Lời Mở Đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, xây dựng một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan
trọng. Trong những năm qua hoạt động kinh tế này đã đóng góp không nhỏ vào những thành
tựu chung của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Đầu tư nước ngoài như một mốc quan trọng đánh dấu quá trình mở cửa trong chính
sách đổi mới được khởi sướng từ năm 1986 với nội dung cốt lõi là chuyển từ nền kinh tế đơn
ngành sang đa phần, từ cơ chế quản lý tập chung quan liêu sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nền kinh tế kín sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập sâu vào
kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế xã
hội. Vốn FDI chiếm tỉ trọng ngày càng tăng trong GDP. Từ năm 1991 – 2000, GDP tăng liên
tục qua các năm với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Mức đóng góp trung bình 6,3%
của GDP trong giai đoạn 1991 – 1995, khu vực doanh nghiệp có vốn FDI đã tăng lên 10,3%
GDP của 5 năm (1996 – 2000). Trong thời kỳ 2001 – 2005 tỷ trọng đạt trung bình là 14,6 %.
Trong 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn FDI đóng góp trên 17% GDP. Khu vực
FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu
vực phát triển năng động nhất . Năm 2008 và năm 2009 tốc độ gia tăng GDP tương ứng là
6,23% và 5,32%. Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản
phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường tiềm năng trên thế giới. Xuất
khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu khí) năm 2009 nếu không tính dầu thô xuất khẩu 23,6 tỷ
USD, chiếm 41,7 % tổng xuất khẩu và bằng 98 % so với năm 2008. Nhập khẩu của khu vực
FDI năm 2009 đạt 24,8 tỷ USD, bằng 89,2 % so với năm 2008 và chiếm 36,1% tổng nhập
khẩu cả nước. Trong năm 2009, khu vực FDI xuất siêu 5,03 tỷ USD. Xuất khẩu của khu vực
FDI 6 tháng năm 2010 đạt 7,2 tỷ USD, tăng 26,2% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu
khác của khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 14,6 tỷ USD, tăng 39,5% so với cùng kỳ.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI gia tăng mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm 2010
do nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi. Nhập khẩu của khu vực FDI ước đạt 16 tỷ USD, tăng
48,9% so với cùng kỳ. Trung bình hàng năm có khoảng 170 – 200 doanh nghiệp ĐTNN mới
đi vào hoạt động ( tăng bình quân là 22,7%/năm) , tạo việc làm thêm cho khoảng 100 – 150
nghìn người ( tăng bình quân 30,2%). Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn
1
FDI cũng tăng lên qua từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9
vạn người vào cuối năm 2000, tăng 80% so với 5 năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng
gấp 2,5 lần so với 2 năm trước thể hiện số lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án
tăng lên. Năm 2008, khu vực có vốn FDI đã tạo ra trên 200 nghìn việc làm mới, nâng tổng số
lao động làm việc trong các dự án FDI lên 1,467 triệu người.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006 tạo ra những điều kiện thuận lợi
hơn trong thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã có những bước
tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng. Theo cục đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT,trong năm
2007 nước ta thu hút được 20,3 tỷ USD mức cao nhất trong các năm trước đó. Số vốn đăng
ký năm 2008 ước đạt trên 74,5 tỷ USD, tăng hơn 200% so với năm 2007, vốn giải ngân đạt
11,5 tỷ USD, tăng 4,32% so với năm 2007. Trong năm 2009 ,vốn đăng ký vào Việt Nam
ước đạt 21,48 tỷ USD, vốn giải ngân 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008.
Những thành tựu phát triển nền kinh tế trong giai đoạn qua đã khẳng định vai trò hoạt
động đầu tư trựu tiếp nước ngoài, cùng với quá trình hội nhập ngày càng xâu vào nền kinh tế
quốc tế, hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI đóng góp vào quá trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư theo các ngành và vùng lãnh thổ…Đồng thời , hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam là cầu nối
gắn kết nền kinh tế trong nước với khu vực và quốc tế. Tạo điều kiện cho quá trình đổi mới,
cải cách cơ chế kinh tế diễn ra hiệu quả và mạnh mẽ hơn.Tuy nhiên Quá trình triển khai thu
hút FDI đã bộc lộ những hạn chế về định hướng, chính sách, cơ chế và giải pháp thực hiện.
Xuất phát từ ý tưởng nêu trên, việc nghiên cứu về đề tài “Thu hút và sử dụng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 1988 - 2010” là một vấn đề cần thiết,
và có ý nghĩa khoa học về mặt thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài trên, tác giả đã có những đóng góp như sau:
- Tổng kết tình hình thu hút và sử dụng FDI trong những năm qua để Đánh giá thành công và
những hạn chế trong hoạt động thu hút và sử dụng FDI.
- Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới nền kinh tế Việt nam.
2
- Trên có sở mục tiêu phát triển của thời kỳ mới, xác định rõ mục tiêu, định hướng thút và đề
ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI sau khi
gia nhập WTO.
3. Kết cấu của đề tài
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam
Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
3
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư trực
tiếp nước ngoài
1.1 Cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Nguyên nhân hình thành và phát triển của đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct investment – FDI) ngày càng có
quan trọng với nước tiếp nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Chính vì vai trò quan trọng
của nó mà có rất nhiều quan điểm của các nhà kinh tế học nhằm lý giải nguyên nhân
hình thành và phát triển của hiện tượng này. Hiện nay, chủ yếu có 2 trường phái lý
giải sự hình thành và phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là quan
điểm của các nhà kinh tế học tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của các nhà kinh tế học, đại diện là Adam smith (năm 1776), Thomas
Malthus (năm 1798) David Ricardo ( năm 1817) và sau này là Vernon ( năm 1966), Kojima
( năm 1973), Hymer (năm 1976), Dunning ( năm 1988) … cho rằng hoạt động đầu tư quốc tế
được hình thành và phát triển do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Xuất phát từ học thuyết về phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh và
thương mại quốc tế, các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng khởi nguyên của quan hệ kinh tế
giữa các quốc gia bắt nguồn từ hoạt động thương mại quốc tế. Bằng học thuyết “Lợi thế so
sánh – Comparative advantages”, Adam smith ( năm 1776) và David Ricardo ( năm 1817)
cho rằng mỗi quốc gia trên thế giới đều chuyên môn hoá sản xuất ra một hoặc một nhóm sản
phẩm với chi phí sản xuất thấp hơn so với quốc gia khác và tiến hành xuất khẩu hàng hoá này
sang quốc gia đó. Đồng thời, quốc gia này cũng giành cơ hội để quốc gia khác sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn chi phí sản xuất do nước mình tiến hành mà
không phụ thuộc vào quy mô sản xuất và trình độ phát triển . Lợi thế so sánh chính là nguyên
nhân hình thành, phát triển quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia với nhau và cũng
cho thấy trình độ phát triển về lực lượng sản xuất giữa các quốc gia cơ bản là rất khác
nhau. Như vậy, thương mại quốc tế là quan hệ đầu tiên, cơ bản và làm phát sinh quan hệ
kinh tế quốc tế giữa các quốc gia sau này. Tuy nhiên, do có sự chênh lệch về lực lượng sản
4
xuất giữa các quốc gia và những trở ngại trong hoạt động thương mại quốc tế đã hình thành
và phát triển quan hệ đầu tư giữa các quốc gia. Dưới góc độ nước tiếp nhận đầu tư, để phát
triển một số ngành sản xuất với điều kiện chưa cho phép hoặc sản xuất với chi phí cao thay vì
phải nhập khẩu, quốc gia tiếp nhận đầu tư đã kêu gọi đầu tư từ những quốc gia có thế mạnh
về những ngành công nghiệp đó. Dưới góc độ của nước đi đầu tư, từ những nước này mong
muốn đầu tư tại những nước có trình độ phát triển thấp hơn để tận dụng chi phí sản xuất rẻ và
khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Tại những nước công nghiệp phát triển, do phải đối mặt với môi trường cạnh tranh
gay gắt nên tỷ xuất lợi nhuận của các doanh nghiệp của những quốc gia này là rất thấp. Do
vậy, các doanh nghiệp thường có xu hướng chuyển vốn, công nghệ và tài sản ra những nước
có môi trường cạnh tranh kém hơn so chi phí sản xuất rẻ hơn nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn và đạt được tỷ xuất lợi nhuận cao hơn.
Các nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thường đối mặt với vấn đề thiếu vốn, công nghệ tiên
tiến và trình độ quản lý. Chính vì những nhu cầu này đã tạo điều kiện cho việc di chuyển
vốn, công nghệ và trình độ quản lý từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước phát
triển.
Xu hướng bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng nên đầu tư nước ngoài là một biện pháp
hữu hiệu nhằm xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường ; tránh được hàng rào bảo hộ thuế quan;
giảm chi phí vận chuyển hàng hoá.
Các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa mà đại diện là Lênin cho rằng sự phát triển của
đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa trên xuất khẩu tư bản. Khi nghiên cứu giai đoạn phát triển
của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã nêu ra một trong năm đặc trưng quan trọng của chủ Nghĩa đế
quốc đó là xuất khẩu của đó là xuất khẩu tư bản. Theo Lênin: “Điểm điển hình của chủ
nghĩa tư bản cũ, trong đó sự cạnh tranh tự do còn hoàn toàn thống trị, là việc xuất khẩu
hàng hoá . Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản mới nhất, trong đó tổ chức độc quyền thống trị là
việc xuất khẩu tư bản“ (Lênin : tác phẩm “chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”).
Xuất khẩu tư bản là một nhu cầu tất yếu khách quan. Bởi vì, tại một số nước phát triển đã
tích luỹ được một số lượng tư bản kếch sù và một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa” do
không tìm được nơi có tỷ xuất lợi nhuận cao ở trong nước. Các nước phát triển muốn xuất
khẩu tư bản của mình để tranh thủ lao động, nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên rẻ…Ở
các nước kém phát triển, thiếu tư bản.
5
Bên cạnh việc lý giải nguyên nhân của đầu tư nước ngoài thông qua xuất khẩu
tư bản, các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thiết lập quan hệ
đầu tư quốc tế từ các nước tư bản phát triển sang các nước thuộc địa nhằm tìm kiếm lợi
nhuận, khai thác tài nguyên thiên nhiên và duy trì sự áp bức bóc lột tại hệ thống do mình
quản lý.
1.1.2 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước
ngoài
1.1.2.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Gần đây, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức kinh tế quốc tế
đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về FDI, tạo
điều kiện thúc đẩy hoạt động tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế và phân loại, sử dụng
trong công tác thống kê quốc tế. Quỹ tiền tệ thế giới ( International Moneytary Fund – IMF),
trong báo cáo cán cân thanh toán hàng năm đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau:
“ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại
một nước khác( nước nhận đầu tư – hosting country, không phải tại nước mà doanh nghiệp
đang hoạt động( nước đi đầu tư – source cuontry) với mục đích quản lý một cách có hiệu
quả doanh nghiệp”
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( Organisation for Economic Cooperation
and development – OECD) cũng đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài tương tự
như IMF. Tuy vậy, OECD có quan niệm rất rộng về nhà đầu tư nước ngoài. Theo quan điểm
của OECD, nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc tổ chức có thể thuộc cơ quan chính phủ
hoặc không thuộc cơ quan chính phủ đầu tư tại nước ngoài.
(1)
Uỷ ban thương mại và phát triển của Liên hợp quốc ( UNCTAD), trong báo
cáo đầu tư thế giới năm 1996
(2)
đã đưa ra định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
“ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài
của một pháp nhân hoặc thể nhân ( nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với
một doanh nghiệp có một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài
hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”.
6
UNCTAD còn đưa ra một số khái niệm khác có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, dòng vốn FDI ra và dòng vốn FDI vào là vốn được nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào doanh nghiệp FDI tại nước tiếp nhận đầu tư.
Cùng với khái niệm này, có ba khái niệm sau:
- Vốn đầu tư cổ phần là cổ phần của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua từ doanh
nghiệp ở nước tiếp nhận đầu tư, không phải cổ phần của doanh nghiệp trong nước tại nước đi
đầu tư.
- lợi nhuận tái đầu tư là cổ tức không được chuyển cho nhà đầu tư nước ngoài mà
được giữ lại nhằm mục đích tái đầu tư.
- Các giao dịch vay và nợ bên trong công ty là các khoản vay ngắn hạn và dài hạn
giữa công ty mẹ và công ty thành viên.
Thứ hai, vốn cổ phần đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign – Direct – Investment
Istock) là giá trị cổ phần và vốn dự trữ ( bao gồm cả lợi nhuận giữ lại) thuộc về công ty mẹ
cộng thêm các khoản nợ ròng của các công ty thành viên.
Qua các định nghĩa về FDI, có thể rút ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài
như sau: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ
tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát
doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi”.
1.1.2.2Các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm 2 loại: đầu tư theo chiều ngang và đầu
tư theo chiều dọc.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang ( horizontal FDI): là việc một công ty
tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi thế cạnh
tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài
nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài. Hình thức này dẫn đến cạnh tranh độc
quyền mà Mỹ, đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển.
7
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (vertical FDI): khác với các hình thức
đầu tư theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với mục đích khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động đất đai và các nước nhận đầu tư.
Do các nhà đầu tư thường chú ý khai thác cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu
trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế, nên các sản
phẩm thường được hoàn thiện qua lắp ráp ở các nước nhận đầu tư. Sau đó các sản phẩm này
lại được nhập khẩu về nước đầu tư hay xuất khẩu sang nước khác. Đây là hình thức khá phổ
biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.
- Xét về hình thức sở hữu đầu tư trực tiếp nước ngoài thường thường có các hình thức
sau:
+ Hình thức doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài,
qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp
mới do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên
doanh, hình thức này có đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà. Mỗi bên tham
gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là
một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định
vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên
doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn
góp của mình vào vốn pháp định.
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của
tổ chức cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức
hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được hình thành dưới dạng các công ty trách nhiệm
hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
- Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn
pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
+ Hình thức hợp tác kinh doanh dựa trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là
hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay
nhiều bên ( gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh
8
doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh
cho mỗi bên tham gia mà không cần lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới hình thức
này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư
cách là pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình xây
dựng còn có hình thức:
+ Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao ( BOT) và một phương pháp đầu tư
trực tiếp dựa trên cơ sở được ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài ( có thể là tổ chức cá
nhân nước ngoài đầu tư nước ngoài ( có thể là tổ chức cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian
nhất định, hết thời gian nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình cho
các nước chủ nhà.
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao thường được thực hiện bằng 100%
vốn nước ngoài, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp của chính
phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. Trong hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư
nước ngoài có toàn quyền tổ chức xây dựng kinh doanh công trình trong một thời gian đủ thu
hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho nước chủ nhà mà
không được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
+ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh và phương thức đầu tư dựa trên
văn bản ký kết giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kinh doanh kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng song
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể dành
cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn
đầu tư và lợi nhuận hợp lý
+ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT): là một phương thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và
nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo
điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận
hợp lý.
9
1.1.2.3) Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đối với Bản chất của FDI thể hiện rõ hơn qua việc xem xét nó dưới góc độ khác nhau dưới
đây:
- Đối với nhà đầu tư: việc theo đuổi lợi nhuận dựa trên cơ sở phát huy lợi thế cạnh
tranh là động cơ xuyên suốt của các nhà đầu tư nước ngoài thúc đẩy họ tìm đến các quốc gia
khác có những yếu tố thuận lợi hơn có thể khai thác tạo ra luồng đầu tư ra khỏi biên giới
quốc gia. Ngoài việc tận dụng lợi thế so sánh như nhân công rẻ, nguồn tài nguyên vật liệu rồi
rào, địa điểm tiêu thụ thuận lợi, nhà đầu tư còn quan tâm tranh thủ chính sách khuyến khích
tạo thuận lợi của nước tiếp nhận đầu tư để tăng lợi nhuận, mở rộng thêm thị phần và tăng nhà
đầu tư, FDI là công cụ, phương tiện thực hiện chiến lược kinh doanh của mình. Nhưng cũng
chính thông qua FDI mà các công ty đa quốc gia mở rộng hoạt động của mình ra quốc tế và
trở thành công ty xuyên quốc gia; như vậy giữa FDI và các công ty xuyên quốc gia có mối
quan hệ gắn bó với nhau như “hình với bóng”.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư: FDI là nguồn lực đầu tư từ bên ngoài có ý nghĩa
trong phát triển kinh tế, đối với cả các nước đang phát triển và các nước công nghiệp đã phát
triển.
Đối với các nước phát triển, nhu cầu bổ xung vốn không phải là chủ yếu, yếu tố gia
tăng phân công lao động và hợp tác quốc tế nhằm tăng năng xuất, hiệu quả sử dụng nguồn
lực có ý nghĩa quan trọng hơn. Nhưng đối với các nước đang phát triển, do quy mô và tỷ lệ
tích lũy trong nước còn thấp thu hút FDI là hình thức huy động nguồn lực bên ngoài quan
trọng có nhiều ưu điểm để bổ xung vốn đầu tư, cải tiến công nghệ, thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển nền kinh tế. Đối với một số nước nghèo chậm phát triển FDI không chỉ đơn thuần
là nguồn lực bổ xung từ bên ngoài, mà còn có thể được coi như một lối thoát nhằm tạo ra “cú
hích” từ bên ngoài, và phá vỡ “ vòng luẩn quẩn của đói nghèo”. Như nhà kinh tế học P.A.
Samuelson và nhiều nhà kinh tế học khác từng đề cập. Tuy nhiên không phải tất cả các nước
nghèo đều có thể đi lên, thoát nghèo rút ngắn được khoảng cách về trình độ phát triển bằng
con đường thu hút FDI, vì thu hút FDI có những đòi hỏi nhất định và có tính 2 mặt. Để thu
hút được nhiều vốn FDI, nước tiếp nhận phải tạo được môi trường ổn định về chính trị, kinh
tế, xã hội , có hệ thống pháp luật và chính sách đầu tư nước ngoài cởi mở, hấp dẫn có kết cấu
hạ tầng được chuẩn bị tương đối tốt, có đội ngũ lao động được đào tạo phù hợp, có nền hành
chính hữu hiệu, thực hiện đúng cam kết quốc tế, đảm bảo uy tín đối với nhà đầu tư… Kinh
nghiệm cho thấy khi các dự án đầu tiên đã triển khai thuận lợi, đạt hiệu quả cao thì có tác
10
dụng rất lớn trong việc khuyến khích và lôi kéo các nhà đầu tư tiềm năng khác, thậm chí còn
tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư. Mặt khác khi đã thu hút được FDI, việc sử dụng nó
để kết hợp với đầu tư trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy phát triển hợp lý, bền
vững cũng là vấn đề then chốt đối với nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI với tư cách là một dòng vốn quốc tế: trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế
giới, đi kèm các luồng hàng hóa, dịch vụ qua biên giới giữa các quốc gia, châu lục là những
dòng tiền quốc tế, FDI là một trong những dòng tiền quốc tế, gắn bó với nó là hoạt động đầu
tư để sản xuất, kinh doanh lâu dài tại nước tiếp nhận đầu tư, tức là nó thuộc vào dòng chu
chuyển vốn, có thời hạn tương đối dài.
Dòng vốn này gắn với quá trình tự do hóa đầu tư, phân biệt với dòng tiền quốc tế ngắn
hạn thường gắn với quá trình tự do hóa thương mại hoặc kinh doanh, đầu cơ tiền tệ ngoại hối
và cũng có tính chất khác biệt so với hoạt động đầu tư gián tiếp ( mua, bán trứng khoán) hoặc
các giao dịch vay nợ giữa các quốc gia, các doanh nghiệp trên thế giới, thường gắn với quá
trình tự do hóa tài chính. Do đi tiền với công trình dự án đầu tư tại một địa điểm cụ thể. FDI
có tính ổn định tương đối cao, dễ theo dõi, dễ kiểm soát, không biến động quá bất thường
như các dòng tiền ngắn hạn hoặc các khoảng đầu tư gian tiếp. Quá trình phát triển, mở rộng
cả về quy mô và không gian hoạt động của dòng vốn FDI góp phần thúc đẩy quá trình tự do
hóa đầu tư, thông qua đó thúc đẩy hợp tác và phân công lao động quốc tế, làm cho kinh tế
các nước liên kết với nhau chặt chẽ hơn, tùy thuộc vào nhau nhiều hơn và góp phần thúc đẩy
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
1.1.2.4) Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác đầu tư trực tiếp nước ngoài có có
những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: FDI không để lại gánh nặng nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như
hỗ trợ phát triển chính thức như (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như cho
vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài…Bởi vì, chính các nhà đầu tư nước
ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ăn lâu
dài ở các nước sở tại, hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI ít
phải chịu những rằng buộc của người cung ứng vốn như tiếp nhận ODA, kể cả kèm theo
11
những điều kiện về chính trị, có ảnh hưởng đến công việc nội bộ, chủ quyền của đất nước đi
vay.
Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong
nước có thể giảm được rui ro về tài chính, trong tình uống xấu nhất khi gặp rủi ro thì các đối
tác nước ngoài cũng là người cùng chia sẻ với công ty của nước sở tại.
Thứ hai: do đặc điểm và bản chất của FDI, nhà đầu tư không rễ ràng rút vốn ra khỏi
nước sở tại như đầu tư gián tiếp.. Đối với FDI, nhà đầu tư thường tính chuyện làm ăn lâu
dài, không mang tính đầu cơ như đầu tư gián tiếp. Trong trường hợp không muốn làm ăn
tiếp, nhà đầu tư cũng không thể rút vốn dễ dàng nhanh chóng như đầu tư gián tiếp, vì vốn
đầu tư của họ nằm trực tiếp trong nhà xưởng, thiết bị trên đất nước tiếp nhận đầu tư, phải
chuyển đổi bằng cách bán lại hoặc thanh lý nhà máy mới thu hồi vốn và chuyển về nước
được.
Thứ ba, FDI không chỉ đơn thuần là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật
phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm tiên tiến, cho phép tạo ra
những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới… cho nước tiếp nhận đầu tư. Đây là điểm hấp
dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển trình độ phát triển có trình
độ và khoa học công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên
thế giới xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển, do đó để rút ngắn khoảng cách
và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, các nước này rất cần nhanh chóng tiếp cận với
kỹ thuật mới. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao
trình độ công nghệ của mình thông qua FDI là cách tiếp nhận nhanh, trực tiếp và thuận lợi.
Thực tế cho thấy FDI là một kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các
nước đang phát triển, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với nước cần thiếu vốn vừa có trình độ
phát triển thấp công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo
đầy đủ.
Tuy nhiên không chỉ có các nước đang phát triển và chậm phát triển quan tâm đến
yếu tố chuyển giao công nghệ của FDI mà cả các nước công nghiệp phát triển cũng đang tim
cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh để
nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế.
Thứ tư, thông qua tiếp nhận FDI, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn
kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối trao đổi quốc tế thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước này. Chủ thể chủ yếu của hoạt động FDI trên thế
12
giới hiện nay là các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông
qua tiếp nhận đầu tư, của các công ty tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện để thâm nhập thị
trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán, thương mại quốc tế,
thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trên thị trường thế giới…Đó là vai trò làm cầu nối
và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh
quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
Thứ năm, FDI có một lợi thế nữa so với ODA là nó có thể được sử dụng lâu dài, từ
khi một nền kinh tế còn mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao.
Vốn ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển ( có thu nhập bình
quân đầu người dưới một mức nhất định) sẽ giảm đi và chấm dứt khi nước tiếp nhận thoát ra
khỏi tình trạnh kém phát triển, trở thành nước công nghiệp, tức là bị giới hạn trong một thời
kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này. Nó có thể được sử dụng rất lâu dài trong
suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế của nước tiếp nhận. Với những ưu thế quan
trọng như trên ngày càng có nhiều nước coi trọng FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận
FDI hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác trong chiến lược phát triển của mình.
1.2. Kinh nghiệm thu hút và sử dụng FDI của một số
nước
1.2.1 Kinh nghiệm thu hút vốn FDI của Trung Quốc
Nhận thức được vai trò to lớn của FDI trong quá trình phát triển của nền kinh tế nói
chung và nông nghiệp nói riêng, chính phủ Trung Quốc đã có nhiều chiến lược và chính sách
thu hút đầu tư FDI một cách có Hệ thống vào ngành nông nghiệp ngay từ khi mở cửa nền
kinh tế. Trọng tâm của chính sách này được thể hiện:
- Đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành nông, lâm, ngư nghiệp,
chính phủ Trung Quốc thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư và các biện pháp khuyến
khích cho đầu tư vào các dự án đầu tư vào ngành này, đặc biệt là các chính sách ưu đãi về
thuế: ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ( các
mức thuế cũng được phân chia theo lĩnh vực đầu tư, vùng lãnh thổ đầu tư, công nghệ sử dụng
tỷ lệ lao động, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm… mà áp dụng các mức thuế xuất, mức miễn giảm
thuế khác nhau). Chính sách này có tác dụng to lớn khi tác động to lớn đến lợi nhuận mong
muốn mà nhà đầu tư hi vọng nhận được, nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào
những lĩnh vực mà chính phủ mong muốn phát triển nhưng chưa có điều kiện, ngành nông
13
nghiệp là ngành có nhiều sự ưu tiên khi mức miễn giảm thuế, đặc biệt đối với các vùng khó
khăn, còn được miễn thuế hoàn toàn. Các chính sách miễn giảm thuế cũng phụ thuộc vào độ
dài của dự án đầu tư, do đó mà làm tăng tính bền vững và hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
- Thực hiện nguyên tắc tự do hóa đầu tư. Với chính sách này, chính phủ Trung Quốc
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực mà trước đây vẫn còn chưa mở cửa. Với chính
sách này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy được “đối sử” công bằng so với các nhà đầu
tư trong nước, tạo môi trường tự do lành mạnh.
- Bên cạnh chính sách đấy, Trung Quốc vẫn áp dụng một số quy định cấm nhât định
nhằm bảo vệ an ninh Quốc gia và truyền thống văn hóa dân tộc, bảo hộ nền sản xuất trong
nước, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên…Mặc dù thực hiện chính sách đa dạng hóa các
loại hình đầu tư chủ đầu tư, song đối với dự án vào các lĩnh vực phát triển và sản xuất ngũ
cốc (bao gồm cả khoai tây, bông và cây lấy dầu, các loại thuốc gia truyền) của Trung quốc thì
có sự hạn chế của các hình thức đầu tư: chỉ cho phép đầu tư với hình thức doanh nghiệp liên
doanh và và hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài không được chiếm đa số. Chính sách này đảm
bảo cho các sản phẩm nông nghiệp chính, các sản phẩm đặc trưng dân tộc không bị phụ
thuộc vào nước ngoài
- Chính phủ Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến các dự án bảo vệ môi trường, đặc biệt
không cấp phép cho những dự án đầu tư có tác động đến nguồn tài nguyên thiên nhiên và ảnh
hưởng đến môi trường sinh thái.
1.2.2 Kinh nghiệm thu hút vốn FDI của Thái Lan.
Là một nước có khá nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, ngành nông nghiệp vẫn là
chiếm vị trí quan trọng nhất đối với đất nước này kể về lao động hoạt động, đóng góp cho
GDP và thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu.
- Thái Lan đặc biệt áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với
chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Các dự án FDI trong nông
nghiệp được miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu đối với các loại máy móc, thiết bị để thực
hiện dự án mà được cơ quan quản lý đầu tư công nhận và thuộc loại thiết bị được khuyến
khích đầu tư. Riêng đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản
phẩm xuất khẩu, được miễn hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòn 5 năm.
14
- Đối với các dự án đầu tư và lĩnh vực như trồng lúa, trồng trọt, làm vườn, chăn nuôi
gia súc, các dự án về khai thác lâm sản, hải sản, khai thác muối … trong lãnh thổ Thái Lan
thì có biện pháp hạn chế chặt chẽ, chỉ cho phép đầu tư đối với dự án được hội đồng đầu tư
cho phép, trong những dự án này chỉ cho phép với hình thức liên doanh và các nhà đầu tư
nuwos ngoài không được nắm quyền sở hữu đa số.
- Thái Lan cũng hạn chế đầu tư nước ngoài trong những ngành nghề nhất định mà
chưa thực sự sẵn sàng hợp tác với nước ngoài như: sản xuất bột mỳ, đánh bắt thủy sản, khai
thác lâm sản…
1.2.3 Kinh nghiệm thu hút vốn FDI của Malaysia
Trong khu vực, Malaysia là nước có tỷ lệ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khá cao
trong lĩnh vực nông nghiệp và cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Trong chính sách với
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Malaysia đã thực hiện các biện pháp sau:
- Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế
nhập khẩu.
- Giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà phức tạp.
- Bên cạnh đó, cũng là những hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài, không cấp
phép hoặc chỉ cấp phép đầu tư khi có điều kiện: phát triển nguồn nguyên liệu, đầu tư trên địa
bàn nhất định, sản phẩm xuất khẩu…
- Malaysia đóng cửa gần như hoàn toán đối với các dự án tinh chế đường. Hạn chế đối
với các ngành tinh chế dầu cọ, sợi mỳ chế biến, nước chấm, gia vị… để bảo vệ các sản phẩm
mang tính chất dân tộc.
15
Chương II. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI
ở Việt Nam
2.1 Xu hướng phát triển của FDI hiện nay
2.1.1. Xu hướng phát triển FDI trên thế giới hiện nay
Xét tổng thể, các nước đang phát triển vẫn là những địa chỉ hút vốn đầu tư nhiều
nhất, nhưng đồng thời các nhà đầu tư cũng đang hướng đầu tư vào các nước và khu vực
giàu tài nguyên, như châu Phi, Mỹ Latinh và Caribê. Bên cạnh đó, các nhà kinh tế cảnh báo
chiều hướng hạn chế FDI ở nhiều nước có thể cản trở đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu và sự
phục hồi của các thị trường vốn trên thế giới. Các nhà phân tích nhận định rằng, các nước
đang phát triển đang thu hút nhiều vốn FDI hơn bao giờ hết. Ngân hàng Thế giới (WB) công
bố kể từ năm 2000, luồng vốn FDI vào các nước đang phát triển đã tăng mạnh từ 165,5 tỷ
USD lên 470,8 tỷ USD năm 2007, chiếm trên 1/4 tổng luồng vốn FDI toàn cầu, khoảng 1.700
tỷ USD. Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi chiếm 50-60% luồng vốn FDI vào các
nước đang phát triển. Theo WB, trong số các nước đang phát triển thì Trung Quốc vẫn là
nước tiếp nhận luồng vốn FDI lớn nhất với 84 tỷ USD trong năm 2007. Tuy vậy, tỷ trọng
FDI của Trung Quốc đã giảm tương đối so với các nước khác, với FDI chỉ chiếm 18% tổng
số FDI vào các đang phát triển, thấp hơn mức 30% 5 năm trước. Đứng sau sau Trung Quốc
về mặt hút vốn FDI là Nga, Brazil, Mêxicô, Ấn Độ, Chilê và Thổ Nhĩ Kỳ. Nhu cầu cũng như
cơn sốt giá năng lượng tăng bùng nổ khiến cho các luồng vốn đầu tư đua nhau đổ vào Nga
bất chấp các quy định cản trở đầu tư nước ngoài ở nước này . Mêhicô là địa chỉ thu hút đầu
tư lớn thứ tư trong số các nước đang phát triển, tiếp nhận 23,2 tỷ USD năm 2007.
Các quốc gia mới nổi sẽ đóng vai trò chủ đạo thúc đẩy kinh tế thế giới phục hồi trong
năm 2010 và sự gia tăng dòng FDI
Theo đánh giá của Tạp chí The Economist (Anh), cũng như Diễn đàn Thương mại và
Phát triển Liên hiệp quốc (Unctad), sau đỉnh điểm đạt tới 2.080 tỷ USD của năm 2007, dòng
FDI thế giới đã giảm 17% trong năm 2008 (còn 1.720 tỷ USD), và tiếp tục giảm 41% (còn
1.000 tỷ USD) trong năm 2009. Nhưng sự đảo chiều của dòng FDI thế giới đã được ghi nhận
16
trong năm 2010, với dự báo dòng vốn này sẽ tăng trưởng chậm theo sự phục hồi kinh tế toàn
cầu, với mức bình quân 2,5% GDP toàn cầu trong giai đoạn 2010 – 2014. Năm 2008, trong
khi dòng FDI vào các nước phát triển giảm 1/3, thì FDI vào các nước đang nổi lại tăng 11%.
Năm 2009, lần đầu tiên các nước mới nổi thu hút FDI nhiều hơn các nước phát triển, với các
con số tương ứng là khoảng 532 tỷ USD, so với khoảng 488 tỷ USD. . Dù vậy, FDI vào các
thị trường đang nổi dự báo giảm từ mức 4% GDP xuống còn 3% GDP của các nước này
trong giai đoạn 2010 - 2014. Xu hướng mới của dòng FDI thế giới trong năm 2009 và 2010
là hệ quả tổng hợp của việc trầm lắng các giao dịch mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở các
nước phát triển ( từng chiếm 80% số vụ mua bán và sáp nhập doanh nghiệp xuyên quốc gia
trên thế giới năm 2008); sự chuyển hướng của các nhà đầu tư quốc tế trước sức hấp dẫn của
các thị trường mới nổi cả về môi trường và cơ hội kinh doanh…Ngân hàng Deutsche Bank
của Đức ngày 17/3/2010 công bố Báo cáo điều tra hàng năm về các hoạt động đầu tư vốn
cho biết, châu Á (trừ Nhật Bản) sẽ là khu vực có biểu hiện xuất sắc nhất trong năm 2010, còn
Trung Quốc sẽ là quốc gia biểu hiện tốt nhất trong khu vực này.
Hầu hết các nước đều tham ra vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Quá
trình phân công lao động và toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc gips các quốc gia phát huy lợi
thế so sánh của mình khi tham ra đầu tư nước ngoài và tiếp nhận đầu tư của các nước khác
nhằm khắc phục hạn chế của mình. Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước
tiếp nhận đầu tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tiến trình
toàn cầu hóa làm cho luồng vốn làm cho luồng vốn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng
nhưng nhu cầu thu hút và sử dụng FDI ở các nước ngày càng cao, đặc biệt là các nước đang
phát triển. Vì vậy dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nước nhằm thu hút FDI.
2.1.2. Các chủ chương thu hút vốn FDI đối với Việt Nam
2.1.2.1 Sự cần thiết phải thu hút FDI
Trước hết FDI là nguồn bổ sung vốn đầu tư. Giải quyết tình trạng thiếu vốn ở các
nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường trong vòng luẩn quẩn như sau:
17
Khi có FDI Đầu tư tăng Quy mô sản xuât, Hiệu quả sản xuất tăng Thu nhập
tăng Tích luỹ tăng Tạo đà phát triển cho giai đoạn sau.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao trình độ thu
nhập, ổn định đời sống dân cư:
● Khi chưa có FDI: Đầu tư thấp Quy mô sản xuất nhỏ sử dụng ít lao động
thất nghiệp.
● Khi có FDI: Đầu tư tăng Quy mô sản xuất tăng Sử dụng nhiều lao động, tạo
nhiều việc làm Giảm thất nghiệp Tăng thu nhập dân cư
● Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kích thích quá trình sản xuất: FDI Đầu tư tăng
Sản xuất tăng ( cầu đầu vào tăng ( nguyên vật liệu) Tăng sản xuất cung cấp đầu vào
( nguyên vật liệu).
Kể từ khi dành được độc lập, sự phát triển nền kinh tế ở miền Bắc gắn với sự hỗ trợ
của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau nhiều thập kỷ chiến tranh đồng thời giữ vững độc lập, tự
chủ, việc làm tìm kiếm nguồn lực bên ngoài cho phát triển cả về vốn và công nghệ dưới hình
thức FDI là hết sức cần thiết. Xuất phát từ bối cảnh trên, để thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng, ổn định kinh tế - xã hội nguồn vốn nước ngoài mà chúng ta có thể sử dụng được là
vốn FDI. Thực tế đến nay đã chứng tỏ lựa chọn của chúng ta là đúng đắn, đông thời cũng nói
lên sự cần thiết có tính lịch sử và khách quan của FDI đối với công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước.
Sx không hiệu quả
Tích luỹ thấp
đầu tưThu nhập thấp
18
Mục tiêu của nước ta là đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện
tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn nhỏ bé, vấn đề tăng vốn đầu tư xã hội nói chung, trong đó có
nguồn vốn từ bên ngoài ( thông qua việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài) đang nổi lên như một yêu cầu cấp bách. Sự cần thiết của FDI đã thể hiện qua tất cả
các đặc điểm và ưu thế của nó: vừa là bổ xung đáng kể về vốn đầu tư phát triển, vừa là kênh
dẫn chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm và phương thức quản lý tiên tiến, tăng năng lực sản
xuất của nền kinh tế, vừa giúp cho nền kinh tế dần mở cửa hội nhập với nền kinh tế trong khu
vực và thế giới.
Hiện nay, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bền vững, thu hẹp dần
khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực, đảng và nhà nước đã đề ra
định hướng cơ bản cho việc thu hút, sử dụng và quản lý FDI một cách có hiệu quả. Chúng ta
cần một lượng vốn lớn, phải huy động cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế mới xuất hiện và hình thành ngày càng
rõ nét trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.1.2.2 Các chủ chương về thu hút FDI ở Việt Nam
Trong đại hội đảng IX của Đảng và hội nghị Trung ương 9 (khoá IX) đã chỉ ra những
chủ chương cơ bản nhằm thu hút nhiều hơn và sử dụng có hiệu quả cao nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong thời gian hiện nay và sắp tới. Trong bối cảnh hiện nay, chúng tôi
cho rằng cần quán triệt những chủ chương cơ bản sau:
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi để đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tư cách là bộ phận
quan trọng của nền kinh tế, phát triển mạnh mẽ, ổn định theo hướng thu hút mạnh hơn và sử
dụng có hiệu quả hơn thời kỳ trước đây (1996 – 2000), nhằm tạo ra nguồn lực mới đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thật sự coi kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận hữu cơ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung tạo
ra bước chuyển biến rõ rệt về môi trường đầu tư để thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước
ngoài, tạo ra làn sóng mới thu hút FDI vào Việt Nam với chất lượng cao, làm động lực cho
quá trình phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới đây theo tinh thần đại hội IX của
Đảng đã xác định “tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài”.
19
- Tổ chức việc thu hút và quản lý có hiệu quả việc phân bố, sử dụng nguồn vốn FDI
theo chiến lược, quy hoạch kế hoạch, lộ trình rõ rang, vừa tăng về số lượng, vừa chú trọng
nâng cao về mặt chất lượng, nhất là về cơ cấu đầu tư, phục vụ trực tiếp đắc lực cho quá trình
đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ. Cần hướng mạnh hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào những ngành vào những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nhất là những ngành,
lĩnh vực chúng ta làm chưa có hiệu quả, kể cả trong lĩnh vực bất động sản, phát triển công
nghệ cao và dịch vụ giá trị tăng cao, nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu trong nước, nâng cao
năng xuất chất lượng.
- Xây dựng Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đổi mới cơ bản công tác
quản lý nhà nước trong lĩnh vực thu hút, sử dụng nguồn vốn FDI, nhất là quản lý sau cấp
phép trong tinh thần tạo điều kiện cho khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với tư cách
là một thành phần kinh tế, phát triển bình đẳng lâu dài là một thành phần kinh tế, phát triển
bình đẳng lâu dài, gắn kết với các thành phần kinh tế khác trong một cơ cấu thống nhất,
khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài, và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào
nước ta, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao.
Trong đại hội X năm 2006, Đảng ta cũng khẳng định:
Đảm bảo tính thống nhất, ổn định, minh bạch và ngày càng hấp dẫn trong chính sách
đầu tư nước ngoài. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước và cải tiến mạnh mẽ thủ tục đầu
tư, thực hiện theo đúng quy định của Luật đầu tư và phù hợp với lộ trình thực hiện các cam
kết quốc tế đối với nước ta.
2.2Tình hình thu hút vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm
1988 đến nay
2.2.1. Tình hình thu hút và Cấp phép đầu tư
.
Sau khi là thành viên của WTO, Việt Nam đã có những cải cách liên tục về luật pháp,
cơ chế chính sách đặc biệt là về hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài. Hơn
nữa, thị trường Việt Nam mở rộng hơn khi tiếp tục các cam kết một cách đầy đủ trong vai trò
là thành viên của WTO. Đây là cơ hội để tăng trưởng dòng vốn FDI vào Việt Nam trong thời
gian qua. Những lợi thế của môi trường đầu tư như ổn định chính trị, chính phủ thực hiện cải
cách khung luật pháp, chính sách, thể chế, cách địa phương tích cực hỗ trợ nhà đầu tư về đất
20
đai, giải phóng mặt bằng đầu tư hạ tầng, khuyến khích nhà đầu tư có niềm tin vào tương lai
chung và dài hạn về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
`Theo kết quả điều tra của UNCTAD, Việt Nam được xếp vào tốp 10 nền kinh tế hấp
dẫn nhất thế giới về đầu tư của tập đoàn xuyên quốc gia trong giai đoạn 2007 – 2009. Trong
đó Việt Nam đứng hàng đầu về mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực sản xuất.
Dù gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế châu Á (1997), lạm phát và khủng
hoảng tài chính toàn cầu (2008) lượng vốn FDI vẫn tăng nhanh qua các năm. Đặc biệt trong 5
năm (2001 – 2005) , Việt Nam thu hút được 18,5 tỷ USD vốn FDI, năm 2006 đạt trên 12 tỷ
USD, năm 2007 vượt ngưỡng 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006. Năm 2008, kết quả
thu hút nguồn vốn FDI đạt mức kỷ lục với 64,1 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2007, trong đó
có 60,2 tỷ USD vốn cấp mới.
Từ năm 1988 đến năm 1990, luật đầu tư nước ngoài mới thực thi tại Việt Nam, là giai
đoạn khởi động thu hút dòng vốn FDI. Trong giai đoạn này, có 214 dự án cấp phép với tổng
vốn đăng ký đạt 1,58 USD. Vốn đăng ký trung bình một dự án khoảng 7,4 triệu USD, trong
đó vốn pháp định là 4,7 triệu USD. Các lĩnh vực thu hút đầu tư chủ yếu là khách sạn, khai
thác thăm dò dầu khí, xây dựng
.
(theo “ báo cáo tổng kết 20 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam (1988 – 2008) của Bộ KH&ĐT (2009) và của tổng cục thống công bố chính
thức (2008))
Biểu đồ 2.1: tổng số dự án cấp mới FDI từ năm 1988-2010 (6 tháng đầu)
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch và đầu tư
21
Trong thời kỳ 1991 – 1995 , vốn FDI đăng ký cấp mới tăng 18,3 tỷ USD với 1409 dự
án và đã có tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội của quốc gia. Thời kỳ 1991 –
1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam với 1.181 dự
án được cấp phép có tổng vốn đăng ký ( gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây
là giai đoạn mà môi trường đầu tư – kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư
do chi phí đầu tư – kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực, lực lượng lao động
đông với giá nhân công rẻ, thị trường mới. Vì vậy, vì vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng
trưởng nhanh chóng và có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế. Năm 1995 thu hút
được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991, ( 1,2 tỷ USD) năm 1996 thu hút
được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997 – 1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13
tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước ( năm 1998 chỉ bằng 81,8 % năm
1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vừa và nhỏ.
Giai đoạn này coi như thời kỳ suy thoái với lượng vốn FDI đăng ký giảm mạnh, do tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á (1997). Năm 1999 lượng vốn FDI
đăng ký giảm 59,5% so với năm 1998.
Từ năm 2000 đến năm 2003 , vốn FDI vào Việt Nam có dấu hiệu phục hồi chậm, là
thời kỳ điều chỉnh của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000
đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm
2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 ( đạt 3,1 tỷ USD) , tăng
6% so với năm 2002 , và có xu hướng tăng nhanh vào năm 2004 ( đạt 4,5 tỷ USD) tăng
45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức
kỷ lục trong 20 năm qua với 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006 và tăng hơn gấp đôi so
với năm 2006, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Đặc biệt trong 2 năm 2006 – 2007, dòng vốn FDI vào nước ta đã tăng đáng kể với sự
xuất hiện của nhiều dự án quy mố lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp ( sản xuất
thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,…) và dịch vụ ( cảng biển, bất động sản, công nghệ
thông tin , du lịch, dịch vụ cao cấp.v.v). Năm 2006 cả nước đã thu hút được 10,2 tỷ USD vốn
đăng ký, tăng 5,7 % so với năm trước và đạt mức cao nhất từ khi ban hành luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1987 đến thời điểm này. Trong tổng vốn FDI năm 2006 có gần 8 tỷ
USD vốn đăng ký của hơn 800 dự án mới và hơn 2,2 tỷ USD vốn tăng thêm của 440 lượt dự
án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Năm 2007 đã có thêm 1544 dự án được cấp mới với
22
số vốn đăng ký ban đầu là 18,7 tỷ USD. Trong năm 2008, số dự án tăng vốn cũng rất lớn với
311 dự án đăng ký tăng vốn với tổng số vốn đăng ký thêm 3,74 tỷ USD. Chỉ tính riêng số
vốn tăng thêm của các dự án đang hoạt động tại Việt Nam trong năm 2008 đã tương đương
với tổng số vốn đăng ký mới trong một năm của đầu những năm 2000 với 1171 dự án với
tổng vốn đăng ký đạt 60,217 tỷ USD ( bên Việt Nam chiếm khoảng 10%) tăng 222% so với
năm 2007. Do đó, tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và đăng ký tăng thêm, tổng số vốn FDI
tăng thêm, tổng số vốn FDI đăng ký tại Việt Nam năm 2008 ( tính đên 19/12) đạt 64,011 tỷ
USD, tăng 199,9% so với năm 2007
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã
đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới nền kinh tế các nước đã bắt đầu phục hồi: trong 6 tháng đầu năm
2010 cả nước có 438 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 7,9 tỷ USD, tăng
43% so với cùng kỳ 2009. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 6 tháng đầu năm 2010,
các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 8,43 tỷ USD, bằng 80,9% so với
cùng kỳ 2009.
2.2.2 FDI phân theo ngành
Theo báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài, đến hết 15/12/ 2009, lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm 68% về số dự án và 58% về số vốn đăng
ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ chiếm 28% về số dự án và 40% về số vốn đăng ký Lĩnh
vực nông lâm - ngư nghiệp chiếm 4% về số dự án và 2% về số vốn đăng ký (Bảng 2.1).
Trong đó, vốn tăng thêm chủ yếu tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và
xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991 – 1995 ; 657% trong giai đoạn 1996 –
2000 và đạt khoảng 77,3 trong thời kỳ 2001 – 2005. Trong 2 năm 2006 – 2007 tỷ lệ tương
ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm. Riêng năm 2008, vốn FDI tập trung chủ yếu
vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng , gồm 572 dự án với tổng số vốn đăng ký
32,62 tỷ USD, chiếm 48,85% về số dự án và 54,12% về vốn đầu tư đăng ký; các dự án thăm
dò và khai thác dầu tại Việt Nam thu hút 17,5% tổng vốn FDI
23
Bảng 2.2: FDI Phân theo ngành đến hết ngày 15/12/2009
Ngành
Tổng số dự
án
Tổng vốn
đăng ký(triệu
USD)
%số dự án
% vốn đăng
ký/cả nước
Công nghiệp và xây dựng 7388 103.270 68% 58%
Nông, lâm, ngư nghiệp 480 3.003 4% 2%
Dịch vụ 3.093 70.840 28% 40%
Nguồn: cục đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT
. Sau cuộc khủng hoảng tài chính nền kinh tế đang bắt đầu phục hồi, Việt Nam vẫn là
điểm đến của các nước đầu tư. Trong năm 2009, dịch vụ lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực
thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và
tăng thêm. Trong đó, có 32 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD và 8 dự án tăng
vốn với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD. Kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD
vốn đăng ký mới và tăng thêm. Trong đó có một số dự án có quy mô lớn được cấp phép
trong năm như Khu du lịch sinh thái bãi biển rồng tại Quảng Nam, dự án Công ty TNHH
thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya tại Đồng Nai và dự án Công ty TNHH một thành viên
Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư lần lượt là 4,15 tỷ USD, 2 tỷ USD và
1,68 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn đăng ký lớn thứ ba
trong năm 2009 với 2,97 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó có 2,22 tỷ USD đăng ký mới và 749
triệu USD vốn tăng thêm.
2.2.3 FDI phân theo vùng lãnh thổ
Theo thống kê các dự án và tổng vốn đăng ký FDI theo vùng lãnh thổ, các dự án còn
hiệu lực đến ngày 15/12/2009 của cục đầu tư nước ngoài, bộ KH & ĐT công bố:
Vùng trọng điểm phía Bắc có 3.117 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 34,991 tỷ
USD, chiếm 28,55% về số dự án, 20% tổng vốn đăng ký cả nước và 36,26% tổng vốn điều lệ
của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu với 1.644 dự án với tổng vốn đăng ký 19,473 tỷ
USD) chiếm 15% vốn đăng ký và 11% vốn điều lệ cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng
(302 dự án với tổng vốn đăng ký 4,29 tỷ USD), Hải Dương (230 dự án với tổng vốn đăng ký
24
2,322 tỷ USD), Vĩnh Phúc (129 dự án với tổng vốn đăng ký 1,978 tỷ USD), Bắc Ninh (145
dự án với tổng vốn đăng ký 1,934 tỷ USD), Quảng Ninh (107 dự án với tổng vốn đăng ký
1,167 tỷ USD).
Bảng 2.3:Thống kê dự án và tổng vốn FDI
Các dự án còn hiệu lực đến ngày 15/12/ 2009
Khu vực Số dự án
Tổng vốn ( tỷ
USD)
Vốn điều
lệ(tỷ USD)
%tổng
vốn
%vốn điều
lệ
Miền bắc 3.117 34,991 13,119 20,05 23,8
Miền trung 664 39,208 8,363 22,46 15,16
Miền nam 7.138 100,359 33,669 57,49 61,04
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch và Đầu tư
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 7.138 dự án với tổng vốn đầu tư 100,359 tỷ USD,
chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (3.140 dự án với
tổng vốn đăng ký 27,215 tỷ USD) chiếm 28,6% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự
là Bà Rịa-Vũng Tàu (211 dự án với tổng vốn đăng ký 23,642 tỷ USD) , Đồng Nai (1.028 dự
án với tổng vốn đăng ký 16,339 tỷ USD); Bình Dương(1946 dự án với 13,394 tỷ USD; Ninh
Thuận (25 dự án với tổng vốn đăng kys10,08 tỷ USD. Điều này, minh chứng cho việc triển
khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị
19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng
cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005.
Vùng trọng điểm miền Trung, thu hút được 664 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ
USD qua 21 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 15,16% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong
đó: Phú Yên (49 dự án với tổng vốn đăng ký 8,2 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung
với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Hà
Tĩnh (10 dự án với tổng vốn đăng ký 7,99 tỷ USD), Thanh Hóa (33 dự án với tổng vốn đăng
ký 6,99 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn FDI, nhất là đầu tư vào xây dựng các
khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần
giảm tình trạng “cháy” buồng, phòng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức
nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn FDI còn khiêm
tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (118dự án với tổng vốn đăng
25