Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA THÁI LAN GIAI ĐOẠN 20062015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.78 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
1.1. Cơ sở lý luận về chính sách đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1.1. Khái niệm chính sách đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là quá trình di chuyển quốc tế về vốn để thực hiện một hoặc
một số dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia, trong đó ít
nhất hai bên có quốc tịch khác nhau.
Chính sách đầu tư quốc tế là hệ thống các mục tiêu, nguyên tắc, công cụ và
phương pháp do nhà nước xây dựng và thực hiện để điều chỉnh các hoạt động đầu
tư quốc tế của một quốc gia, một vùng lãnh thổ hoặc một khối liên kết kinh tế trong
thời gian nhất định nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc
gia, vùng lãnh thổ, khối liên kết kinh tế đó.
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một hệ thống các mục
tiêu, nguyên tắc, công cụ và phương pháp do nhà nước xây dựng và thực hiện để
điều chỉnh các hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một quốc gia,
một vùng lãnh thổ hoặc một khối liên kết kinh tế trong thời gian nhất định nhằm
đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội của quốc gia, vùng lãnh thổ, khối liên kết kinh
tế đó
1.1.2. Chức năng của chính sách đầu tư quốc tế
1.1.2.1. Thu hút và phân bổ nguồn lực có hiệu quả
Phân bổ nguồn lực hiệu quả là một trong những nội dung quan trọng và là
điều kiện cần thiết để đảm bảo tính cân đối, góp phần lớn cho sự phát triển kinh tế.
Các nguồn lực có thể bao gồm các nguồn lực vật chất (nguồn lực lao động; nguồn
lực khoa học – công nghệ; nguồn vốn và nguồn lực tài nguyên thiên nhiên) và các
nguồn lực phi vật chất (thể chế chính trị; cơ chế quản lý và hệ thống chính sách;
1


đặc điểm tôn giáo, truyền thống, dân tộc, tính cộng đồng; kinh nghiệm quản lý sản
xuất kinh doanh).
Trong xu thế toàn cầu hóa, một quốc gia có chính sách đầu tư quốc tế hợp lý
sẽ góp phần thu hút, khai thác và phân bổ các nguồn lực phát triển giữa các quốc


gia, bổ sung sức sản xuất cho nhau, khai thác lợi thế của nhau. Khi đầu tư nước
ngoài tăng lên sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu cho ngân
sách và giải quyết việc làm, tăng sản phẩm xuất khẩu, học tập được kinh nghiệm
quản lý sản xuất kinh doanh. Giữa nguồn lực trong nước và nước ngoài có mối
quan hệ hỗ trợ, bổ sung, hợp tác với nhau.
1.1.2.2. Bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư.
- Với nhà đầu tư trong nước:
Chính sách đầu tư quốc tế có thể kiểm soát qua chính sách về thuế, khuyến
khích, hỗ trợ hay định giá các giá trị tài sản vốn góp chính xác hơn.
- Với nhà đầu tư nước ngoài:
Chính sách đầu tư quốc tế có thể bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài trong
trường hợp tranh chấp với các nhà đầu tư trong nước hay khi có trường hợp người
dân địa phương phản đối trên cơ sở pháp lý, giúp các nhà đầu tư nước ngoài có
điều kiện thuận lợi hơn trong việc phát triển đầu tư tại nước nhận đầu tư.
1.2. Các công cụ của chính sách đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.2.1. Các công cụ tài chính
Công cụ thuế và các loại phí
+Thuế nội địa.
+Thuế quan XK-NK, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài,
+Phí thuê quyền sử dụng đất, sử dụng các dịch vụ hạ tầng….

2


Công cụ điều tiết vốn đầu tư
+Quy định về hình thức góp vốn,
+Quy định về tỷ lệ góp vốn,
+Chính sách tín dụng
+Chính sách tỷ giá hối đoái,…
1.2.2. công cụ phi tài chính

+Xây dựng và thực hiện quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài
+Quy định về thủ tục thẩm định và cấp giấy phép đầu tư
+Quy định về đối tượng tham gia và lĩnh vực đầu tư
+Quy định về thời gian tối đa của dự án đầu tư
+Quy định về thủ tục và trách nhiệm của các bên tham gia giải phóng mặt bằng và
thực hiện đến bù.
+Quy định về tuyển dụng lao động
+Quy định về trách nhiệm xử lý ô nhiễm môi trường
+Quy định về đăng ký và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
1.3 Tổng quan về nền kinh tế Thái Lan
1.3.1 Tình hình chung về nền kinh tế Thái Lan
1.3.1.1 Địa lý và kinh tế
Với diện tích 514.000 km² (tương đương diện tích Việt Nam cộng với Lào),
Thái Lan xếp thứ 49 trên thế giới về diện tích, rộng thứ ba tại Đông Nam Á, sau
Indonesia và Myanma.
Thái Lan là mái nhà chung của một số vùng địa lý khác nhau, tương ứng với
các vùng kinh tế. Phía Bắc có địa hình đồi núi, với điểm cao nhất (2.576 m) là Doi
Inthanon. Phía Đông Bắc là Cao nguyên Khorat có biên giới tự nhiên về phía đông
là sông Mekong đây là vùng trồng nhiều sắn nhất của Thái Lan do khí hậu và đất
đai phù hợp với cây sắn. Trung tâm của đất nước chủ yếu là vùng đồng bằng sông
3


Chao Phraya đổ ra vịnh Thái Lan. Miền Nam là eo đất Kra mở rộng dần về phía
bán đảo Mã Lai.
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm 1960
Thái Lan thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần thứ nhất và đến nay là
kế hoạch thứ 9. Trong thập niên 1970 Thái Lan thực hiện chính sách "hướng xuất
khẩu", ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, Âu Châu là thị trường xuất khẩu chính của Thái
Lan. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong nền

kinh tế và vai trò của nông nghiệp giảm dần.
Hiện nay, Thái Lan là một nước công nghiệp mới. Sau khi đạt tốc độ tăng
trưởng thuộc loại cao nhất thế giới từ 1985 đến 1995, với tốc độ tăng trưởng trung
bình 9% mỗi năm, sức ép lên việc duy trì đồng baht tại Thái Lan tăng lên, dẫn đến
cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, lan rộng ra toàn khu vực Đông Á, bắt buộc
chính phủ phải thả nổi tiền tệ.
1.3.1.2 Xã hội và ngoại giao
Xã hội Thái Lan ở đầu bên kia của nấc thang giai tầng là những nguời đi làm
thuê. Đây là số người không có mảnh đất cắm dùi hoặc có quá ít đất không đủ để
cung ứng lương thực cho chính miệng ăn của họ: Thực tế có những gia đình nông
dân quá khó khăn phải kết hợp thêm săn bắt và hái lượm để sống. Giữa hai đầu của
hệ thống giai tầng trong xã hội Thái Lan đó có hai nhóm khác. Một là những người
có đủ ruộng đất để tự lực về lương thực. Những người này khi được mùa bội thu
hoặc có dịp đi làm công thêm bên ngoài sẽ có dư đôi chút. Đối với nhóm này,
lương thực họ làm ra thường để tự túc, không cung cấp cho thị trường như của giai
cấp phú nông. Nhóm thứ hai là những người có ít đất, phải dựa vào tiền công làm
thuê để phụ thêm vào số lương thực mà họ sản xuất không đủ cho nhu cầu. Không
phải tất cả nông dân đều nghèo.

4


Thực tế có nhiều nhà làm ăn khấm khá, đặc biệt là số nông dân ở vùng Trung
tâm Thái Lan. Tuy nhiên nhìn chung giới nông dân lĩnh canh có cuộc sống khá vất
vả. Khi nhận đất để canh tác, số lúa hay số tiền phải nộp là cố định, bất kể vụ mùa
đó họ thu được nhiều hay ít. Nếu gặp những vụ thất thu những người lĩnh canh này
sẽ rơi ngay vào cảnh nợ nần. Những người lĩnh canh và những người làm thuê
thường không có gì để lại cho con cái. Ở một số vùng, nhất là vùng Trung tâm, chủ
đất thường không sống tại chỗ mà cư ngụ ở Bangkok, và việc sở hữu đất đai ở
nông thôn là một hình thức đầu tư thu lợi. Những chủ đất này thường có những ảnh

hưởng thao túng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với đời sống xã hội và chính trị của
những nông dân lĩnh canh.
Về đối ngoại, Chính phủ của Thủ tướng Abhisit chủ trương tăng cường quan
hệ với tất cả các nước, tích cực phát huy vai trò của Thái Lan trong khu vực và
quốc tế, tích cực tham gia các hợp tác khu vực và tiểu vùng
(GMS, ACMECS, EWEC,…). Với cương vị Chủ tịch ASEAN nhiệm kỳ 2008 2009, Thái Lan đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN 14 (từ ngày 27
tháng 2 đến ngày 10 tháng 3 năm 2009), Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN (ngày 1623 tháng 7 năm 2009) và Hội nghị Cấp cao ASEAN và các nước đối tác (tháng
10 năm 2009). Tuy nhiên hiện nay, quan hệ Thái Lan – Camphuchia còn là vấn đề
nan giải, gây quan ngại cho nhiều nước. Thái Lan tham gia đầy đủ các tổ chức quốc
tế và tổ chức trong vùng. Thái Lan tăng cường mối quan hệ với các nước ASEAN.
Thái Lan thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 6 tháng 8 năm 1976.

1.3.1.3 Giáo dục
Hệ thống giáo dục của Thái Lan bao gồm 4 cấp học: giáo dục mẫu giáo, giáo
dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục cấp cao.
5


+Giáo dục mẫu giáo
Cấp học này dành cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, với mục tiêu phát triển về cơ
thể, trí não, tình cảm và xã hội cho các trẻ chưa vào học chương trình chính quy.
Giáo dục mẫu giáo có thể được thực hiện qua nhiều hình thức như các trung tâm
săn sóc trẻ em, các nhà trẻ và các trường mẫu giáo. Bộ Giáo dục đã đặt ở thủ phủ
của mỗi tỉnh một trường mẫu giáo để làm mô hình mẫu cho các trường mẫu giáo tư
thục. Vì cấp học này không bắt buộc nên bộ phận tư nhân đã giữ một vai trò năng
động trong hoạt động này. Hầu hết các trường ở cấp mẫu giáo là trường tư thục và
đặt ở Bangkok. Những trường này hoạt động dưới sự giám sát của Văn phòng Hội
đồng Giáo dục Tư thục, trực thuộc Bộ Giáo dục.
+Giáo dục tiểu học
Chương trình ở cấp học này đặt trọng tâm vào kỹ năng đọc viết, kỹ năng tính

toán, kỹ năng giao tiếp và những khả năng thích ứng với nghề nghiệp tương lai của
học sinh. Ở cấp độ này việc đến trường là cưỡng bách và miễn phí, dành cho trẻ em
từ 6 đến 11 tuổi. Nội dung chương trình là sự tổng hợp năm lĩnh vực học vấn: phát
triển các kỹ năng cơ bản, kinh nghiệm sống, phát triển nhân cách, giáo dục hướng
công việc và các kinh nghiệm đặc biệt. Lĩnh vực cuối cùng được triển khai vào
năm lớp 5 và lớp 6 là hai năm cuối của bậc tiểu học. Vì quá trình học tập của học
sinh ở những vùng khác nhau trong nước là không đồng nhất nên một chương trình
cốt lõi được đưa ra với sự linh động cho phép tùy theo đặc điểm của từng địa
phương. Giáo dục cấp tiểu học trực thuộc nhiều cơ quan khác nhau trong chính
phủ. Hầu hết những trường tiểu học công lập trực thuộc Văn phòng Hội đồng Giáo
dục Tiểu học Quốc gia của Bộ Giáo dục. Ngoài ra có những trường tiểu học sư
phạm thực nghiệm gắn liền với các trường cao đẳng hoặc đại học sư phạm của nó;
và các trường trong thành phố tự trị thì trực thuộc Bộ Nội vụ.
+ Giáo dục trung học

6


Giáo dục trung học được chia thành hai cấp, mỗi cấp học trong 3 năm.
Chương trình trung học cơ sở đặt trọng tâm vào tri thức đạo đức và các kỹ năng cơ
bản. Chương trình này nhằm giúp cho học sinh tự khám phá về sở trường và sở
thích của mình qua sự chọn lựa rộng rãi trong số các môn học cả về lý thuyết lẫn
hướng nghiệp. Chương trình trung học phổ thông có mục tiêu cung cấp những kiến
thức và kỹ năng phù hợp về lý thuyết và hướng nghiệp theo sở thích và sở trường
của học sinh. Những kiến thức và kỹ năng này sẽ ích lợi cho học sinh để tiếp tục
theo học chương trình cấp cao hoặc đi vào công việc lao động. Chương trình trung
học bao gồm 5 lĩnh vực lớn: ngôn ngữ, khoa học và toán, xã hội, phát triển nhân
cách và giáo dục việc làm: Trong chương trình này cũng có một phạm vi rộng gồm
các môn học có tính chất thăm dò tiền hướng nghiệp. Ở cấp học này có cả trường
công lập lẫn tư thục. Hầu hết các trường công lập trực thuộc Vụ Giáo dục Tổng

hợp của Bộ Giáo dục.
+Giáo dục cao cấp
Giáo dục ở cấp này đặt mục tiêu là sự phát triển đầy đủ về tri thức và sự tiến
bộ của tri thức và công nghệ. Ở cấp này có các trường cao đẳng, đại học, các học
viện hoặc các chương trình đặc biệt. Giáo dục cấp cao được chia thành 3 mức độ:
dưới cử nhân, cử nhân và trên cử nhân.
Mức độ dưới cử nhân có mục tiêu cung cấp cho người học những kiến thức
và kỹ năng hướng nghiệp ở trình độ trung cấp, trong đó có năng lực để vào nghề và
phát triển các cơ sở doanh nghiệp.
Mức độ cử nhân có mục tiêu phát triển kiến thức và những kỹ năng nghề
nghiệp của sinh viên ở trình độ cao hơn với nhiều môn học khác nhau, đặc biệt là
phát triển khả năng ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn về cả mặt học thuật lẫn
chuyên môn, khả năng gặt hái và quảng bá kiến thức, khả năng đóng góp vào sự
phát triển của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và môi
trường, và khả năng tăng cường vai trò của đất nước trong cộng đồng quốc tế.
7


Mức độ trên cử nhân có mục đích như phát triển những kiến thức và kỹ năng
chuyên sâu của người học, phấn đấu cho sự tiến bộ và ưu việt trong học thuật, đặc
biệt là trong học tập nghiên cứu và phát triển các kiến thức và công nghệ về khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, và thúc đẩy sự vận dụng công nghệ
hiện đại và tinh hoa tri thức của người Thái vào việc phát triển kinh tế và xã hội
cho Thái Lan.
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI CỦA THÁI LAN GIAI ĐOẠN 2006-2015
2.1 Lịch sử thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan
Thời kì trước 1980: trong thời kì đầu thu hút FDI rất hạn chế và chỉ mới
bước đầu tạo nền tảng cho tương lai.
Thời kì 1980-1989: giữa những năm đầu của thập niên 190 dòng vốn FDI

vào Thái Lan tăng trưởng mạnh hơn giai đoạn trước đây, tuy nhiên vẫn tương đối
nhỏ và biến động rất lớn do sự mất ổn định của nền kinh tế trong nước và trên thế
giới. Kể từ sau 1987, dòng vốn FDI vào Thái Lan bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ do
sự tăng lên của chi phí lao động và sự tăng giá của đồng tiền Nhật Bản và các nền
kinh tế công nghiệp mới ở Châu Á.
Thời kì 1990-1996: FDI vào Thái Lan bắt đầu giảm sau 1990 do một loạt sự
điều chỉnh cơ sở sản xuất của các công ty Nhật Bản và các nước công nghiệp mới
cũng như sự thiếu hụt về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Xu hướng FDI đã bị ảnh
hưởng bởi chu kỳ kinh doanh của các công ty Nhật.
Thời kì 1997-2000: sau khi đồng Baht được thả nổi và khủng hoảng tài chính
nổ ra 1997, dòng vốn FDI vào Thái Lan đã tăng lên đáng kể. Với việc đồng Baht
mất giá tới 38% đã làm tăng sức mua của nhà đầu tư nước ngoài và khuyến khích
việc mua lại.

8


Thời kì 2001- 2013: đây là thời kỳ FDI vào Thái Lan đạt được những thành
tựu nổi bật và sau đó cũng chứng kiến sự suy giảm mạnh từ cuối 2013 do bất ổn
chính trị khiến các nhà đầu tư nước ngoài e ngại tiếp tục đầu tư vào Thái Lan.
Trước tình hình đó Thái Lan đã thông qua một chiến lược mới cho giai đoạn 20152021 nhằm khôi phục vị thế Thái Lan trong thu hút FDI
2.2 Nội dung của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan
giai đoạn 2006 – 2015
2.2.1. Các công cụ tài chính
Giảm thuế, ưu đãi tài chính tiền tệ:
Thu nhiều lợi nhuận từ dự án luôn là mục đích hàng đầu của các nhà đầu tư
nước ngoài. Vì vậy, Thái Lan đã có những chính sách tài chính hấp dẫn cho các nhà
đầu tư như giảm thuế, ưu đãi tiền tệ, cho vay ngoại tệ để thu hút nhiều nhất nguồn
vốn FDI vào các nước này. Thái Lan miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 3 đến 8
năm, miễn thuế nhập khẩu 90% đối với nguyên liệu, 50% đối với máy móc mà

Thái Lan chưa sản xuất được, khấu trừ hai lần chi phí vận chuyển, điện và nước; bổ
sung 25% khấu trừ chi phí xây dựng và lắp đặt cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp.
Ngoài ra, Thái Lan còn có các chính sách ưu đãi về dịch vụ như : giảm giá thuê nhà
đất, văn phòng, cước viễn thông, vận tải… Giá dịch vụ ở Thái Lan thuộc loại hấp
dẫn nhất với việc thu hút FDI.
Thái Lan đặc biệt áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế nhập khẩu
đối với các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Các
dự án FDI trong nông nghiệp được miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu đối với các
loại máy móc, thiết bị để thực hiện dự án mà được cơ quan quản lý đầu tư công
nhận là thuộc loại thiết bị được khuyến khích đầu tư. Riêng đối với các dự án đầu
tư vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm xuất khẩu, được miễn giảm
hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm.

9


Đối với các dự án đầu tư và các lĩnh vực như trồng lúa, trồng trọt, làm vườn,
chăn nuôi gia súc, gia cầm, các dự án về khai thác lâm sản, hải sản, khai thác
muối… trong lãnh thổ Thái Lan thì có biện pháp hạn chế chặt chẽ, chỉ cho phép
đầu tư đối với những dự án được hội đồng đầu tư cho phép, trong những dự án này,
cũng chỉ cho phép với hình thức liên doanh và các nhà đầu tư nước ngoài không
được nắm phần sở hữu đa số.
Thái Lan cũng hạn chế đầu tư nước ngoài trong những ngành nghề nhất định
mà chưa thực sự sẵn sàng hợp tác với nước ngoài như: sản xuất bột mỳ, đánh bắt
thủy hải sản, khai thác lâm sản…
Là một quốc gia có nền nông nghiệp tương đồng với Việt Nam, thậm chí có
những điều kiện còn hạn chế hơn so với Việt Nam, tuy nhiên, Thái Lan đã vươn lên
trở thành một nước đứng đầu về xuất khẩu nông sản và với giá trị nông sản xuất
khẩu cao hơn hẳn so với Việt Nam. Nguyên nhân có được điều đó là do Thái Lan
đã biết định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việc khai thác đặc sản của từng

vùng thậm chí cả những vùng khó khăn nhất. Chính chính sách này đã làm cho nền
nông nghiệp Thái Lan có được những lợi thế về chất lượng và giá cả trên thị trường
nông sản thế giới và hơn nữa, nông sản Thái Lan đã tạo được một thương hiệu tốt
trên thị trường, điều mà nông sản Việt Nam vẫn đang tìm kiếm.
Chính sách ưu đãi thuế
Thái Lan có cơ quan chuyên trách về ưu đãi đầu tư (Cục Đầu tư - Board of
Investment - BOI) để xét ưu đãi cho từng dự án có đơn xin và phân loại dự án đầu
tư theo tác động của dự án đó đến nền kinh tế của cả nước chứ không phải chỉ bất
kỳ vùng miền nào.
Cụ thể là, việc ưu đãi đầu tư được phân thành hai nhóm - nhóm A (các lĩnh
vực được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp) và nhóm B (các lĩnh vực có
thể được hưởng các ưu đãi dạng khác).

10


Nhóm A bao gồm các danh mục từ A1-A4, tương ứng với những mức ưu đãi
miễn thuế khác nhau. Các dự án này còn được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết
bị hay nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Nhóm B bao gồm các lĩnh vực đầu tư được địa phương ưu đãi ngoài thuế,
như quyền được sở hữu đất hay được hỗ trợ cấp thị thực, giấy phép lao động cho
lao động nước ngoài. Với những dự án quan trọng, còn có thể được miễn thuế xuất
nhập khẩu.
Để tránh trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng Thái Lan như một thị
trường nhân công giá rẻ, hoặc thành lập doanh nghiệp chỉ để hưởng ưu đãi, Chính
phủ Thái Lan quy định để được hưởng ưu đãi thì doanh nghiệp phải tạo ra ít nhất
20% giá trị bán hàng tại Thái Lan, tỷ lệ nợ trên vốn không được thấp hơn 3:1, và
phải sử dụng máy móc, thiết bị mới.
Ưu đãi về địa bàn đầu tư ( dựa trên thu nhập bình quân đầu người)
Thái Lan chia thành 3 vùng để áp dụng chính sách ưu đãi khác nhau. Đồng

thời, ưu đãi đầu tư trong KCN và ngoài KCN cũng có sự phần biệt
Thuế nhập khẩu
Vùng 1
Vùng 2
Vùng 3

Ngoài KCN
Giảm 50%
Giảm 50%
Miễn thuế nhập khẩu

Trong KCN
Giảm 50%
Miễn thuế nhập khẩu
Miễn thuế nhập khẩu

Hiện nay thuế suất phổ thông thuế thu nhập doanh nghiệp Thái Lan là 20%
Thuế thu nhập doanh
nghiệp
Vùng 1
Vùng 2
Vùng 3

Ngoài KCN
Không được ưu đãi
Miễn thuế 3 năm
Miễn thuế 8 năm

2.2.1.2 Quy định về tỷ lệ góp vốn


11

Trong KCN
Miễn thuế 3 năm
Miễn thuế 7 năm
Miễn thuế 8 năm


Chính phủ Thái lan khuyến khích các nhà đầu tư hợp tác với các cơ quan
Nhà nước khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường, các dự án sử dụng nhiều lao
động, xuất khẩu lao động, xuất khẩu sản phẩm, sử dụng nguyên liệu thô của Thái
Lan, thay thế hàng nhập khẩu được nhà nước ưu tiên.
Tỷ lệ góp vốn liên doanh không thành điều kiện bắt buộc. Tuy nhiên, các dự
án cho phép Thái Lan góp vốn trên 50% thì ủy ban đầu tư cấp chứng chỉ bảo lãnh.
Tại Thái Lan, thu hút FDI luôn được coi là một trong những nhân tố kích
thích quan trọng đối với nền kinh tế. Mặc dù dòng vốn nước ngoài suy giảm do ảnh
hưởng của bất ổn chính trị, nhưng nhờ biết cách tập trung vào những lĩnh vực quan
trọng như thu hút thêm các dự án chế tạo có giá trị gia tăng cao cũng như các dự án
đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao và sinh thái…, đồng thời đơn giản hóa thủ tục
hành chính, Thái Lan vẫn được xem là điểm đến đầu tư hấp dẫn.
Hơn thế nữa, Thái Lan có thị trường thu hút đầu tư rất cạnh tranh và hấp dẫn
trong khu vực châu á. Trong các quốc gia, lãnh thổ đầu tư vào Thái Lan, Nhật Bản
có lượng vốn đầu tư lớn nhất với khoảng 7.000 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu
tư tại quốc gia này. Hàn Quốc, Trung Quốc ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn FDI vào Thái Lan. Lượng vốn FDI từ các nhà đầu tư Singapore
chiếm khoảng 80-90% tổng vốn đầu tư của các nước ASEAN vào Thái Lan.
Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các vùng xa Bangkok và vùng nông
thôn để thu hẹp khoảng cách phát triển. Ngoài ra, do chi phí cuộc sống tăng, thiếu
nguyên liệu, Chính phủ Thái Lan cũng khuyến khích doanh nghiệp Thái Lan đầu tư
ra nước ngoài, nhất là các quốc gia ASEAN.


2.2.2 Công cụ phi tài chính
2.2.2.1 Quy định về đối tượng tham gia và lĩnh vực đầu tư

12


Theo luật kinh doanh nước ngoài (Foreign Business Act of 1999-FBA) của
Thái Lan, có 3 loại hình doanh nghiệp được áp dụng với đầu tư nước ngoài: DN tư
nhân đơn nhất, công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân. Hình
thức phổ biến nhất với đầu tư nước ngoài là công ty TNHH tư nhân. Thành viên
sang lập có trách nhiệm đăng ký thành lập công ty với Bộ Thương mại, thành viên
phải là cá nhân ( không được là pháp nhân) bằng hoặc hơn 20 tuổi và sẵn sang kí
vào các văn bản trong quá trình thành lập. Đối với công ty TNHH tư nhân, phải có
tối thiểu 3 thành viên sáng lập, với công ty TNHH đại chúng phải có ít nhất 15
thành viên sáng lập.
Doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Thái Lan gồm
+ Thể nhân không phải là công dân Thái Lan (1)
+ Pháp nhân không đăng kí kinh doanh tại Thái Lan (2)
+ Pháp nhân đăng kí tại Thái Lan (3) nhưng có các đặc điểm sau: Có một nửa hoặc
hơn một nửa vốn điều lệ nắm giữ bởi những chủ thể (1) hoặc (2) hoặc pháp nhân
có các chủ thể (1) hoặc (2) đã đầu tư với giá trị bằng một nửa hoặc hơn tổng tài sản
của pháp nhân đó
Một công ty hợp danh TNHH hoặc một công ty hợp danh thông thường có
đăng ký mà thành viên điều hành hoặc người quản lý là một người nêu tại điểm (1)
trên: Một pháp nhân đăng ký tại Thái Lan có một nửa hoặc hơn một nửa cổ phần
được nắm giữ bởi chủ thể (1) hoặc (2) hoặc (3) hoặc các chủ thể đó đã đầu tư với
giá trị bằng một nửa hoặc hơn một nửa vào tổng tài sản của công ty
Quy định về lĩnh vực đầu tư trọng điểm: Giữa tháng 8 năm 2014, chính phủ
Thái đã công bố một chiến lược đầu tư mới cho giai đoạn 2015- 2021 nhằm thu hút

thêm các dự án chế tạo có giá trị gia tăng cao cũng như các dự án đầu tư vào lĩnh
vực công nghệ cao và sinh thái. Chính phủ Thái Lan cũng đang nỗ lực tăng ngân
sách cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, hiện chỉ chiếm khoảng 0,4%GDP
( mức trung bình trên thế giới là 2%). BOI cho biết nước ngày sẽ tiếp tục ưu tiên
thu hút đầu tư và lĩnh vực nông nghiệp, chế biến và phân phối hàng nông sản, khai
khoáng, công nghiệp nhẹ, chế tạo máy và thiết bị vẫn tải, thiết bị điện và điện tư,
13


hóa chất, sản xuất nhựa, giấy, dịch vụ và cở sở hạ tầng. Công nghiệp vẫn luôn là
lĩnh vực truyền thống thu hút nhiều FDI. Mặc dù hiện nay có những xu thế thay đổi
trong đầu tư FDI, đó là đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ đang tăng lên, nhưng tỷ trọng
FDI vào lĩnh vực công nghiệp trong tổng FDI của toàn thế giới vẫn rất lớn do đầu
tư vào công nghiệp mang tính bền vững cao. Đặc biệt, ở những nước đang phát
triển thì lĩnh vực công nghiệp có rất nhiều tiềm năng phát triển, đồng thời luôn cần
một lượng vốn đầu tư rất lớn. Bên cạnh đó, xu thế FDI dần chuyển sang các ngành
công nghệ cao hiện nay cho thấy nếu không phát triển công nghiệp, các nền kinh tế
khó có thể thu hút FDI trong dài hạn. Chính vì vậy, chính sách phát triển công
nghiệp vừa là mục tiêu, vừa là công cụ thu hút FDI của các nền kinh tế, đặc biệt là
các nền kinh tế đang phát triển.
Tại Thái Lan, Chính phủ đã có sự kết hợp khéo léo giữa mục tiêu công
nghiệp hóa và thu hút đầu tư nước ngoài. Chính sách thu hút FDI của Thái Lan rất
năng động, liên tục được điều chỉnh để thích nghi với từng thời kì phát triển của đất
nước. Thái Lan luôn xác định nước thu hút đầu tư trọng điểm, từ đó, xây dựng các
bộ phận chuyên trách riêng biệt cho từng nguồn xuất xứ của nhà đầu tư. Chính sự
chuyên môn hóa và tổ chức này đã đáp ứng nhu cầu cụ thể của các nhà đầu tư nước
ngoài có quốc tịch khác nhau. Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ
Thái Lan đã có những chính sách nhằm giảm thiểu chi phí đầu vào như: nhiên liệu,
nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất, chi phí lưu thông hàng
hóa, nới lỏng chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài.

Chính phủ rất chú trọng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Thái lan đã
thành lập Ủy ban hỗ trợ về vấn đề này cùng với các tổ chức chuyên môn lo phát
triển, xây dựng, hình thành những mối liên kết công nghiệp hỗ trợ trong nước.
Hiện nay, thái lan có 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở 3 cấp: lắp ráp, cung cấp thiết
bị - phụ tùng- linh kiện và dịch vụ. Một ví dụ điển hình về sự phát triển của các
ngành công nghiệp phụ trợ ở Thái Lan là trong lĩnh vực sản xuất ô tô. Từ chỗ từng
14


bước nội địa hóa phụ tùng, đến nay Thái Lan đã xuất khẩu cả ô tô với linh kiện –
phụ tùng được sản xuất tại chỗ. Mặc dù chỉ có 15 nhà máy lắp ráp nhưng hái Lan
có đến 1.800 nhà cung ứng.
Hiện nay, khi năng lực của ngành công nghiệp phụ trợ đã phát triển đáp ứng
yêu cầu, Thái Lan có chính sách buộc các nhà đầu tư nước ngoài đã ổn địnhtrong
sản xuất, kinh doanh phải thay đổi chiến lược, để tuân thủ tỷ lệ nội địa hóa. Điều
này đã kéo theo những dự án đầu tư mở rộng nhà xưởng sản xuất ngay tại chỗ, mà
còn kéo the các công ty, tập đoàn lớn từ chính các nước đầu tư sang mở thêm các
cơ sở công nghiệp phụ trợ tại thái Lan.
2.2.2.2 Quy định về thủ tục đầu tư
Quá trình thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Thái Lan trải
qua 2 bước
Bước 1: Đăng ký giấy phép kinh doanh nước ngoài
Tại Thái Lan, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( bên nước
ngoài chiếm 49%) phải làm thủ tục để được cấp giấy phép kinh doanh nước ngoài
(FBL) trước khi đăng ký thành lập doanh nghiệp. Giấy phép kinh doanh nước
ngoài là sự cho phép của nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được đăng ký thành lập tại Thái Lan. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Thái Lan phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý công ty, điều này có
nghĩa là có thể thành lập một doanh nghiệp mà bên nước ngoài có 49% quyền biểu
quyết của công ty mà không cần làm thủ tục cấp giấy phép kinh doanh nước ngoài.

Cách đơn giản nhất để được cấp giấy phép kinh doanh nước ngoài là sự ủng hộ của
cục đầu tư Thái Lan. Sự ủng hộ này giúp cho cơ hội nhân được giấy phép kinh
doanh nước ngoài lên tới 100%. Tuy nhiên, cục đầu tư Thái Lan chỉ ủng hộ cho
những dự án đầu tư vào những lĩnh vực quan trong đối với Thái Lan. Những lĩnh
vực không thuộc danh mục này thì nhà đầu tư nộp trực tiếp hồ sơ tại cục phát triển
kinh doanh.
Nôi dung thẩm định hồ sơ giấy phép kinh doanh nước ngoài: Tiêu chí để
đánh giá của hội đồng kinh doanh nước ngoài để cấp giấy phép bao gồm:
15


- Loại hình hoạt động không thể được thực hiện bởi những công ty mà nhà đầu tư
Thái Lan sở hữu đa số
- Loại hình hoạt động không ảnh hưởng tới an ninh, ổn định quốc gia, thuần phong
mỹ tục hoặc trật tự xã hội.
- Những hoạt động phải mang lại lợi ích cho nền kinh tế Thái Lan bao gồm những
ảnh hưởng tới tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, năng lượng và môi
trường, bảo vệ khách hàng, quy mô của doanh nghiệp và nhu cầu lao động
- Những hoạt động mang lại lợi ích liên quan tới chuyển giao công nghệ, nghiên
cứu và phát triển
Bước 2 : Đăng kí thành lập doanh nghiệp
Sau khi được cấp giấy phép kinh doanh nước ngoài, nhà đầu tư được đăng kí
thành lập doanh nghiệp
-Đăng kí tên doanh nghiệp: đây là bước đầu tiên trong quá trinh thành lập doanh
nghiệp. Để đăng kí được tên doanh nghiệp công ty có thể thực hiện theo 1 trong 2
cách:
+Nộp một bản đăng kí theo mẫu đã có chữ kí của các thành viên sáng lập cho vụ
phát triển kinh tế trực thuộc bộ tài chính
+ Nộp và khai Form thông qua website của vụ này
Người nộp đơn được yêu cầu nộp kèm tên đã chọn với 2 tên khác, Các tên

dự phòng sẽ tự động được chọn khi tên ban đầu bị trùng hoặc gây nhầm lẫn. Sau
khi tên được chấp thuận, phê chuẩn này sẽ có hiệu lực trong vòng 30 ngày và
không có gia hạn. Tuy nhiên sau khi phê chuẩn đã hết hạn, các thành viên sáng lập
vẫn có thể dăng kí lại tên này nếu tên đó vẫn chưa được chọn bởi công ty khác
-Đăng kí dự thảo điều lệ công ty: Sau khi tên công ty được phê chuẩn, công ty phải
nộp điều lệ công ty cho cục phát triển kinh doanh
Đối với công ty TNHH tư nhân, điều lệ phải bao gồm tên công ty, tỉnh nơi
công ty đặt trụ sở, mục tiêu hoạt động của công ty, vốn điều lệ, tên của thành viên
sáng lập, thông tin về vốn phải bao gồm số lượng cổ phần của mỗi thành viên theo
giá trị
16


Đối với công ty TNHH đại chúng, điều lệ công ty phải bao gồm tên công ty,
mục tiêu của công ty về việc chào bán cổ phần ra công chúng, mục tiêu của công
ty, vốn điều lệ đăng kí, tỉnh nơi công ty đặt trụ sở, tên ngày tháng năm sinh, quốc
tịch địa chỉ thành viên sáng lập và số lượng cổ phần nắm giữ bởi mỗi thành viên
Bên cánh đó, riêng với việc thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, những quy định sau sẽ được áp dụng: Nếu công ty thực hiên các hoạt động
được liệt kê trong luật kinh doanh nước ngoài, vốn đăng kí phải nhiều hơn 25% chi
phí vẫn hành trung bình tính trong 3 năm nhưng không thấp hơn 3 triêu baht. Nếu
công ty không thực hiện các hoạt động được liệt trong luật kinh doanh nước ngoài,
vốn đăng kí tối thiểu không thấp hơn 2 triệu baht
Nếu công ty muốn thuê lao động nước ngoài, mức vốn đăng kí tối thiểu khác
cũng có thể bị áp dụng
Mức lệ phí đăng kí áp dụng cho công ty TNHH tư nhân là 50 baht cho
100.000 baht vốn đăng kí, lệ phí tối thiểu là 500 baht tối đa 25.000 baht. Đối với
công ty TNHH đại chúng, mức lệ phí đăng kí là 1000 baht cho 1.000.000 baht vốn
đăngg lí, mức lệ phí tối đa là 50.000 baht. Mặc dù vậy, luật Thái Lna không yêu
cầu mwucs vốn đăng kí tổi thiểu, số vốn đăng kí nên đáp ứng được nhu cầu vận

hành hoạt động kinh doanh.
-Tổ chức phiên họp thành viên sáng lập theo luật định
Khi cấu trúc công ty đã được xác định, các thành viên phải tổ chức một phiên họp
của các thành viên sáng lập để thông qua điều lệ, phê chuẩn hợp đồng, chi phí
thành viên,…
-Đăng kí thành lập doanh nghiệp: trong vòng 3 tháng kể từ ngày tổ chức cuộc họp
thành viên sáng lập, giám đốc công ty phải nộp hồ sơ để thành lập công ty. Nếu quá
thời hạn trên, thành viên sáng lập phải tổ chức lại cuộc họp
-Đăng kí thuế: Một công ty đã được đăng kí một mã số thuế tại cục quản lí doanh
thu trong vòng 60 ngày kể từ ngày thành lập hoặc trong trường hợp doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài thì kể từ ngày bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh tại
Thái Lan. Ngoài ra, công ty có doanh thu trên mức 1,8 triệu baht còn phải đăng kí
17


thuế VAT với cục quản lí doanh thu trong vòng 30 ngày kể từ ngày doanh thu vượt
qua ngưỡng quy định.
-Đăng kí tài khoản cho người lao động theo luật an ninh xã hội
Nếu công ty có ít nhất một lao động, công ty có trách nhiệm đăng kí tài
khoản cho người lao động theo luật an ninh xã hội. Việc đăng kí được thực hiện tại
văn phòng an ninh xã hội trong vòng 30 ngày kể từ ngày bắt đầu sử dụng lao động.
Quá trình đăng kí tài khoản cho người lao động thường được hoàn thành trong
vòng 1 ngày nếu tất cả thông tin được yêu cầu được cung cấp đầy đủ
2.2.2.3 Quy định bảo vệ nhà đầu tư
Thu khoản thuế nhập khẩu tăng thêm đối với những hàng hóa nhập khẩu vào
Thái Lan mà mặt hàng đó tương tự với những mặt hàng do các nhà đầu tư sản xuất
trong nước với mức thu không quá 50% giá của bảo hiểm và phí vận chuyển hàng
hóa đó, thời gian áp dụng mức thuế tăng thêm này không quá 1 năm
Trong trường hợp ban đầu tư cho rằng việc áp mức thuế nhập khẩu tăng
thêm nói trên không đủ mạnh để bảo vệ hoạt đông của nhà đầu tư, biện pháp cấm

nhập khẩu với mặt hàng tương tự sản phẩm sản xuất trong nước
Trong trường hợp các nhà đầu tư gặp bất kì khó khăn hoặc vướng mắc nào
trong quá trình triển khai hoạt động đầu tư, chủ tích ban đầu tư sẽ đưa ra các biện
pháp hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư
2.2.2.4 Quy định về đảm bảo đầu tư
+ Nhà nước sẽ không quốc hữu hóa các tài sản của nhà đầu tư
+ Nhà nước sẽ không thực hiện các hoạt động cạnh tranh với hoạt động của nhà
đầu tư
+ Nhà nước sẽ không độc quyền bán các sản phẩm tương tự như sản phẩm của nhà
đầu tư
+ Nhà nước sẽ không buộc nhà đầu tư phải điều chỉnh giá bán các sản phẩm của
mình
+ Nhà nước cho phép xuất khẩu sản phẩm vào bất kì thời điểm nào nhà đầu tư có
yêu cầu

18


+ Nhà nước sẽ không cho phép bất kì cơ quan nhà nước, tổ chức nhà nước hoặc
doanh nghiệp nhà nước nào miễn thuế nhập khẩu bất kì loại sản phẩm nào đang
được sản xuất bởi nhà đầu tư vào lãnh thổ Thái Lan
2.2.2.5 Quy định về tuyển dụng lao động
Lao động nước ngoài làm việc tại Thái Lan được quy định bởi Luật Bảo hộ
lao động. Luật này cũng áp dụng đối với người lao động Thái Lan làm việc ở nước
ngoài.
Luật lao động Thái Lan yêu cầu mỗi chủ DN với 10 lao động hoặc nhiều
hơn được quy định trong điều khoản điều kiện làm việc, chẳng hạn như ngày
công, giờ bình thường và thời gian giải trí, làm thêm giờ và các ngày lễ, vắng mặt,
các biện pháp kỷ luật, chấm dứt và thôi việc . Những quy định này phải được phê
duyệt bởi một quan chức thanh tra lao động và niêm yết tại nơi làm việc.

Công dân nước ngoài phải có giấy phép làm việc và thị thực trước khi làm
việc ở Thái Lan, trừ một số trường hợp ngoại lệ (ví dụ, các nhà ngoại giao). Người
nước ngoài phải vào Thái Lan trên một thị thực loại B không di dân, và cung cấp
hỗ trợ tài liệu cho một ứng dụng cho một giấy phép lao động, được áp dụng cho
chủ DN, các thành viên gia đình đi cùng nhân viên cũng phải có thị thực nhập Thái
Lan. Từ ngày 13/11/2015, Thái Lan đã thay đổi siết chặt về việc cấp thị thực cho
người nước ngoài. Thái Lan sẽ cấp loại thị thực du lịch mới có thời hạn lên 6 tháng
cho du khách nước ngoài. Theo quy định này, du khách sẽ được quyền xuất nhập
cảnh nhiều lần ra vào Thái Lan trong 6 tháng, mỗi lần nhập cảnh chỉ được phép ở
lại trong 60 ngày.
Để sử dụng người nước ngoài, chủ DN phải có ít nhất 2 triệu baht để thanh
toán trên mỗi lao động nước ngoài. Nói chung, chủ nhân phải có bốn nhân viên
Thái cho mỗi người nước ngoài làm việc. Có những ngoại lệ trong trường hợp các
công ty được cho phép bởi Ủy ban Đầu tư (BOI), khai thác gỗ dầu khí và một số
trường hợp sử dụng lao động khác.
Người nước ngoài không phải làm việc trong bất kỳ 39 nghề bị cấm theo
Luật lao động Aliens, B.E. 2551 (2008).
19


Theo Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) và Hiệp định Đầu tư Toàn diện
(ACIA), những người từ các quốc gia thành viên ASEAN được phép làm việc tại
Thái Lan.
2.2.2.6 Xây dựng cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận tiện cho việc buôn bán và giao lưu quốc tế luôn
là yếu tố quan trọng, hấp dẫn các nhà đầu tư. Cũng như các nước Châu Á , Thái
Lan đã thấy được tiềm năng thu hút nguồn vốn FDI từ yếu tố này. Chính vì vậy, họ
đã tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà xưởng, đường giao thông, viễn thông,
dịch vụ… nhằm tạo môi trường hấp dẫn và dễ dàng cho các nhà đầu tư hoạt động
trên đất nước mình.

Thái Lan chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng: hệ thống đường bộ, đường sắt, hệ
thống sân bay, bến cảng, khu công nghiệp, kho bãi hiện đại, thuận lợi cho phát triển
kinh tế du lịch. Nước này cũng xây dựng thành công hệ thống viễn thông, bưu
điện, mạng internet thông suốt cả nước phục vụ cho hoạt động kinh doanh quốc tế.
Trong chiến lược mới được Thái Lan thông qua đầu tháng 9/2014, để thu hút
thêm vốn FDI, Thái Lan sẽ tiếp tục ưu tiên thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, chế biến và phân phối hàng nông sản, khai khoáng, công nghiệp nhẹ, chế
tạo máy và thiết bị vận tải, thiết bị điện và điện tử, hóa chất, sản xuất nhựa, giấy,
dịch vụ và cơ sở hạ tầng…
2.3. Đánh giá chính sách thu hút FDI của Thái Lan
2.3.1. Thành công
Tình hình thu hút FDI của Thái Lan trong thời gian qua đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Giai đoạn từ 2006 đến nay chứng kiến thành tựu vượt bậc
trong thu hút FDI đặc biệt đạt đỉnh vào năm 2007 và sau đó có dấu hiệu chững lại.
Năm 2012 Thái lan đã thu hút được hơn 550 tỷ Baht vốn FDI, tương đương với 18
tỷ USD , đây là con số kỷ lục về lượng vốn FDI ma nước này đạt được từ trước đến
2012. Cao hơn rất nhiều so với con số 8,5 tỷ USD năm 2011, tức là năm 2012 vốn
FDI đã tăng 116% so với năm trước đó. Sau khủng hoàng kinh tế, lượng FDI đã có
20


sự tăng lên đáng kể từ năm 2009 đến năm 2014, bất chấp một loạt các thảm họa tự
nhiên và bất ổn chính trị năm 2013, lượng FDI vào Thái Lan đạt 13 tỷ USD. Theo
báo cáo của UNCTAD đầu năm 2015, Thái Lan với 12,6 tỷ USD, là nước nhận
được lượng FDI lớn thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á.
Trong báo cáo đánh giá về môi trường đầu tư của các nước trên toàn cầu,
WB đánh giá cao những nỗ lực của Thái Lan trong việc cung cấp điện và bảo vệ
các nhà đầu tư, xử lý các giấy phép xây dựng và thực hiện các hợp đồng. Các chính
sách của chính phủ quân sự có thể tiếp tục duy trì những ưu thế này để hỗ trợ các
nhà đầu tư.

Ngoài ra, trong năm 2016, số vốn FDI vào Thái Lan được thể hiện qua đồ thị sau:

Đồ thị 2.1: Số vốn FDI vào Thái Lan qua các năm
FDI vào Thái Lan chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch. Trong lĩnh vực
công nghiệp chủ yếu là ngành kim loại, máy móc điện/ điện tử. Chính phủ Thái
Lan vừa thông qua một chiến lược mới cho giai đoạn 2015-2021 nhằm khôi phục
vị thế của Thái Lan trong hoạt động thu hút FDI, đặc biệt thu hút thêm các dự án
chế tạo có giá trị gia tăng cao cũng như các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ
cao và sinh thái. Theo chiến lược mới này, Thái Lan sẽ tiếp tục ưu tiên thu hút đầu
tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến và phân phối hàng nông sản, khai khoáng,
21


công nghiệp nhẹ, chế tạo máy và thiết bị vận tải, thiết bị điện và điện tử, hóa chất,
sản xuất nhựa và giấy, dịch vụ và cơ sở hạ tầng.
Nhật Bản đã đang và vẫn sẽ là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất vào
thái lan với các ngành công nghiệp chế tạo như ô tô và xe máy. Trong các quốc gia,
lãnh thổ đầu tư vào Thái Lan, Nhật Bản có lượng vốn đầu tư lớn nhất với khoảng
7.000 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại quốc gia này. Ngoài ra, Hàn Quốc,
Trung Quốc ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn FDI vào Thái Lan.
Lượng vốn FDI từ các nhà đầu tư Singapore chiếm khoảng 80-90% tổng vốn đầu
tư của các nước ASEAN vào Thái Lan.
Dự án đầu tư vào Thái Lan chủ yếu là 100% vốn nước ngoài và được thực
hiện theo loại dự án mở rộng.
Thu hút được nguồn vốn lớn từ nhiều nước giúp phát triển kinh tế, tạo công
ăn việc làm và giảm được tỷ lệ thất nghiệp . Thái lan là nước có tỷ lệ thất nghiệp
khá thấp so với một số quốc gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á năm 2010.

Nguồn: Cục tình báo trung ương Hoa Kì
Đồ thị 2.2: tỷ lệ thất nghiệp các nước trên thế giới


22


Năm 2012, đã có thêm 336 công ty nước ngoài được phép đầu tư vào Thái
Lan. Các công ty này đã tạo ra thêm được 9000 lao động Thái và tăng 168% so với
cùng kỳ năm 2011.
2.3.2: Hạn chế còn tồn tại
Yếu tố chính trị: có thể nói trong số những thành tố cấu thành môi trường thu
hút FDI ở Thái lan thì yếu tố chính trị là yếu tố kém nhất và ảnh hưởng xấu đến
tình hình thu hút FDI. Tình hình bất ổn chính trị của thái lan đã làm giảm tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế kéo theo đó là sự sụt giảm các dự án đầu tư vào nước
này. Ngoài tình hình chính trị không ổn định, sự điều hành không nhất quán thì vấn
nạn tham nhũng vẫn còn tồn tại. Theo số liệu từ Ủy ban Đầu tư (BoI) của Thái Lan,
đầu tư nước ngoài vào nước này giảm rất mạnh trong năm ngoái, dấu hiệu mới nhất
cho thấy nền kinh tế một thời vàng son tiếp tục sa sút.
Tháng 11/2015, tổng vốn đầu tư của các công ty nước ngoài tại Thái Lan
giảm 78% so với cùng kỳ năm trước, xuống 93,8 tỷ baht (2,62 tỷ USD).
Điều khiến Thủ tướng Prayut Chan-O-Cha đặc biệt lo ngại là đầu tư từ Nhật
Bản giảm sút mạnh, tới 81%, trong khi đây vốn là quốc gia dẫn đầu về đầu tư tại
Thái Lan. Đầu tư từ Liên minh châu Âu sụt từ 86,7 tỷ baht năm 2014 xuống chỉ 2
tỷ baht năm 2015. Đầu tư từ Mỹ cũng giảm mạnh, trong khi từ Trung Quốc chỉ
giảm nhẹ.
Nhà kinh tế tại châu Á của Capital Economics, Krystal Tan, cho rằng, xu
hướng giảm sút đầu tư phơi bày những vấn đề lớn hơn của nền kinh tế Thái Lan,
khi đây là một trong những nền kinh tế tăng trưởng thấp nhất trong khu vực vào
năm ngoái.
Theo bà, đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2015 là rất thấp, cho thấy niềm tin của
nhà đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế Thái Lan vẫn yếu ớt.
Yếu tố pháp lý: tuy mức độ công bố thông tin rõ ràng và minh bạch là ưu

điểm của Thái Lan, chỉ số trách nhiệm của hội đồng quản trị cũng được cải thiện
23


nhiều, mức độ bảo vệ nhà đầu tư của Thái Lan cũng thuộc vào loại khác nhưng
không có nhiều bước cải tiến thời gian gần đây. Hơn nữa về mặt pháp luật Thái Lan
cũng có một số quy định làm ảnh hưởng đến nhà đầu tư ví dụ 2006 thì Thái Lan
quy định các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chỉ được phép nắm giữ không quá 50% cổ
phần hay quyền bỏ phiếu trong các công ty ở Thái Lan theo những quy định được
thông qua tại một cuộc họp nội các.
Yếu tố cơ sở hạ tầng: cơ sở hạ tầng ở Thái Lan từ lâu đã được đánh giá là
phát triển cũng như sự quy hoạch để mang tính thống nhất và đồng bộ. tuy nhiên
trong thời gian gần đây thì cơ sở hạ tầng ở Thái lan không được cả thiện nhiều
thậm chí dậm chân tại chỗ. Cơ sở hạ tầng của Thái Lan có thế mạnh ở ngành điện
với chất lượng cung cấp điện khá tốt, giao thông hàng không cũng được đánh giá
khá cao và đường bộ cũng có chỉ số tương đối, trong khi đó chất lượng cảng và đặc
biệt là chất lượng đường tàu hỏa bị đánh giá là kém nhất.
Vì quá coi trọng nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nên dường như
kinh tế Thái Lan bị phụ thuộc khá lớn đối với lượng vốn FDI từ nước ngoài. Thực
tế cho thấy khi lượng vốn FDI thấp sau thời kì bất ổn chính trị cuối 2013 là nguyên
nhân chính khiến GDP nước này giảm mạnh trong 6 tháng cuối năm 2013 cũng
như nửa đầu 2014.Trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1996-1997, Thái
Lan chỉ thu hút được nguồn vốn FDI tương đương 11% GDP của nước này. Tuy
nhiên, đến cuối năm 2013, con số này đã tăng lên 48% GDP )

24


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM


3.1. So sánh chính sách thu hút FDI của Việt Nam so với Thái Lan
3.1.1 Thủ tục đầu tư
Thái Lan có khoảng trên 20 cơ quan của chính phủ Thái Lan tham gia vào
quy trình thẩm định, thành lập doanh nghiệp để thực hiện đầu tư nước ngoài. Quá
trình thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thái lan trải qua 2 bước
rõ rang với quy trình cụ thể : đăng kí giấy phép kinh doanh nước ngoài và đăng kí
kinh doanh thành lập doanh nghiệp
Việt Nam: Với sự ra đời cảu luật đầu tư năm 2014 hứa hẹn sẽ đơn giản hóa
thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp phép. Tuy nhiên, trên thực tế, với các
thức như hiện nay, thủ tục cấp phép với nhà đầu tư không được cải thiện mà còn
nhiều lên.
-Xin chấp nhận chủ trương đầu tư: áp dụng tràn lan: Chấp nhận chủ trương
đầu tư là thủ tục đầu tiên trong quá trình đầu tư. Sau khi có chủ trương đầu tư, nhà
đầu tư sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư để thành lập dự án và thực hiện
thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp để thành lập doanh
nghiệp. Theo luật đầu tư 2014, chủ trương đầu tư chỉ áp dụng trong một số trường
hợp hữu hạn như những dự án đầu tư đặc biệt phải có chấp thuận chủ trưng từ quốc
hội, thủ tướng chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh. Dù vậy, trong thực thế, chấp nhận
chủ trương đang bị áp dụng tràn lan, trái với ý tưởng ban đầu của luật đầu tư. Thực
tế đã có một doanh nghiệp cơ khí trong nước trong nước muốn thành lập công ty
con trong khu công nghiệp buộc phải xin chấp nhận chủ trương đầu tư từ UBND
tỉnh cho dù mức vốn, ngành nghề không thuộc diện phải xin chấp thuận chủ trương
đầu tư. Hỏi kĩ ra thì đây là chỉ đạo nội bộ từ UBND tỉnh và áp dụng cho mọi doanh
nghiệp mới trong khu công nghiệp tỉnh.
25


×