ra cấp giấy chứng nhận sản phẩm hữu
cơ. Hiểu biết của người sản xuất, người tiêu dùng và của cộng đồng về nông nghiệp hữu cơ còn hạn
chế…
Hướng tới nền nông nghiệp sạch
Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được thành lập tại Quyết định số 1820/QĐ-BNV ngày
31.10.2011 với mục tiêu nhằm tập hợp các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có tâm huyết, đã và
đang tham gia vào việc phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam, hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau như: Nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, chế biến, kinh doanh, cấp giấy chứng nhận, quảng bá và sử dụng
sản phẩm hữu cơ. Hiệp hội được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, nhằm phối hợp hoạt động để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của hội viên, thành viên, đóng góp những ý kiến thực tiễn vào quá trình xây
dựng chính sách liên quan đến nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam.
Sự ra đời của Hiệp hội cũng nhằm mục đích phấn đấu cho mục tiêu phát triển nông nghiệp bền
vững, toàn diện theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng là tổ chức đại diện để kết nối với
mạng lưới nông nghiệp hữu cơ châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước khác. VOA
cũng sẽ tham gia vào Liên đoàn phong trào hữu cơ quốc tế (Tổ chức IFOAM) nhằm chia sẻ những kinh
nghiệm hoạt động của các tổ chức thành viên, khai thác thị trường và bảo vệ lợi ích của sản phẩm hữu cơ
Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài không bị phương hại.
4. Kết luận
Áp dụng CCKT trong quản lý môi trường là cách tiếp cận đúng đắn nhằm hạn chế ô nhiễm và suy thoái
môi trường tại Việt Nam. Việc áp dụng CCKT trong quản lý môi trường đã được Chính phủ quan tâm.
Một số CCKT đã được triển khai áp dụng ở các quy mô khác nhau. Bước đầu, các công cụ kinh tế đã có
tác dụng tích cực giúp hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường. Tuy nhiên, do chưa có nghiên cứu đầy đủ
về các CCKT trước khi ban hành nên quá trình triển khai các công cụ này còn gặp nhiều khó khăn và hiệu
quả thực thi chưa cao. Ngoài ra, năng lực nghiên cứu và thực thi các CCKT còn hạn chế. Còn nhiều
CCKT chưa được áp dụng, đặc biệt là trong lĩnh vực như bảo tồn ĐDSH. Một điểm cần lưu ý là để CCKT
phát huy tác dụng thì cần thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cũng như tuyên tuyền
giáo dục nhằm tạo động lực tuân thủ các qui định về môi trường, trong đó có các quy định về CCKT.
Trong thời gian tới, để tăng cường áp dụng CCKT trong quản lý môi trường theo tinh thần Nghị quyết 27NQ/BCSĐTNMT, xin kiến nghị Tổng cục Môi trường chỉ đạo thực hiện các hoạt động sau: Nâng cao
năng lực nghiên cứu về áp dụng CCKT thông qua đào tạo và hợp tác quốc tế; Rà soát các CCKT đang áp
dụng để điều chỉnh, bổ sung những vướng mắc, bất cập; Nghiên cứu và triển khai áp dụng một số các
CCKT mới. Nên áp dụng các công cụ này trong phạm vi thí điểm nhằm học hỏi kinh nghiệm trước khi
mở rộng áp dụng ở qui mô lớn. Đặc biệt là các CCKT nên được thiết kế theo hướng đơn giản, dễ áp dụng
để phù hợp với bối cảnh thực tiễn hiện nay; Tiếp tục đẩy mạnh thanh kiểm tra, tuyên tuyền, giáo dục
nhằm tạo tiền đề cho CCKT phát huy hiệu quả.