Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG đầu tư CHỨNG KHOÁN tại THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM và VAI TRÒ của CHỦ đầu tư nước NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.89 KB, 41 trang )

Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

MỤC LỤC
PHẦN I: MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN...............3
I. Khái niệm và phân loại hoạt động đầu tư chứng khoán..............................3
1.1 Khái niệm..........................................................................................................................3
1.2 Phân loại đầu tư chứng khoán...........................................................................................3

II. Các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư chứng khoán................................5
2.1 Nhà đầu tư (NĐT).............................................................................................................5
2.2 Nhà phát hành...................................................................................................................6
2.3 Trung gian tài chính..........................................................................................................6

III. Quy trình đầu tư chứng khoán....................................................................7
3.1 Tìm hiểu thị trường...........................................................................................................7
3.2 Xác định chứng khoán mục tiêu.......................................................................................8
3.3 Thu thập và sàng lọc thông tin/ Lựa chọn danh mục đầu tư.............................................8
3.4 Xác định các tiêu chí đầu tư..............................................................................................9
3.5 Theo dõi Danh mục đầu tư..............................................................................................10
3.6 Thanh lý/Cut loss............................................................................................................10

IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán................11
4.1 Khả năng sinh lời từ khoản đầu tư chứng khoán trong tương lai...................................11
4.2 Mức độ rủi ro có thể gặp của loại chứng khoán được đầu tư.........................................11
4.3 Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư.............................................................12
4.4 Mức độ và khả năng kiếm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp..........................12

PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.............................................14


I. Hoạt động đầu tư trên thị trường.................................................................14
1.1 Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong nước..................................................................14
1.2 Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.................................................................18

II. Vai trò của nhà đầu tư đối với thị trường chứng khoán Việt Nam.........21
III. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước......................................................21
IV. Các kết quả đạt được trong giai đoạn vừa qua........................................26
4.1 Những mặt đã đạt được:..................................................................................................26
4.2 Những mặt còn hạn chế..................................................................................................28

PHẦN III: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM...................................................................................................................32
I. Định hướng của nhà nước đối với thị trường chứng khoán Việt Nam.....32
1.1 Mục tiêu:.........................................................................................................................32
1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường chứng khoán:.......................................33
1.3. Định hướng phát triển:...................................................................................................33

II. Một số giải pháp chủ yếu nâng cáp hiệu quả đầu tư trên thị trường......35
2.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán..................................................35
2.2. Tăng cung chứng khoán cho thị trường về số lượng, chất lượng và chủng loại............36
2.3 Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường
chứng khoán..........................................................................................................................37


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

2.4 Nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao

dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký chứng khoán........................................................38
2.5 Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán.........................................38
2.6 Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán...........................39
2.7 Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành chứng khoán trong việc
hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước trên các phương diện:.......................................................40
2.8 Tăng cường hợp tác quốc tế............................................................................................40
2.9 Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền.............................40
2.10 Kinh phí và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho thị trường chứng khoán...............................41
2.11 Nâng cao nhận thức của các NĐT cá nhân...................................................................41

2


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

PHẦN I: MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
I. Khái niệm và phân loại hoạt động đầu tư chứng khoán
1.1 Khái niệm
Đầu tư chứng khoán là một loại hình đầu tư tài chính. Trong hoạt
động này, nhà đầu tư bỏ tiền để mua chứng khoán (bao gồm cổ phiếu,
trái phiếu…). Giá trị của chứng khoán phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ
bản của các quyền được bao hàm trong mỗi loại chứng khoán, hay phụ
thuộc vào năng lực tài chính của nhà phát hành. Đồng thời, giá chứng
khoán phụ thuộc vào quan hệ cung cầu chứng khoán trên thị trường.
Đầu tư chứng khoán giúp nhà đầu tư có thể thu được lợi nhuận từ
phần lợi tức được chia và phần tăng giá chứng khoán trên thị trường.
Mặt khác, nhà đầu tư có thể được hưởng quyền quản lý, quyền kiểm
soát doanh nghiệp từ việc nắm giữ cổ phiếu.

1.2 Phân loại đầu tư chứng khoán
Có nhiều cách phân loại đầu tư chứng khoán. Ở đây chỉ đề cập đến
việc phân loại theo mục đích đầu tư. Theo đó, hoạt động đầu tư chứng
khoán có thể chia thành:
- Đầu tư ngân quỹ
Hoạt động đầu tư ngân quỹ thường được thực hiện bởi các tổ chức
kinh tế và nhà đầu tư lớn. Xuất phát từ nhu cầu thanh toán chi trả, nhu
cầu dự phòng và dự trữ, các tổ chức kinh tế và nhà đầu tư lớn thường
phải nắm giữ một lượng tiền khá lớn. Tuy nhiên, tiền không phải là tài
sản sinh lời, nên các đối tượng này thường có xu hướng tăng cường
đầu tư vào các tài sản sinh lời, giảm dự trữ tiền, do vậy tiềm ẩn khả
năng phá sản lớn do khả năng thanh toán kém. Để khắc phục điều này,
các nhà quản trị tài chính thường đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn,
có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền như tín phiếu kho bạc, kỳ
phiếu ngân hàng… Bên cạnh khả năng sinh lời, các chứng khoán này

3


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

có vai trò như là các dự trữ thứ cấp khi nhu cầu thanh toán chi trả phát
sinh.
- Đầu tư hưởng lợi
Khác với đầu tư ngân quỹ nhằm đáp ứng khả năng thanh toán, hoạt
động đầu tư hưởng lợi nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt
động đầu tư có thể có được từ lợi tức, từ tài sản đầu tư như cổ tức
hàng năm, hay từ lợi tức của trái phiếu. Bên cạnh đó, nhà đầu tư có thể

thu được chênh lệch giá chứng khoán và các quyền lợi khác nếu có.
Hoạt động đầu tư hưởng lợi gồm kinh doanh chênh lệch giá, hoạt
động đầu cơ, kinh doanh giảm giá, tạo lập thị trường.
- Đầu tư phòng vệ
Hoạt động đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận lớn, song cũng
hàm chứa rủi ro rất cao. Vì vậy, công cụ phòng vệ xuất hiện ngày càng
nhiều nhằm giúp nhà đầu tư phòng tránh rủi ro, như: hợp đồng giao
sau, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền mua…, các công cụ này được
sử dụng cho cả nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá, nghiệp vụ đầu tư
và nghiệp vụ phòng vệ.
- Đầu tư nắm quyền kiểm soát
Cổ phiếu cho phép chủ sở hữu có quyền kiểm soát công ty phát
hành thông qua quyền nhận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại
ĐHCĐ. Số lượng cổ phiếu nắm giữ thường quyết định khả năng biểu
quyết, kiểm soát của nhà đầu tư. Một số nhà đầu tư lớn, thường là nhà
đầu tư tổ chức như doanh nghiệp hoặc ngân hàng lớn thường thực hiện
hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát.
Một hình thái khác của đầu tư nắm quyền kiểm soát phát triển trong
những năm gần đây là hoạt động đầu tư mạo hiểm. Một số tổ chức đầu
tư lớn tìm kiếm cơ hội đầu tư từ các công ty chưa phát triển, đặc biệt
yếu kém về công nghệ quản lý. Thông qua nắm quyền kiểm soát, họ
thực hiện tái cấu trúc công ty, thay đổi quản lý, công nghệ, từ đó nâng
cao hiệu quả hoạt động và cải thiện hình ảnh trong công chúng đầu tư
4


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)


và sẽ thực hiện bán cổ phiếu trên thị trường tập trung hoặc thị trường
OTC khi cổ phiếu tăng giá.
II. Các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư chứng khoán
2.1 Nhà đầu tư (NĐT)
NĐT bao gồm NĐT có tổ chức như ngân hàng, CTCK, công ty bảo
hiểm, DN. Đặc điểm cơ bản của nhóm NĐT này là quy mô vốn đầu tư
lớn, có tính tập trung hoá hoạt động đầu tư cao, hoạt động chuyên
nghiệp với danh mục đầu tư đa dạng và linh hoạt. Đặc biệt, các tổ
chức kinh doanh chứng khoán như ngân hàng, CTCK có thể đảm nhận
vai trò tạo lập thị trường.
Các DN cũng là đối tượng đầu tư quan trọng trên thị trường. Tuy
nhiên, hoạt động đầu tư của đối tượng này thường kém chuyên nghiệp
hơn, chủ yếu tập trung ở hoạt động đầu tư ngân quỹ nhằm đáp ứng
khả năng thanh toán chi trả và hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát.
Bên cạnh NĐT có tổ chức, các NĐT cá nhân có vai trò quan trọng
trong việc làm tăng tính sôi động của thị trường. Nhiều nước trên thế
giới cho phép NĐT được ký hợp đồng và mở tài khoản tại nhiều
CTCK. Biện pháp này giúp NĐT có thể thực hiện phân tán đầu tư, tận
dụng lợi thế của từng CTCK trong việc thực hiện giao dịch, đồng thời
các CTCK buộc phải cạnh tranh với nhau, từ đó làm tăng chất lượng
dịch vụ cung cấp. Ở Việt Nam, phương thức quản lý chưa hoàn thiện,
chưa thực sự kiểm soát chặt chẽ các giao dịch, đặc biệt là giao dịch
nội gián và thao túng thị trường, do vậy hiện mới chỉ cho phép mỗi
NĐT được mở 1 tài khoản tại một CTCK.
Các NĐT cá nhân thường gặp bất lợi về quy mô, do vậy chi phí đầu
tư cao, khả năng phân tán rủi ro và đa dạng hoá đầu tư kém, tính
chuyên nghiệp thấp. Danh mục đầu tư của các NĐT cá nhân ở Việt
Nam thường đơn giản, chủ yếu là cổ phiếu. Hơn nữa, việc hoạch định
danh mục đầu tư còn thiếu khoa học và quản lý thụ động. Chứng
5



Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

khoán được lựa chọn còn theo cảm tính, do vậy chất lượng đầu tư
thường không cao.
2.2 Nhà phát hành
Nhà phát hành lớn nhất trên thị trường là các tổ chức kinh tế, bao
gồm Chính phủ và chính quyền địa phương, DN, ngân hàng thương
mại và các trung gian tài chính khác. Hoạt động phát hành chứng
khoán của các trung gian tài chính làm tăng khả năng tích tụ và tập
trung vốn trên thị trường. Chính phủ và chính quyền địa phương phát
hành trái phiếu và công cụ nợ ngắn hạn nhằm huy động vốn để bù đắp
thiếu hụt ngân sách và chi đầu tư.
Các DN phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ nợ ngắn hạn
nhằm huy động vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động. Phần lớn lượng vốn
này được dùng để đầu tư mua sắm các tài sản thực, do vậy làm tăng
năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Các trung gian tài chính như ngân hàng thương mại có thể phát
hành chứng khoán để huy động vốn. Chứng khoán do đối tượng này
phát hành có khối lượng lớn và độ an toàn khá cao, do vậy thường hấp
dẫn công chúng đầu tư.
2.3 Trung gian tài chính
Các tổ chức trung gian đầu tư bao gồm CTCK, công ty quản lý quỹ,
tổ chức bảo hiểm, ngân hàng và trung gian đầu tư khác. Các CTCK
thường thực hiện hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát
hành, tự doanh…
Khác với CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện

hoạt động uỷ thác đầu tư hoặc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng
khoán và thực hiện quản lý danh mục đầu tư chứng khoán cho khách
hàng (những người sở hữu chứng chỉ quỹ).
Công ty bảo hiểm là trung gian đầu tư điển hình. Thông qua hoạt
động khai thác bảo hiểm, các công ty này thu hút lượng vốn lớn trong
6


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

nền kinh tế và thực hiện hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi, chủ yếu vào
các chứng khoán.
III. Quy trình đầu tư chứng khoán

3.1 Tìm hiểu thị trường
Tìm hiểu thị trường giúp cho nhà đầu tư có được cái nhìn toàn cục
về thực trạng của thị trường chứng khoán - nơi mà họ đang đặt kỳ
vọng khai thác lợi nhuận. Khi tìm hiểu thị trường, nhà đầu tư nên tập
trung vào các thông tin sau:
- Quá trình phát triển của thị trường (ổn định hay không?);
- Các biến cố lịch sử của thị trường và lý giải các biến cố đó;
- Các nhân tố (vĩ mô và vi mô) có thể gây ảnh hưởng tới thị trường;
- Tình trạng hiện tại của thị trường.

7


Thảo luận môn Thị trường vốn


Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

Với các nội dung như trên, nhà đầu tư có thể chủ động nhận biết
các đặc điểm về qui luật vận động của thị trường, cũng như xác định
được xuất phát điểm tham gia vào thị trường của mình đang ở đâu
trong chu trình vận động ấy.
3.2 Xác định chứng khoán mục tiêu
Đây là bước mà nhà đầu tư phải tiến hành sơ bộ lọc ra các mã
chứng khoán có khả năng đầu tư dựa trên những hiểu biết và phán
đoán của mình. Để thực hiện bước này, nhà đầu tư nên có sự quan sát
ngay từ bước Tìm hiểu thị trường và tiếp tục củng cố nhận định của
mình bằng phân tích sơ bộ dựa trên những thông tin đại chúng và/hoặc
thông tin riêng.
3.3 Thu thập và sàng lọc thông tin/ Lựa chọn danh mục đầu tư
Thu thập và sàng lọc thông tin là một quá trình thường xuyên trước
và sau khi tiến hành đầu tư. Với nhóm chứng khoán tiềm năng đã
được lựa chọn từ bước trên, nhà đầu tư có thể tập trung thu thập và
phân tích thông tin chi tiết hơn để lựa chọn chứng khoán tối ưu cho
danh mục đầu tư của mình. Lưu ý rằng cảm tính có thể đem lại thành
công chứ không phải sự chắc chắn, do đó, chỉ những chứng khoán có
đầy đủ căn cứ thực tế mới được chọn vào Danh mục. Nhà đầu tư cũng
nên cân nhắc về tính “mở” thông tin của chứng khoán thành phần
nhằm giảm thiểu những hạn chế trong việc theo dõi và quản lý danh
mục sau đầu tư.
Trong quá trình lọc chứng khoán thành phần, nhà đầu tư cũng nên
chú trọng phân tán rủi ro bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ví
dụ, nhà đầu tư có thể kết hợp chứng khoán theo sự đối trọng về mức
độ rủi ro (các chứng khoán có tần suất dao động lớn kết hợp với các
chứng khoán có tần suất dao động nhỏ), đối trọng giữa những ngành

có đặc điểm sản xuất kinh doanh độc lập với nhau, v.v…Việc đa dạng
hóa danh mục giúp cho nhà đầu tư tránh được rủi ro hệ thống khi
8


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

trong danh mục xuất hiện quá nhiều (hoặc toàn bộ) chứng khoán có
cùng một tập tính vận động.
Nếu như trước đầu tư, việc thu thập thông tin để phục vụ xác định
danh mục đầu tư, thì sau đó, thông tin cần được cập nhật để phát hiện
sớm các nguy cơ và cơ hội. Tuy nhiên, việc theo dõi và cập nhật thông
tin liên quan tới tất cả các chứng khoán thành phần không phải lúc nào
cũng có thể thực hiện được dễ dàng, đặc biệt với các nhà đầu tư không
chuyên. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư, nhà
đầu tư nên có bước rà soát và phân tích thông tin ngay khi cảm nhận
được những diễn biến bất thường (tích cực và tiêu cực) của thị trường.
3.4 Xác định các tiêu chí đầu tư
Xác định tiêu chí đầu tư tránh cho nhà đầu tư rơi vào tình thế bị
động trong kinh doanh, tạo công cụ phòng bị rủi ro và đóng vai trò
như những chuẩn mực để xây dựng nguyên tắc đầu tư.
Các tiêu chí đầu tư - như nội dung chủ đạo của hoạt động đầu tư liên quan chủ yếu tới việc quản lý lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro dự kiến.
Hai vấn đề này có thể xác định được dễ dàng hơn với sự trợ giúp của
các công cụ quản lý chuyên biệt, song nhà đầu tư cá nhân vẫn có thể
thực hiện theo cách riêng của mình dựa trên điều kiện tài chính và khả
năng phân tích chủ quan.
Ví dụ:
Tại thời điểm tạo danh mục đầu tư, thị trường được đánh giá là

thuận lợi và ổn định; các chứng khoán thành phần được lựa chọn theo
hướng phân tán rủi ro (đa dạng hóa danh mục). Thực tế lịch sử vận
động của các chứng khoán thành phần cho thấy:
Biên dao động nhỏ, quá trình sụt giảm chậm với chu kỳ thưa,
Điều chỉnh giảm sâu nhất trong 06 tháng qua là 31,1%, trung bình
cả danh mục là 18,6%
Tốc độ tăng trưởng bình quân toàn danh mục trong 06 tháng là 32%
(với tỉ trọng đầu tư giả định là đều nhau)
9


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

Nhà đầu tư sẵn sàng chịu lỗ tới 15% giá trị đầu tư để đổi lấy khả
năng thu lợi 32%
Như vậy, nhà đầu tư có thể xác định tiêu chí đầu tư như sau:
Lợi nhuận kỳ vọng: 32%
Rủi ro dự kiến: 18,6%
Mức cut loss: 15%
3.5 Theo dõi Danh mục đầu tư
Đây là quá trình giám sát danh mục dựa trên các tiêu chí đầu tư đã
đề ra từ bước trên. Trong bước này, thông tin tiếp tục được cập nhật
và phân tích theo mức độ thường xuyên có thể của nhà đầu tư. Mức độ
ấy có thể khác nhau giữa mỗi nhà đầu tư, song phải đảm bảo phát hiện
kịp thời được những biến động bất thường của thị trường và của
chứng khóan thành phần. Trong trường hợp các tiêu chí đầu tư đạt
mức hoặc bị vi phạm, chúng ta nên lập tức trở lại bước 3 để xác định
nguyên nhân của biến động và tiến hành chỉnh sửa tiêu chí đầu tư,

thanh lý hoặc cắt lỗ. Tuy nhiên, riêng việc chỉnh sửa tiêu chí đầu tư
chỉ nên thực hiện khi có những bằng chứng xác thực về xu thế thị
trường, tránh lạm dụng dẫn đến phá vỡ nguyên tắc “Một quan điểm”
(trình bày dưới đây).
3.6 Thanh lý/Cut loss
Đây là bước cuối cùng, dễ dàng và cũng là khó khăn nhất. Dễ dàng
là vì khi nhà đầu tư nhận được các tín hiệu cho phép thanh lý /Cut loss
một phần hoặc toàn bộ chứng khoán danh mục thì động tác duy nhất
phải làm là tiến hành bán chứng khoán. Vậy đâu là khó khăn?
* Nguyên tắc “một quan điểm”
Rất thường xuyên, chúng ta phải đối mặt với khó khăn ra quyết
định bán chứng khoán vào thời điểm Thị trường đang có những biến
động tăng hoặc giảm mạnh mẽ. Nếu như tâm lý “càng để càng lãi”
thường xuất hiện trong điều kiện thị trường thuận lợi thì việc khó chấp
10


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

nhận từ bỏ một phần tài sản của mình khi thị trường suy giảm cũng
khá phổ biến.
Nguyên tắc “một quan điểm” các chuẩn mực chúng ta đã xác định
từ bước 4 phải được đảm bảo thực hiện khi hội đủ các căn cứ cho
phép phát tín hiệu Bán. Điều này đặc biệt quan trọng với vai trò giúp
cho nhà đầu tư không mâu thuẫn với chính mình. Thử hình dung, nếu
bạn vượt qua nguyên tắc mình đặt ra và may mắn kiếm được nhiều
hơn số lãi dự kiến, những lần sau, bạn sẽ có xu hướng tiếp tục phá vỡ
các nguyên tắc thay vì đánh giá lại khả năng phân tích, dự đoán trước

đầu tư. Như vậy, bạn đã đánh mất niềm tin vào bản thân, vào năng lực
ra quyết định của chính mình.
Xung quanh vấn đề này, có một câu hỏi thú vị là: “Vậy tại sao tôi
phải bỏ qua cơ hội được nhiều hơn hoặc mất ít hơn?”. Câu trả lời thật
đơn giản: “Từ bỏ cũng là một nghệ thuật trong đầu tư!”.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán
4.1 Khả năng sinh lời từ khoản đầu tư chứng khoán trong tương
lai.
Mục đích trước hết của đầu tư chứng khoán là nhằm thu được lợi
nhuận trong tương lai, vì vậy khả năng sinh lời của khoản đầu tư
chứng khoán là nhân tố cần được xem xét hàng đầu. Tuy nhiên khả
năng sinh lời của chứng khoán lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khác như: lĩnh vực,ngành nghề kinh doanh, chính sách kinh tế của nhà
nước; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường; chính
sách chi trả cổ tức… Vì thế để tối đa hóa lợi nhuận, nhà đầu tư cần
phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân tố có thể ảnh hưởng đến khả
năng sinh lợi để lựa chọn quyết định đầu tư cho phù hợp.
4.2 Mức độ rủi ro có thể gặp của loại chứng khoán được đầu tư.
Để có thể thu được lợi nhuận tối đa trong đầu tư chứng khoán nhà
đầu tư còn phải biết cách để tối thiểu hóa các rủi ro có thể gặp. Việc
11


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

đánh giá mức độ rủi ro trong đầu tư chứng khoán không chỉ đối với
từng loại chứng khoán riêng rẽ mà còn đối với toàn bộ danh mục đầu
tư chứng khoán nhằm hạn chế và phân tán rủi ro. Thông thường, mức

độ rủi ro có sự khác biệt nhất định giữa các chứng khoán vón và
chứng khoán nợ, giữa chứng khoán có thời hạn thanh toán khác nhau,
giữa chứng khoán có khả năng chuyển đổi hoặc không chuyển đổi,
giữa chứng khoán của các doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh khác
nhau… Việc đánh giá mức độ rủi ro đầu tư chứng khoán cũng đòi hỏi
năng lực, kỹ năng phân tích đánh giá rủi ro nhất định của các nhà đầu
tư chứng khoán trên thị trường.
4.3 Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư.
Tính thanh khoản (hay còn gọi là tính lỏng) của chứng khoán là khả
năng dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt. Thông thường
khi có số tiền mặt nhàn rỗi nhà đầu tư thường đầu tư chứng khoán để
thu lợi nhuận, song khi cần tiền mặt để đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc
chuyển hướng đầu tư họ lại muốn chuyển nhượng chứng khoán đang
sở hữu để thu tiền về. Nếu các chứng khoán mà họ sở hữu có khả năng
thanh khoản cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện ích không khác
gì việc nắm giữ tiền mặt thì sẽ khuyến khích họ đầu tư chứng khoán
và ngược lại. Do đó tính thanh khoản của chứng khoán cũng là một
yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư cần xem xét, lựa chọn.
4.4 Mức độ và khả năng kiếm soát, chi phối hoạt động của doanh
nghiệp.
Đôi khi mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của
doanh nghiệp cũng là một nhân tó được xem xét đến khi lựa chọn
quyết định đầu tư chứng khoán. Quyền hạn và lợi ích của nhà đầu tư
chứng khoán thường được tăng thêm theo mức độ nắm giữ cổ phần
của doanh nghiệp. Vì vậy khi đầu tư chứng khoán họ cũng cần cân
nhắc quy mô đầu tư sao cho có thể đạt được mục đích kiểm soát chi

12



Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

phối hoạt động của doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc thực hiện mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận của mình.

13


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN TẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. Hoạt động đầu tư trên thị trường
1.1 Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong nước
Theo báo cáo của UBCKNN, số lượng tài khoản tính đến cuối
tháng 10/2009 là 766.725 tài khoản (trong đó nhà đầu tư có tổ chức là
3.147 tài khoản và nhà đầu tư cá nhân là 763.578 tài khoản), tăng khá
mạnh so với đầu năm 2009.
Theo báo cáo tính đến cuối tháng 10/2009, thị trường đã có 46 công
ty quản lý quỹ được cấp phép hoạt động (do 1 công ty đã giải thể
tháng 7/2009) với tổng số vốn điều lệ là gần 1.835 tỷ đồng (năm 2009
chỉ có 4 công ty được thành lập mới); có 20 quỹ đầu tư chứng khoán
(4 quỹ công chúng và 16 quỹ thành viên) với tổng số vốn huy động là
12.757 tỷ đồng (1 quỹ giải thể và 1 quỹ tăng vốn); và 29 văn phòng
đại diện đang hoạt động
TTCKVN tuy có những thăng trầm trong từng giai đoạn khác nhau,

tuy nhiên xu hướng chung là ngày càng sôi động, quy mô giao dịch
tăng dần, lượng nhà đầu tư (NĐT) tham gia tăng dần. Tuy nhiên, trình
độ của nhóm NĐT cá nhân Việt Nam đến đâu thì còn rất nhiều sự
nghiên cứu tranh luận của giới nghiên cứu và thực tiễn của thị trường.
Nếu xét về địa pháp lý nhà đầu tư là chủ thể chính tham gia vào
hoạt động của thị trường, mà tại đó bằng các nghiệp vụ, hình thức giao
dịch, nhà đầu tư tác động gián tiếp và trực tiếp đến thị trường.
Nếu xét về nghề nghiệp hay tầng lớp chúng ta có thể thấy sự đa
dạng trong việc xuất thân của NĐT cá nhân Việt Nam. Từ dân tài
chính, nhân viên văn phòng làm ở các Công ty có điều kiện sớm tiếp
xúc với TTCK, thì hiện nay, sự xuất hiện của anh nông dân, bà bán
nước... không còn là câu chuyện tiếu lâm, mà là những câu chuyện có
thật trên các sàn giao dịch.
14


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

Việc tham gia "đầu tư Chứng khoán" của họ đơn giản chỉ là mua
thấp bán cao thu lời như buôn mớ rau, con cá. Tuy nhiên cũng không
loại trừ những NĐT làm ở các cơ quan tài chính nhà nước, các CTCK,
các định chế tài chính quốc tế... nhưng vẫn có những hoạt động cho
riêng mình.
Giai đoạn 2000-2005: Thời của "dân" tài chính: Có thể tạm gọi
là giai đoạn thành lập, thị trường giao dịch rất kém sôi động, lượng
NĐT tham gia ít. Những NĐT tham gia vào thời điểm đó đa phần là
những người có kiến thức về tài chính. Số tài khoản cá nhân được mở
đến giai đoạn này chỉ khoảng hơn 20.000. Đến thời điểm hiện tại, đa

số họ đã thành công và thường giữ những vị trí cao ở các CTCK hay
các tổ chức tài chính, các cơ quan nhà nước có ảnh hưởng đến TTCK.
Dưới đây là đánh giá về đối tượng này theo các tiêu chí đề cập trên.
Do có kinh nghiệm, kiến thức và quan hệ, họ cũng ít bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố kiểu như giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài, các báo cáo
của các tổ chức... Có chăng đó chỉ là hành động "té nước theo mưa"
của đối tượng này. Một số trong nhóm đối tượng này chính là những
người có đủ tầm tác động vào thị trường. Tuy nhiên, tỉ lệ phần trăm
trên lượng vốn đầu tư của đối tượng này không nhiều.
ST
T
1

Tiêu chí đánh giá
Kiến thức tài chính

Điểm
4

2

Các mối quan hệ trong lĩnh vực
tài chính

5

3

Hiểu biết về TTCK Việt Nam


5

4

Hiểu biết về TTCK thế giới

3

5

Tiềm lực tài chính cá nhân

2

15


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

6

Mức độ ảnh hưởng

4

7

Mức độ bị ảnh hưởng


4

Tổng

27

Cuối 2005 đến nay: Trẻ và "lướt sóng" nhiều hơn
Có thể tạm gọi là giai đoạn khởi động của TTCK VN, thị trường
giao dịch sôi động hơn rất nhiều so với giai đoạn trước. Số lượng
NĐT tham gia đông hơn. Các Công ty có cổ phiếu niêm yết tăng lên
về số lượng, quy mô, ngành nghề. Chính sự sôi động trong giai đoạn
này đã thu hút số lượng NĐT cá nhân tham gia đa dạng hơn.
Xét kỹ hơn về những đối tượng tham gia vào giai đoạn này có thể
thấy đối với những người học tài chính, hay liên quan đến tài chính,
có hiểu biết về tài chính độ tuổi trẻ hơn, kinh nghiệm ít hơn và tham
gia đúng vào thời điểm thị trường tăng mạnh, nên ít có thời gian trau
dồi kiến thức, do thành công có phần nào đó may mắn nên có tâm lý
chủ quan tự mãn, điều này có thể ảnh hưởng xấu đến thành công của
họ.
Giai đoạn trầm lắng vừa qua làm cho họ trưởng thành nên nhiều.
Tuy nhiên, do trẻ tuổi và kinh nghiệm ít nên các giao dịch mua bán
của họ có tính "cờ bạc" hơn . Xu hướng chung là thích "lướt sóng",
mức độ "lướt sóng" tăng lên theo sự tự tin.
Những thành phần NĐT còn lại trong giai đoạn này, do quan niệm
"đầu tư cổ phiếu" như đã nó ở trên, đa số họ chọn lựa mua bán cổ
phiếu theo cảm tính và cảm hứng, hay "ai bảo gì mua nấy".
Xét về tiềm lực tài chính thì đây không phải là đối tượng mạnh,
nhưng lại có sự đông đảo về số lượng, có khoảng hơn 300.000 tài
khoản được mở trong giai đoạn này. Nói chung lại, những NĐT tham

gia giai đoạn sau có xu hướng mua bán ngắn hạn nhiều hơn, có thể nói
16


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

đa số họ mua bán ngắn hạn. Họ dễ bị ảnh hưởng của các đối tượng
bên ngoài như các báo cáo của các tổ chức, các tin đồn...
Tuy tiềm lực tài chính của từng cá nhân không lớn, nhưng do đông
đảo và chăm chỉ mua bán, nên sự biến động hàng ngày của TTCK có
sự đóng góp lớn của họ. Đối tượng này cũng là lực đẩy chính cho
những cổ phiếu có hiện tượng "tăng phi mã".
Để đánh giá mặt bằng chung, dùng phương pháp tính bình quân gia
quyền. Không có con số chính thức, giả sử số NĐT giai đoạn 20002005 lấy tương đối là 20.000, NĐT giai đoạn sau lấy ở con số
250.000, thì bình quân trình độ NĐT cá nhân Việt Nam chỉ đạt
khoảng 11,2 điểm so với mức trung bình khoảng 17,5.
Tuy rằng những tiêu chí đánh giá chưa được chính xác và sự cho
điểm phần nào có sự cảm tính, nhưng hy vọng giúp người đọc có cái
nhìn sâu hơn về trình độ NĐT cá nhân VN.Đây có thể giải thích cho
sự biến động bất thường của TTCK VN xét chung cả VN-Index hay
của một số cổ phiếu riêng biệt.
ST
T
1
2

Tiêu chí đánh giá
Kiến thức tài chính

Các mối quan hệ trong lĩnh vực tài
chính

Điểm
2
1

3

Hiểu biết về TTCK Việt Nam

2

4

Hiểu biết về TTCK thế giới

1

5

Tiềm lực tài chính cá nhân

1

6

Mức độ ảnh hưởng

1


7

Mức độ bị ảnh hưởng

1

Tổng

10

17


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

1.2 Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài
Từ năm 2005 trở về trước, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài không
nổi bật trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều này có thể giải
thích do hoạt động chưa đạt mức độ tăng trưởng mạnh của thị trường
chứng khoán, cũng như giai đoạn nằm ngang kéo dài quá lâu của chỉ
số chứng khoán đã khiến cho không chỉ rất nhiều nhà đầu tư trong
nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài cũng không đánh giá cao về
tiềm năng hồi phục và phát triển của giá cả cổ phiếu.
Tuy nhiên, năm 2006 lại thực sự là một năm “bản lề” đối với nhà
đầu tư nước ngoài. Riêng trong năm nay, tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu
tư nước ngoài tại thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng vọt gấp
gần ba lần, từ 6% lên 17%. Đến đầu tháng 3/2007, tỷ lệ này lên đến

19% và cho đến tháng 5/2007, có tính toán cho biết tỷ lệ này đã lên
đến 20-25%.
Như vậy, so sánh hai mốc thời điểm đầu năm 2006 với những tháng
đầu năm 2007, tỷ lệ sở hữu giá trị cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài
đã tăng gấp gần 4 lần. Tình hình đó cũng có tính tương ứng với thông
tin của Ngân hàng thế giới ước tính các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu
tư khoảng 4 tỷ USD vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tính đến tháng 4/2007, nhà đầu tư nước ngoài vẫn mạnh nhất trên
thị trường niêm yết, trong đó giá trị đầu tư vào cổ phiếu của các công
ty niêm yết chiếm đến 68% trong tổng giá trị đầu tư của nhà đầu tư
nước ngoài; đầu tư vào trái phiếu niêm yết chiếm 25%; đầu tư vào trái
phiếu không niêm yết chỉ chiếm 6% và đầu tư vào cổ phiếu không
niêm yết chỉ vẻn vẹn có 1%.
Tại thị trường niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài đã nhanh chóng sở
hữu đến 49% hoặc đang có xu hướng đạt đến 49% (tỷ lệ cao nhất cho
phép đối với nhà đầu tư nước ngoài) đối với một số mã cổ phiếu như
AGF, CII, BT6, GIL, GMD, IFS, SAM, TDH, TMS, TYA, VNM,
chứng chỉ quỹ VFMVF1.
18


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

Hiện nay, có những quỹ đầu tư nước ngoài được đánh giá là hoạt
động thành công trên thị trường Việt Nam là Vina Capital, Indochina
Capital, Dragon Capital, IDG Vietnam, PXP Vietnam, City Goup,
HSBC, JP Morgan, Deutsch AG...
Trong số các nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư có người quản

lý quỹ tại Việt Nam chiếm tỷ trọng 70% trên tổng quy mô vốn đầu tư
của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong số các quỹ đầu tư
nước ngoài chưa có mặt các quỹ Mutual Fund và Pension Fund - là
các quỹ có mục tiêu đầu tư rất dài hạn.
Trong cuộc chơi chứng khoán tại thị trường chứng khoán Việt
Nam, có một động thái rất đặc biệt: trong đa số trường hợp biến động
về giá cổ phiếu, dường như nhà đầu tư nước ngoài luôn giữ một tư thế
độc lập và tách rời hẳn tâm lý đám đông của các nhà đầu tư Việt Nam.
Trong đợt điều chỉnh đầu tiên của VN-Index xuống dưới ngưỡng
1.000 điểm, việc mua vào của nhà đầu tư nước ngoài khi thị trường
đảo chiều vẫn hầu như không có gì đột biến. Vào những thời điểm thị
trường sụt giảm mạnh, khi không khí ảm đạm lộ rõ ở các nhà đầu tư
trong nước, thì nhà đầu tư nước ngoài vẫn chiếm khoảng 20% giá trị
giao dịch toàn thị trường.
Theo cách nhìn của một chuyên gia Việt Nam, nếu một doanh
nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh như SSI (Công ty Chứng khoán Sài
Gòn) có tăng lượng vốn đầu tư lên đến 1.000 tỷ đồng thì cũng chỉ mới
hơn 60 triệu USD, trong khi các quỹ nước ngoài ít nhất cũng đổ vào
100 triệu USD.
Một chuyên viên phân tích cho rằng, nhà đầu tư nước ngoài hiện
đang nắm giữ một khối lượng lớn cổ phiếu với nhiều mức giá khác
nhau. Trong đó có những mức giá cực rẻ từ năm 2006. Với phương
thức mua vào, bán ra theo kiểu “cuốn chiếu” ở từng mức giá, nhà đầu
tư nước ngoài có thể dẫn dắt thị trường trong những giai đoạn nhất
định, nếu họ muốn như thế.
19


Thảo luận môn Thị trường vốn


Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

Một chuyên viên phân tích khác cũng nhận định: “Nhà đầu tư nước
ngoài có thể chỉ cần nhìn đồ thị là thấy được quy luật lên xuống của
giá một số cổ phiếu. Họ luôn thể hiện sự tự tin bất kể khi thị trường
như thế nào và đầu tư theo đúng những kỹ thuật phân tích”. Có
chuyên gia cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài đang chia thành hai
nhóm. Một nhóm có chiến lược đầu tư trung và dài hạn dựa trên danh
mục đầu tư rõ ràng, nhóm khác chỉ tập trung đầu tư ngắn hạn. Nhóm
thứ hai chỉ đầu cơ mua bán liên tục và đáng lo ngại là số lượng nhà
đầu tư nước ngoài thuộc nhóm này đang có xu hướng tăng và đang có
vai trò nhất định trong định hướng thị trường. Nhóm này cũng tham
gia lũng đoạn về tin đồn và những thủ thuật làm giá. Hiện chưa có
biện pháp hữu hiệu để kiểm soát hoạt động đầu cơ này.
Có chuyên gia đặt vấn đề với tỷ trọng nắm giữ từ 20-25% số cổ
phiếu niêm yết, nếu trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đồng
loạt rút vốn ra, số vốn bị rút sẽ lên đến 3,5-4,2 tỷ USD. Con số này tuy
chưa làm cạn kiệt dự trữ ngoại hối của Nhà nước nhưng gây rủi ro
nhất định cho nhu cầu nhập khẩu và trả nợ nước ngoài của Việt Nam
hiện còn khá lớn.
Trong thời gian qua, đặc biệt từ đầu năm 2007, đã xuất hiện ngày
càng nhiều đánh giá mang tính nhận định, phân tích về vai trò và hoạt
động của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đáng chú ý là diễn
biến hoạt động của họ vẫn còn là một ẩn số lớn. Những bài phân tích
tuy có đề cập đến xu hướng vận động chung của nhà đầu tư nước
ngoài nhưng rất ít thông tin cụ thể về hoạt động của một nhà đầu tư
nước ngoài cụ thể nào.
Nói tóm lại, toàn bộ các hoạt động mua bán của nhà đầu tư nước
ngoài, mối quan hệ giữa khối lượng mua và khối lượng bán, thời điểm
mua vào và thời điểm bán ra, và tất nhiên phải kể đến những tính toán

phương án chiến thuật “lướt sóng” của nhà đầu tư nước ngoài, đã hầu
như chưa được nghiên cứu và phân tích, dù chỉ mang tính tổng lược.
20


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

Cũng bởi thế, trong nhiều trường hợp, từ hoạt động đấu giá cổ phần
cho đến những tác động vào sự lên hoặc xuống của thị trường chứng
khoán, mặc dù nhiều người đoán chắc là có bàn tay của nhà đầu tư
nước ngoài, thậm chí tác động rất sâu, nhưng cũng không có một minh
chứng nào được dẫn ra.
II. Vai trò của nhà đầu tư đối với thị trường chứng khoán Việt
Nam
- Nhà đầu tư ngắn hạn trên sàn giao dịch chứng khoán, còn được
gọi là những người bám sàn hay những “nhà đầu cơ” là những người
góp phần quan trọng để tạo nên tính thanh khoản của thị trường.
Chúng ta thử tưởng tượng rằng nếu như hàng ngày TTCK không có
nhiều những giao dịch ngắn hạn thì TTCK sẽ trở nên buồn tẻ, không
sôi động và thiếu tính thanh khoản, vì vậy vai trò của các nhà đầu tư
chứng khoán là hết sức quan trọng và đáng trân trọng.
- Các nhà đầu tư chứng khoán nói chung khi chấp nhận gia nhập thị
trường đều chấp nhận rủi ro hay nói cách khác là chấp nhận phương
thức đầu tư mạo hiểm so với việc đầu tư kinh doanh trực tiếp.
- Các nhà đầu tư chứng khoán khi tham gia thị trường thì không cần
nhà nước phải có 1 sự ưu ái nào. Những chính sách khuyến khích của
nhà nước về phát triển TTCK không phải là 1 sự ưu ái đối với các nhà
đầu tư mà thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với sự phát triển của

TTCK vì TTCK rất cần cho sự phát triển kinh tế và cải cách doanh
nghiệp nhà nước.
III. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước
Tại diễn đàn bàn về "Kế hoạch và giải pháp phát triển TTCK Việt
Nam giai đoạn 2006-2010" do UBCKNN và Hiệp hội kinh doanh
chứng khoán Việt Nam vừa tổ chức tại Hà Nội, các nhà đầu tư chứng
khoán đã chỉ ra những yếu kém đối với cơ quan quản lý chứng khoán.
Theo đó, TTCK Việt Nam đang thiếu nhiều tiêu chuẩn cơ bản.

21


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

Quan hệ cung - cầu bị bóp méo; hoạt động của các công ty chứng
khoán hiện nay đã phải cạnh tranh nhau một cách không đáng có trong
điều kiện kinh doanh còn nhiều khó khăn.
Ví dụ, khi định giá Công ty kỹ thuật dịch vụ dầu khí (thuộc Tổng
Công ty Dầu khí Việt Nam, một DN có tới 14 DN con trên nhiều tỉnh
thành với 3.200 tỷ tổng tài sản), đã có 3 đơn vị chào thầu với giá khác
biệt hẳn: BSC chào 900 triệu, công ty thứ hai chào 600 triệu và công
ty thứ 3 chào có 259 triệu. Nhưng Thông tư 126 của Bộ Tài chính lại
quy định, chi phí cổ phần hoá của một DN không được quá 400 triệu
và tiền thuê định giá không được quá 10% của 400 triệu đó. Vì thế,
trường hợp này để BSC định giá thì phải báo cáo lên Bộ Tài chính để
được chỉ định thầu. Tuy nhiên, do có các mức giá chào thầu quá thấp
nên trước các sức ép, BSC mặc dù đã được chỉ định thầu vẫn phải
giảm giá xuống còn 245 triệu. 30 nhân viên làm việc ròng rã trong vài

tháng để định giá Công ty kỹ thuật dịch vụ dầu khí và 14 DN con khác
trên hàng chục tỉnh thành, lờ lãi cuối cùng như không có.
Bên cạnh đó, do quy mô thị trường vẫn còn khá nhỏ, tốc độ tăng
trưởng chậm, số lượng các công ty chứng khoán lại tăng nhanh quá
mức cần thiết. Số lượng các công ty cổ phần có quy mô lớn quá ít
nhưng lại phân bổ không đều nên hoạt động kinh doanh của các công
ty chứng khoán đang đứng trước những khó khăn và thách thức rất
lớn.
Hiện, cuộc chiến thầm lặng giữa các công ty chứng khoán vẫn đang
xảy ra với mức cạnh tranh về phí dịch vụ môi giới, mức trần về phí tư
vấn cổ phần hoá, phí tổ chức đấu giá, phí xác định giá trị doanh
nghiệp... Các mức phí quy định đều khá khiêm tốn theo quy định hiện
hành. "Khó có thể có công ty chứng khoán nào có thể tự sống được
nếu không tự kinh doanh, tự đầu tư chứng khoán, tự làm thêm tay phải
tay trái... Và với tình trạng này, các công ty chứng khoán vẫn không
có tiền đầu tư trở lại như đào tạo cán bộ, phát triển mạng lưới... Quan
22


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

hệ cung cầu của chúng ta không bình thường vì bị bóp méo quá lệch
lạc",
Đây cũng là lý do giải thích vì sao chưa có công ty chứng khoán
nào thực sự có hệ thống các đại lý nhận lệnh hoặc các phòng giao
dịch, các chi nhánh đủ mạnh trong phạm vi cả nước. Giải đáp cho
những vướng mắc trên, một phần lý do là Chính phủ cần nâng mức
vốn tối thiểu yêu cầu cho mỗi loại hình dịch vụ chứng khoán; áp dụng

danh sách loại trừ khi định nghĩa về loại hình kinh doanh của các công
ty chứng khoán thay vì xác định cụ thể từng loại hình kinh doanh như
hiện nay.
Bên cạnh đó, thay vì áp dụng chế độ khống chế mức phí trần như
hiện nay hoặc khống chế mức phí sàn hoặc để cho thị trường tự quyết
định như tại các thị trường chứng khoán phát triển, Nhà nước cần đưa
vào vận hành hệ thống phí cố định như kinh nghiệm của Thái Lan
(0,25%/tổng giá trị giao dịch).
Một nhà hoạt động thực tiễn lâu năm trên thị trường chứng khoán
đưa ra nhận đinh về những vướng mắc trong hoạt động bảo lãnh phát
hành như sau: "Rào cản lớn nhất hiện nay đối với các công ty chứng
khoán khi thực hiện dịch vụ bảo lãnh phát hành là tổng giá trị bảo lãnh
phát hành không được vượt quá 30% vốn tự có của tổ chức bảo lãnh.
Sự cẩn trọng đến mức dư thừa theo quy định này đã bộc lộ rõ sự bất
hợp lý trong trường hợp tổ chức bảo lãnh đã tìm được đủ người mua
chứng khoán theo đúng giá trị được bảo lãnh, bất kể tổng giá trị bảo
lãnh là bao nhiêu hoặc khi tổ chức bảo lãnh chỉ bảo lãnh phần còn lại
không được phân phối hết (bảo lãnh dưới hình thức dự phòng.
Đi đôi với việc kém trong linh động trong hoạt động quản lý thị
trường, thì những chính sách dành cho các nhà đầu tư của cơ quan
quản lý Chứng khoán cũng thể hiện sự yếu kém, gò bó và hạn chế các
nhà đầu tư. Tạo ra nhiều phiền toái và thiệt hại không nhỏ đến lợi ích
nhà đầu tư. Những bất cập trên thể hiện như UBCKNN và Trung tâm
23


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)


Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã làm theo hình thức
can thiệp hành chính như: Chỉ cho mỗi nhà đầu tư mua tối đa 200 cổ
phiếu; thay đổi biên độ từ 2% lên 7% trong khi thực hiện chu kỳ thanh
toán T+4... làm rất nhiều người đã rời bỏ TTCK. Với các nhà đầu tư
nước ngoài, chính sách của cơ quan chức năng cũng quá chậm trễ. Lý
giải cho những rào cản đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì trở ngại
chính lớn nhất đó chính là thị trường chứng khoán chính thức Việt
Nam còn rất nhỏ. Việc giải ngân một lượng tiền lớn của các quỹ đầu
tư nước ngoài có thực lực diễn ra khá khó khăn. Hai trung tâm giao
dịch hiện nay chính là bộ măt của thị trường chứng khoán. Nhưng
những bộ mặt không đẹp lắm đã gây khó khăn trong việc cuốn hút đối
tác.
Các nhà đầu tư chỉ quay lại và tiếp tục bỏ vốn vào thị trường khi thị
trường đó thực sự mang lại một lợi nhuận hợp lý cho họ (hoặc một
mức lợi nhuận khiêm tốn cũng phải cao hơn so với lãi suất thị trường
một chút). Song một nghịch lý là hiện nay, mức lợi nhuận mà TTCK
của chúng ta đem lại cho các nhà đầu tư lại chưa thoả mãn được điều
này (mức cổ tức bình quân khoảng trên dưới 5%, lãi suất chênh lệch
giữa mua và bán là rất khiêm tốn) khiến ngay các nhà đầu tư chuyên
nghiệp, các tổ chức đầu tư lớn có tiềm lực mạnh mẽ về tài chính cũng
phải ngao ngán và không muốn tham gia thị trường.
Một yêu cầu khá thực tế khác là việc tăng phiên giao dịch trên
TTCK. Việc tăng phiên giao dịch đi kèm với việc cho phép mua bán
một loại chứng khoán trong ngày (không cùng một phiên) sẽ ngay lập
tức đem lại một sinh khí sôi nổi cho thị trường.
Theo Ông Mạc Công Liêm cho rằng ”cơ quan chức năng nên củng
cố lại chính sách để chấm dứt tình trạng các nhà đầu tư "ra đi đầu
không ngoảnh lại". "Chúng ta cũng có thể thấy rõ hình ảnh của
TTCKVN hiện nay là hình ảnh của một cái chợ được xây dựng khá
đẹp, hàng hóa trong chợ được bày bán tuy chưa nhiều, nhưng cũng ở

24


Thảo luận môn Thị trường vốn

Nhóm 4 – Lớp Kinh tế đầu tư K17 (Hệ cao học)

mức tương đối, song khách hàng thì còn đang thưa thớt nếu không nói
quá là chợ không có người mua... Và với một cái chợ như vậy, tương
lai của nó sẽ đi về đâu?"
Ngoài ra, giới đầu tư còn cho rằng, mặc dù sinh sau đẻ muộn nhưng
hệ thống khớp lệnh của TTGDCK HN lại vướng phải những sai lầm
nghiêm trọng.
Từ những ý kiến phân tích, chúng tôi cho rằng, chính sách cho
TTCK hiện vừa thiếu vừa yếu. "Để thực hiện những chiến lược lâu dài
có tầm quan trọng đặc biệt cần có những ưu đãi đặc biệt"
Để phát triển thị trường lành mạnh thì cần có một cơ chế công bố
thông tin minh bạch và công bằng; cải thiện một số nghiệp vụ chứng
khoán; giảm thời gian thanh toán T+3 xuống mức hợp lý; thực hiện
việc niêm yết chéo; phát triển mô hình các quỹ đầu tư; đào tạo về
TTCK để phổ cập hóa cho quần chúng; xây dựng một lộ trình miễn
thuế lâu dài với các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước, các quỹ đầu
tư; xây dựng cơ sở thông tin hạ tầng mạnh mẽ kết nối giữa trung tâm
giao dịch, công ty chứng khoán và ngân hàng.
Và hơn lúc nào hết, sau một thời gian hoạt động thị trường đã có
bước phát triển mới, thực tiễn cho thấy Luật Chứng khoán hiện hành
cần có sự sửa đổi bổ sung để hoàn chỉnh có quan hệ phát sinh mới để
điều chỉnh hoạt động chứng khoán.
Ngoài ra, như lời một quan chức của UBCKNN nhận xét thì chúng
ta cũng chưa xây dựng được nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cho

công ty chứng khoán. Những chuẩn mực này cần được công bố công
khai để nhà đầu tư theo dõi và giám sát, đánh giá. Khung pháp lý quản
lý TTCK quá thiếu, phạm vi điều chỉnh hẹp, tính hiệu quả của công
tác quản lý thị trường thấp. Việc công bố thông tin và quản trị công ty
có nhiều hạn chế.

25


×