Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tư tưởng chính trị cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống chính trị xã hội ở việt nam hiện nay - tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.92 KB, 81 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một hình thái ý thức xã hội có quá trình ra đời và phát triển
lâu dài trải qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, Nho
giáo đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều xã hội, nhiều quốc gia. Nhiều thời
kỳ lịch sử, Nho giáo đã trở thành quốc giáo, thành nền tảng tinh thần cho xã
hội, thành mục tiêu trọng tâm trong các kỳ khoa cử. Nho giáo xuất hiện ở
Trung Quốc thời cổ đại, song nó đã có sự lan truyền một cách rộng rãi và
nhanh chóng tới nhiều quốc gia trên thế giới. Nho giáo đã góp phần đắc lực
cho việc quản lý đời sống chính trị - xã hội. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, Nho giáo
được bổ sung thêm những giá trị mới phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm
quyền, với thời đại. Chính vì lẽ đó mà Nho giáo vẫn có sức sống “trường tồn”
cùng với sự phát triển của các quốc gia.
Ở Việt Nam đã có những thời kỳ Nho giáo đóng vai trò hết sức quan
trọng trong đời sống xã hội. Nho giáo đã hòa cùng với văn hóa, tín ngưỡng
dân tộc và các tôn giáo khác để tham gia xây dựng giá trị nền tảng tinh thần
cho cộng đồng, điều chỉnh các hoạt động xã hội. Đồng thời Nho giáo cũng có
tác động nhiều chiều đến việc tiếp thu các giá trị mới tiến bộ.
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng. Đất nước đã
thoát khỏi tình trạng nước nghèo để bước vào vị thế mới: nước có thu nhập
trung bình. Song hành với quá trình phát triển của đất nước, Nho giáo đã có
sự tác động tích cực nhất định đến mọi mặt của đời sống xã hội như: kinh tế,
chính trị, văn hoá, giáo dục… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó
thì hàng loạt những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo cản trở đến sự phát triển
xã hội như bệnh bảo thủ, tính gia trưởng, quan liêu…


2



Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh sự
phát triển đất nước nhằm tiến tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Do vậy, trong đường lối chung để thực hiện mục tiêu đó, bên cạnh việc
phải phát huy những giá trị của Nho giáo, chúng ta không thể không khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực của nó trên con đường phát triển, để Nho giáo
còn có thể đóng vai trò quan trọng trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam như trước kia Nho giáo đã phục vụ đắc lực cho xã hội phong kiến
ở Trung Quốc, xã hội tư bản ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo hiện nay…
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Tư tưởng chính trị cơ bản
của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống chính trị - xã hội ở
Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nho giáo là đề tài được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên
cứu. Điều này phản ánh sự hấp dẫn cũng như tính phức tạp của nho giáo. Đến
nay, Nho giáo vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải có sự đi sâu nghiên
cứu và giải thích.
Ở Việt Nam, trong mấy thập kỷ nay, Nho giáo đã dành được sự chú ý
nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, cụ thể với các tác phẩm, công trình tiêu
biểu như:
- Cuốn sách “Nho giáo” (2 tập) của Trần Trọng Kim được xuất bản
trước năm 1930 và từ đó đến nay đã được tái bản nhiều lần. Cuốn sách giới
thiệu về lịch sử hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc từ Khổng Tử
cho đến đời Thanh. Trong cuốn sách có một số trang phụ lục, tóm tắt về sự du
nhập và phát triển Nho giáo vào Việt Nam. Cuốn sách được xem là công trình


3


tiếng Việt đầu tiên trình bày một cách khái quát về sự hình thành phát và triển
Nho giáo một cách có hệ thống.
- Cuốn sách “Nho giáo xưa và nay” do GS. Vũ Khiêu chủ biên, xuất bản
năm 1990 gồm một số công trình, bài viết của một số tác giả đề cập tới nhiều
vấn đề của Nho giáo từ phương pháp tiếp cận, đến quan hệ của Nho giáo với
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử và văn hoá.
- Trong cuốn sách “Nho giáo xưa và nay” của nhà nghiên cứu Quang
Đạm xuất bản năm 1994 đã phân tích sâu sắc những nội dung cơ bản của Nho
giáo và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.
- Cuốn sách “Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” của PGS.TS Nguyễn Tài Thư, xuất bản năm 1997, nho giáo
được trình bày dưới giác độ triết học. Tác giả đã phân tích khá ký lưỡng nội
dung của Nho học và vai trò của nó đối với đời sống xã hội trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam.
- Trong cuốn “Nho giáo tại Việt Nam” có một số bài viết đáng chú ý.
Trong bài “Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo với xã hội Việt Nam” của
Đào Duy Anh, tác giả cho rằng những hiện tượng như thanh niên bị kìm hãm
trong mọi lĩnh vực hoạt động, phụ nữ bị chồng bạc đãi, tệ nạn kéo bè kéo
cánh,… là do tư tưởng và tác phong phong kiến gây nên, trong đó Nho giáo
phải chịu một phần trách nhiệm lớn và chúng ta phải tìm những tàn tích xấu
mà quét đi để chúng khỏi kìm hãm sự tiến lên của xã hội.
- Trong bài “Nhân dân Việt Nam dưới tác động của Khổng giáo” của Vũ
Khiêu, tác giả nhận định, trong suốt một ngàn năm dưới ách đô hộ của phong
kiến nước ngoài, Nho giáo trở thành một phương tiện tinh thần rất độc hại mà
giai cấp thống trị sử dụng để nô dịch quần chúng.


4

- Trong bài “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong lịch sử tư tưởng

Việt Nam” của Nguyễn Đức Quỳ, tác giả cho rằng tư tưởng Nho giáo có ảnh
hưởng sâu, mạnh tới toàn bộ tư tưởng Việt Nam. Tam cương, ngũ thường,
tam tòng, tứ đức đều là khuôn vàng thước ngọc không chỉ cho giai cấp thống
trị mà cho cả nhân dân lao động.
- Cuốn sách “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam” của GS Vũ Khiêu,
xuất bản năm 1997, đã nhìn nhận, đánh giá vai trò của Nho giáo trong lịch sử
Việt Nam và một số vấn đề của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay.
Trên một số tạp chí chuyên ngành cũng xuất hiện những bài viết liên
quan đến vấn đề ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống chính trị - xã hội ở
Việt Nam hiện nay, như: “Nho giáo và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt Nam hiện nay” trên Tạp chí Triết học số 5 năm 2002 của Nguyễn
Tài Thư; “Đạo đức Nho giáo trong đời sống Việt Nam” trên Tạp chí Lý luận
chính trị số 3 năm 2008…
Ngoài ra còn rất nhiều các bài nghiên cứu, bài báo của các tác giả viết về
Nho giáo, sự ảnh hưởng của Nho giáo đến các lĩnh vực của đời sống xã hội…
Trên đây là các công trình tiêu biểu nghiên cứu về sự ra đời, phát triển,
nội dung cơ bản của Nho giáo cùng với sự du nhập của Nho giáo vào nước ta.
Các công trình trên nghiên cứu Nho giáo chủ yếu trên giác độ như: triết học,
lịch sử, xã hội… Còn dưới góc độ chính trị học thì hầu như chưa có công
trình nào ở Việt Nam nghiên cứu về Nho giáo một cách khái quát và đầy đủ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:


5

Luận văn làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng cả
tích cực và tiêu cực của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Trên
cơ sở đó luận văn sẽ xây dựng những giải pháp nhằm phát huy những giá trị

của Nho giáo, đồng thời loại bỏ những hạn chế của nó trong đời sống chính
trị - xã hội nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Luận văn khái quát làm rõ nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển và
những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo.
- Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam cùng những ảnh hưởng của tư
tưởng chính trị Nho giáo với đời sống chính trị - xã hội nước ta.
- Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của Nho giáo với đời sống chính trị xã hội ở Việt Nam, luận văn xây dựng những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của Nho giáo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó ở
Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo
được du nhập vào Việt Nam, những ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận


6

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về nhìn nhận, đánh giá những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể chủ yếu được sử dụng trong luận văn là: lịch sử và
lôgíc; phân tích và tổng hợp, phương pháp quan sát xã hội…

6. Đóng góp mới và ý nghĩa khoa học của luận văn
Đóng góp mới của luận văn:
- Luận văn trình bày khái quát tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo.
- Làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo đối với đời sống
chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những ảnh hưởng
tiêu cực của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Cung cấp cho người đọc một cách nhìn khái quát về những giá trị
chính trị cơ bản của Nho giáo cùng với những ảnh hưởng ở Việt Nam hiện
nay. Từ đó giúp cho người đọc có thái độ ứng xử một cách đúng đắn với Nho
giáo.
- Thành công của luận văn sẽ góp phần làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy môn Lịch sử tư tưởng chính trị.
7. Kết cấu của luận văn


7

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 12 tiết.


8

Chương 1:
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIÁO
1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG TIÊU BIỂU CỦA NHO GIÁO

1.1.1. Sự ra đời Nho giáo

Trung Quốc cổ đại có một nền văn minh ra đời rất sớm so với các khu
vực trên thế giới. Từ thế kỷ XXI TCN (Trước công nguyên), ở lưu vực châu
thổ Hoàng Hà đã chứng kiện sự xuất hiện và kế tiếp nhau của các triều đại
(Tam đại) là: Hạ, Ân (Thương) và Chu.
Tới thế kỷ XVII TCN (vào khoảng cuối đời Thương), bộ tộc Chu nổi lên
ở thượng lưu Hoàng Hà, thuộc tỉnh Thiểm Tây đã men theo con sông, tăng
cường phát triển nông nghiệp và chinh phục các bộ tộc lân cận, mở rộng đất
đai. Một thời gian sau lãnh thổ của nhà Chu được mở rộng đến Trường Giang.
Đến giữa thế kỷ XI TCN, dưới thời của vua Trụ cai trị một cách bạo tàn với
tính cách hoang dâm, vô độ đã bị Chu Vũ Vương tiêu diệt. Nhà Ân (Thương)
đã bị thay thế bởi nhà Chu. Triều Chu rút về đóng đô ở đất Cảo Kinh ở phía
Tây (nay là Tây Nam của Tây An), mở ra thời kỳ thịnh trị của nhà Tây Chu
(1135 - 771 TCN).
Dựa vào nguồn tài liệu kim văn (văn tự khắc vào đồng) và tài liệu của
người đời sau ghi lại. Để củng cố nền thống trị lâu dài, nhà Chu đã tôn giáo
hóa chính trị. Cụ thể vua nhà Chu tự xưng là Thiên Tử, lấy danh nghĩa là
người có cả thiên hạ, tuyên bố mình là chủ sở hữu duy nhất đất đai trong thiên
hạ: “Khắp dưới gầm trời, đâu cũng là đất của vua. Cả nước từ trong đến
ngoài, ai cũng là tôi vua” [21, tr.220]. Trên cơ sở đó nhà Chu đã thi hành
chính sách phân chia đất đai cho con, cháu và phong làm công hầu, bá tước.
Thời Tây Chu việc quản lý xã hội theo mô hình thái dương hệ. Vua nhà Chu


9

là Thiên tử, là vương, còn con cháu nhà Chu là các bá. Vương là trung tâm,
các bá phải phục tùng vương, phải cống nạp cho vương, vâng lệnh vương. Mô
hình tổ chức chính trị theo kiểu này vô cùng hữu hiệu nhằm tập trung quyền
lực, đồng thời cũng tạo sự chủ động cho các nước chư hầu. Mô hình chính trị
này tạo thành cơ chế ràng buộc nhau về huyết thống, kinh tế và chính trị - xã

hội trong giai cấp thống trị.
Thời Tây Chu nổi lên mấy đặc điểm cơ bản sau: Lực lượng sản xuất
phát triển, đồ sắt đã xuất hiện góp phần đưa năng suất lao động lên cao. Nhà
Chu thực hiện chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất (ruộng đất) và sức lao
động. Ruộng đất và muôn dân đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Sau
khi thiết lập sự thống trị, nhà Chu cải cách quan hệ sản xuất, thi hành rộng
khắp chế độ Tỉnh điền. Theo chế độ này, ruộng đất được chia làm hai loại
công điền và tư điền. Nông nô phải cùng nhau cày cấy và nộp sản phẩm nông
nghiệp ở ruộng công điền cho tầng lớp quí tộc (gọi là phép trợ) sau đó mới
được về làm ở phần Chế độ tỉnh điền đã cho thấy tính chất nhị nguyên của
quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ phương Đông, tức là sự tồn tại song song
của công điền và tư điền trong công xã nông thôn. Với cách phân chia ruộng
đất này thì cả quí tộc ở trên và nông nô ở dưới đều có nguồn thu và phương
tiện sinh sống. Đây là phương thức phân chia tổng sản phẩm xã hội độc đáo
và là chính sách phù hợp để đảm bảo cho xã hội duy trì ổn định trật tự. Theo
Ph.Ăngghen nhận xét thì điều đặc biệt là ở đây không có chế độ ruộng đất tư
nhưng người ta vẫn kiến lập được một xã hội có giai cấp và thực hiện được sự
áp bức bóc lột giữa giai cấp này với giai cấp khác. Nhà Chu đã chính trị hoá
tư tưởng kính trời, thờ thượng đế, hợp mệnh trời. Nhà Chu cho rằng: nhà Ân
không hợp mệnh trời do không biết mệnh trời nên thượng đế không còn ưa
nhà Ân nữa mà ban mệnh xuống cho nhà Chu được “nhận dân, nhận cõi” do
đó con cháu nhà Chu phải dốc tâm gìn giữ. Tầng lớp quý tộc Chu được đề


10

cao, vua Chu là thiên tử, là Hạ đế (trời là thượng đế). Nhà Chu tồn tại là hợp
mệnh trời, do đó tầng lớp quý tộc Chu có thể “nhận dân, trị dân và hưởng
dân”, nếu kẻ “làm dân” mà làm loạn thì kẻ được “hưởng dân” sẽ phải dùng
các phép “không phải đạo thường” mà chém giết, cai trị.

Đến đời Bình Vương (771 TCN) do bị giặc dã quấy phá, nhà Chu dời đô
tới Lạc Ấp, thuộc phía Đông Trung Quốc (nay thuộc Lạc Dương, tỉnh Hà
Nam). Lúc này Trung Quốc bước vào thời kỳ lịch sử đặc biệt do những biến
đổi lớn lao về mọi mặt của đời sống xã hội - thời Xuân Thu - Chiến Quốc
(771 - 221 TCN).
Ở thời Xuân Thu (771 - 481 TCN) đồ sắt đã xuất hiện phổ biến góp
phần phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp
người ta đã biết dùng súc vật làm sức kéo, “đồng thau để đúc kiếm kích… sắt
dùng để đúc cuốc cào và quả cân…” [4, tr.156]. Điều này không chỉ thúc đẩy
kỹ thuật luyện sắt phát triển mà còn tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất
hoang, phát triển kỹ thuật canh tác, dẫn thủy nhập điền, sử dụng súc vật làm
sức kéo trong nông nghiệp. Những tiến bộ đó lại thúc đẩy cho việc khai khẩn
đất hoang, ngăn lụt chống hạn, giao thông vận tải… và góp phần nâng cao
năng suất lao động nông nghiệp. Thủ công nghiệp cũng rất phát triển với
những tiến bộ của các kỹ thuật đúc đồng thau, làm mộc, làm muối… Một số
nghề mới xuất hiện như luyện sắt, luyện sơn, luyện gang thép. Cùng với sự
phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng rất phát triển,
tiền tệ ra đời. Lúc bấy giờ đã xuất hiện những thành thị buôn bán nhộn nhịp ở
Hàn, Tề, Tần, Sở… Kết cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã thay đổi… Sự
ra đời của đồ sắt đánh dấu bước phát triển nhảy vọt có ý nghĩa thời đại của
công cụ sản xuất, là nguyên nhân quyết định sự phát triển rõ rệt của các ngành
kinh tế thời Xuân Thu.


11

Sang thời Chiến quốc (481 - 221 TCN), kinh tế càng phát triển mạnh
mẽ. Đồ sắt được phát triển rộng rãi với những công cụ như: Lưỡi cày, cuốc,
rìu, dao… Thủy lợi và canh tác vì thế càng có điều kiện phát triển: Các công
trình thủy lợi được xây dựng khắp nơi từ lưu vực Hoàng Hà đến Trường

Giang, từ bờ biển phía Đông đến vùng Tứ Xuyên. Cùng với bước tiến của sản
xuất nông nghiệp hoạt động thương nghiệp cũng diễn ra sôi nổi. Các trung
tâm thương nghiệp đông đúc xuất hiện như Lâm Tri, Hàm Đan, Thọ Xuân,
Hàm Dương, Đại Lương, Lạc Dương ở các nước Tề, Tần, Sở, Triệu, Ngụy,
Chu… Số lượng và chủng loại hàng hóa đem ra thị trường buôn bán ngày
càng nhiều. Trong xã hội xuất hiện nhiều nhà buôn lớn, chuyên đầu cơ tích
trữ lũng đoạn thị trường. “Bọn phú thương rất có thế lực, mua quan bán tước
và bắt đầu tham gia chính trị, muốn phá bỏ biên giới giữa các nước chư hầu
để cho sự giao thông và thương mại khỏi bị trở ngại” [29, tr.12]. Bên cạnh đó,
nghề thủ công nghiệp cũng rất phát triển như: Nghề gốm, chạm bạc, dệt lụa,
luyện kim. Như vậy trải qua thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, kinh tế Trung
Quốc phát triển liên tục về mọi mặt. Sự phát triển nhanh này cũng đẩy nhanh
đến sự xuất hiện những mâu thuẫn trong xã hội để ấp ủ ra đời một thời kỳ lịch
sử mới.
Nhà Chu dần dần mất đất, mất dân, địa vị kinh tế bị sa sút, địa vị chính
trị - xã hội bị khủng hoảng. Vua Chu chỉ tồn tại về mặt hình thức, các nước
chư hầu không còn phục tùng nhà Chu nữa mà mang quân thôn tính lẫn nhau,
xã hội đại loạn, lịch sử gọi thời kỳ này là: Vương đạo suy vi, bá đạo lấn át
vương đạo. Chiến tranh giữa các nước chư hầu thời Xuân Thu diễn ra liên
miên và vô cùng khốc liệt, trong khoảng 242 năm thì có đến 483 cuộc chiến
tranh. Chiến tranh giữa các nước chư hầu đã tiêu tốn bao nhiêu sức người, sức
của, gây bao cảnh chia ly, đói kém, đau khổ cho nhân dân. Người nông dân:
“Trên chẳng đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới chẳng đủ để nuôi nấng vợ con,


12

nhằm năm trúng mùa thì trọn đời khổ hụt, phải năm thắt ngặt thì chẳng khỏi
nạn chết đói” [9, tr.37]. Đến cuối thời Chiến Quốc tình cảnh xã hội càng bi
đát hơn: nước Vệ bắt lính tới 1/5 dân số, nước Tần bắt ông già 70 tuổi tòng

quân, nước Tề thu thuế của dân 2/3 hoa lợi. Chiến tranh loạn lạc, ruộng đất bỏ
hoang, có kẻ đói quá phải đổi con cho nhau mà ăn thịt. Một thời kỳ xã hội
loạn lạc chưa từng thấy, với hơn 500 năm chiến tranh đau thương “đánh nhau
tranh thành, thây chất đầy thành, đánh nhau tranh đất, xác chết đầy đồng” [4,
tr.27]. Lúc này ngay trong từng nước cũng xảy ra xung đột giữa các dòng họ,
giữa bọn quí tộc với nhau để tranh giành đất đai và quyền lực. Xã hội nổi lên
nhiều mâu thuẫn đan xen, thực chất báo hiệu chế độ chiếm hữu nô lệ đã đến
lúc khủng hoảng cần phải thay thế.
Trong bối cảnh đó, câu hỏi lớn đặt ra cho lịch sử là: Xã hội Trung Quốc
loạn là do đâu? Và khắc phục bằng cách nào? Từ đó, các nhà tư tưởng đã
đứng trên các lập trường giai cấp của mình để giải quyết những vấn đề do lịch
sử đặt ra.
Thời kỳ này Trung Quốc nổi lên đến hơn một trăm nhà, do vậy lịch sử
gọi thời này là: Bách gia chư tử, bách gia tranh minh. Trong rất nhiều nhà đó,
tiêu biểu có Nho giáo. Nho giáo bàn đến việc quản lý xã hội bằng đạo đức,
cho nên học thuyết này được gọi là học thuyết Đức trị.
Nho giáo đại diện cho tư tưởng của tầng lớp quí tộc Chu đang nắm
quyền nhưng có nguy cơ mất quyền. Học thuyết Khổng Tử muốn lập lại trật
tự của nhà Chu đã suy tàn, muốn quay xã hội về thời Tây Chu. Tuy nhiên,
mong muốn này không được xã hội đương thời chấp nhận. Phải đến thời nhà
Hán, Nho giáo mới chiếm một vị trí quan trọng trong việc tham gia chính trị,
tham gia trị nước.
1.1.2. Các nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu


13

Nho giáo là học thuyết của xã hội phong kiến, bản thân Nho giáo cũng
nêu lên một số nguyên lý, nguyên tắc, đường lối và phương pháp nhằm bảo
đảm cho xã hội một sự ổn định và vận hành để phát triển. Mục đích lý tưởng

của Nho giáo là xây dựng một nhà nước chuyên chế mạnh, duy trì kỷ cương,
tông pháp, đẳng cấp, quyền lực tuyệt đối thuộc về vua. Người cai trị dùng đạo
đức, lễ tiết để làm gương cho dân chúng, dùng pháp luật có mức độ, dân
chúng thì tự giác làm tròn bổn phận của mình.
Một số chính trị gia tiêu biểu của Nho giáo:
1.1.2.1. Khổng Tử (551 - 479 TCN)
* Vài nét về Khổng Tử và bộ sách của nhà Nho
Khổng Tử tên Khâu, tự Trọng Ni, người nước Lỗ, nay thuộc làng Xương
Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khổng Tử từng giữ các
chức quan nhỏ. Suốt thời gian làm quan, ông chăm lo chính sự làm cho nước
Lỗ ổn định. Nước Tề lập kế để vua Lỗ mải vui chơi quên việc triều chính.
Ông can gián nhưng vua Lỗ không nghe, nên cùng học trò bỏ vua Lỗ đi.
Khổng Tử nhiều lần đi sang các nước khác mong muốn áp dụng học
thuyết của mình vào việc trị nước, nhưng không được xã hội trọng dụng. Sau
14 năm du thuyết không thành, ông quay về nước Lỗ viết sách và dạy học,
học trò theo học rất đông trong đó có 72 học trò giỏi (thất thập nhị hiền), sau
này đã có nhiều học trò và thế hệ học trò tiếp tục sự nghiệp Nho học mà thầy
là người có công tập đại thành.
Kinh điển của Nho giáo bao gồm Tứ thư và Ngũ kinh:
Tứ thư gồm bốn cuốn sách:
Luận ngữ là cuốn sách được học trò tập hợp lời nói, lời dạy của Khổng
Tử về đức của người quân tử.


14

Đại học do Tăng Tử (Tăng Sâm - học trò của Khổng Tử) viết. Trên cơ
sở những lời thầy dạy, Tăng Tử viết thành cuốn Đại học. Đại học là cuốn sách
dạy lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số.
Trung dung do Tử Tư (Tử Cấp - cháu nội Khổng Tử, học trò của Tăng

Tử) viết.
Mạnh Tử do Mạnh Tử hay còn gọi Mạnh Kha (Mạnh Kha là học trò của
Tử Tư) viết bổ sung thêm những giá trị mới cho Nho giáo.
Ngũ kinh đây là tập sách do Khổng Tử sưu tập, chỉnh lý và bổ sung
những thư tịch cổ biên tập thành sáu bộ sách gồm:
Thi: Những bài thơ tồn tại trong dân gian về tình yêu đôi lứa được
Khổng Tử sưu tập;
Thư: Sách ghi lại truyền thuyết về những đời vua trước kia. Trong Thư,
Khổng Tử nêu gương Nghiêu, Thuấn và phê bình Kiệt, Trụ;
Dịch: Kinh dịch bàn về âm dương, bát quái;
Lễ: Sách ghi chép các lễ nghi, các qui định;
Xuân Thu: Khổng Tử chép sử ở nước lỗ hai mùa Xuân - thu.
Nhạc: Bộ nhạc sau đó bị thất truyền.
Học thuyết của Khổng Tử được gọi là học thuyết chính trị - đạo đức.
Những vấn đề cơ bản của chính trị được bàn đến ở đây như: quyền lực, bang
giao, phẩm chất của người cai trị…
* Những tư tưởng chính trị cơ bản
Quan niệm về chính trị:
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là bàn về sự bình ổn xã hội,
một xã hội thái bình thịnh trị. Theo ông, chính trị là chính đạo, là ngay thẳng.


15

Đạo của người làm chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân
chúng. Theo ông xã hội loạn là do không chính danh là loạn danh tôi không ra
tôi, vua không ra vua; con không ra con, cha không ra cha; vợ không ra vợ,
chồng chẳng ra chồng... Do đó, chính trị có nhiệm vụ lập lại trật tự xã hội cho
chính danh. Chính danh (đúng tên gọi) ở đây nhằm để: Quân quân, thần thần,
phụ phụ, tử tử... Chính trị có nhiệm vụ làm cho xã hội nề nếp, kỷ cương, trật tự.

Khổng Tử cho rằng nguyên nhân mỗi người không ở đúng danh vị của
mình (việt vị) là do trong xã hội điều Lễ bị xem nhẹ. Do đó, chính trị làm cho
thiên hạ có Đạo, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng lễ nghĩa, mỗi
người phải hành động trong khuôn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định.
Trong quan niệm về chính trị, Khổng Tử cũng nêu ra phương pháp cai
trị lý tưởng, là cai trị bằng đạo đức: “Cai trị bằng đức, giống như sao Bắc đẩu
cứ ở yên một chỗ mà các sao khác hướng theo về” [26, tr.160].
Quan niệm chung về chính trị cũng như lý tưởng chính trị được ông triển
khai theo phương pháp “nhất dĩ nhi quán chi” (lấy cái bao trùm những cái
khác) và các nội dung cụ thể khác như dùng “lễ”, “chính danh” và đạo “nhân”
để cai trị.
Học thuyết của Khổng Tử lấy đạo nhân làm gốc (nhân là nhân đạo, là ái
nhân) lấy hiếu đễ, lễ nhạc làm cơ bản cho sự giáo hoá, để gây thành đạo nhân.
Khổng Tử cho rằng: “Nhân đạo mẫn chính, địa đạo mẫn thụ. Phù chính giả
dã, bồ lư giã. Cố vi chính trị nhân; thủ nhân dĩ thân, tu thân dĩ đạo, tu đạo dĩ
nhân: cái nhanh thành hiệu của đạo người là việc chính trị, cái nhanh thành
hiệu của đạo đất là sự mọc cây cối. Việc chính trị cũng như cây lau cây sậy
vậy. Cho nên làm việc chính trị cốt ở dùng người hiền; sửa mình mà dùng
người hiền, lấy đạo mà sửa mình, lấy nhân mà sửa đạo” [26, tr.151].


16

Bên cạnh đó, theo ông nhà nho phải tham gia chính trị, phải có trách
nhiệm với sơn hà xã tắc. Chính vì vậy mà đương thời Khổng Tử đã đi khắp
nơi (sớm Sở, tối Tần) để giao giảng học thuyết của mình nhằm giúp cho xã
hội bình ổn. Tuy nhiên, học thuyết của ông không được xã hội lúc bấy giờ
trọng dụng.
Quan niệm về phẩm chất của người cầm quyền và người bị cầm quyền:
Theo tư tưởng của Khổng Tử, khi người ta đã quần tụ với nhau thành xã

hội thì tất phải có quyền tối cao để giữ kỷ cương chung. Cái quyền ấy gọi là
Quân quyền, tức là quyền tối thượng trong một quốc gia. Quân quyền phải để
một người nắm giữ cho thống nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế vương.
Đế vương là thiên tử, vâng mệnh trời xuống để nhận dân, trị dân và hưởng
dân. Thiên tử phải lo việc trị nước, lo cuộc sống sinh hoạt, dạy dỗ và mở
mang cho muôn dân.
Theo Khổng Tử xã hội loạn là do người điều hành, người đứng đấu chứ
không phải do chế độ xã hội đương thời. Người hành chính mà có tài, có đức
thì nước được trị; người hành chính không có tài, không có đức, thì nước phải
loạn. Dẫu chính thể (thể chế chính trị) hay đến đâu mà người điều hành không
ra gì, thì cũng hoá dở. Khổng Tử nói: “Văn Vũ chi chính bố tại phương sách,
kỳ nhân tồn, tắc kỳ chính cử, kỳ nhân vong, tắc kỳ chính tức: việc chính trị
của vua Văn, vua Vũ bày ra ở trong sách. Nếu những người như vua Văn, vua
Vũ còn thì cái chính trị ấy thi hành ra, nếu những người ấy mất, thì cái chính
trị ấy hư hỏng” [26, tr.152]. Do vậy, việc chính trị hay dở cốt ở người hành
chính. Bởi thế cho nên Khổng Tử muốn lúc nào người cầm quyền hành chính
cũng phải kính cẩn, lo sửa mình cho ngay chính, để dùng người hiền mà làm
việc nước, việc dân.


17

Chính vì vậy, người cầm quyền phải có những phẩm chất nhất định,
phải giữ mình cho ngay chính và làm việc gì cũng phải giữ cái danh cho
chính. Người quân tử điều gì mà chưa biết rõ thì đừng nói vội. Danh không
chính thì nói không xuôi, nói không xuôi thì việc không thành (Danh bất
chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành). Cho nên quân tử
danh chính ắt là khá nói được, nói được ắt là khá làm được.
Người cai trị phải có đức “nhân”, phải thực hiện “nhân” bằng các phẩm
chất như thương người, thanh liêm, tiết kiệm trong chi dùng... Thông qua

người cai trị làm gương, dân chúng sẽ noi theo: “Bề trên thích lễ, thì dân cung
kính, bề trên thích tín thì dân không dám nói sai” [22, tr.40]. “Người cai trị
thanh liêm, không tham dục thì dù có thưởng dân cũng không ăn trộm” [22,
tr.40].
Ngoài biện pháp nêu gương, người cai trị phải thực hiện “nhân”, bằng
những việc cụ thể, tạo điều kiện để dân làm ăn yên ổn, được sống trong hoà
bình. Quan hệ vua với dân như quan hệ cha con, cha lo cho con là điều tự
nhiên, hợp lý.
Theo Khổng Tử, nhân và lễ là đạo làm người được trời phú cho, nhưng
không phải là tất cả mọi người đều có nhân và lễ. Khổng Tử phân chia con
người trong xã hội thành hai hạng: quân tử và tiểu nhân. Quân tử là những
người thuộc các tầng lớp quý tộc, quan lại, trí thức thuộc giai cấp thống trị.
Tiểu nhân là những người lao động chân tay, thuộc giai cấp bị trị. Ông xem
nhân và lễ là đức tính của người quân tử, còn tiểu nhân thì tuyệt đối không thể
có nhân cách ấy, mặc dù ông nói: “Tính tương cận, tập tương viễn” (Tính
người là gần nhau nhưng do tập nhiễm mà xa nhau).


18

Khổng Tử khẳng định: chỉ khi nào thu phục được lòng dân thì mới có
quốc gia hưng thịnh. Chủ trương dùng “lễ”, “nhân”, “chính danh”, nêu gương
và noi theo đều nhằm mục đích thu phục lòng dân.
Học thuyết Nhân, Lễ, Chính danh:
Đây là học thuyết cơ bản của Khổng Tử. Trong học thuyết này Nhân là
phạm trù trung tâm, nhân là thước đo, chuẩn mực quyết định thành hay bại,
tốt hay xấu của chính trị. Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề
đạo đức, luân lý của xã hội. Khổng Tử nói đến 79 lần về điều Nhân, tùy theo
căn cơ, trình độ, tâm tính của từng học trò khi hỏi về điều Nhân mà thầy trả
lời cho học trò hiểu được. Nhân là nhân đạo, là tính người, là nhân bản, là ái

nhân. Nhân thể hiện ở các nội dung sau: Thương yêu con người (ái nhân),
trong đó thương yêu người thân của mình (thân thân) và yêu người nhân đức
(thân nhân). Từ thương người, Khổng Tử đi đến hai nguyên tắc: “Kỷ sở bất
dục vật thi ư nhân: Điều mình không muốn làm thì đừng đối xử với người” và
“Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân: Mình muốn thành đạt thì
giúp cho người khác thành đạt”. Và để giữ được điều nhân thì “Khắc kỷ, phục
lễ vi nhân: Tu dưỡng bản thân, sửa mình theo lễ là Nhân”. Nhân là chuẩn mực
ứng xử giữa người với người nâng lên thành một giá trị đạo đức xã hội.
Đạo nhân là phương pháp cai trị được Khổng Tử tiếp cận từ quan niệm
về phẩm chất người cai trị, nếu theo điều nhân sẽ tập hợp được dân và dễ sai
khiến dân. Theo Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người, mà
chỉ có ở người quân tử, còn kẻ tiểu nhân thì không bao giờ có. Đây chính là
một trong những hạn chế của ông. Để đạt được điều Nhân, cần phải có Lễ.
Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận
hoá, biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội,


19

được thể hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà
cửa...
Quan niệm “lễ trị”: “Lễ” là chuẩn mực ứng xử mang tính hình thức
trong xã hội nói chung, chính trị nói riêng. Khi thực hiện quan hệ, mọi người
phải tuân theo “lễ”. Và chỉ có tuân theo “lễ”, xã hội mới trật tự, thực hiện
được cai trị vương đạo. Khổng Tử đề cao “lễ” đến mức “nếu hiểu rõ giá trị
của lễ giao (tế trời) thì việc trị nước như ngửa bàn tay ra xem vậy”; hoặc “biết
dùng lễ thì cai trị khó gì”; “bề trên thích lễ thì dễ sai khiến dân”. Lễ nhà Tây
Chu là hệ thống “lễ” phong phú, phức tạp và nhiều khi giáo điều gò ép. Đó là
qui định về các loại lễ tế của dân thường cho tới thiên tử; các quy định xe,
ngựa, vẻ mặt khi giao tiếp; chỗ ngồi, chỗ đứng, cách đi...

Theo Khổng Tử, Lễ quan trọng trong việc cai trị vì các lý do sau:
Thứ nhất, Lễ quy định danh phận thứ bậc người trong xã hội;
Thứ hai, Lễ có tác dụng điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ ứng
xử, “không học lễ, không có gì làm chỗ dựa;
Thứ ba, Lễ có tác dụng hình thành thói quen đạo đức, ví dụ như “cho
cha mẹ ăn phải cung kính. Nếu không cung kính thì không khác nào cho chó,
ngựa ăn”. Cung kính dần thành thói quen ứng xử.
Lễ bao gồm hai nội dung cơ bản là tam cương và Ngũ luân.
Tam cương là ba quan hệ cơ bản, rường cột trong xã hội:
Quân - Thần (vua - tôi);
Phụ - Tử (cha - con);
Phu - Thê (chồng - vợ);


20

Trong đó thần đối với quân phải Trung; con đối với cha phải Hiếu; Vợ
đối với chồng phải Tiết hạnh.
Ngũ luân là Tam cương được Khổng Tử mở rộng thêm hai quan hệ nữa
là:
Trưởng - Ấu (anh - em);
Bằng - Hữu (bạn bè);
Trong đó Trưởng - Ấu phải Thuận, Bằng -Hữu phải Tín.
Tam cương và Ngũ luân là những quan hệ cơ bản để điều chỉnh các hoạt
động xã hội. Bản thân Khổng Tử là người giữ nghiêm Lễ. Ông bỏ vua Lỗ
Định Công mà đi, vì vua Lỗ không thực hiện đúng Lễ, mặc dù ông đang giữ
chức Đại Tư khấu.
Chính danh là xác định và phân biệt quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa
các giai cấp, thực chất là khẳng định tính hợp lý của giai cấp quý tộc trong
việc thực thi quyền lực của mình. Nó vừa là điều kiện, vừa là mục đích của

chính trị.
Theo Khổng Tử, muốn cai trị trước hết phải chính danh, nghĩa là mọi vật
cần phải hợp với cái danh nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm một số trách
nhiệm và bổn phận phù hợp với danh ấy. Chính danh là xác định đúng trật tự
cai trị, thứ bậc, trách nhiệm xã hội. Ông cho rằng, chính danh là hợp với tự
nhiên, “mệnh trời”: “Vật các đắc kỳ sở” (vật đều có chỗ xác định của nó).
Ông xác định rằng, một trong những nguyên nhân của sự rối loạn trật tự xã
hội là do mỗi người không xác định đúng vị trí của mình, ngược lại còn tiếm
quyền, tiếm lễ. Nội dung Chính danh ông đưa ra gồm:
Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân, tầng lớp trong
xã hội. Ai ở vị trí nào thì làm tròn bổn phận ở vị trí ấy “quân quân, thần thần,


21

phụ phụ, tử tử” (vua phải giữ đúng đạo vua, tôi phải giữ đúng đạo tôi, cha
phải giữ đúng đạo cha, con phải giữ đúng đạo con), không được việt vị (bất
việt vị), không làm vượt quá chức năng, bổn phận của mình.
“Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phải phù hợp với hình thức.
Trong chính trị, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Phải xác định “danh” trước khi có “thực” vì “danh” là điều kiện thi hành
“thực”. Khi có danh thì thực mới có ý nghĩa “danh không chính thì ngôn
không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành...”.
Chính danh là một biện pháp quy định và giúp mọi người nhận rõ cương
vị, quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp
tương ứng. Có xác định được danh phận thì mới điều hoà được các mối quan
hệ.
Trong học thuyết này Nhân là gốc, là nội dung cơn bản; Lễ là hình thức
của Nhân; Chính danh là con đường để đạt được điều Nhân.
Quan niệm về biện pháp cai trị:

Khổng Tử muốn lấy đạo đức mà thu phục người hơn là dùng hình pháp
mà trị xã hội. Ông nói: dùng chính trị mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhất thì
dân khỏi tội, nhưng không có lòng hổ thẹn; dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề
nhất, thì dân có lòng hổ thẹn, mà lại cố làm điều hay. Điều này cho thấy mong
muốn của Khổng Tử về cách cai trị. Chỉ khi nào dùng đức mà không hoá
được, thì mới dùng đến hình, dùng hình là bất đắc dĩ để trừng trị những kẻ
không thể hoá được. Vậy nên Khổng Tử nói: Thánh nhân trị dân và hoá dân là
phải dùng cả chính lẫn hình. Bậc thái thượng lấy đức dạy dân, mà lấy lễ tề
dân. Bậc thứ nhì lấy chính sự mà khiến dân, và lấy hình mà ngăn cấm: hình
đặt ra nhưng không dùng đến. Chỉ có lúc hoá dân mà dân không theo, để đến
hại nghĩa nát tục, thì bấy giờ mới phải dùng hình vậy.


22

Tư tưởng chính trị của Khổng Tử rất thích hợp với chủ nghĩa hoà bình,
nhân đạo. Ông nói: người làm vua làm chúa không lo ít người mà lo không
đều, không lo nghèo mà lo không an. Hễ đã đều là không có sự nghèo, đã hoà
thuận là không có ít người, đã an là không có sự khuynh nguy. Ông cho rằng
lấy nhân ái mà trị dân, giữ cho dân được hoà bình an lạc, đó mới thật là chính
sách của vương đạo. Nếu xưa nay các nhà vua, ai cũng theo cách cai trị đó thì
nhân dân tránh khỏi được bao nhiêu những việc chính trị hà khắc, làm cho
dân khỏi phải lầm than cực khổ.
Phải thấy rằng, lý tưởng chính trị của Khổng Tử có giá trị nhân đạo cao.
Nhưng trong thực tế, tư tưởng đó không phù hợp với xã hội đương thời đang
loạn lạc. Đồng thời ông cũng chưa lý giải đúng quan hệ giai cấp và sự vận
động xã hội, nên trong suốt đời hành đạo của mình, ông phải thốt lên rằng:
“Đạo ta được thi hành hay không là do mệnh trời”, hoặc đã có lúc ông phải
chua chát than rằng: “Ta chưa thấy ai yêu đạo đức như yêu gái đẹp”.
Các môn đệ của ông sau này phát triển tư tưởng của ông theo nhiều

hướng khác nhau, tạo thành hệ thống tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thừa
nhận giai cấp thống trị phong kiến. Với nguyên tắc chính trị đó, các triều đại
phong kiến Trung Quốc sau này lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống là
hoàn toàn có cơ sở.
1.1.2.2. Mạnh Tử (372 - 289 TCN)
* Vài nét về Mạnh Tử
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, người nước Lỗ. Ông là học trò của Khổng
Cấp (cháu nội Khổng Tử, Khổng Cấp là học trò của Tăng Sâm, Tăng Sâm là
học trò của Khổng Tử). Lên 3 tuổi, cha mất, Mạnh Tử được mẹ hiền nuôi dạy
và hướng theo học đạo của Khổng Tử. Ông có tài hùng biện, thường đi các
nước: Lương, Tống, Tề, Đằng... để thuyết phục vua các nước theo đạo thánh


23

nhân. Nhưng các nước chỉ lo chiến tranh, không lo nhân nghĩa nên đạo của
ông không được thi hành, bản thân ông không được trọng dụng.
Khi về già, ông cùng môn đệ viết sách, nội dung ghi lại những điều đối
đáp của ông với các vua chư hầu và môn đệ. Sách Mạnh Tử là tác phẩm của
ông và là một cuốn trong bộ kinh điển Tứ thư của nhà nho.
* Tư tưởng chính trị cơ bản
Quan niệm về quyền lực chính trị
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử ít bàn đến cách thức tổ chức thể chế
chính trị mà thường bàn nhiều về phương pháp cai trị. Ông thường lên án “bá
đạo” (cai trị bằng bạo lực, làm bá chủ chư hầu), ca ngợi lựa chọn “vương đạo”
để cai trị (cai trị bằng đạo đức). Ông chủ trương theo các đời vua Nghiêu, vua
Thuấn, vua Vũ.
Mạnh Tử lý giải nguồn gốc quyền lực mang tính duy tâm thần bí với ba
yếu tố: ý trời - lòng dân - nhân đức. Theo ông ba yếu tố này có quan hệ với
nhau. Theo ông, sở dĩ các vua: Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ... trở thành thiên tử

là do ý trời. Trời trao ngôi thiên tử cho người đức hạnh, nhưng trao một cách
ngấm ngầm, bí mật mà biểu hiện bề ngoài là lòng dân. Theo ông ngôi thiên tử
khi lòng dân thuận, là trời đã trao, lòng dân không thuận, là trời không ưng và
khi đó trời mượn tay người mà trừ bỏ ngôi thiên tử.
Đồng thời với việc thừa nhận chính thể phong kiến, Mạnh Tử coi ngôi
thiên tử là của chung thiên hạ. Tiêu chuẩn ngôi thiên tử là được lòng dân, mà
không nhất thiết theo dòng họ. Ai đủ tiêu chuẩn thì được trời trao. Ông
thường lấy ví dụ: vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn (Thuấn là con rể
của Nghiêu), Thuấn lại nhường ngôi cho con của Nghiêu là Vũ, Vũ lại
nhường cho con là Khải. Họ là người hiền, trời đồng ý, nên “quốc thái, dân


24

an”. Ông phê phán một số vua chư hầu bề ngoài thì sợ sự ô nhục nhưng bên
trong vẫn ăn ở bất nhân.
Trong mối quan hệ quyền lực ý trời - lòng dân - nhân đức, Mạnh Tử lập
luận: muốn giành, giữ ngôi thiên tử, thì phải nhân đức; nhân đức mới được
lòng dân; được lòng dân sẽ thuận ý trời. Do đó, ông bàn nhiều về vua nhân
đức, với những yêu cầu cụ thể về phẩm chất đạo đức, phương pháp cai trị để
thu phục lòng dân: “vui cái vui của thiên hạ, lo cái lo của thiên hạ”, biết chọn
lựa và sử dụng nhân tài; tiêu dùng tiết kiệm, theo “lễ”..., nhưng điều quan
trọng nhất vẫn là được lòng dân. Muốn vậy, trước hết phải hiểu dân. Mạnh Tử
cho rằng, con người vốn có tính thiện, đều có nhân, lễ, trí, nghĩa, nguồn gốc
từ cái tâm vốn có lương tri, lương năng. Nhưng do cai trị không khéo, để dân
đói khổ, cùng đường, đi làm trộm cướp mà trở thành ác. Người cai trị không
hiểu điều đó, chờ lúc họ phạm tội mới dùng hình để phạt thì cách cai trị như
vậy là chăng lưới để bắt dân.
Hiểu dân còn là biết nhu cầu chính đáng của dân mà đáp ứng. Cái dân
cần trước hết là đủ ăn, có dư thừa để phòng lúc đói kém, nuôi được cha mẹ để

làm việc kính. Nhưng để có cái ăn thì không phải đem cho dân mà là tổ chức
sản xuất, thu thuế nhẹ. Mạnh Tử còn đặt vấn đề giải quyết quan hệ chính trị
thu phục lòng người bằng biện pháp kinh tế. Ông cho rằng, phải chia ruộng
đất cho dân cày để họ sản xuất, sai khiến dân phải tránh thời vụ sản xuất. Ông
phản đối phép chia đất hiện hành vì nó không khuyến khích sản xuất. Cũng
như Khổng Tử, Mạnh Tử mong muốn có một xã hội đạo đức, vua chăm lo
cho dân để người già có lụa mặc, có thịt ăn và dân không đói, không rét.
Mạnh Tử cũng đề cao việc giáo hoá dân. Ông phân tích cái hại của việc
dân không được giáo hoá, do đó khờ khạo mà phạm phải pháp luật và ông kết
luận, đó là lỗi của người cai trị. Nội dung dạy dỗ dân là: pháp luật, nhân, lễ,


25

hiếu, đễ, ngay thẳng... nhằm đạt mục đích dân phục tùng mà theo về. Giáo
hoá dân là để được lòng dân, được lòng dân là được thiên hạ. Ông từng nói:
bảo vệ dân, làm giàu dân thì không gì ngăn cản được.
Một nội dung trong tư tưởng chính trị của Mạnh Tử được đánh giá cao
là ông đã đề cập đến dân, đề cao dân, có thể đây được xem là tư tưởng dân
chủ sơ khai. Bằng cách diễn đạt dưới các hình thức khác nhau, ông nêu các
khía cạnh khác nhau của dân chủ trong lĩnh vực chính trị.
Học thuyết “nhân chính” của Mạnh Tử có nhiều nhân tố tiến bộ hơn so
với Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng
ông đã nhìn thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân
chính, vương đạo. Tuy nhiên, điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời
và tính thần bí trong lý giải vấn đề quyền lực.
Quan hệ vua - tôi và thần dân:
Mạnh Tử cho rằng dân có thể thay trời để lật vua. Ông cho rằng: “Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh: dân quí nhất, xã tắc thứ hai, vua là nhẹ
nhất” (Cáo Tử, hạ). Có dân mới có nước, có nước mới có vua. Nghĩa vụ của

người làm vua là phải giữ gìn hạnh phúc của dân. Nếu người làm vua mà
không hiểu rõ nghĩa vụ ấy là làm việc trái lòng dân, tức là trái mệnh Trời. Và
trái mệnh trời có thể thay. Ông nói trong lịch sử là ta giết là giết thằng Trụ,
thằng Kiệt chứ không phải giết vua, Trụ, Kiệt bị thay là do không hợp mệnh
trời.
Theo Mạnh Tử, quan hệ vua tôi đã bớt đi tính hà khắc, một chiều. Ông
cho rằng vua coi bề tôi như thế nào thì bề tôi cũng có cách xử sự tương ứng:
“Vua coi bề tôi như chân tay, bề tôi coi vua như ruột thịt; vua coi bề tôi như
chó ngựa, bề tôi coi vua như người dưng; vua coi bề tôi như cỏ rác, bề tôi coi
vua như thù địch” [26, tr.232]. Bề tôi có thể bỏ vua mà đi nếu vua không nghe


×