Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapore giai đoạn 20062015 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.05 KB, 28 trang )

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt nhiều thập kỉ kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới năm
1986, Việt Nam luôn đạt tốc độ phát triển kinh tế cao so với thế giới và khu
vực. Đóng góp không nhỏ vào thành công của Việt Nam chính là các dự án
đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi
cũng như tiềm năng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước
Việt Nam đã ban hành luật đầu tư nước ngoài từ rất sớm và qua nhiều lần
sửa đổi bổ sung, các văn bản pháp lý và chính sách của Việt Nam ngày
càng hoàn thiện với nhiều chủ trương, chính sách hợp lí hướng tới tháo gỡ
các khó khăn, tinh giảm các thủ tục cho nhà đầu tư, khuyến khích thu hút
đầu tư nên số lượng dự án cũng như vốn đăng kí đầu tư vào khắp các tỉnh
thành trong toàn quốc đã tăng nhanh. Tuy nhiên, các chính sách thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài cũng như quá trình triển khai thực hiện các chủ
trương, chính sách ở các cơ quan chức năng còn một số bất cập và kết quả
đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của một quốc gia có tốc độ tăng
trưởng nhanh như Việt Nam.
Bối cảnh mới của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự cạnh
tranh mạnh mẽ giữa các quốc gia trên thế giới và trong khu vực Đông Nam
Á về lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó để tăng khả năng
hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam đòi hỏi thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp, trong đó việc nghiên cứu, so sánh chính sách FDI của các
quốc gia có những điều kiện, trình độ tương đồng với Việt Nam là cần thiết.
Chính vì vậy chúng tôi đưa ra đề tài “Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Singapore giai đoạn 2006-2015 và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích


Đề tài đi vào phân tích các chính sách được Singapore áp dụng trong
những năm qua để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, để thấy được những
thành tựu, hạn chế từ đó đưa ra các giải pháp trong chính sách thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm tới.
2.2. Nhiệm vụ
− Phân tích các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của
Singapore
− Thống kê, đánh giá và phân tích về nguồn vốn vào Singapore trong
những năm vừa qua, từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm và hướng đi
cho Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi đề tài
− Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Singapore
− Phạm vi nghiên cứu: chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Singapore trong giai đoạn 2006-2015.

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh nhằm phân tích các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của
Singapore giai đoạn 2006-2015 và đưa ra các bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo đề tài được chia làm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Chương 2: Giới thiệu chung về Singapore và chính sách thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài của Singapore
Chương 3: Đánh giá chung về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam giai đoạn 2006-2015 và kinh nghiệm từ chính sách của
Singapore đối với Việt Nam

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THU
HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nếu xét trên phương diện cụ thể, trong quản lí và điều hành nền kinh tế của
Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, có thể khái quát: Chính
sách đầu tư nước ngoài là các quyết định của nhà nước, của các cấp nhằm
quản lí nhằm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện các
mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản. Chính sách đầu tư nước ngoài phản ánh các
quan điểm, tư tưởng, các giải pháp, công cụ, các nguyên tắc và phương
thức hành động của Nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài nhằm
thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng của đất nước.
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm một hệ thống các
quyết định thích hợp mà Nhà nước áp dụng, để điều chỉnh các hoạt động
thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế quốc gia trong một thời kì nhất định, nhằm đạt được mục tiêu
kinh tế vĩ mô đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia đó.
1.2.Vai trò chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chính sách không những có tác dụng thu hút được một lượng lớn vốn đầu
tư nước ngoài mà còn có thể lái được các nhà đầu tư hoạt động trên các lĩnh
vực kinh tế, địa bàn kinh tế mà chúng ta lựa chọn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tích cực và tiêu cực tới kinh tế, văn
hóa, xã hội của nước chủ nhà, và mức độ tác động phụ thuộc quan trọng
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5



vào chính sách của nước chủ nhà. Những nước có chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài hợp lí thường thành công trong thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
1.3. Nguyên tắc
Đãi ngộ quốc gia tức là không có sự phân biệt giữa các chủ đầu tư
nước ngoài về chính sách thuế, môi trường đầu tư, chính sách sử dụng lao
động, cùng nhiều ưu đãi khác.
Tính minh bạch và có thể dự đoán được. Qua việc thay đổi theo các
chính sách quốc tế vốn mang tính minh bạch, rõ ràng, cụ thể giúp cho các
doanh nghiệp có thể dự đoán được từ đó dễ dàng đưa ra các kế hoạch và
chiến lược kinh doanh phù hợp nhất. Đồng thời phải hạn chế tối thiểu
những rủi ro có thể xảy ra.
1.4. Công cụ
1.4.1. Các công cụ tài chính
− Công cụ thuế và các loại phí (thuế nội địa, thuế xuất nhập khẩu, thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, phí thuê quyền sử dụng đất, sử dụng
các dịch vụ hạ tầng)
− Công cụ điều tiết vốn (Quy định về hình thức góp vốn, quy định về
tỷ lệ góp vốn, chính sách tín dụng, chính sách tỷ giá hối đoái)
1.4.2. Các công cụ phi tài chính
− Xây dựng và thực hiện quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài
− Quy định về thủ tục thẩm định và cấp giấy phép đầu tư
− Quy định về đối tượng tham gia và lĩnh vực đầu tư
− Quy định về thời gian tối đa của dự án đầu tư
− Quy định về thủ tục và trách nhiệm của các bên tham gia giải phóng
mặt bằng và thực hiện đền bù.
− Quy định về tuyển dụng lao động
− Quy định về trách nhiệm xử lý ô nhiễm môi trường
− Quy định về đăng ký và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ


Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


CHƯƠNG 2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ SINGAPORE VÀ CHÍNH
SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA
SINGAPORE
2.1.Đặc điểm kinh tế Singapore
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên
ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước
ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do
vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực
phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Tuy nhiên Singapore đã xây dựng
được hệ thống cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao
hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa
tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi.
Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là khu công
nghiệp Jurong. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện
tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá
cảnh hàng đầu ở Châu Á.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40%
thu nhập quốc dân). Nền kinh tế Singapore phụ thuộc rất nhiều vào xuất
khẩu, đặc biệt là các thiết bị điện tử tiêu dùng, sản phẩm công nghệ thông
tin, dược phẩm và lĩnh vực ngân hàng tài chính. Kinh tế Singapore từ cuối
những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới: 1994 đạt
10%, 1995 là 8,9%. Tuy nhiên, từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng
hoảng tiền tệ, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh
tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Từ 1999, Singapore bắt đầu phục
hồi nhanh: Năm 1999, tăng trưởng 5,5%, và năm 2000 đạt hơn 9%. Do ảnh
hưởng của sự kiện 11 tháng 9, suy giảm của kinh tế thế giới và sau đó là

dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001, tăng
trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002 đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004,
tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7%
và năm 2007 đạt 7,5%. Năm 2009, GDP chỉ tăng 1,2 % do tác động của
khủng hoảng kinh tế.
Singapore có nền kinh tế thị trường tự do phát triển cao và rất thành công.
Người dân Singapore được hưởng một môi trường kinh tế mở cửa đa dạng,
lành mạnh và không tham nhũng, thu nhập bình quân đầu người vào hàng
cao nhất thế giới. Tuy nhiên, năm 2014 Singapore cũng được đưa vào danh
sách 10 quốc gia đắt đỏ nhất thế giới.
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền
kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến
Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng
lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng
nhạy cảm kinh doanh.
2.2. Mục tiêu chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Singapore giai đoạn 2006-2015
Singapore đã xác định rõ việc thu hút nguồn vốn FDI tập trung vào
ba lĩnh vực cần ưu tiên là: ngành sản xuất mới, xây dựng và xuất khẩu. Bên
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


cạnh đó, tùy từng điều kiện cụ thể của mỗi thời kỳ, Singapore chủ trương
thu hút FDI vào các ngành thích hợp. Ban đầu, do cơ sở kinh tế ở điểm xuất
phát thấp, Singapore chủ trương sử dụng FDI vào các ngành tạo ra sản
phẩm xuất khẩu, như: dệt may, lắp ráp các thiết bị điện và phương tiện giao
thông… Cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp điện tử và
một số công nghệ tiên tiến khác, hướng sử dụng nguồn vốn đầu tư tập trung
vào những ngành, như: sản xuất máy vi tính, điện tử, hàng bán dân dụng,
công nghiệp lọc dầu và kỹ thuật khai thác mỏ…

2.3. Công cụ của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Singapore giai đoạn 2006-2015
Singapore là một nước tuy có quy mô dân số nhỏ (khoảng hơn 4 triệu
dân), nghèo tài nguyên thiên nhiên nhưng lại rất thành công trong việc hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung và thu hút FDI nói riêng. Xuất phát từ một
nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, Singapore cần một khối lượng vốn rất
lớn để đổi mới cơ cấu và hiện đại hóa nền kinh tế. Vì vậy, ngay từ đầu họ đã
chú trọng cả nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài, đặc biệt là
nguồn vốn bên ngoài. Điều đó được thể hiện thông qua việc Chính phủ đã
ban hành nhiều chính sách, tạo ra môi trường hấp dẫn kích thích các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào Singapore. Chính sách thu hút FDI của
Singapore luôn gắn liền, biến đổi linh động, kết hợp nhuần nhuyễn với các
chính sách kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế
Singapore.
Có thể nêu ra một số chính sách, biện pháp thu hút FDI của Singapore
như sau:
2.3.1. Khuôn khổ pháp lý về FDI
Nhìn chung khung pháp lý thông thoáng, các nhà đầu tư không bị yêu
cầu phải liên doanh hoặc nhường lại quyền quản lý cho các tổ chức địa
phương. Hiện nay, ngoài các yêu cầu điều chỉnh trong một số ngành ra,
Chính phủ xét duyệt các dự án đầu tư chỉ để xác định tính hợp lý của việc
được hưởng các chế độ khuyến khích, không hạn chế đối với tái đầu tư và
chuyển thu nhập về nước.
Bên cạnh các văn bản luật qui định về vấn đề ĐTNN của Singapore,
nước này còn tham gia vào các hiệp định song phương và đa phương về
đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư ra nước
ngoài của các nhà đầu tư trong nước cũng như tăng cường thu hút FDI của
các nhà ĐTNN.
2.3.2. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với nhà đầu tư
a.Ưu đãi về thuế

− Đối với ngành công nghiệp mũi nhọn:
Để có đủ khả năng lựa chọn biện pháp khuyến khích, công ty phải sản
xuất kinh doanh mặt hàng mà Chính phủ quan tâm đến triển vọng phát triển
của nó. Nói chung, các sản phẩm có công nghệ cao được khuyến khích đầu

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


tư và không có sự hạn chế nào về quyền sở hữu nước ngoài đối với công ty
được ưu tiên hàng đầu. Cụ thể là :
Doanh nghiệp mũi nhọn là các công ty công nghiệp có vốn đầu tư từ 1
triệu SGD trở lên và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế lâu dài được hưởng
quy chế xí nghiệp mũi nhọn và được miễn thuế trong 5 năm (kể cả lãi cổ
phần và thuế thu nhập).
Loại doanh nghiệp hướng về xuất khẩu sẽ được ưu đãi tỷ lệ thuận với giá
trị xuất khẩu. Trong khi xí nghiệp sản xuất không hướng về xuất khẩu bị
đánh thuế với mức tỷ suất 40%, thì xí nghiệp thuộc loại hướng về xuất
khẩu chỉ bị đánh thuế ở mức 4%. Bên cạnh đó nếu xuất khẩu mỗi năm hơn
100.000 SGD sẽ được miễn tới 90% thuế lợi tức.
Riêng loại doanh nghiệp vừa là mũi nhọn vừa hướng vào xuất khẩu sẽ
được hưởng ưu đãi “gộp” của cả hai loại hình doanh nghiệp này. Cụ thể là
chế độ miễn thuế sẽ được kéo dài 8 năm. Nếu xí nghiệp vừa có cả hai điều
kiện trên vừa có vốn đầu tư vào tài sản cố định từ 150 triệu SGD trở lên thì
thời gian miễn thuế có thể kéo dài đến 15 năm.
− Đối với các hoạt động dịch vụ mũi nhọn:
Cùng với các ngành công nghiệp mũi nhọn, các hoạt động dịch vụ
mũi nhọn cũng được ưu tiên và khuyến khích. Một số dịch vụ công nghệ và
kỹ thuật cao như:

Phòng thí nghiệm, dịch vụ tư vấn, các hoạt động nghiên cứu và phát

triển.

Một số dịch vụ thông tin và máy tính.

Dịch vụ công cộng.

Một số dịch vụ liên quan đến giáo dục.

Dịch vụ y tế.

Hoạt động dịch vụ liên quan đến việc quản lý hoặc tổ chức hội thảo
và triển lãm.

Một số dịch vụ tài chính.

Hoạt động quản lý hệ thống chuyển phát nhanh.

Hoạt động cung cấp vốn liên doanh...
Các công ty dịch vụ mũi nhọn cũng sẽ được khuyến khích miễn thuế thu
nhập trong khoảng thời gian 5 - 1 0 năm.9

Đối với việc mở rộng các doanh nghiệp đã thành lập:
Một doanh nghiệp được phép hoạt động tại Singapore mà phải chi phí
hơn 10 triệu SGD cho việc mua thiết bị sản xuất để mở rộng nhà máy và
phương tiện sản xuất nhằm tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm thì sẽ
được giảm thuế trong 5 năm kể từ ngày các thiết bị đó bắt đầu hoạt động.
Việc giảm thuế này được áp dụng nhằm tăng doanh thu trong việc mở rộng
hoạt động của doanh nghiệp, qua đó khuyến khích các doanh nghiệp không
ngừng mở rộng qui mô sản xuất, chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, xí
nghiệp không có qui mô lớn nhưng sản phẩm nếu có chất lượng cao cũng

được giảm thuế.
9
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Đối với việc tổ chức nghiên cứu và phát triển (R&D):
Với nỗ lực nhằm biến Singapore thành trung tâm công nghệ của Châu
Á, các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các công ty chế biến đã được
hưởng rất nhiều những ưu tiên về thuế nhằm khuyến khích việc đầu tư ở
Singapore như cơ sở ở nước của họ. Việc khuyến khích đầu tư bao gồm
những yếu tố sau:

Giảm hai lần thuế cho khoản chi phí về nghiên cứu và phát triển.

Giảm thuế khấu hao đối với các trung tâm nghiên cứu và phát triển và


miễn thuế đầu tư.

Chính phủ đã mở rộng phạm vi giảm thuế hai lần đối với các khoản
chi phí về nghiên cứu và phát triển để nhằm kích thích sự phát triển của các
ngành dịch vụ công nghiệp như phần mềm máy tính, dịch vụ thông tin, dịch
vụ công nghệ nông nghiệp, dịch vụ về thí nghiệm và kiểm tra, dịch vụ
nghiên cứu y học.
Ngoài ra, việc miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị cho phép các doanh
nghiệp có vốn FDI tại Singapore được miễn thuế nhập khẩu các thiết bị có
liên quan đến việc thực hiện các dự án đầu tư, được tự do chuyển lợi nhuận
về nước, nếu trong quá trình kinh doanh bị thua lỗ thì được xem xét để kéo
dài thời hạn miễn giảm thuế. Đặc biệt nhằm chuyển giao công nghệ hiện
đại, Singapore cho phép miễn thuế nhập khẩu, miễn thuế VAT và thuế thu

nhập doanh nghiệp nếu dự án góp vốn bằng bằng phát minh sáng chế, bản
quyền và máy móc thiết bị hiện đại.
− Luật thuế thu nhập đưa ra các ưu đãi:
Từ năm 2001, Chính phủ Singapore giảm thuế doanh nghiệp từ 26%
xuống 25,5%. Để tăng cường thu hút các chủ đầu tư trong và ngoài nước
cũng như thu hút và giữ chân nhân tài, năm 2005, Chính phủ Singapore đã
giảm thuế thu nhập cá nhân từ 25% xuống 22%, và thuế doanh nghiệp tiếp
tục giảm xuống còn 17% vào năm 2012.
Cùng với đó là các ưu đãi / miễn giảm thuế chung cho các công ty thường
trú tại Singapore.
• Mức thuế 0% đối với $ 100.000 đầu tiên trong thu nhập chịu thuế
Thuế thu nhập doanh nghiệp là 0% trên 100.000 $ đầu tiên của thu nhập
chịu thuế, cho mỗi ba năm khai thuế đầu tiên của một công ty mới thành
lập đáp ứng các điều kiện sau đây:
+ được thành lập tại Singapore
+ thuộc diện thuế cư trú tại Singapore
+ không có hơn 20 cổ đông trong đó có ít nhất một cổ đông cá
nhân nắm giữ ít nhất 10% cổ phần.
• Mức thuế 8,5% trên thu nhập chịu thuế khi lợi nhuận doanh nghiệp lên
đến $ 300.000
Tất cả các công ty thường trú tại Singapore có đủ điều kiện để được miễn
thuế cục bộ, chuyển đổi một cách hiệu quả thuế suất 8,5% trên thu nhập
chịu thuế lên đến $ 300.000 mỗi năm. Thu nhập chịu thuế hơn $ 300.000 sẽ
được tính theo thuế doanh nghiệp cơ bản bình thường là 17%.

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Ba năm đầu nộp thuế thu nhập:
TAXABLE INCOME (S$) TAX RATE

0 – 100,000
0%
100,001 – 300,000
8.5%
300,001 – 2,000,000
17%
Từ năm thứ tư trở đi:
TAXABLE INCOME (S$)
0 – 300,000
300,001 – 2,000,000

TAX RATE
8.5%
17%

Cùng với đó, kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2003, Singapore đã thông qua
một hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp đơn tầng, có nghĩa là không đánh
thuế hai lần đối với các bên liên quan.
Có thể thấy, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập
cá nhân là một động thái tích cực, tác động trực tiếp đến không chỉ những
doanh nghiệp, cá nhân trong nước mà còn có tác dụng dụng khuyến khích
thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư cũng như thu hút nhân tài
làm việc tại Singapore.
b. Ưu đãi về quyền cư trú
Singapore áp dụng một ưu đãi đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài
so với các quốc gia khác. Đó là ưu đãi về quyền cư trú và nhập cảnh hay
còn gọi là đặc quyền về nhập cảnh và nhập quốc tịch. Nhà đầu tư nào có
vốn ký thác tại Singapore từ 2,5 triệu SGD trở lên và có dự án đầu tư được
Chính phủ Singapore chấp nhận, sau 5 năm hoạt động, nhà đầu tư và gia
đình họ được hưởng quyền công dân Singapore. Cụ thể, nếu nhà đầu tư

nước ngoài đầu tư vào công nghiệp chế biến sẽ được ngay quyền cư trú tạm
thời và sau 5 năm nếu mức đầu tư nhiều hơn sẽ được hưởng quyền cư trú
vĩnh viễn. Điều đó có tác dụng không chỉ thu hút đầu tư vốn nước ngoài mà
còn thu hút chất xám vào Singapore.
c.Một số biện pháp hỗ trợ khác đối với nhà đầu tư

Hỗ trợ góp vốn tài sản:
Chương trình góp vốn do EDB quản lý, quy định việc hỗ trợ vốn đối
với các nhà đầu tư tiềm năng thông qua cổ phần đầu tư liên tục và
lâu dài đối với nhà đầu tư. Cổ phần của EDB thường không được
vượt quá 30% vốn tự có của công ty. Theo chương trình này, những
công ty đầu tư 100% vốn hoặc liên doanh, liên kết với Chính phủ và
tư nhân Singapore trong các ngành công nghiệp mũi nhọn sẽ được
EDB hỗ trợ về vốn để thành lập doanh nghiệp ở Singapore. Sau khi
công ty làm ăn có lãi Chính phủ sẽ bán lại cổ phần cho tư nhân trong
và ngoài nước đã hùn vốn vào công ty đó.
− Hỗ trợ áp dụng công nghệ mới:

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Chương trình áp dụng công nghệ mới (INTECH) được tiến hành bởi
EDB nhằm khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào
phát triển nguồn lực trong ứng dụng công nghệ mới, công nghệ nghiên cứu
và phát triển, bí quyết kỹ thuật có tính chuyên nghiệp, thiết kế, phát triển
sản phẩm mới, chế biến dịch vụ cũng như hình thành năng lực trong một
công ty hoặc trong một nền công nghiệp.
INTECH hỗ trợ thông qua việc trợ cấp tài chính chiếm 30 - 50% chi
phí để đảm nhiệm các dự án khả thi. Cả nguồn lực và chi phí hạ tầng cơ sở
(bao gồm cả thiết bị và nhà xưởng) đều nằm trong chương trình này.

Đối với những dự án quan trọng mà ảnh hưởng tới nền kinh tế thì
mức chi phí khuyến khích còn cao hơn, cụ thể là 90% cho chi phí nhân lực
và 100% chi phí cho thiết bị nhà xưởng. Mức độ hoạt động và việc sử dụng
công nghệ sẽ được kiểm tra một cách nghiêm túc để đánh giá việc đóng
góp hiệu suất của công nghệ mới, việc mở rộng hỗ trợ phải gắn liền với
những đóng góp của công nghệ mới.

Hỗ trợ thuê người máy (Robot):
Chương trình này áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng
như các doanh nghiệp địa phương ở qui mô lớn mà thành lập doanh nghiệp
và vận hành doanh nghiệp đó trong lãnh thổ Singapore.
Theo chương trình này thì số tiền tài trợ cho việc thuê mướn hoặc
những hiệp định cho thuê cầm cố tối đa là 3 triệu SGD sẽ được hoàn trả
trong vòng 3-7 năm, với lãi suất là 3,5%/năm đối với các doanh nghiệp địa
phương vừa và nhỏ và 4,5%/năm cho các doanh nghiệp nước ngoài và các
doanh nghiệp lớn khác.
Thực chất chương trình hỗ trợ này là một trong những biện pháp của
Chính phủ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng thiết bị hiện đại
có hàm lượng công nghệ cao vào sản xuất, song đó cũng là một điểm hấp
dẫn các nhà ĐTNN muốn đầu tư các thiết bị hiện đại ứng dụng vào sản
xuất, kinh doanh ở Singapore.

Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D):
Chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển được tiến hành bởi Hội
đồng khoa học Singapore, quy định về trợ cấp tài chính cho các nhà đầu tư
trong và ngoài nước đầu tư để tiến hành nghiên cứu và phát triển công nghệ
quan trọng. Mỗi chương trình trợ cấp tài chính đó chiếm khoảng 30% 70% chi phí trực tiếp của dự án, trong đó bao gồm cả chi phí về nhân công,
thiết bị, nguyên liệu, và chi phí sử dụng. Nếu dự án này mang lại những lợi
ích kinh tế quan trọng thì một phần chi phí của dự án sẽ được chia cho các
cổ đông của công ty. Điều này có tác động kích thích, khuyến khích các

nhà đầu tư đầu tư vào các dự án nghiên cứu và phát triển, vì nếu dự án đó
không mang lại kết quả như mong muốn thì họ cũng được Chính phủ hỗ trợ
tới 30%- 70% chi phí.
Tóm lại, việc Chính phủ Singapore ban hành hàng loạt các chính sách
ưu đãi, các biện pháp hỗ trợ đối với nhà ĐTNN đã góp phần làm tăng sức
hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Singapore, nâng cao khả năng cạnh tranh
thu hút FDI của nước này so với các quốc gia khác trong khu vực.
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


2.3.3. Đa dạng hóa hình thức và đối tác đầu tư
− Hình thức đầu tư
Singapore đã cho phép các nhà ĐTNN đầu tư thông qua nhiều hình
thức khác nhau như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên
doanh, khu chế xuất, hợp tác kinh doanh... Mọi hoạt động thương mại tại
Singapore phải được đăng ký tại Cơ quan đăng ký các công ty và doanh
nghiệp (RCB). Các nhà ĐTNN có thể điều hành doanh nghiệp của họ dưới
một trong những hình thức sau đây:

Quyền sở hữu duy nhất (sole proprietorship): Một cá nhân hoạt động
với tư cách một thương nhân duy nhất, theo qui định của đạo luật về đăng
ký kinh doanh.

Hợp tác kinh doanh (partnership): Từ 2 đến 20 người hợp tác kinh
doanh, theo qui định của đạo luật về đăng ký kinh doanh.

Công ty cổ phần (incorporated company): Gồm không quá 50 cổ

đông, hoạt động như một công ty trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn, theo các
điều khoản của Luật công ty.

Công ty nước ngoài (foreign company): Đăng ký như công ty nhánh
của một công ty mẹ, theo những qui định của luật công ty, nhưng không cổ
phần hóa như một công ty Singapore.

Văn phòng đại diện (representative office): Văn phòng của những
công ty nước ngoài, đảm trách các hoạt động quảng bá và liên lạc nhân
danh công ty mẹ. Hình thức tổ chức này không được tham gia vào các hoạt
động thương mại như ký hợp đồng, tư vấn thu phí, chuyển hàng hóa theo
tàu, mở tín dụng thư hay thương thảo về tín dụng thư trực tiếp hoặc nhân
danh công ty mẹ.
Ngoài các hình thức FDI trên thì các phương thức đầu tư mới và hoạt
động mua lại và sáp nhập (M&A) ở Singapore cũng không có bất kỳ sự hạn
chế nào. Trong Luật công ty có các quy định liên quan đến việc mua các
công ty cổ phần, ngoài các qui định trong luật này còn có Bộ luật về mua
và sáp nhập công ty, là các văn bản dưới luật.
− Đối tác đầu tư
Singapore chủ trương “không phân biệt” để tận dụng khả năng vốn
của nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, các đối tác được Singapore quan
tâm nhiều hơn là các công ty Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu với uy tín lâu đời, kinh
nghiệm quản lý, đầu tư hiện đại, nguồn vốn dồi dào, công nghệ cao để phát
triển đất nước. Xác định thu hút đầu tư từ những nước công nghệ cao đó,
Singapore đặc biệt chú ý tới việc thu hút đầu tư từ TNCs, hy vọng họ xây
dựng nhà máy tại Singapore để không chỉ tạo ra việc làm mà còn dần đưa
công nghệ cao vào trong nước, giúp các công ty trong nước có thể theo kịp
sự phát triển của công nghệ trên thế giới từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
2.3.4. Củng cố cơ sở hạ tầng để thu hút FDI
Với quan điểm Nhà nước nắm giữ chức năng chủ yếu trong xây dựng

kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường thu hút FDI, ngay từ
những năm 60 cho đến nay, Singapore đã chủ trương xây dựng kết cấu hạ
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


tầng kỹ thuật cho sự ra đời các khu công nghiệp tập trung như: xây dựng
các khu đất công nghiệp, kho bãi nhà xưởng, đường xá bến cảng. Công
việc xây dựng kết cấu hạ tầng công nghiệp được giao cho EDB đảm nhận.
Người đi đầu thực hiện công việc này là công ty phát triển và quản lý tài
sản công nghiệp Jurong. Đây là công ty nhà nước được thành lập năm 1968
đứng ra xây dựng một vùng công nghiệp tập trung lớn nhất Singapore. Đến
nay, Singapore đã có 8 khu mậu dịch tự do, và rất nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất.
Bên cạnh việc đầu tư thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất, điểm nổi
bật là Singapore đã không ngừng đầu tư cho các công trình giao thông
đường thủy, đường bộ và đường hàng không. Đơn cử như việc đầu tư cho
tuyến đường cao tốc MRT (được ví như xương sống xuyên suốt cả nước),
sau khi con đường được xây dựng có đến 40% các doanh nghiệp và khu
công nghiệp đóng gần tuyến đường này.
2.3.5. Chính sách tiền lương và nguồn nhân lực trong thu hút đầu tư
Hiện nay, theo qui định của Singapore, lao động có tay nghề thấp có mức
lương dưới 2500 SGD/tháng (việc tuyển lao động loại này chịu một số hạn
chế) còn lương trung bình của công nhân kỹ thuật có tay nghề là: 2300 2700 SGD/tháng, lương của lãnh đạo quản lý là: 5700 - 6000 SGD/tháng,
lương đối với kỹ sư là: 3200 - 3500 SGD/tháng. Điều này chẳng những
động viên lực lượng lao động có tay nghề và trình độ cao mà còn góp phần
nâng cao chất lượng lao động nhằm thu hút FDI.
Về vấn đề tuyển dụng và đào tạo lao động để giải quyết lao động cung cấp
cho khu vực có vốn FDI, Chính phủ Singapore đã xây dựng hệ thống
trường chuyên nghiệp, hợp tác với nước ngoài để tổ chức các trung tâm đào
tạo, tuyển chọn nhân viên ra nước ngoài tập huấn chuyên môn, đồng thời

các doanh nghiệp trong nước đều chủ động tiến hành bồi dưỡng đối với
công nhân viên chức để đào tạo một lực lượng nhân tài, đảm bảo đáp ứng
nhu cầu về lao động cho việc thu hút FDI.
Đặc biệt vấn đề đào tạo và tái đào tạo lao động được Singapore rất
quan tâm, Chính phủ đã lập Quỹ phát triển kỹ năng (năm 1979) do EDB
quản lý (đến năm 1996 thì được chuyển cho Hội đồng năng suất và Tiêu
chuẩn - PSB) nhằm đưa ra các khoản trợ cấp ưu tiên cho việc đào tạo nhân
công và tái đào tạo những nhân công bị cắt giảm thông qua chương trình
trợ cấp đào tạo. Quỹ này do giới chủ đóng góp 4% mức lương hàng tháng
của các ông chủ (người trả lương cho công nhân thấp hơn mức qui định) là
một cách hiệu quả để các công ty tăng cường nâng cao kỹ năng cho công
nhân. Sau cuộc khủng hoảng 1985 thì mức thuế này giảm xuống 1% nhưng
vẫn có vai trò quan trọng trong việc nâng cao kỹ năng cho người lao động.
Quỹ này được sử dụng để trợ cấp cho đào tạo và tái đào tạo người lao
động, cụ thể tỷ lệ trợ cấp như sau:

Đào tạo trong nước (bao gồm đào tạo công nghệ và thực hành)
2SGD/người/giờ.

Đào tạo ở nước ngoài: 80 SGD/ người/ngày, tối đa một khóa là 12
tuần.
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Đào tạo chung (có chuyên gia nước ngoài): 30, 50, 70% của mức tối
đa là 10 SGD/người/giờ.
Bên cạnh vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong nước, Singapore còn có
chính sách thu hút nhân tài từ các quốc gia khác sang làm việc tại nước này.
Yêu cầu đặt ra trong chính sách thu hút nhân tài của Singapore giai đoạn
2006 đến nay đó chính là hạn chế tuyển dụng lao động nước ngoài có kỹ

năng thấp, với nguồn lao động có kỹ năng cao phải tạo mọi điều kiện thuận
lợi cũng như có chính sách ưu đãi hấp dẫn.
Với những người lao động có tay nghề thấp thì mức lương mà họ được
hưởng chỉ dưới 2.500 đôla Singapore và phải chịu một số ràng buộc như
không được đưa người thân sang sống cùng, phải trả một số mức phí cao.
Ngược lại với những người có tay nghề cao mức lương bao giờ cũng đảm
bảo trên 2.500 đôla Singapore, sau khi được nhận việc thì chỉ sau vài ngày
họ đã được cấp giấy phép cũng như được quyền đưa người thân sang sống
cùng.
Chính phủ Singapore còn cho phép sinh viên có khả năng theo học tại Đại
học quốc gia Singapore (NUS) có thể vay tiền tiếp tục công việc học tập,
với điều kiện sau khi tốt nghiệp phải có nghĩa vụ làm việc cho một công ty
của Singapore trong thời hạn tối thiểu ba năm để trả nợ. Với cách làm này,
Singapore luôn có nguồn lao động chất lượng cao được bổ sung hàng năm
để làm việc cho các công ty tại Singapore.
Có thể nói, chưa bao giờ cạnh tranh thu hút nhân tài lại gay gắt như
hiện nay, trong đó Singapore được nhìn nhận là nước có sách lược thu hút
nhân tài nước ngoài bài bản nhất. Chủ tịch tập đoàn của 4000 công ty nước
ngoài tại Singapore được hãng tư vấn Gallup phỏng vấn năm 2003 đều thừa
nhận Singapore là một địa điểm hấp dẫn lao động nước ngoài hàng đầu
trong số 29 nền kinh tế có dân số dưới 20 triệu người.
Nói tóm lại, chính sách tiền lương biến đổi phù hợp và linh động cũng
như chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, thu hút nhân tài đã là một
ưu điểm nổi bật làm nên một môi trường đầu tư Singapore vô cùng hấp dẫn
đối với nhà đầu tư nước ngoài.
2.3.6. Chú trọng tới công tác xúc tiến đầu tư
Ngay từ năm 1961, EDB đã được thành lập với ngân sách là 25 triệu
USD chiếm 4% GDP. EDB được tổ chức thành 4 ban: Xúc tiến đầu tư, Tài
chính, Dịch vụ tư vấn dự án và tư vấn kỹ thuật, Tạo thuận lợi cho công
nghiệp.

Do hoạt động ngày càng phức tạp hơn nên từ năm 1968, EDB chỉ
chuyên môn hóa xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển công tác tài
chính cho ngân hàng Phát triển Singapore, dịch vụ tư vấn kỹ thuật và dự án
cho Hội đồng Năng suất và Tiêu chuẩn, còn Tạo thuận lợi cho công nghiệp
thì được chuyển sang cho công ty Jurong Town (JTC).
Sự chuyên môn hóa của EDB trong công tác xúc tiến đầu tư cho thấy
Chính phủ đặc biệt quan tâm tới hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài, tăng
cường quảng bá và luôn dành sự tư vấn hỗ trợ tốt nhất cho các dự án đầu tư
nước ngoài. Sự quan tâm này còn thể hiện cụ thể thông qua việc Chính phủ


Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


tăng cường đầu tư cho hoạt động này. Đơn cử như năm 1999, Singapore đã
chi 45 triệu SGD (chiếm 14,06% ngân sách Nhà nước) cho hoạt động xúc
tiến đầu tư, trong khi đó con số này ở các nước như Thái Lan (1,49% ngân
sách), Malayxia (0,66% ngân sách), ở Philipin (0,04% ngân sách). Mặt
khác, EDB cũng đã duy trì các mối quan hệ hết sức chặt chẽ với các cơ
quan này và vẫn hoạt động như cơ quan một cửa. Điều này tạo điều kiện rất
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vì cơ chế hành chính thông suốt và
hoạt đông ăn khớp.
Bên cạnh đó, nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư ở địa phương đã được
thành lập. Cùng với việc thực hiện thu hút và hỗ trợ các nhà đầu tư nước
ngoài, công tác quảng bá về đất nước con người và môi trường đầu tư của
Singapore cũng rất được chú trọng. Ban quản lý kinh tế và Ban phát triển
thương mại có những văn phòng rộng khắp trên toàn cầu nhằm cung cấp
thông tin và trợ giúp cho những đối tác nước ngoài muốn làm ăn kinh
doanh, hay đầu tư vào Singapore.
Các thông báo cụ thể và trợ giúp về việc thành lập doanh nghiệp,

thuế, thị trường và những hoạt động khác có thể có được từ ủy ban vật giá
Singapore (Price Waterhouse). Ngoài các thông tin về nền kinh tế, các
ngành và cơ chế quản lý nói chung, còn có các ấn phẩm, các trang web
cung cấp sự hỗ trợ về thủ tục cấp phép cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn trang
web Đăng ký thành lập công ty (the Registry of Companies) cung cấp đầy
đủ thông tin và các mẫu đơn cần thiết có thể tải xuống một cách dễ dàng từ
Internet.
2.4 Đánh giá chung về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Singapore giai đoạn 2006-2015
2.4.1. Khái quát một số kết quả đạt được
Mặc dù khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2008,
nhưng nguồn vốn FDI vào Singapore vẫn tăng lên (từ 24.006,1 triệu USD
năm 2009 lên 63.997,2 triệu USD năm 2011). Mặc dù, năm 2012, nguồn
vốn FDI tuy có sụt giảm so với năm 2011, song con số 56.700 triệu USD
vẫn khá cao và đứng đầu khối ASEAN.

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Biểu đồ 2.1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapore giai
đoạn 2010-2014.

Nguồn: Cơ quan thống kê quốc gia Singapore
-Một số xếp hạng của Singapore
Thành phố có tiềm năng đầu tư tốt nhất thế giới
Singapore được đánh giá là thành phố có tiềm năng đầu tư tốt nhất thế giới.
Trongbáo cáo của BERI (Business Enviroment Risk Intellidence) quý
I/2014 (tháng 4 năm 2014), viện nghiên cứu Hoa Kỳxếp hạng Singapore
đứng thứ nhất trong số 50 điểm đến đầu tư lớn trên thế giới xét trên các tiêu
chí hoạt động, chính trị và ngoại hối. Không có hạn chế về việc chuyển lợi

nhuận, nhập khẩu vốn, cùng với các điều kiện hoạt động thuận lợi nhất và
quan hệ ngoại giao mạnh mẽ, đồng thời thể chế chính trị và kinh tế ổn định
của Singapore tạo ra một môi trường lý tưởng để đầu tư.
Singapore có môi trường kinh doanh tốt nhất trongkhu vực châu Á Thái
Bình Dương và trên thế giới.

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Theo EIU (Economist Intelligence Unit) và dự thảo Báo cáo Quốc gia năm
2014, Singapore được xếp hạng đất nước hấp dẫn nhất để đầu tư trong khu
vực châu Á và trên toàn cầu. Các yếu tố được xem xét cho mục đích xếp
hạng là các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, thị trường lao động, cơ sở hạ
tầng phát triển và sự hiệu quả của thị trường tài chính.
+ Singapore đứng thứ 3 Thế giới về quốc gia ít tham nhũng nhất ( sau New
Zealand và Phần Lan )
Theo Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2013-2014, Singapore là quốc gia ít
tham nhũng nhất trong khu vực và có tính minh bạch cao do sự ổn định và
minh bạch của Chính phủ, sự nghiêm ngặt của luật pháp áp dụng cho các
giao dịch kinh doanh.
+ Singapore đứng đầu thế giới về năng suất lao động
Dựa trên báo cáo môi trường kinh doanh rủi ro BERI (Business
Enviroment Risk Intelligence Report) năm 2014, Singapore được hưởng
xếp hạng cao nhất về lực lượng lao động, đánh giá trên năng suất lao
độngvà thái độ lao động, cùng với công nghệ tiên tiến và chi phí lao động
cạnh tranh so với giá trị của hàng hóa và dịch vụ sản xuất.
+Singapore đã vượt lên vị trí thứ 9 trong bảng xếp hạng FDI 2014 toàn
cầu
Dựa trên kết quả điều tra phiếu thăm dò của rất nhiều Tổng Giám đốc điều
hành các Tập đoàn lớn trên thế giới do Công ty Cố vấn toàn cầu AT

Kearney thực hiện. Năm 2013, Singapore đã thu hút tổng vốn FDI đạt
128,4 tỷ USD tăng 7% so với năm 2012. Một số lợi thế được đánh giá cao
của Singapore là Singapore là nước có mức thuế thu nhập doanh nghiệp
tương đối thấp, nguồn lao động chất lượng cao dồi dào; đóng một vai trò
quan trọng như là một trung tâm của khu vực được ưa thích, trung tâm
nghiên cứu và phát triển (R&D) cho nhiều quốc gia khi Cộng đồng kinh tế
ASEAN được định hình vào năm tới. Chỉ có 3 nước ASEAN được nằm
trong bảng xếp hạng chỉ số tin cậy FDI toàn cầu 2014, đó là Singapore ở vị
trí thứ 9, Malaysia ở vị trí thứ 15 và Indonesia ở vị trí thứ 25. Hoa Kỳ vẫn
duy trì ở vị trí đầu tiên kể từ khi bắt đầu đánh giá xếp hạng từ năm 1998.
2.4.2 Hạn chế và thách thức
Thứ nhất là, song song với việc mở cửa rộng rãi để thu hút FDI,
Singapore vẫn duy trì những hạn chế nhất định trong một sổ lĩnh vực.
Điển hình là lĩnh vực bưu chính viễn thông, truyền thông và báo chí,
các dịch vụ tài chính luật pháp, và quyền tài sản. Thành lập doanh nghiệp
có những qui định hạn chế quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể
là:
- Đối với truyền thông, các lĩnh vực như báo chí, phát thanh truyền hình
được phép hoạt động tự do, thì vẫn hầu như đóng cửa với nhà đầu tư nước
ngoài. Mục 44 Luật phát thanh truyền hình Singapore hạn chế quyền sở hữu
cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài cho các hãng nội địa không vượt
quá 49%. Ngoài ra luật này cũng qui định rằng một cá nhân sẽ không được
nắm giữ trên 5% cổ phiếu của một công ty nếu không được tán thành trước.

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


Việc phát hành báo chí và các ấn phẩm cũng giới hạn quyền sở hữu của
mỗi cổ đông (cả trong và ngoài nước) đều không được vượt quá 5%. Đồng
thời giám đốc các công ty phát thanh, phát hành báo chí phải là công dân

Singapore, các công ty này phải phát hành 2 loại cổ phiếu, cổ phiếu thường
và cổ phiếu quản lý, trong đó cổ phiếu quản lý chỉ có công dân Singapore
có quyền nắm giữ.
- Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, mặc dù năm 1999, Chính phủ đã
hủy bỏ qui định về quyền sở hữu tối đa 40% cổ phần ngân hàng của các
nhà đầu tư nước ngoài và giới hạn 20% số cổ phiếu trong các công ty tài
chính song chính phủ cũng tuyên bố sẽ không tán thành bất kỳ ngân hàng
nước ngoài nào được phép mua lại các ngân hàng trong nước.
Tuy đã được tự do hóa hơn song, các ngân hàng nước ngoài vẫn gặp phải
những rào cản nhất định như: giới hạn về vùng dịch vụ, hay như trong việc
tiếp cận hệ thống ATM địa phương.
Có thể thấy trên đây là những ngành còn hạn chế đối với đầu tư nước ngoài
ở Singapore. Mặc dù là những ngành khá nhạy cảm, song việc hạn chế đầu
tư vào các ngành này cũng làm giảm bớt sức hấp dẫn của môi trường đầu
tư Singapore, trong tương lai, có lẽ Chính phủ Singapore sẽ nghiên cứu để
dần xóa bỏ bớt các rào cản đầu tư trong các lĩnh vực này, để tăng cường hội
nhập quốc tế và thu hút ĐTNN.
Thứ hai, hoạt động thu hút FDI của Singapore gặp phải sự cạnh
tranh quyết liệt đặc biệt là Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ.
Hiện nay Singapore còn gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ của các
nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, Hồng Kông và mới đây là Ấn
Độ, đây cũng là những thách thức lớn đối với Singapore trong việc thu hút
FDI.
Ngoài những hạn chế và thách thức có tác động trực tiếp đến thu hút
FDI của Singapre, còn phải kể đến nhiều tác động trái chiều khác của hoạt
động này.
Đó là vấn đề “sân chơi không bình đẳng” giữa các doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, vấn đề này càng trở nên khó khăn
hơn khi các doanh nghiệp nước ngoài có qui mô vốn lớn, công nghệ hiện
đại chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong nền kinh tế Singapore. Lợi thế của

họ là do chính sức mạnh kinh tế của họ đem lại, chứ không đơn thuần là ưu
đãi từ Chính phủ. Hơn nữa việc mở cửa thu hút đầu tư làm cho nền kinh tế
Singapore không khỏi phụ thuộc vào bên ngoài, ngay cả đối với nguồn lao
động cũng phải được đào tạo theo hướng đáp ứng yêu cầu bên ngoài. Điều
này không tạo ra được sự sáng tạo trong dân chúng, không tạo ra được một
cơ cấu lao động một cách chủ động để có thể chuyển dịch nhanh chóng nền
kinh tế sang trình độ cao hơn và yêu cầu giữ vững, tiếp tục tăng cường
năng lực cạnh tranh đã giành được trên thị trường khu vực và thế giới.
Ngoài ra, Singpapore cũng phải đương đầu với hiện tượng chảy máu
chất xám, trong những năm gần đây có nhiều luật sư, những nhà quản lý
giỏi của Singapore đã ra nước ngoài làm việc với mức lương và điều kiện

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


tốt hơn, nhiều công chức nhà nước đã chạy sang khu vực tư nhân, đặc biệt
là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài để làm.
Nói tóm lại, hoạt động thu hút FDI của Singapore trong những năm
qua đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế của nước này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đạt được, thực trạng thu hút FDI của Singapore vẫn còn tồn tại một số hạn
chế, việc thực thi các chính sách thu hút FDI cũng kéo theo một số tác
động phụ không mong muốn. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt và khốc liệt, chắc chắn Singapore sẽ cần phải nghiên cứu để hạn chế
bớt các tác động tiêu cực của hoạt động này, cũng như cải thiện hơn nữa
môi trường đầu tư để tăng sức cạnh tranh trong khu vực và trên trường
quốc tế.

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5



20
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20062015 VÀ KINH NGHIỆM TỪ CHÍNH SÁCH CỦA SINGAPORE ĐỐI
VỚI VIỆT NAM
3.1 Khái quát về chính sách và tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam giai đoạn 2006-2015
3.1.1.Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của VN giai đoạn
2006-2015
Biểu đồ 3.1. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.

Nguồn: Tổng cục thống kê
Giai đoạn 2007 - 2009 được coi là giai đoạn bùng nổ ĐTNN tại Việt
Nam. Năm 2007, vốn đăng ký có bước tiến vượt bậc với 21,3 tỷ USD, tăng
77,8% so với năm 2006. Năm 2008 là năm thu hút đỉnh cao của đầu tư nước
ngoài với vốn đăng ký đạt trên 71,7 tỷ USD, tăng hơn 3 lần so với năm 2007,
đây là năm có số vốn FDI đăng ký cao nhất trong lịch sử thu hút ĐTNN vào
Việt Nam.
Trong năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn
tới điều chỉnh chính sách đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia, dòng vốn đầu tư
toàn cầu suy giảm, cạnh tranh thu hút ĐTNN càng trở nên gay gắt, ĐTNN vào
Việt Nam đã suy giảm đáng kể, đạt 23,1 tỷ USD, tuy chỉ bằng 30% so với cùng
kỳ năm 2008 nhưng cũng là một mức cam kết khá cao trong bối cảnh suy thoái
kinh tế toàn cầu. Như vậy, chỉ tính từ năm 2007 đến năm 2009, Việt Nam đã
thu hút được 3.993 dự án ĐTNN với vốn đăng ký đã đạt 116,4 tỷ USD, cao
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


21
hơn gần 2,1 lần so với mục tiêu đề ra (55 tỷ USD) cho cả giai đoạn 5 năm 2006

- 2010.
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nên ĐTNN trong giai đoạn
từ năm 2010 – 2012 có giảm nhẹ. Năm 2010 Việt Nam thu hút được 19,88 tỷ
USD, năm 2011 là 15,6 tỷ USD, và năm 2012 là 16,34 tỷ USD vốn đăng ký
đầu tư. Như vậy, tính chung cả giai đoạn 2010 đến 2012, Việt Nam đã thu hút
được 3715 dự án ĐTNN với vốn đăng ký đạt 51,8 tỷ USD, bằng 72% so với
vốn đăng ký của riêng năm 2008.
Năm 2013, Việt Nam đã thu hút được 1.530 dự án với vốn đăng ký đạt
22,3 tỷ USD, tăng 36% so với năm 2012. Trong 9 tháng năm 2014, các nhà đầu
tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 11,18 tỷ USD.
Có thể thấy, ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh
tế thời kỳ hội nhập. Nếu trong giai đoạn trước hội nhập (giai đoạn 2001-2006),
ĐTNN đóng góp khoảng 16% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, giai đoạn
2007-2014, với sự gia tăng đáng kể về vốn giải ngân, khu vực ĐTNN đóng góp
đáng kể vào vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, năm 2007 là 24,8%, năm 2008 là
30,9%, năm 2009 là 25,7%, năm 2010 là 25,8%, năm 2011 là 24,5%, năm
2012 là 21,6% và năm 2013 là 22% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội. Trong 6 tháng đầu năm 2014, tỷ trọng này tăng lên là 25,1%.
Giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN trong giai đoạn này cũng gia
tăng đáng kể, chiếm khoảng 47,8% (nếu không kể dầu thô) tổng xuất khẩu cả
nước, nếu tính cả giá trị xuất khẩu dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 58,2%.
Đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP cũng gia tăng mạnh mẽ trong
giai đoạn này, cùng với sự tăng trưởng xuất khẩu. Tỷ trọng khu vực ĐTNN
trong GDP năm 2007 tăng lên 17,66% (so với 17,02% năm 2006), năm 2008
đã tăng lên 18,68% GDP và năm 2009 đạt 18,33% GDP, năm 2010 đạt 18,72%
GDP, năm 2011 đạt 18,97% GDP, năm 2012 đạt 18,09% GDP.
Trong năm 2015, cả nước có 2.120 dự án ĐTNN mới được cấp giấy
chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD, bằng 99% so với
cùng kỳ năm 2014. Ngoài ra, có 918 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với
tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,77 tỷ USD, tăng 43,5% so với cùng kỳ năm

2014.
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong năm 2015, các nhà đầu tư
nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 24,115 tỷ USD, tăng 10% so với
cùng kỳ 2014 và tăng 9,6% so với kế hoạch năm 2015 (22 tỷ USD).
Theo Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính từ đầu năm đến
ngày 20/02/2016, Việt Nam đã thu hút được 291 dự án FDI cấp phép mới từ
31 quốc gia và vùng lãnh thổ với số vốn đăng ký đạt 1905,1 triệu USD, tăng
96,6% về số dự án và tăng 167,5% về số vốn so với cùng kỳ năm 2015. Trong
đó, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 435,2 triệu USD, chiếm 22,8% tổng
vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Malaysia 233,2 triệu USD, chiếm 12,2%;
Hàn Quốc 202,4 triệu USD, chiếm 10,6%; Nhật Bản 160,6 triệu USD, chiếm
8,4%...
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


22

Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


23

3.1.2. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.1.2.1. Luật và quy định liên quan đến FDI
Luật Đầu tư mới (có hiệu lực từ 1/7/2006) trao quyền phân cấp triệt để cho
các địa phương trong việc cấp giấy chứng nhận đầu tư đã tạo điều kiện thuận
lợi, thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư.
Việc ban hành Luật Đầu tư thống nhất (thay thế Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước và Luật Đầu tư nước ngoài) và các văn bản dưới Luật đã tạo ra
khuôn khổ pháp lý phù hợp hơn với thông lệ quốc tế cho các hoạt động đầu tư

ở Việt Nam, trong đó có mở rộng hình thức đầu tư, bãi bỏ nhiều rào cản và
thủ tục hành chính...
3.1.2.2. Các chính sách liên quan đến đến FDI
− Chính sách về thuế
• Theo nghị định 218/2013/ND-CP, thuế suất thuế TNDN là 22%,trừ
trường hợp các doanh nghiệp có tổng doanh thu không quá 20 tỷ
đồng/năm hoặc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tìm kiếm,
thăm dò,khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm của Việt Nam.
Kể từ 1/1/2016, những trường hợp thuộc diện áp dụng thuế suất 22%
quy định tại khoản này áp dụng thuế 20%.
• Hiện nay, theo quy định của Luật đầu tư 2005, nhà đầu tư được miễn
thuế nhập khẩu đối với hàng hóa bao gồm các thiết bị máy móc, vật tư,
phương tiện vận tải và hàng hóa khác để thực hiện dự án đầu tư ở Việt
Nam.
Ngoài ra VN còn ban hành một số chính sách ưu đãi về tài chính khác
liên quan đến chuyển lỗ trong kinh doanh và khấu hao tài sản.
− Chính sách về đất đai
Để thực hiện chính sách khuyến khích thu hút đầu tư trong đó có FDI, pháp
luật đất đai cũng có những điều chỉnh, bổ sung, cụ thể như: Nghị định số
17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số
điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số
187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
Nghị định số 123/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung
giá các loại đất; Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử
dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư; Nghị định số
88/2009/NĐ-CP về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất; Nghị định số 121/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 về thu
tiền thuê đất.

Chính sách đất đai nói chung mà chủ yếu là Luật Đất đai năm 2003 đã quy
định áp dụng cơ chế một giá đất phù hợp với giá đất trên thị trường trong điều
kiện bình thường; xoá bỏ cơ chế “xin - cho” về đất tạo điều kiện cho thị
trường chuyển quyền sử dụng đất hoạt động, thu hút vốn đầu tư của toàn xã
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


24
hội và vốn đầu tư nước ngoài để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đô
thị cũng như nông thôn; hình thành hệ thống quản lý công khai, minh bạch
trên cơ sở hệ thống đăng ký đất đai thống nhất và các trình tự thủ tục hành
chính rất rõ ràng; công khai hoá từ khâu quy hoạch sử dụng đất, cách tiếp cận
quỹ đất để thực hiện dự án đầu tư, trình tự bồi thường, hỗ trợ, tái định cư giải
phóng mặt bằng; xử lý đúng bản chất giá trị của việc chuyển đất nông nghiệp
sang sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, bảo đảm
quyền lợi của nhà đầu tư và quyền lợi của người bị thu hồi đất, tạo được cơ
chế bình đẳng thực sự giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất đã từng
bước hạn chế được bất cập trong việc giao đất; bảo đảm công khai và minh
bạch. Sự kết hợp hài hòa giữa chính sách tài chính đất đai với chính sách đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã giải quyết những vướng mắc về lợi ích
giữa nhà nước với nhà đầu tư; ổn định chi phí về đất đối với DN.
Số liệu thống kê tình hình sử dụng đất có vốn đầu tư nước ngoài thời kì 20002010 cụ thể như sau: Tổng diện tích đất có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng từ
35.068 ha năm 2005 lên 55.788 ha vào năm 2010, trong đó có 36.530 ha đất
do các nhà đầu tư 100% vốn nước ngoài. Bao gồm: đầu tư vào các khu công
nghiệp năm 2000 là 4.285 ha, đến năm 2005 tăng lên 5.196 ha và đến năm
2010 tăng mạnh đạt 12.317 ha; đầu tư vào đất ở tại đô thị năm 2000 chỉ có 1
ha,nhưng đến năm 2005 đã đạt con số 405 ha và năm 2010 là 437 ha; đầu tư
vào các cơ sở sản xuất kinh doanh: năm 2000 là 1.483 ha, năm 2005 đạt 4.768
ha và năm 2010 là 6.551 ha.

− Chính sách ngoại hối và chính sách giá
Doanh nghiệp FDI được hưởng một số ưu đãi liên quan tới chính sách ngoại
hối như việc các doanh nghiệp này được coi là đối tượng được hỗ trợ cân đối
ngoại tệ, khác với trước đây, khi các doanh nghiệp này thuộc đối tượng phải
đảm bảo nhu cầu về ngoại tệ. Nhà nước đã bãi bỏ quy định bắt buộc trả lương
cho người lao động bằng VND, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể trả
lương cho người lao động nước ngoài của mình bằng ngoại tệ. Mặt khác, các
doanh nghiệp này được phép mua ngoại tệ tại ngân hàng, kinh doanh ngoại tệ
để đảm bảo nhu cầu về ngoại tệ trong hoạt động của mình.
Sự phân biệt về giá-chủ yếu đối với điện nước, dịch vụ viễn thông giữa doanh
nghiệp vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước cũng được loại bỏ
dần. Chấm dứt chế độ 2 giá cũng có nghĩa là tạo sự công bằng trong cạnh
tranh cho mọi thành phần của nền kinh tế.
− Chính sách chuyển giao công nghệ
Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp tạo điều kiện
thuận lợi cho cá nhân, tổ chức hoạt động chuyển giao công nghệ phục vụ nhu
cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế xã hội của đất nước.
3.1.2.3. Những cam kết quốc tế của Việt Nam về đầu tư nước ngoài
Cùng với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính
sách về đầu tư nước ngoài, trong những năm gần đây VN đã kí kết, tham gia
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


25
các điều ước quốc tế song phương và đa phương về đầu tư nước ngoài. Đây
có thể được coi là một bước đi không thể tách rời trong tổng thể chính sách
khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
3.2. Bài học kinh nghiệm cho việc đổi mới chính sách thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở VN từ chính sách của Singapore giai đoạn 20062015
Từ những chính sách của Singapore như đã nêu ở trên, để đẩy mạnh việc thu

hút FDI, Việt Nam cần thực hiện tốt những giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp,
chính sách liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Sửa đổi ngay các nội dung
không còn phù hợp, không đồng bộ, thiếu nhất quán, còn bất cập, chưa rõ, bổ
sung các nội dung còn thiếu. Đặc biệt, chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư
phải được xây dựng theo hướng thuận lợi và có tính cạnh tranh hơn so với các
nước trong khu vực, nhất là môi trường đầu tư phải ổn định, có tính tiên
lượng và minh bạch.
Hai là, công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thông tin về quy hoạch để xây
dựng kế hoạch đầu tư. Tập trung hoàn thiện thể chế về quy hoạch nhằm nâng
cao chất lượng của các quy hoạch khi phê duyệt và tăng cường hiệu quả quản
lý nhà nước đối với công tác quy hoạch phục vụ đầu tư phát triển. Tăng
cường gắn kết giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng ưu tiên quỹ đất để thực hiện dự án có trong quy
hoạch đã được phê duyệt.
Ba là, đẩy mạnh thu hút đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; lựa chọn
các dự án tiềm năng hấp dẫn, có tính khả thi cao theo các lĩnh vực ưu tiên để
đưa vào danh mục dự án đối tác công - tư (PPP), bố trí nguồn vốn ngân sách
để đầu tư đối ứng cho các dự án PPP kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài. Đồng
thời, có chính sách ưu đãi đủ sức hấp dẫn đối với một số dự án hạ tầng kinh tế
- xã hội có quy mô lớn, có tính lan tỏa cao và tác động tích cực đến sự phát
triển chung.
Bốn là, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một
số ngành, sản phẩm trọng điểm. Đặc biệt, cụ thể hóa các tiêu chí xác định
ngành, sản phẩm được hưởng ưu đãi theo diện công nghiệp hỗ trợ, nâng mức
ưu đãi đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Trong đó, đặc biệt ưu đãi cao hơn cho các doanh nghiệp đầu tư theo chuỗi dự
án sản xuất sản phẩm lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ so với các dự án đơn lẻ.
Năm là, bên cạnh việc xúc tiến thu hút vốn FDI mới, cần tăng cường hỗ trợ,

ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư đang hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam.
Cụ thể:
- Thông qua việc áp dụng hệ thống giá cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Chính sách kinh tế đối ngoại 1 – Nhóm 5


×