Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Tiểu luận công cụ kinh tế quản lý tài nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.14 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay môi trường đang bị suy thoái nghiêm trọng. Bảo vệ môi
trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn nhân loại. Trong đó, bảo vệ
nguồn thủy hải sản đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự sống còn của
nhân loại. Có rất nhiều biện pháp để bảo vệ cũng như tái tạo hệ sinh thái
biển, đóng vai trò quan trọng là các công cụ kinh tế, pháp luật và chính sách
của nhà nước, các công cụ kỹ thuật... Các công cụ kinh tế gồm nhiều loại,
kinh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng không thể chỉ áp dụng một loại biện
pháp, một loại công cụ giản đơn với một vài biện pháp, một vài công cụ đơn
lẻ nào đó có thể điều chỉnh được sự đa dạng về chủ thể cũng như phương
thức sản xuất quản lý và bảo vệ môi trường. Các công cụ kinh tế để quản lý
môi trường như : phí, thuế môi trường, giấy phép ô nhiễm,giấy phép chất
thải có thể mua bán được hay “cota ô nhiễm”, quyền sở hữu, thuế đầu vào,
thuế sản phẩm, thuế xuất nhập khẩu, thuế phân biệt, hệ thống đặt cọc – hoàn
trả, phí sử dụng tài nguyên, phí tiếp cận, lệ phí quản lý và hành chính, ký quỹ
môi trường, trợ cấp môi trường, nhãn sinh thái....
Qua bài tiểu luận này, nhóm chúng tôi muốn gửi tới các bạn những
thông tin về thực trạng hiện nay của nguồn tài nguyên thủy hải sản thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó giúp mọi người thấy được sự cần
thiết của việc bảo vệ hệ sinh thái biển. Trong bài này, nhóm chúng tôi cũng
đưa ra một số các công cụ kinh tế và các phương pháp để bảo tồn nguồn tài
nguyên quan trọng này. Mặt khác, dựa trên những phân tích kinh tế để thành
lập và quản lý các khu bảo tồn biển. Đồng thời dựa trên những thành tựu mà
thế giới đã đạt được trong lĩnh vực này để áp dụng vào Việt Nam.
Trong quá trình làm bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót, nhóm chúng em
chân thành xin lỗi và mong nhận được sự góp ý chân thành của thay. Rất
cám ơn sự giúp đỡ của thầy trong suốt quá trình học tập trong thời gian qua.

1



MỤC LỤC.......................................................................................Trang
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN:...............................................................................04
I.

TÀI NGUYÊN THỦY SẢN................................................................04

1. Tài nguyên thủy sản là gì?...................................................................04
2. Hiện trạng hiện nay của tài nguyên thủy sản ở Việt Nam.......................
3. Tình hình ngành thủy sản........................................................................
II. CÔNG CỤ KINH TẾ..........................................................................08
1. Khái niệm và phân loại:.......................................................................08
1. Vai trò của công cụ kinh tế trong quản lí môi trường..........................09
B. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÍ MÔI
TRƯỜNG...................................................................................................11
I. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÍ MÔI
TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI.....................................................................11
1. Thuế quan và các loại thuế..................................................................11
2. Phạt tiền...............................................................................................12
3. Nhãn sinh thái......................................................................................13
II. PHÂN TÍCH KINH TẾ ĐỂ THÀNH LẬP CÁC KHU BẢO TỒN
BIỂN..........................................................................................................14
1. Các lợi ích kinh tế từ các khu bảo tồn biển.........................................14
2. Phương hướng trong phân tích kinh tế nhằm bảo vệ sinh thái biển....17
3. Xác định lợi ích kinh tế từ khu bảo tồn biển.......................................18
4. Chi phí để bảo tồn hệ sinh thái biển....................................................19
5. Đánh giá lợi ích kinh tế và chi phí......................................................19
6. Phân tích việc phân phối lợi nhuận và chi phí, nhu cầu tài chính và các
khoản ưu đãi...............................................................................................25
7. Tích hợp các biện pháp kinh tế vào việc quản lí khu bảo tồn.............28
III. CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM..................32

2


1. Thuế tài nguyên thủy sản.....................................................................32
2. Trợ cấp khai thác thủy sản xa bờ.........................................................34
3. Quỹ môi trường...................................................................................38
4. Nhãn sinh thái thủy sản-MSC.............................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................48

A.

CƠ SỞ LÍ LUẬN:
3


I.
1.

TÀI NGUYÊN THỦY SẢN
Tài nguyên thủy sản là gì?
Thủy sản là một thuật ngữ chỉ những nguồn lợi, sản vật đem lại cho
con người từ môi trường nước và được con người khai thác, nuôi trồng thu
hoạch sử dụng làm thực phẩm, nguyên liệu hoặc bày bán trên thị trường.

2.

Hiện trạng hiện nay của tài nguyên thủy sản ở Việt Nam:
Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường biển và
ngày càng trở nên nghiêm trọng do hậu quả của sức ép dân số, sức ép tăng
trưởng kinh tế, khả năng quản lý và sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài

nguyên biển:
Ô nhiễm biển bắt nguồn từ đất liền :



Ô nhiễm dẫn đến sự cạn kiệt các tài nguyên cá, nhất là những loài cá ven
bờ; tính đa dạng sinh học ngày càng bị đe dọa do phá hủy môi trường sống
như rừng ngập mặn, rạn san hô; axít hóa đất do phát quang rừng ven biển
trên các vùng đất phèn để làm nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; ô nhiễm
do nước thải đô thị không qua xử lý; sử dụng tràn lan và không kiểm soát
hóa chất trong nông nghiệp và công nghiệp…



Thêm vào đó, thiên tai như bão, lũ và xâm nhập mặn cũng tác động lớn
tới môi trường biển và có xu hướng trầm trọng thêm bởi các hoạt động của
con người.



Các số liệu thống kê cho thấy, khoảng 70% ô nhiễm biển và đại dương có
nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ những chất xả thải của các thành phố, thị
xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, ytế, hóa chất..., trong đó
đáng kể nhất và nguy hại nhất là chất thải từ các nhà máy thông qua hệ thống
thoát nước xả thẳng ra biển và đại dương một lượng lớn các chất bồi lắng,
hóa chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất phóng xạ. Hàng
năm, trên 100 con sông ở nước ta thải ra biển 880km 3 nước, 270 - 300 triệu
tấn phù sa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển, như các chất hữu
cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại khác.




Năm 2012, lượng chất thải tăng rất lớn ở vùng nước ven bờ, trong đó dầu
khoảng 35.160 tấn/ngày, nitơ 26 - 52 tấn/ngày và amonia 15 - 30 tấn/ngày.
Ô nhiễm biển do dầu gia tăng :

4




Đáng quan ngại là tình trạng ô nhiễm biển do dầu có xu hướng gia tăng,
phức tạp hơn, số lượng tàu thuyền gắn máy loại nhỏ, công suất thấp, cũ kỹ
và lạc hậu tăng nhanh, nên khả năng thải dầu vào môi trường biển nhiều hơn.



Các tàu nhỏ chạy bằng xăng dầu đã thải ra biển khoảng 70% lượng dầu
thải. Ngoài ra, hoạt động của tàu thương mại trên tuyến hàng hải quốc tế
cũng thải vào biển Việt Nam một lượng lớn dầu rò rỉ, dầu thải và chất thải
sinh hoạt mà đến nay chưa thể thống kê đầy đủ.



Hiện nay, hàm lượng dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung đều
vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn ASEAN. Đặc
biệt, có những thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu
ở mức 1,75 mg/lít, gấp 6 lần giới hạn cho phép; 1/3 diện tích mặt nước vịnh
Hạ Long có hàm lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73 mg/lít.




Bên cạnh đó, vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và
khai thác dầu khí, ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung
bình mỗi năm hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí,
trong đó 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại chưa có bãi chứa và nơi xử lý.
Chất lượng môi trường biển giảm sút :



Báo cáo hiện trạng môi trường đã chỉ ra rằng chất lượng môi trường biển
và vùng ven biển tiếp tục bị suy giảm. Trầm tích biển ven bờ là nơi trú ngụ
của nhiều loài sinh vật đáy đặc sản nhưng chất lượng cũng thay đổi. Một số
vùng ven bờ bị đục hóa, lượng phù sa lơ lửng tăng đã ảnh hưởng đến ngành
“Công nghiệp không khói”, giảm khả năng quang hợp của một số sinh vật
biển và làm suy giảm nguồn giống hải sản tự nhiên.



Nước biển ở một số khu vực có biểu hiện bị axít hóa do độ pH trong nước
biển tầng mặt biến đổi trong khoảng 6,3 - 8,2. Nước biển ven bờ có biểu hiện
bị ô nhiễm bởi chất hữu cơ, kẽm, một số chủng thuốc bảo vệ thực vật. Hiện
tượng thủy triều đỏ xuất hiện tại vùng biển Nam Trung Bộ, đặc biệt là tại
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận làm chết các loại tôm cá đang nuôi
trồng ở những khu vực này.



Chất lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến nơi cư trú tự nhiên của
nhiều loài bị phá hủy, gây tổn thất lớn về đa dạng sinh học vùng bờ. Có

khoảng 85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 70 loài đã
được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam.



Hiệu suất khai thác hải sản giảm. Thêm vào đó, tình trạng dùng các ngư
cụ đánh bắt có tính chất hủy diệt diễn ra khá phổ biến, làm cạn kiệt các
5


nguồn lợi hải sản ven bờ. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ
lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt.
3.
a.

Tình hình ngành thủy sản
Tình hình ngành thủy sản Thế giới
Nuôi trồng thuỷ sản là một ngành sản xuất động thực vật thuỷ sinh
trong điều kiện kiểm soát hoặc bán kiểm soát, hoặc như người ta vẫn thường
nói, nuôi trồng thuỷ sản là sản xuất nông nghiệp trong môi trường nước. Vì
vậy, nuôi trồng thuỷ sản đề cập đến cả các hoạt động trong môi trường nước
mặn, nước ngọt và nước lợ.
Trước đây, khi con người sử dụng thuỷ sản, người ta thường nghĩ đến
các sản phẩm khai thác từ biển hoặc các sông hồ. Nghề nuôi cá ở các ao hồ
cũng có từ lâu nhưng chiếm vị trí quá nhỏ bé so với nghề đánh cá.
Sản lượng cá bị đánh bắt gia tăng quá mức, nhanh hơn cả lượng cá sinh
sản mới. Hiện nay, 90% các loài biển ở vị trí hàng đầu trong chuỗi thức ăn hệ
sinh thái biển của động vật săn mồi, chẳng hạn như cá ngừ, cá tuyết, cá
kiếm, và cá mập thực tế bị loại bỏ hoặc đang ở trong tình trạng suy giảm
quan trọng.

Hậu quả dẫn đến là một hệ sinh thái không ổn định do sự tổ chức lại
các hệ sinh thái biển. Các nhà khoa học ước tính rằng nếu đánh bắt quá mức
vẫn tiếp tục với tốc độ này, một số loại cá sẽ trở thành tuyệt chủng vào năm
2048.
Ngày nay, 50% -70% những kẻ săn mồi lớn nhất như cá thanh kiếm
đang được chụp lại kích thước tối thiểu đã được phê duyệt và ít nhất một
phần ba bị bắt giữ bất hợp pháp trên toàn thế giới. Cá ngừ vây xanh ở bờ vực
tuyệt chủng, số lượng còn lại cho việc bảo tồn của chúng thực tế không thể
đảo ngược, gợi nhớ những gì đã xảy ra với cá tuyết ở bờ biển phía đông của
Canada trong năm 1990. Một số quốc gia tin rằng cá ngừ vây xanh, một
trong những loài phổ biến nhất trên thế giới, nên được liệt kê theo Công ước
về buôn bán quốc tế các loài nguy cấp, Công ước CITES. Đề xuất này đã bị
từ chối bởi các nước Địa Trung Hải, trong số đó bao gồm Tây Ban Nha.
Với sự biến mất của đa số động vật ăn thịt chính của đại dương và mất
môi trường sống, không chỉ chúng thay đổi sự cân bằng tương đối của đại
dương mà còn làm thay đổi các quá trình tiến hóa của loài đó, buộc chu kỳ
sinh sản sớm hơn và góp phần vào việc giảm kích thước của loài cá.
Nhưng đó không phải là tất cả.
Khi những kẻ săn mồi lớn giảm bớt, số lượng của loài cá nhỏ như cá
mòi, pollack, cá thu, mực và cá cơm leo thang. Hiện nay, hàng tấn những con
cá nhỏ đang bị đánh bắt và cung cấp cho các trang trại nuôi cá, chiếm
khoảng 7/10 lượng thủy sản của thế giới, chỉ để lại 20% của các loài này làm
thức ăn cho loài ăn thịt chúng
6


Sự biến mất của các loài quan trọng cho thấy sự sụt giảm của những
loài khác, chẳng hạn như chim biển và động vật có vú biển do bị thiếu thực
phẩm. Các nhà khoa học cảnh báo về suy dinh dưỡng nặng gây ra do thiếu
thức ăn cho động vật săn mồi biển như cá heo, cá voi, hải cẩu, sư tử biển và

các loài chim, làm cho chúng dễ bị nhiễm bệnh và không có đủ sức khỏe để
duy trì giống loài. Ví dụ trường hợp của cá heo bottlenose trong biển Địa
Trung Hải, có số lượng giảm đáng kể do đánh bắt quá mức của cá mòi và cá
cơm. Nhiều loài chim biển như loại chim biển ở Scotland, Shearwater
Balearic, loại chim biển Na Uy và Guillemot của Brünnich ở Iceland đã
giảm lên đến 60% số lượng do không thể cung cấp đủ thức ăn cho chim con
của chúng.
Việc triển khai đường dây đánh cá được trang bị với hàng ngàn lưỡi
câu lớn có thể đạt tới 120 km và tàu đánh cá hoặc các loại máy lý tưởng cho
đánh bắt cá lớn, có thể dài 170 km và có thể lưu trữ trên tàu, khối lượng
lượng đến 12 jumbo máy bay phản lực. Đánh bắt toàn cầu hàng năm tổng số
cá (124 triệu tấn) bằng trọng lượng đến 378 tòa nhà Empire State.
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc, FAO, chỉ ra
rằng 25% lượng cá bị bắt trên thế giới (khoảng 29 triệu tấn) sẽ bị ném xuống
biển và thường là những loài bị bắt vô ý, các loài bất hợp pháp, hay loại có
chất lượng kém, nhỏ hơn kích cỡ cho phép. 95% cá đánh bắt vô ý vứt bỏ
trong số đó bao gồm các loài có nguy cơ tuyệt chủng và những loài bị khai
thác quá nhiều.
Đánh bắt hủy diệt san hô ven biển nằm ở phía đông nam của châu Á,
đánh bắt cá bất hợp pháp trong khu bảo tồn biển như đảo bảo tồn thủy hải
sản Galapagos, sự phá hủy của các khu vực quan trọng cho việc duy trì
giống loài như rừng ngập mặn và các loài nhuyễn thể mà cá là một phần thiết
yếu trong chuỗi thức ăn để duy trì sinh khối. Điều này tác động trong cùng
một cách như việc săn bắn cá voi bất hợp pháp trong các khu bảo tồn quốc tế
như Antarctic Ocean Sanctuary, thêm áp lực nhiều hơn đến các đại dương đã
được khai thác và chuỗi thức ăn.
Tất cả những nguyên nhân này là lý do khiến chúng ta cần quan tâm
và có những hành động thiết thực ngay lập tức, nhưng thực tế là hầu hết của
người dân và chính phủ vẫn không hoạt động nào quan tâm đến vấn đề thảm
họa sinh thái. Một số người trong số họ làm lơ với thực tế, và những người

khác thì bỏ ngoài tai những lời khuyên từ các tổ chức sinh thái và nhà khoa
học (như Ủy ban Quốc tế về Bảo tồn Cá ngừ Đại Tây Dương, ICCAT), phá
vỡ quy định của mình, tránh những công ước quốc tế, đàm phán với các
nước khác hoặc trợ cấp, với số lượng hàng triệu đội tàu khai thác. Không
quên rằng Tây Ban Nha là một trong những quốc gia mà hầu hết tiền trợ cấp
nhận được từ EU. Những tiền trợ cấp thường được giải quyết để xây dựng
các tàu đánh cá lớn hơn để đóng góp với đánh bắt quá mức.
7


b.

II.
1.




Tình hình ngành thủy sản Việt Nam
Giá trị tổng sản phẩm thủy sản trong nước năm 2011 (theo giá thực tế)
ước đạt 99.432 tỷ đồng, chiếm 3,92% GDP cả nước. Tính theo giá so sánh
1994, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2011 ước đạt
245.900 tỷ đồng, tăng 5,2% so với năm 2010; trong đó nông nghiệp đạt
177.600 tỷ đồng (tăng 4,8%); lâm nghiệp 7.800 tỷ đồng (5,7%); và thuỷ sản
0.500 tỷ đồng (tăng 6,1%). Tổng sản lượng thuỷ sản cả năm 2011 ước tính
5,43 triệu tấn, tăng 5,6% so với năm 2010; gồm 4,05 triệu tấn cá, tăng 5,6%;
633.000 tấn tôm, tăng 6,8%.
CÔNG CỤ KINH TẾ
Khái niệm và phân loại:
Định nghĩa:

Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích
trong hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử
của nhà sản xuất có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế trong quản lý
môi trường gồm:
Thuế và phí môi trường:
Thuật ngữ thuế và phí môi trường thường được sử dụng để chỉ khoản
thu với hai mục đích: Tạo động lực giảm phát thải ô nhiễm và tạo nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước.
Có hai loại thuế/phí môi trường chính: Thuế đánh vào đơn vị ô nhiễm
xả thải ra môi trường (thuế Pigovian), và thuế nguyên liệu/sản phẩm (hay
còn gọi là thuế gián tiếp).
Ưu điểm của việc áp dụng thuế BVMT đối với nguyên liệu/sản phẩm là
dễ tính toán và dễ áp dụng. Nhược điểm, loại thuế này chỉ khuyến khích gây
ô nhiễm mà không khuyến khích đầu tư xử lý ô nhiễm trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm đó. Vì vậy, tác động giảm ô nhiễm của loại thuế này chỉ là
tác động gián tiếp (thông qua việc sản xuất ít đi) chứ không phải tác động
trực tiếp vào quá trình phát thải ô nhiễm. Đối với những hàng hóa thuộc loại
xa xỉ thì loại thuế này có tác dụng nhiều trong việc hạn chế ô nhiễm (thông
qua hạn chế tiêu dùng/sản xuất) nhưng với hàng hóa thiết yếu thì loại thuế
này ít có tác dụng giảm ô nhiễm.



Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay "cota ô nhiễm":
"Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải chất thải có thể chuyển
nhượng mà thông qua đó, nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí
nghiệp, v.v... được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường".

8



Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép
thải vào môi trường, sau đó phân bổ cho các nguồn thải bằng cách phát hành
những giấy phép thải gọi là côta gây ô nhemx và chính thức công nhận
quyền được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong
một giai đoạn xác định cho các nguồn thải.
Khi có mức phân bổ côta gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có
quyền mua và bán côta gây ô nhiễm. Họ có thể linh hoạt chọn lựa giải pháp
giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm với chi phí thấp nhất: Mua côta
gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư
xử lý ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép. Nghĩa là những người gây ô
nhiễm mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp hơn so với việc mua côta gây ô nhiễm
thì họ sẽ bán lại côta gây ô nhiễm cho những người gây ô nhiễm có mức chi
phí cho xử lý ô nhiễm cao hơn.
Như vậy, sự khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm sẽ thúc đẩy quá
trình chuyển nhượng côta gây ô nhiễm. Thông qua chuyển nhượng, cả người
bán và người mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm được chi phí đầu tư cho
mục đích bảo vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng môi trường.


Ký quỹ môi trường:
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các ngành kinh tế
dễ gây ra ô nhiễm môi trường. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu
cầu các doanh nghiệp trước khi đầu tư phải đặt cọc tại ngân hàng một khoản
tiền nào đó đủ lớn để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và
công tác bảo vệ môi trường. Số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với
kinh phí cần để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc
suy thoái môi trường.
Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu cơ sở có các biện
pháp chủ động khắc phục, không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái ra môi

trường đúng như cam kết, thì số tiền ký quỹ sẽ được hoàn trả lại cho doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết hoặc phá sản, số
tiền trên sẽ được rút ra từ tài khoản ngân hàng chi cho công tác khắc phục sự
cố ô nhiễm đồng thời với việc đóng cửa doanh nghiệp.
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích, đối với nhà nước không phải đầu tư
kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách, khuyến khích xí nghiệp hoạt
động bảo vệ môi trường. Xí nghiệp sẽ có lợi ích do lấy lại vốn khi không xảy
ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.



Trợ cấp môi trường:
Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở rất
nhiều nước châu Âu thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD).
Trợ cấp môi trường gồm các dạng sau:
9









Trợ cấp không hoàn lại.
Các khoản cho vay ưu đãi.
Cho phép khấu hao nhanh.
Ưu đãi thuế.
Chức năng chính của trợ cấp là giúp đỡ các ngành công nghiệp, nông

nghiệp và các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện,
khi tình trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của
doanh nghiệp không chịu đựng được đối với việc phải xử lý ô nhiễm môi
trường. Trợ cấp này chỉ là biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp
hoặc kéo dài có thể dẫn đến phi hiệu quả kinh tế, vì trợ cấp đi ngược với
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Nhãn sinh thái:

Nhãn sinh thái là một danh hiệu của nhà nước cấp cho các sản phẩm
không gây ra ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc
quá trình sử dụng các sản phẩm đó".
Được dán nhãn sinh thái là một sự khẳng định uy tín của sản phẩm và
của nhà sản xuất. Vì thế các sản phẩm có nhãn sinh thái thường có sức cạnh
tranh cao và giá bán ra thị trường cũng thường cao hơn các sản phẩm cùng
loại. Như vậy, nhãn sinh thái là công cụ kinh tế tác động vào nhà sản xuất
thông qua phản ứng và tâm lý của khách hàng. Do đó, rất nhiều nhà sản xuất
đang đầu tư để sản phẩm của mình được công nhận là "sản phẩm xanh",
được dán "nhãn sinh thái" và điều kiện để được dán nhãn sinh thái ngày càng
khắt khe hơn. Nhãn sinh thái thường được xem xét và dán cho các sản phẩm
tái chế từ phế thải (nhựa, cao su,...), các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm
tác động xấu đến môi trường, các sản phẩm có tác động tích cực đến môi
trường hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó ảnh hưởng tốt đến
môi trường.
2. Vai trò của công cụ kinh tế trong quản lí môi trường:
Việc sử dụng các công cụ kinh tế trên ở các nước cho thấy một số tác
động tích cực như các hành vi môi trường được thuế điều chỉnh một cách tự
giác, các chi phí của xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn,
khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo
vệ môi trường, gia tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác bảo vệ môi
trường và cho ngân sách nhà nước, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc

gia.
B.

SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÍ
MÔI TRƯỜNG:
10


SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÍ MÔI TRƯỜNG
TRÊN THẾ GIỚI:

I.

1.

Thuế quan và các loại thuế:
Trong các bộ luật có quy định về thuế cho các hoạt động. Vấn đề môi
trường có ảnh hưởng đến mức thuế và thuế quan.
Cát: thuế cát được tính trên mỗi m3 cát sử dụng. Hiện nay , thuế suất
về cát khác nhau giữa các vùng. Ở Hà Lan, cát ở throng các vùng nước nội
địa được trả 2.11 euro throng khi cát ở trên biển phải trả 0.88 euro trên mỗi
m3 cát. Sự khác biệt ở đây là do ưu đãi về môi trường áp dụng vào ưu đãi về
tài chính.
Gas và dầu mỏ: việc thăm dò các yếu tố tương tự như dầu mỏ và khí
đốt là một phần throng quy định của pháp luật. Các đạo luật khai thác mỏ
quy định rằng chính phủ phải có vai trò throng việc quản lí khí đốt và dầu
mỏ, và đánh thuế trên một đơn vị khai thác. Các công ty sẽ được cấp giấy
phép khai thác bởi quyết định của Bộ trưởng bộ kinh tế trên cơ sở về tiêu
chuẩn tài chính, kĩ thuật và chất lượng). Và nhà nước sẽ đánh thuế trên một
đơn vị khai thác. Chính phủ Hà Lan mỗi năm thu được khoảng từ 8 đến 13 tỳ

euro mỗi năm. Khoản còn lại sau khi loại bỏ các chi phí cho việc thu thuế sẽ
dùng để cải thiện bảo vệ môi trường biển.
Tàu thuyền: trên cơ sở chính sách “ không khoan dung cho việc xả thải
bất hợp pháp từ tàu thuyền”, tàu phải trả thuế cho việc sử dụng các công cụ
xử lí chất thải. Hiện nay, tàu phải trả các loại thuế ( bao gồm các loại cố định
và biến đổi) khác nhau cho các cảng. Mục đích của thuế này nhằm góp phần
hạn chế chất thải, bảo vệ môi trường
Thuế tính vào trọng tải vận chuyển là loại thuế đánh vào lợi nhuận có
được từ vận chuyển bằng hàng hải. Lợi nhuận được xác định trên cơ sở trọng
tải vận chuyển.

2.

Phạt tiền:
Một công cụ kinh tế được sử dụng thường xuyên được quy định throng
luật pháp là phạt tiền. Pháp luật quy định những hành vi phạm tội sẽ bị xử lí
bằng phạt tiền. Tất cả các hành vi vi phạm đều xử lí theo pháp luật. Ví dụ
như hình phạt đối với:
1. bán phá giá chất thải
11


2.đánh bắt trong khu vực cấm, đánh bắt quá nhiều , trên mức quy định
3. sự cố tràn dầu
Hình phạt sẽ gây thiệt hại cho các công ty cả về tài chính , lẫn hình
ảnh, dư luận. Hình phạt sẽ khiến cho các tổ chức, cá nhân thận trong hơn
trong việc khai thác giá trị hệ sinh thái biển.
Hình phạt có thể là tốn kém cho các công ty và tại cùng một thời gian
họ có thể rất quan trọng về phương tiện truyền thông tiêu cực của sự chú ý.
Hãy suy nghĩ về các hình phạt cho BP vi phạm môi trường quy định. Các ví

dụ sau đây minh họa điều này.
Sự cố tràn dầu của Exxon Vandez
Sự cố tràn dầu của tập đoàn dầu khí Exxon Valdez dầu tràn xảy ra tại
Prince William Sound, Alaska, ngày 24 tháng 3. Năm 1989, tàu chở dầu của
Exxon Valdez bị đắm ở Bligh Reef và làm tràn ra 260.000 đến 750.000
thùng ( tương đương 41.000 đến 119.000 m3) dầu thô. Đây là một thảm họa
tàn phá môi trường lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Khu vực này là môi
trường sống của cá hồi, rái cá biển và chim biển. Dầu đã loang ra 1300 dặm
bờ biển, và 11.000 dặm vuông đại dương

Hãng Exxon đã phải chịu phạt 4,5 tỷ USD cho sự cố tràn dầu,. Khoản
tiền phạt bao gồm thanh toán đền bù, cải tạo lại môi trường,....Vụ tai nạn đã
cuốn hút dư luận của toàn thế giới trong nhiều tháng.
3.

Nhãn sinh thái
Một công cụ kinh tế khác khuyến khích bảo vệ hệ sinh thái biển là việc
sử dụng nhãn. sử dụng nhãn có thể tạo thêm một lợi thế cạnh tranh cho các
công ty. Hai nhãn được đề cập đến throng việc bảo vệ hệ sinh thái biển là



Cờ Blue là nhãn sinh thái tự nguyện, trao cho các bãi biển và bến du thuyền.
Chương trình cờ Blue được thành lập và điều hành bởi các tổ chức phi chính
12


phủ, phi lợi nhuận-Quỹ giáo dục Môi trường the Foundation for
Environmental Education (FEE), Cở Blue hoạt động hướng tới sự phát triển
bền vững của các bãi biển, bến cảng thông qua các tiêu chuẩn nghiêm ngặt

về chất lượng nước, môi trưởng giáo dục và thông tin cộng đồng, quản lí môi
trường an toàn và các chỉ tiêu khác.
Chỉ số về tàu sạch cũng là một nhãn. Chỉ số này cho chúng ta biết mối
liên hệ, tác đông đến môi trường của tàu biển, chẳng hạn như lượng phát thải
vào không khí và nước, hóa chất sử dụng, chống gỉ. CSI sẽ xếp hạng các con
tàu và nó sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn của khách hàng.
PHÂN TÍCH KINH TẾ ĐỂ THÀNH LẬP CÁC KHU BẢO TỒN BIỂN

II.
1.

Các lợi ích kinh tế từ các khu bảo tồn biển:
Kinh tế có mối quan hệ mật thiết trong việc bảo tồn hệ sinh thái biển.
Hệ sinh thái biển đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nguồn
nguyên vật liệu cho các hoạt động kinh tế, hỗ trợ và bảo vệ hệ sinh thái tự
nhiên, con người, duy trì và hỗ trợ các hoạt động kinh tế trong tương lai,
đảm bảo sự phát triển cho nhân loại. Việc phân tích kinh tế sẽ giúp cho mọi
người dễ hiểu và có thể xác định được lượng giá trị của những lợi ích mà con
người nhận được khi bảo vệ sinh thái biển, cũng như lượng giá trị bị mất mát
khi tàn phá môi trường. Để từ đó làm điều kiện nền tảng để thành lập những
khu bảo tồn biển.
Nguyên nhân kinh tế dẫn đến suy thoái tài nguyên thủy sản
Yếu tố kinh tế là một trong những tác nhân chính dẫn đến suy thoái tài
nguyên thủy sản. Việc khai thác quá mức tài nguyên thủy sản nhằm sản xuất
thu lợi nhuận, cùng với đó là việc thải các chất thải không khí, đất, biển... đã
làm cho tài nguyên suy thoái nghiêm trọng Phân tích kinh tế nhằm mục đích
xác định những hoạt động gây ảnh hưởng, từ đó tìm kiếm nguyên nhân gốc
rễ dẫn đến tình trạng suy thoái tài nguyên thủy sản.
Vai trò của các công cụ kinh tế và các biện pháp khắc phục
Hiện nay, chúng ta có thể dễ nhận ra rằng sự thành công của các khu

bảo tồn biển có sự đóng góp rất lớn trong việc ứng dụng các biện pháp kinh
tế trong quản lí. Theo Adam Smith về “thuyết bàn tay vô hình”, trước hết là
xuất phát từ lợi ích cá nhân, nó sẽ tác động như một lực đẩy hướng con
người tới công việc nào mà xã hội sẵn sàng trả tiền. Theo Adam Smith:
chúng ta không mong có bữa ăn trưa nhờ ở lòng hào phóng của người mổ
thịt , người nấu bia, hoặc ở người làm bánh, mà ở cách nhìn của họ với lợi
ích của bản thân họ. Chúng ta trông chờ không phải ở lòng nhân đạo của họ,
13


mà ở tính tự tương thân của họ, và không bao giờ nói với họ về những nhu
cầu của chúng ta mà về những lợi ích của họ. Ở đây cũng vậy,trừ khi các khu
bảo tồn biển có ý nghĩa kinh tế và tạo ra lợi ích là ít nhất bằng với bất kỳ chi
phí họ phải chịu. Thành công trong việc thành lập và duy trì các khu bảo tồn
biển phụ thuộc vào việc đảm bảo rằng đủ tài chính để điều hành, các thành
phần liên quan được cung cấp đủ ưu đãi để hỗ trợ bảo tồn. Kinh tế cung cấp
một loạt các công cụ và biện pháp có thể được sử dụng để giải quyết những
vấn đề này một cách hiệu quả và tính bền vững góp phần bảo vệ tài nguyên
thủy sản bằng cách:







2.






Tính toán các giá trị kinh tế cao gắn với bảo tồn biển và những chí phí hao
tổn liên quan đến suy thoái biển trên quy mô rông như hiện nay. Làm nền
tảng cho việc thành lập một hệ thống khu bảo tồn biển, cùng với đó là kêu
gọi sự hỗ trợ của chính phủ, các tổ chức, cá nhân tập thể.
Cải tiến, hợp lí hóa việc quản lí khu bảo tồn kinh tế biển kết hợp với kinh tế
nhằm tạo nguồn lực để quy hoạch, nâng cao chất lượng của khu bảo tồn.
Cải thiện, nâng cao chất lượng của khu bảo tồn thông qua những lợi ích kinh
tế tích lũy được. Khoản tích lũy sẽ được sử dụng trong việc thu hút, bảo đảm
vững chất cho những nhà khoa học có thể nghiên cứu, cải tiến kĩ thuật nhằm
tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của khu bảo tồn.
Vạch định được những chính sách phù hợp nhằm duy trì và sử dụng có hiệu
quả các nguồn tài trợ từ cộng đồng, khu vực tư nhân,...
Phương hướng trong phân tích kinh tế nhằm bảo vệ sinh thái biển
Có 5 bước quan trọng trong việc phân tích kinh tế nhằm bảo vệ hệ sinh
thái biển:
Xác định các lợi ích kinh tế khi bảo vệ hệ sinh thái biển: bước đầu tiên
throng phân tích kinh tế là xác định rõ sự đóng góp của việc bảo vệ hệ sinh
thái biển vào hoạt động kinh tế. Thông tin này có vai trò nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc bảo vệ hệ sinh thái biển trên phương diện kinh tế. Làm
nền tảng để chỉ ra rằng việc bảo vệ sinh thái biển không những góp phần vào
việc bảo vệ sự đa dạng sinh học mà còn tạo ra nhiều lợi ích kinh tế, từ đó thu
hút đầu tư từ xã hội.
Xác định chi phí kinh tế của khu bảo tồn biển: bước thứ hai throng phân tích
kinh tế là xác định chi phí sẽ phát sinh throng việc hình thành và hoạt động
của khu bảo tồn biển. Bước này giúp chúng ta xác đĩnh được những chi phí
về vật chất, tài nguyên yêu cầu đối với khu bảo tồn biển.

14









Định lượng giá trị của lợi ích khu vực bảo tồn biển và các chi phí: bước thứ
ba là xác định nhữ giá trị của lợi ích khu bảo tồn biển và các khoản chi phí
phát sinh. Qua đó nhằm xác định giá trị tính bằng tiền của khu bảo tồn.
Phân tích việc phân phối lợi nhuân và chi phí, nhu cầu tài chính và các khoản
ưu đãi: bước thứ 4, chúng ta xác định lợi nhuận và chi phí của khu bảo tồn
biển sẽ được phân phối như thế nào giữa các thành phần liên quan. Qua đó
xác định được ai mất, ai được cũng như tình hình hoạt động của khu bảo tồn
biển, điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của họ, trên cơ sở đó có đưa ra
những chính sách điều chỉnh phù hợp nhằm đảm bảo công bằng cho các
thành phần tham gia.
Xác định những biện pháp khuyến khích kinh tế và cơ chế tài chính phù hợp
trong quản lí khu bảo tồn biển: bước cuối cùng là các công cụ và biện pháp
phù hợp để quản lí tài chính và cung cấp các ưu đãi cho khu bảo tồn. Điều
này sẽ giúp để xác định những công cụ kinh tế phù hợp có thề áp dụng để
quản lí khu bảo tồn biển và cả ở đất liền xung quanh


Mô hình các bước phân tích kinh tế cho khu bảo tồn biển

5.Xác định biện phápkinh tế khuyến khích
và cơ chế
tài chính

bảo tồn biển
khu vực quản lý

Ai được ai mất trong việc bảo tồn biển?
chỉnh phù hợp
Sử dụng công cụ kinh tế như thế nào để tang cường hiệu quả quản lí bảo tồn

1. Xác định các lợi ích kinh tế khi bảo vệ hệ sinh thái biển
2. xác định chi phí kinh tế của khu bảo tồn biển

4.phân tích việc phân phối lợi nhuân và chi phí, nhu cầu tài chính và các khoản ưu đãi
3. Định lượng giá trị của lợi ích khu vực bảo tồn biển và các chi phí
Lợi ích kinh tế khi bảo v ệ hệ sinh thái biển
Chi phí kinh tê cần thiếtđể hình thành khu bảo tồn
Chi phí và lợi ích kinh tế là bao nhiêu từ khu bảo tồn biển?

15


3.

Xác định lợi ích kinh tế từ khu bảo tồn biển:
Đây là bước đầu tiên throng việc phân tích kinh tế.
Hệ sinh thái biển thường mang lại nhiều lợi ích kinh tế biển. Những lợi
ích này là nền tảng chứng minh sự cần thiết cho việc bảo tồn biển. Với giá trị
kinh tế cao khi phân tích vùng biển và ven biển sẽ khiến con người thấy
được sự cần thiết cho việc bảo tồn biển nhằm duy trì và phát triển các hoạt
động kinh tế, thu lợi nhuận góp phần vào sự phát triển bền vững cho tương
lai
Tổng lợi ích kinh tế của hệ sinh thái biển:

Từ trước đến nay, các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách chỉ
thấy rằng lợi ích kinh tế từ biển mang lại chỉ là những nguyên liệu thô , sản
phẩm sơ cấp và chủ yếu là các nguồn lợi từ các hoạt động thương mại. Từ
việc nhận định giá trị kinh tế biển ở các khía cạnh trên , con người đã gây ra
nhiều tác đông tiêu cực đến việc bảo vệ hệ sinh thái biển, mà không biết rằng
họ đang đánh mất một lượng giá trị kinh tế rất lớn do bảo tồn biển mang lại.
16


Bảo tồn biển mang lại giá trị kinh tế lớn hơn rấ nhiều so với giá trị hữu hình
mà họ đang nhận được.
Để có cách nhìn đầy đủ vể tầm quan trọng của giá trị kinh tế trong việc
bảo tồn kinh tế biển, nhóm xin giới thiệu khái niệm về tổng giá trị kinh tế
biển nhằm làm cơ sở để xác định giá trị của việc bảo vệ hệ sinh thái biển.
Tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái biển bao gồm:
Giá trị sử dụng trực tiếp: bao gồm những nguyên, nhiên vật liệu thô có
thể trao đổi mua bán và những dịch vụ có thể khai thác trực tiếp, chẳng hạn
như giải trí, du lịch, thủy hải sản , nhiên liệu, các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ....
Giá trị sử dụng gián tiếp: dịch vụ công cộng, các chức năng tự nhiên
của hệ sinh thái biển nhằm duy trì và bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên, con người
như bảo vệ bờ biển, giảm thiểu thiết hại do thiên tai, hấp thụ cacbon và cung
cấp môi trường sinh sản và môi trường sống cho các loại sinh vật biển, loài
chim, động vật có vú...
Giá trị nhiệm ý: đây là phần giá trị nhằm duy trì hệ sinh thái biển và
thành phần loài để tương lai, các thế hệ sau có thể sử dụng.
Giá trị hiện hữu: giá trị nội tại của biển đối với con người, con người
có thể trực tiếp sử dụng hoặc không, bao gồm những giá trị về văn hóa, lịch
sử, khoa học, thẩm mỹ ...
4.


Chi phí để bảo tồn hệ sinh thái biển:
Đây là bước thứ hai trong việc phân tích kinh tế trong bảo tồn kinh tế
biển.
Từ các bước trên chúng ta đã có thề biết được lợi ích kinh tế từ việc
bảo tồn sinh thái biển, tuy nhiên viêc bảo tồn không phải là miễn phí. Khu
bảo tồn biển cũng như những doanh nghiệp tư nhân, những công ty. Do đó
chi phí là một thành phần quan trọng throng việc quản lí khu bảo tồn.
Tổng chi phí của khu bảo tồn biển:
Cũng như lợi ích kinh tế, các chi phí liên quan đến bảo tồn sin thái biển
không được các nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách đánh giá một cách
đầy đủ. Những chi phí thường được xác định chỉ là các khoản đầu tư trực
tiếp và chi thường xuyên cho hoạt động của khu bảo tồn như thiết bị, cơ sở
hạ tầng và nhân viên. Trên thực tế, ngoài những chi phí đó ra còn khoản chi
phí khác như sự tác động của khu bảo tồn đến các hoạt động kinh tế khác
17


như ngăn cản, can thiệp. Và đây là loại chi phí lớn hơn nhiều lần các chi phí
quản lí trực tiếp khác, tuy nhiên lại thường xuyên bị bỏ qua.
Nhằm mục đích tránh thiếu xót khi tính chi phí cho quản lí khu bảo tồn
biển, mhóm chúng tôi xin đưa ta khái niệm tổng chi phí kinh tế. Tổng chi phí
kinh tế của khu bảo tồn biển là tổng của :
Chi phí quản lí: đây là khoản chi phí trực tiếp cho cơ sở hạ tầng, trang
thiết bị và nguồn nhân lực cần thiết để quản lí khu bảo tồn biển.
Chi phí cơ hội: việc bảo tồn hệ sinh thái biển sẽ cản trở hoạc ngan cản
các hoạt động kinh tế khác, tức là sẽ đánh đổi một khoản thu nhập lợi nhuận
từ những hoạt động kinh tế đó. Đồng thời có sự đánh đổi các nguồn tài
nguyên tự nhiên và nguồn tài chính dùng để xây dựng và phát triển khu bảo
tồn thay vì sử dụng cho hoạt động kinh tế khác thu lợi nhuận.

5.

Đánh giá lợi ích kinh tế và chi phí
Bước thứ ba throng phân tích kinh tế là xác định lượng chi phí và lợi
ích kinh tế gắn liền với khu bảo tồn biển thông qua các phương pháp định
lượng, từ đó lựa chọn các phương pháp thích hợp nhất và thu thập những
thông tin cần thiết để có thể đánh giá việc bảo tồn tài nguyên thủy sản.
5.1, Mục đích của việc xác định giá trị:
Mục đích cơ bản của việc xác định giá trị là xác định sở thích của
người dân- xác định giá sẵn lòng trả hoặc chi phí cơ hội khi đánh đổi giữa
việc khai thác các giá trị biển với việc bảo tồn hệ sinh thái biển.
Việc xác định giá trị sẽ cung cấp một phương tiện nhằm định lượng các
chi phí, lợi ích kinh tế từ việc bảo vệ hệ sinh thái biển, những chi phí kinh tế
phát sinh, những thiệt hại khi hệ sinh thái biển bị suy thoái. Xác định giá trị
giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về vấn đề, dự đoán được những tác
động, kết quả của quyết định ảnh hưởng đến tình trạng của khu bảo tồn như
thế nào?
Xác định chi phí, lợi ích của việc bảo tồn biền bằng thước đo tiền tệ
trên cơ sở bình đẳng với các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đây là cơ sở
quan trọng để sử dụng trong việc thực hiện thành lập và duy trì họat động
của khu bảo tồn biển.
5.2, Kĩ thuật định lượng giá trị sử dụng trực tiếp
Dưới đây là bảng liệt kê những phương pháp có thể được sử dụng để
định lượng những giá trị sử dụng trực tiếp trong việc thành lập khu bảo tồn
18


biển. Mỗi sự lựa chọn và ứng dụng khác nhau giữa các kỹ thuật sẽ được xác
định chủ yếu bởi tính chất của mỗi giá trị được xem xét, những thông tin thu
thập được và mục tiêu tổng thể của việc xác định giá trị.

Kỹ thuật
Phương
thị trường

Ứng dụng
pháp

Những hàng hóa thủy sản có thể mua, bán
trực tiếp

Chuyển đổi giá
trị

Những hàng hóa thủy sản có giá trị tương
đương những hàng hóa khác có thể mua bán

Đánh giá ngẫu
nhiên

Những sản phẩm hải sản được nhận thức rõ
ràng về giá trị

Chi

phí

du

Du lịch biển và giải trí


hành
5.2.1, Phương pháp thị trường và những hạn chế:
Đây là cách đơn giản nhất. Theo phương pháp này, việc tìm kiếm của
hàng hóa biển là nhìn vào giá cả thị trường của chúng- bằng giá trị trao đổi
giữa người mua và người bán. Những giá trị đó sẽ phản ánh giá trị mà người
mua sẵn lòng trả cho hàng hóa biển, các giá trị mà họ gán cho hàng hóa biển.
Thu thập dữ liệu về giá cả thị trường- giá buôn bán là một cách thường
sử dụng để định lượng giá trị của sản phẩm biển có thể dễ dàng mua bán như
cá, sò, ốc, chi phí khách sạn, phí các dịch vụ du lịch giải trí.... Phương pháp
này cũng có thể sử dụng để định lượng giá trị các sản phẩm biển được sử
dụng throng hộ gia đình- miễn là có thị trường.
Mặc dù phương pháp thị trường là một cách hữu ích để định lượng
những giá trị kinh tế , nhưng rất khó để áp dụng đối với giá trị biển. Một vấn
đề lớn là không phải tất cả các giá trị của biển đều có thể tham gia thị
trường- ví dụ như những người có thể chỉ sử dụng những giá trị của biển cho
sinh hoạt, không tham gia vào thị trường. Trong các trường hợp khác, giá cả
thị trường bị méo mó đi vì thuế, trợ cấp, độc quyền hoặc các biện pháp can
thiệp khác của chính phủ... những tác nhân đó khiến cho giá cả thị trường
không phản ánh đúng giá trị của giá trị kinh tế biển. Để khác phục những
nhược điểm trên, ta có thể sử dụng phương pháp xác định chi phí thay thế.
5.2.2, Phương pháp chuyển đổi giá trị:

19


Ngay cả khi các sản phẩm biển không tham gia vào thị trường, thì nó
cũng có những hàng hóa có gia trị tương đương được trao đổi trên trị trường.
Ví dụ, nếu cá không được trao đổi thì ta có thể sử dụng những thực phẩm có
sẵn trên thị trường có khả năng đáp ứng lượng chất dinh dưỡng tương đương
với loại cá đó....

Giá các hàng hóa thay thế những sản phẩm biển không có sẵn trên thị
trường cần có chi phí để mua là tốt nhất. Các hàng hóa thay thế có thể được
sử dụng nhu đại diện cho các giá trị những sản phẩm biển bởi vì chúng phản
ánh số tiền biểu thị những giá trị của các sản phẩm biển.
5.2.3, Đánh giá ngẫu nhiên:
Ngay cả khi hàng hóa biển không được bán trên thị trường, người ta
vẫn có thể đặt một giá trị trên chúng. Giá trị này có thể đồng thời phản ánh
các thuộc tính khác nhau của các nguồn tài nguyên biển và các hệ sinh thái
bao gồm cả giá trị kinh tế của chúng, ý nghĩa xã hội và truyền thống. Phương
pháp xác định giá trị bằng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên là một trong
những kĩ thuật sử dụng rộng rãi với mục đích là định lượng các lợi ích của
môu trường, kể cả khi giá trị đó không được trao đổi trên thị trường hoặc
những giá trị có kết hợp nhiều thành phần.
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên không dựa trên giá trị thị trường
quan sát được, thay vào đó để xác định giá trị, người nghiên cứu sẽ thực hiện
những cuộc phỏng vấn, khảo sát ý kiến của nhiều người. Trước hết họ sẽ
thiết lập một kịch bản giả định rằng các sản phẩm có thể mua hoặc bán, sau
đó sẽ điều tra thăm dò có bao nhiêu người sẵm sàng trả tiền để sử dụng hoặc
tiêu thụ, hoặc làm thế nào bồi thường những thiệt hại,... trong các tình huống
trên họ sẽ chấp nhận trao đổi để sử dụng sản phẩm biển. Có thể đặt những
câu hỏi như “ bạn sẽ sẵn sàng trả bao nhiêu tiền để có giấy phép thu nhặt vỏ
ốc trên bờ biển”,” bạn sẵn sàng trả bao nhiêu tiền để tham quan những công
viên hải dương” hoặc “ nếu các rạn san hô bị xuống cấp trầm trọng, bạn sẵn
sàng bỏ ra bao nhiêu tiền để phục hồi lại rạn san hô”...Từ những số liệu trên
ta có thể sử dụng các phương pháp kinh tế lượng,... để phân tích vấn đề.
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên là một cách đặc biệt của định giá các
giá trị của biển kể cả khi không tham gia vao thị trường mua bán trực tiếp,
hoặc có ảnh hưởng mạnh mẽ đến truyền thống, văn hóa...
5.2.4, Chi phí du hành:


20


Hệ sinh thái biển có một giá trị rất cao cho du lịch, các hoạt động vui
chơi giải trí như bơi, lặn.... Ngay cả khi mọi người không phải trả chi phí nào
để sử dụng hệ sinh thái biển nhưng họ cũng phải tốn chi phí về thời gian, tiền
bạc để đến đây du lịch, giải trí.
Phương pháp chi phí du hành sẽ xác định giátrị tính toán các chi phí
phát sinh trong quá trình di chuyển và sử dụng hệ sinh thái biển – ví dụ như
tiền xăng dầu, chỗ ở,....Sau đó sẽ xây dựng được một hàm số thể hiện mối
liên hệ giữa số lần đi du lịch và chi phí du lịch, từ hàm số này có thể tìm
được giá trị thặng dư- mức chênh lệch giữa giá trị nhận được từ hệ sinh thái
biển và những chi phí du lịch đã bỏ ra.
5.3, Kĩ thuật để định lượng giá trị sử dụng gián tiếp:
Dưới đây là bảng liệt kê những phương pháp có thể được sử dụng để
định lượng những giá trị sử dụng gián tiếp trong việc thành lập khu bảo tồn
biển. Mỗi sự lựa chọn và ứng dụng khác nhau giữa các kỹ thuật sẽ được xác
định chủ yếu bởi tính chất của mỗi giá trị được xem xét, những thông tin thu
thập được và mục tiêu tổng thể của việc xác định giá trị.
Kĩ thuật
Giá thị trường và
những chế độ ưu đãi

Chi phí thay thế

Ứng dụng
Dịch vụ biển có thể được mua bán trực
tiếp, có những sản phẩm thay thế được bán trên
thị trường, hoặc có một giá trị kinh tế được
công nhận rõ ràng.

Những dịch vụ hàng hải có thể được thay
thế bởi những hàng hóa khác

Mức ảnh hưởng
năng suất

Dịch vụ hàng hải có liên quan chặt chẽ
đến những hoạt động khác.

Chi phí nhằm
tránh hoặc ngăn ngừa
những thiệt hại

Giá trị biển có khả năng bảo vệ sự sống
của con người cũng như các hoạt động kinh tế.

5.3.1, Giá thị trường và những ưu đãi:
Một số kỹ thuật mô tả sử dụng giá thị trường hoặc sở thích đã nêu ở
phần giá trị sử dụng trực tiếp có thể áp dụng được cho giá trị sử dụng gián
tiếp của hệ sinh thái biển và ven biển. Tuy nhiên giá trị sử dụng gián tiếp
phải được dựa vào sự tồn tại thị trường của dịch vụ hàng hải đó hoặc có
21


những hàng hóa hàng hải thay thế có giá trị tương đương đã được chứng
minh, kiểm định.
Bởi vì tác động gián tiếp của giá trị sử dụng gián tiếp của hệ sinh thái
biển thường không có thị trường và thực tế giá trị này có tác động đến lợi ích
kinh tế trên phạm vi rất rộng. Vì vậy cần thiết phải có những phương pháp
khác để định lượng giá trị sử dụng không trực tiếp của hệ sinh thái biển.

5.3.2, Chi phí thay thế:
Trong trường hợp không thể áp dụng phương pháp thị trường, giá trị sử
dụng không trực tiếp có thể được định lượng bằng phương pháp chi phí thay
thế- ví dụ như chức năng bảo vệ bờ biển có thể được thay thế một phần bằng
việc xây dựng đê dọc bờ biển và các rào cản khác, chi phí thay thế: xây dựng
những công trình nhân tạo, công nghệ sẽ là đại diện cho giá trị sử dụng gián
tiếp
5.3.3, Mức ảnh hưởng năng suất
Các giá trị sử dụng gián tiếp của hệ sinh thái biển đóng vai trò quan
trọng throng việc hỗ trợ các hoạt động kinh tế khác, ví dụ như rừng ngập
mặn là nơi cung cấp môi trường sống cho việc phát triển giống thủy hải sản,
hỗ trợ cho sản xuất thủy hải sản. Sự thay đổi của chất lượng hệ sinh thái biển
có thể nhìn thấy rõ ở trong việc thay đổi giá trị hàng hóa, những chi phí phát
sinh của các hoạt động kinh tế liên quan đến hệ sinh thái biển. Từ những
ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế đó đã phản ánh sự đóng góp gián tiếp của
hệ sinh thải biển đến chất lượng thành phẩm của các hoạt động kinh tế.
5.3.4, Chi phí nhằm tránh hoặc ngăn ngừa những thiệt hại
Giá trị sử dụng gián tiếp cũng tạo ra những lợi ích kinh tế trên phương
diện làm giảm thiểu những chi phí do thiệt hại của thiên tai, lũ lụt mang lại
hoặc trường hợp tình trạng thất nghiệp do không thể đánh bắt cá.... Việc tính
toán những thiệt hại do thiên tai gây ra như nhà cửa, đường xá, các của cải
vật chất khác bị tàn phá, hoặ những gánh nặng kinh tế khi thất nghiệp gia
tăng,... trong trường hợp hệ sinh thái biển bị suy thoái nghiêm trọng, là một
phương pháp để xác định giá trị sử dụng gián tiếp của hệ sinh thái biển.
Ngoài ra, giá trị sử dụng gián tiếp của hệ sinh thái thủy hải sản còn
được xác định thông qua chi phí để xây dựng những hệ thống nhân tạo để
giảm thiểu nhũng chi phí phát sinh từ việc suy thoái hệ sinh thái biển, ví dụ
như đắp đê, nhân giống nuôi trồng thủy sản,...những chi phí đó sẽ đại diện
cho giá trị sử dụng gián tiếp của hệ sinh thái biển.
22



5.4 Kỹ thuật định lượng giá trị tồn tại của hệ sinh thái biển:
Việc định lượng giá trị tồn tại của hệ sinh thái biển là vô cùng khó
khăn, bởi lẽ giá trị này thì không được mang ra trao đổi mua bán như những
hàng hóa khác. Thông thường, để định lượng giá trị này, các nhà nghiên cứu
thường tính toán thông qua những phương tiện gián tiếp hoặc quan sát số
tiền mà mọi người sẵn lòng trả để thực hiện bảo tồn biển. Cả hai phương
pháp này khá là khó khăn và tốn kém để thực hiện. Vì vậy, mặc dù có tầm
quan trọng và có giá trị về ý nghĩa kinh tế, những việc định lượng giá trị tồn
tại của hệ sinh thái biền vẫn còn nhiều trở ngại.
5.5, Kĩ thuật lượng hóa chi phí cho việc bảo vệ hệ sinh thái biển:
Kĩ thuật

Áp dụng

Giá thị trường
Năng suất
xuất hàng hóa

Chi phí quản lí
sản

Chi phí cơ hội, chi phí khác

Giá thị trường và năng suất sản xuất hàng hóa là cơ sở tốt để áp dụng
trong việc đánh giá các chi phí liên quan trọng với các khu bảo tồn biển.

5.5.1 Quản lý chi phí
Các chi phí trực tiếp của khu bảo tồn biển có thể được tính bằng cách

xác định lao động, thiết bị, cơ sở hạ tầng, phương tiện vận tải và đầu tư và
chi thường xuyên cần thiết cho quản lý khu bảo tồn. Trong hầu hết các
trường hợp này tất cả có thể được xác địng bằng giá cả thị trường.
5.5.2 Chi phí cơ hội
Hai chi phí có mối quan hệ mật thiết throng hoạt động của khu bảo tồn
là thu nhập và chi phí hoạt động. Trong chi phí hoạt động bao gồm cả những
thiệt hại phát sinh do việc giảm bớt các hoạt đông kinh tế khai thác tài
nguyên không bền vững trong khu vực bảo tồn.Ta có thể xác định chi phí cơ
hội của việc bảo tồn hệ sinh thái biển thay vì thực hiện các hoạt động kinh tế
thông qua tính tóan năng suất sản xuất.
5.6 Giới hạn trong việc xác định các giá trị:
Định giá là một công cụ hữu ích để quản lí các khu bảo tồn biển, bởi lẽ
vịc định giá đã làm nổi bật các chi phí, lợi ích mà throng quá khứ các nhà
quy hoạch và hoạch định chính sách thường bỏ qua. Mặc dù vậy nhưng các
phương pháp xác định giá cả vẫn còn nhiều nhược điểm. Có một số vấn đề
23


chúng ta chưa giải thích được, buộc lòng khi thực hiện cần phải mặc định
những vấn đề đó khi thực hiện định giá:


Giá trị của hệ sinh thái biển thông thường chỉ được xác định một phần với
những giá trị cần thuyết. Hầu hết việc định lượng lợi ích kinh tế của hàng
hóa và dịch vụ thủy sản chỉ tập trung vào những giá trị của hệ sinh thái biển
được lựa chọn. Trong khi đó, hệ sinh thái biển cần được ước tính tổng tất cả
các giá trị kinh tế của hệ sinh thái biển.
Giá trị thực tế của hệ sinh thái biển vẫn còn nhiều hạn chế. Giá trị
hiếm khi là giá trị “thực” và thường không tồn tại dưới hình thức giá cả và
thu nhập. Thay vì giá trị được xác định bởi một con số cụ thể, thì hầu hết các

giá trị này chỉ mang khoảng ước tính nhằm định hướng, sử dụng throng quy
hoạch, quyết định và chính sách. Giá trị này là một cơ sở quan trọng để làm
rõ các giả định, giả thuyết.
Giá trị của khu bảo tồn biển được phân phối không đồng đều giữa con
người và theo thời gian. Hầu hết các kĩ thuật đánh giá không tính đến sự
khác biệt và biến đổi trên. Ta có thể thấy rằng những người khác nhau có
nhận thức khác nhau về giá trị của nguồn tài nguyên biển và các hễ sinh thái
này có sự khác nhau giữa các thời điểm khác nhau. Việc xác định giá trị kinh
tế thường dựa trên quan niệm của một nhóm người và giá trị được xác định
tại một thời điểm cụ thể. Do đó giá trị ở đây chưa chắc đã là giá trị tổng quát.
Việc mất các nguồn tài nguyên biển và hệ sinh thái có thể có tác động
lâu dài thậm chí là vĩnh viễn, ví dụ như ảnh hưởng đến đời sống con người,
nếu hệ sinh thái biển bi phá vỡ thì con người sẽ mất đi nguồn nguyên liệu
cho sản xuất và các hoạt động kinh tế khác như du lịch..., gây tuyệt chủng
các sinh vật biển. Chúng ta khó có thể xác định một cách đẩy đủ những thiệt
hại khi hệ sinh thái biển bị suy thoái, liệu rằng một loài sinh vật bị tuyệt
chủng hoặc môi trường sống của các loài sinh vật bị mất đi thì nó có ảnh
hưởng như thế nào đối với các loài sinh vật biển, tương lai con người sẽ
nhận hậu quả gì, chúng ta khó có thể biết được bức tranh toàn cảnh của viễn
cảnh trên chính xác sẽ như thế nào? Từ đây, chúng ta nhận thấy rằng, việc
định lượng hoặc phản ánh tác động của suy thoái hệ sinh thái biển vào trong
giá trị kinh tế là một việc vô cùng khó khăn.



6.

Một số lợi ích biển thường không được định lượng và đảm bảo vì dữ liệu
khoa học, kĩ thuật hoặc kinh tế cần thiết thì không có sẵn. Ví dụ như, nếu xét
khía cạnh giá trị biển đối với cuộc sống con người, hay ý nghĩa đối với tôn

giáo, văn hóa, những mối quan hệ giữa lợi ích của hệ sin thái biển đối với
những phạm trù đạo đức.. Ở đây chúng ta khó xác định được giá trị của kinh
tế biển.
Phân tích việc phân phối lợi nhuận và chi phí, nhu cầu tài chính và các
khoản ưu đãi:
24


Bước thứ 4, chúng ta sẽ xác định được các chi phí và lợi ích tích lũy
của khu bảo tồn biển sẽ được phân phối như thế nào. Qua đó có thể thấy
được tình hình hoạt động của khu bảo tồn, xác định được lượng ưu đãi,hỗ trợ
tài chính sẽ sử dụng vào đâu để có hiệu quả cao. Ngoài ra còn giúp cho việc
xác định lượng tài chính sử dụng cho công tác quản lí khu bảo tồn.
6.1 Mục đích của việc phân tích sự phân phối lợi nhuận và chi phí:
Chúng ta có thể thấy: hoạt động thuộc các nhóm khác nhau giữa các
bên liên quan đến khu bảo tồn biển đều có sự đóng góp khác nhau vào việc
bảo vệ hệ sinh thái biển được bảo tồn. Vì vẫy, có sự phân phối khơng đồng
đều giữa những nhóm này- giữa cơ quan tài nguyên môi trường, ngư dân,
chủ khách sạn,.... Mục đích của việc phân tích sự phân phối lợi nhuận và chi
phí nhằm đánh giá cái lợi, cái hại từ khi có khu bảo tồn biển. Điều này cung
cấp thông tin quan trọng về sự cần thiết của khu bảo tồn hay không và xác
định được mục đích trọng việc thực hiện các chính sách kinh tế và xác định
cơ chế tài chính phù hợp trong việc quản lí khu bảo tồn biển.
Sự phân bố không công bằng giữa lợi ích và chi phí cho các chủ thể
liên quan sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực ảnh hưởng đến hoạt động của khu
bảo tồn. Ví dụ, khi thành lập các khu bảo tồn thì cơ quan quản lí khu bảo tồn
cùng với chính quyền địa phương sẽ ngăn chặn hoặc hạn chế việc đánh bắt,
khai thác các tài nguyên hệ sinh thái biển của các ngư dân sống gần các khu
bảo tồn mà không hỗ trợ giúp đỡ họ trong việc tìm kiếm việc làm mới, lúc
này các ngư dân sẽ phản đối việc thành lập khu bảo tồn..

6.2, những thiệt hại trong việc thành lập các khu bảo tồn biển và sự cần
thiết của các chính sách ưu đãi:
Sự tồn tại của khu bảo tồn biển sẽ dẫn đến những thiệt hại kinh tế cho
khu vực dân cư gần khu bảo tồn. Ví dụ như những ngư dân phải đánh bắt cá
ở khu vực khác xa hơn hoặc bị hạn chế đánh bắt ở khu vực bảo tồn, lúc này
chi phí mà họ bỏ ra có thể lớn hơn nguồn thu nhập, lợi nhuận mà họ nhận
được. Vì vậy, họ sẽ có ít động lực trong việc hỗ trợ bảo tồn biển vì nó làm
cho lợi ích kinh tế của họ bị giảm xuống. Và nếu họ thật sự muốn bảo tồn thì
tài chính của họ chũng không cho phép. Vì vậy, về lâu dài sự tồn tại khu bảo
tồng cũng không bền vững. Vì vậy cần thiết phải có các chính sách ưu đãi
đối với những nhóm người bị thiệt hại từ việc thành lập khu bảo tồn biểncác ngư dân địa phương, những người khai thác các nguồn tài nguyên khác
của biển.

25


×