Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Xã hội việt nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.7 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
I.1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................2
I.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.......................................................2
I.2.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................2
I.2.2. Phương pháp nghiên cứu......................................................................2
I.3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................2
I.4. Chính sách cai trị của thực dân Pháp...........................................................3
I.4.1. Chính sách về chính trị.........................................................................3
I.4.2. Chính sách về kinh tế..........................................................................10
I.4.3. Chính sách về văn hóa........................................................................18
I.5. Hậu quả của chính sách cai trị của thực dân Pháp.....................................23
I.5.1. Tình hình giai cấp trong xã hội...........................................................23
I.5.2. Các mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam...............................................27
I.6. Về chính trị................................................................................................29
I.7. Về kinh tế...................................................................................................29
I.8. Về văn hóa.................................................................................................30
I.9. Phân hóa giai cấp.......................................................................................30
I.10. Mâu thuấn giai cấp...................................................................................31
TƯ LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................32

I.

PHẦN MỞ ĐẦU
1


I.1.

Lý do chọn đề tài.

-



Làm sáng tỏ một thời kỳ đen tối trong xã hội Viêt Nam. Qua đó cho

chúng ta thấy được những đau thương, mất mát mà chiến tranh đem lại.
I.2.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.

I.2.1. Đối tượng nghiên cứu
-

Là các chính sách cai trị của thực đân Pháp đã làm ảnh hưởng tối

đời sống, kinh tế văn hóa của nhân dân ta.
-

Các mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, xuất hiện trong xã hội

Việt Nam thời bấy giờ.
I.2.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Ngoài việc sử dung phương pháp luận chung, thì đối với mỗi nội

dung cụ thể cần phải sử dụng một phương pháp phù hợp. Trong đó có các
phương pháp như sử dụng lịch sử, logic…. Ngoài ra ,chúng ta cần sử dụng một
số phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thích hợp với từng nội
dung mà ta nghiên cứu.
I.3.


Mục đích nghiên cứu

-

Làm sáng tỏ hơn nữa tội ác mà bọn thực dân pháp đã gây ra, cái tội

ác mà một cuộc xâm lược, mà chúng cho đó là một cuộc “ Khai Hóa Văn Minh”
-

Giúp chúng ta hiểu hơn những chính sách cai trị mà chúng đã áp

dụng với nước ta: vơ vét của cải, đàn áp, ngu dân….


Cho chúng ta thấy được những hậu quả mà chúng để lại:
Xã hội Việt Nam bị phân hóa về giai cấp. Điều đau lòng nhất lại là
cùng là những người dân Việt Nam nhưng họ cũng mâu thuẫn với
nhau.
2




Mâu thuẫn lớn nhất là mâu thuẫn dân tộc (mẫu thuẫn của toàn thể

dân tộc với bọn đế quốc thực dân xâm lược) mà ở đây là bọn thực dân Pháp.

II.

NỘI DUNG


I.4.

Chính sách cai trị của thực dân Pháp.

I.4.1. Chính sách về chính trị.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi
tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp
từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia
Việt Nam ra thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính sách nham hiểm này, thực dân Pháp
câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với
nhân dân Việt Nam.
Mới đặt chân sang Việt Nam được vài tuần, Đume đã gửi về Bộ Thuộc địa
một bản báo cáo tổng quát về tình hình Đông Dương:
“Hiện nay tình hình chính trị toàn cõi Đông Dương không một nơi
nào đáng lo ngại hay quá bi đát. Thực tế, tại nhiều nơi cũng có những khó
khăn có thể sẽ trầm trọng thêm; nhân dân toàn xứ đều như đã khuất phục
dưới quyền thống trị của chúng ta, nhưng chưa phải đã thấm nhuần tính
chất vĩnh viễn của nền đô hộ Pháp và sẵn sàng nắm lấy một thời cơ thuận lợi hay
một giây phút yếu đuối của chúng ta để lật đổ ách nặng trên đầu”.
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột
kinh tế, Đume chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt
trị người Việt”.
3


Một mặt, Đume tìm mọi cách chia cắt đất nước, chia rẽ dân tộc Việt Nam

hòng phân tán lực lượng để dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, ông ta lại quan tâm
đến sự thống nhất của bộ máy thuộc địa toàn Đông Dương. Đó là sự phức tạp
trong tính chất hai mặt của một chính sách thâm độc.
Theo sắc lệnh ngày 17-10-1887, thực dân Pháp thành lập Liên
bang Đông Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì
và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19- 4-1899, Tổng
thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt
Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác
nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong
kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào
và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương.
Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản
đồ thế giới.
Đứng đầu Liên bang Đông Dương có Toàn quyền, là người thay mặt
chính phủ Pháp cai trị Đông Dương về mọi mặt. Dưới Toàn quyền là Thống
đốc Nam Kì, Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ ở Trung Kì, Lào, Campuchia.
Cơ quan quyền lực tối cao là Hội đồng tối cao Đông Dương, Chủ tịch
Hội đồng là Toàn quyền, các Uỷ viên Hội đồng hầu hết là người Pháp, chỉ có hai
người Việt đại biếu cho dân “bản xứ”. Các Uỷ viên là giám đốc các công sở, các
viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ sự các Phòng Thương mại và Canh nông...
Hội đồng họp thường kì mỗi năm một lần để bàn bạc và thông qua
ngân sách Đông Dương, ngân sách hàng xứ, cùng các công việc do Toàn
quyền đề xuất có liên quan đến việc thống trị và khai thác Đông Dương.

4


Đến năm 1911, đổi thành Hội đồng Chính phủ Dông Dương gồm 23
ủy viên, có 4 người "bản xứ" do Toàn quyền lựa chọn và chỉ định hằng
năm (gồm 3 người Việt của 3 xứ và 1 người Campuchia).

Văn phòng Phủ Toàn quyền gồm có các phòng: Chính trị, Hành
chính, Quân sự, Nhân sự và Văn thư là cơ quan thường trực của Phủ Toàn
quyền kiêm cả công việc đối ngoại và khen thưởng kỉ luật. Các cơ quan khác
có Hội đồng phòng thủ Dông Dương thành lập ngày 31-10-1902; ủy ban Tư vấn
về mỏ thành lập ngày 26-5-1913; Hội đồng Tư vấn Học chính Đông Dương
thành lập ngày 21-12-1917; Sở chỉ đạo công việc chính trị và bản xứ, Sở tình báo
An ninh trung ương (tức Sở mật thám)…
Việc củng cố chính quyền Liên bang gắn với việc củng cố chính
quyền các xứ Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo
hành động của chúng.
Nam Kì là đất thuộc địa không có quan hệ phụ thuộc vào Nam
triều. Ngày 8-2-1880, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc địa
Nam Kì, quy định rõ chức năng của nó là cơ quan “tư vấn”, có thể bàn về thuế
má, thu chi..., tuyệt đối không được đề cập đến vấn đề chính trị. Hội đồng thuộc
địa có 16 thành viên (10 Pháp, 4 Việt đã vào “làng Tây”, nói được tiếng Pháp và
một số đại biểu của Phòng Thương mại và Hội đồng Tư vấn).
Giúp việc cho Thống đốc còn có Hội đồng Tư vấn (Thống đốc chủ tọa
và 4 ủy viên người Pháp, 2 ủy viên người Việt do Thống đốc chỉ định và 4
ủy viên dự khuyết Hội đồng hình sự (tức Hội đổng tư vấn thêm 2 quan toà, có
quyền hạn đối với cả Campuchia và Lào). Ngoài ra còn có Phòng Thương mại
thành lập từ năm 1868 và Phòng Canh nông thành lập từ năm 1897 gồm toàn
người Pháp. Đây là tổ chức của “Côlông” (người Pháp sang làm ăn ở Đông
Dương) lập nên. Hai phòng này được cử một nghị sĩ vào Nghị viện Pháp.
5


Nam Kì được chia thành 20 tỉnh: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên
Hòa. Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long
Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu
Một Trà Vinh, Vĩnh Long. Có 2 thành phố: Sài Gòn là thành phố cấp I và

Chợ Lớn là thành phố cấp II.
Đứng đầu tỉnh là công sứ người Pháp. Tỉnh nào lớn có thêm phó
công sứ giúp việc cho Chánh, Phó Công sứ có Sở Tham biện và Hội đồng
hàng tỉnh.
Đứng đầu thành phố có Chánh, Phó Đốc lí với Tòa Đốc lí và Hội
đồng thành phố (cho thành phố cấp I) hoặc Uỷ ban thành phố (cho thành phố cấp
II) Tỉnh có một số trung tâm hành chính hoặc Sở Đại lí. Tính đến năm
1919, Nam Kì có 64 trung tâm hành chính và Sở Đại lí. Đứng đầu các đơn vị
này có Đốc phủ sứ, Tri phủ hay Tri huyện. Một số địa phương hoặc khu vực
có tầm quan trọng đặc biệt về chính trị hoặc quân sự có Đại lí người Pháp, đại
diện trực tiếp của công sứ cai trị.
Để giúp việc cho bộ máy hành chính cai trị của Pháp, thực dân Pháp
vẫn giữ hệ thống chính quyền phong kiến ở dưới làng xã, có xã trưởng,
hương trưởng và Hội đồng kì hào. Nam giới có 2 loại: tráng đinh (có tài sản,
phải nộp thuế) và bạch đinh (không có tài sản).
Trung Kì là xứ bảo hộ, vẫn duy trì "triều đình nhà Nguyễn", nhưng
vua An Nam không có "thực quyền". Giúp việc vua có Hội đồng Phụ chính
cùng Viện Cơ mật trông coi về đường lối lãnh đạo quốc gia, Viện Đỗ sát
kiểm soát hoạt động của quan lại. Còn có Hội đồng Phủ Tôn nhân để quản
lí công việc của dòng họ nhà vua. Quyền hành thực sự nằm trong tay Khâm sứ
Chủ tịch Hội đồng Bảo hộ Trung Kì. Sau khi ép Thành Thái ra đạo dụ ngày 279-1897, toàn bộ quyền cai trị giao cho Tòa Khâm sứ. Hội đồng Phụ chính, Hội
6


đồng Thượng thư đều bãi bỏ. Có Hội đồng Cơ mật gồm 6 bộ (Lại, Hình, Binh,
Hộ, Lễ, Học), nhưng mọi quyết định của Hội đồng này đều phải được Khâm sứ
thông qua mới chuyển lên nhà vua. Khâm sứ có quyền chủ tọa cả Hội đồng Cơ
mật và Hội đồng Phủ Tôn nhân. Mỗi bộ đều có một viên chức Pháp đại diện cho
Khâm sứ nắm gọi là Hội lí. Các quan lại triều đình, từ chánh nhất phẩm đến tòng
tam phẩm, triều đình Huế chỉ được bổ dụng sau khi Khâm sứ chuẩn y. Quan lại

từ chánh tứ phẩm trở xuống do Khâm sứ bổ nhiệm.
Khâm sứ có một Hội đồng giúp việc gồm một số viên chức người
Pháp, một đại diện của Phòng Thương mại và Canh nông, hai đại diện của
Viện Cơ mật. Việc xử án do một Hội đồng luận án chung cho cả Trung Kì
và Bắc Kì đặt tại Hà Nội giải quyết.
Trung Kì có 14 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hoà, Phan Rang, Bình Thuận, Đắc Lắc, thành phố Đà Nẵng là “đất nhượng địa”.
Đứng đầu tỉnh là viên Công sứ người Pháp, có cơ quan Toà Công sứ
giúp việc Cũng có các bộ phận công tác khác như ở Nam Kì. Nhưng ở đây (và cả
Bắc Kì) vẫn tồn tại hệ thống tổ chức quan lại cũ của Nam triều, đứng đầu tỉnh là
Tổng đốc (tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (tỉnh nhỏ), án sát coi việc tư pháp, Bố chính
coi việc thuế khóa, Lãnh binh (tỉnh nhỏ) hoặc Đê đốc (tỉnh lớn) coi việc binh .
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu (miền núi), có cáo Tri phủ, Tri huyện,
Tri châu thay mặt Công sứ và Tổng đốc (Tuần phủ) cai quản từng phủ hoặc từng
huyện. Có một số nha thuộc giúp việc như đề lại, lục sự, thừa phái.
Tổng là đơn vị hành chính trung gian giữa phủ, huyện với các làng,
xã trực thuộc. Một phủ hay huyện có nhiều tổng (thường là dưới 10 tổng)
do chánh, phó tổng cai quản. Mỗi tổng quản lí một số làng xã (thường là
trên dưới 10 làng xã).
7


Xã và làng (thôn) là cấp cơ sở của chính quyền Nhà nước. Đứng đầu
là lí trưởng, phó lí trưởng. Còn có Hội đồng kì hào, kì mục điều hành mọi
công việc của làng xã. Chế độ này ở cả ba xứ Việt Nam gần giống nhau.
Đume thấy rõ sự lợi hại của nó: “Duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách
tổ chức cũ khi mà chúng ta đã thấy đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì
mổi làng xã sẽ là một nước cộng hoà nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyển
lợi địa phương .Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất

có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của nó,
những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể không cần biết tới, điều đó rất
thuận lợi cho công việc của chúng ta" .
Bắc Kì có cơ quan cai trị cao nhất là Phủ Thống sứ do Thống sứ
người Pháp đứng đầu, có Hội đồng Bảo hộ giúp việc. Hội đống này có thể
chuyển thành Hội đồng xét xử chung cho cả Bắc Kì và Trung Kì. Còn có thêm
hai Phòng Thương mại và Canh nông ở hai thành phố Hà Nội và Hải
Phòng được cử đại biểu vào Hội đồng Bảo hộ. Bắc Kì có 26 tỉnh, 35 đại lí và 2
thành phố. 26 tỉnh là Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Giang, Hải
Dương, Hải Ninh, Hà Nam, Hoà Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng
Sơn, Lào Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phúc Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Sơn Tây,
Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Yên Bái.
Đến 20-8-1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cắt một số khu
vực của một số tỉnh để thành lập tại Bắc Kì 4 đạo quan binh: Phả Lại, Lạng Sơn,
Yên Bái, Sơn La. Năm 1916, đặt thêm đạo quan binh thứ 5 gồm Lai Châu và
Thượng Lào. Những đạo quan binh này, chú trọng nhiều về việc bố phòng, tiễu
phỉ, đàn áp các cuộc nổi dậy chống đối của nhân dân trong vùng.
Hệ thống chính quyền của Bắc Kì từ cấp tỉnh trở xuống về đại thể
giống như ở Trung Kì.
8


Hầu hết các quan viên nắm quyền cai trị từ cấp xã trở lên đều
thuộc giai cấp địa chủ phong kiến, câu kết với thực dân Pháp, làm tay sai
cho chúng, tiếp tục áp bức bóc lột nhân dân, nhất là ở các cấp làng xã,
phủ huyện, đạo, châu. Còn từ cấp tỉnh , xứ và Liên bang Đông Dương thì
quyền lực tập trung vào tay những quan chức người Pháp. Vua tôi nhà
Nguyễn chỉ là bù nhìn được hưởng một số phụ cấp lương bổng do thực dân
Pháp chi trả. Số công chức người Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông
Dương nói chung ngày một tăng thêm và chiếm tỉ lệ cao nhất so với thuộc địa

của các nước khác. Họ hưởng lương rất cao và hưởng một chế độ hưu trí
đặc biệt, trở thành một lớp người sâu mọt đục rỗng ngân sách Đông Dương
để làm giàu cho cá nhân. Năm 1907, chỉ riêng Sở Thương chính (Douane) đã có
tới 3341 nhân viên, tức là chiếm tỉ lệ 1 người trên số 5000 dân.
Số viên chức người Pháp ở Đông Dương năm 1897 là 2860, năm 1902
là 3778, năm 1906 là 4390, năm 1911 là 5683 người
Bên cạnh tổ chức chính quyền cấp cao nhất xuống tận cơ sở, ở mỗi
xứ đều có các Nha là chi nhánh của các công sở trung ương, có nhân viên
hoạt động tới tỉnh, huyện, xã. Các chi nhánh này tuy đặt bên cạnh chính
quyền xứ, tỉnh, song lại thuộc hệ thống dọc chịu sự điều khiển của các công
sở trung ương Hệ thống tòa án ở các xứ và tỉnh đều trực thuộc Tổng biện lí bên
cạnh Toàn quyền. Cơ quan chính quyền xã chỉ làm việc hòa giải. Chỉ có toà
án tỉnh, thành phố và các Tòa án tối cao mới có quyền xử án, xử theo luật
của Pháp từ thời kì Napôlêông phối hợp với luật Gia Long, hoàn toàn không
có sự hiểu biết đầy đủ về phong tục tập quán Việt Nam. Khi cần khủng bố nhân
dân, đàn áp dập tắt các cuộc khởi nghĩa, các hoạt động chống đối chính quyền
thuộc địa, chúng thiết lập một Hội đồng đề hình (Toà án đặc biệt) để xét xử. Hội
đống này chủ yếu tìm cách làm thật nhiều án chém và án nặng, việc xét xử chỉ
làm chiếu lệ.
9


I.4.2. Chính sách về kinh tế.
Đối với chủ nghĩa thực dân, việc chiếm thuộc địa để khai thác bóc lột về
kinh tế là mục tiêu hàng đầu. Tất cả những chính sách trong các lĩnh vực
chính trị, văn hoá, xã hội …cũng chỉ nhằm mục đích phục vụ cho mục tiêu bóc
lột về kinh tế. Một trong những khía cạnh đầu tiên của công cuộc khai thác thuộc
địa trong lĩnh vực kinh tế là chính sách đầu tư vốn. Việc đầu tư tư bản này không
phải vì mục đích phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân thuộc địa mà
nhằm mục tiêu khai thác và bóc lột nhiều nhất, lâu dài nhất nền kinh tế thuộc địa.

Mặt khác, với đặc điểm là chủ nghĩa Đế quốc cho vay nặng lãi thì chính sách đầu
tư của thực dân Pháp càng được đẩy mạnh.
II.1.1.1. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
Tư bản nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là của Pháp. Việc đầu tư
nhằm vào việc thiết kế cơ sở hạ tầng, từng bước mở mang đầu tư công thương
nghiệp.Từ năm 1896 đến năm 1914 có 514 triệu phơrăng vàng được đầu tư dưới
hình thức tiền vốn của nhà nước,đó là theo số liệu của nhà kinh tế học Mĩ Callis.
Cũng theo nguồn tư liệu chính thức của Pháp thì đó là 425 triệu. Từ năm 1888
đến 1920 có 500 triệu phơrăng vàng. Từ 1924 đến 1929, có từ 3 đến 4 tỉ phơrăng
vàng vốn đầu tư của tư nhân theo những tính toán khác nhau của Guy Lacam và
Callis. Vốn đầu tư theo tỷ lệ sau:

-

Đầu tư khai mỏ

: 249 triệu

Đầu tư vào giao thông

: 128 triệu

Đầu tư vào nông nghiệp

: 40 triệu

Khai thác mỏ.

Ngành khai thác mỏ được thực dân Pháp tập trung đầu tư vì nhanh chóng
thu được lợi nhuận. Trong đó, khai thác than nhanh chóng có vị trí quan trọng

10


nhất. Từ năm 1883, Công ty than Hồng Gai được lập ra, tư bản Pháp đã lấn lướt
các tư bản Đức, Hoa Kiều, người Việt thu được lợi lớn: năm 1913 công ty này
đãthu lãi 2, 5 triệu phơrang. Ngoài ra tư bản Pháp còn chiếm mỏ Đông Triều,
Phấn Mễ (Thái Nguyên), Nông Sơn (Quảng Nam). Ngoài than, từ năm 1904, tư
bản Pháp cũng đã khai thác các mỏ thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), kẽm ở Bắc
Kạn, vàng ở Cao Bằng, Tuyên Quang…
-

Công nghiệp.

Trong công nghiệp chế biến, năm 1903 nước ta mới chỉ có 82 nhà máy thì
đến năm 1914 đã có tới trên 130 nhà máy dệt, xi măng nước ngọt, rượu bia, giấy,
da thuộc…Một số trung tâm công nghiệp đã dần dần hình thành ở Hải Phòng,
Nam Định, Vinh, Đà Nẵng
-

Giao thông vận tải.

Việc đầu tư vào giao thông và xây dựng đô thị cũng rất lớn. Tính đến năm
1919, đường sắt xuyên Đông Dương đã xong một số loại quan trọng, đã hoàn tất
21 tuyến “đường thuộc địa”, trong đó có con đường xuyên Việt và đặc biệt là hệ
thống cảng và các cây cầu quan trọng
-

Nông nghiệp

Việt Nam là một nước nông nghiệp. Ngay sau khi thực dân Pháp chiếm

được Sài Gòn, một trong những biện pháp đầu tiên chúng ban hành là bỏ lệ cấm
xuất cảng gạo ở Nam kì mà trước đây triều đình Huế ban hành, gắn thị trường
lúa gạo, mặt hàng quan trọng nhất của Nam Kì với thị trường thế giới. Ngày 289-1897, toàn quyền Đông Dương đã ra nghị định mở rộng diện áp dụng quyền sở
hữu cá nhân ruộng đất ra toàn lãnh thổ. Điều khoản pháp lí trên đã mở đưũng
cho tư bản chiếm hàng loạt ruộng đất của nhân dân Việt Nam. Đó là khung
cảnh cần thiết và đầy đủ để thực dân Pháp yên tâm bỏ vốn đầu tư. Ngay sau đó

11


tư bản Pháp và những đại địa chủ Việt Nam đã mở rộng diện tích canh tác ở
những vùng đất hoang.
Ở Nam kì, tư bản Pháp tại đây đó bỏ vốn hoặc hùn vốn để tư nhân khai
thác hoặc thành lập các công ti kinh doanh trong các ngành kinh tế, chủ yếu hai
ngành nông nghiệp và công nghiệp. Trong nông nghiệp, số vốn của tư bản Pháp
đã chiếm gần như tuyệt đại bộ phận trong các đồn điền cao su và hồ tiêu.
Khi nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa xuất hiện thì những nhà máy xay
xát gạo và nấu rượu được ưu tiên hàng đầu không chỉ vì có nguyên liệu tại chỗ
dồi dào và chất lượng cao mà hơn thế nữa còn có những thị trường tiêu thụ rộng
lớn không chỉ trong nước mà còn trên trường quốc tế, triến vọng lợi nhuận rất
cao.
-

Tài chính.

Thực dân Pháp đã bóc lột nhân dân thậm tệ để tạo ra nguồn tăng trưởng
tích luỹ vốn ban đầu. Một số nhà tư bản đã vươn lên thành nhà tư bản lớn. Thắng
lợi của những công cuộc kinh doanh thời kì đầu đã lôi kéo những nhà tư bản
chính quốc sang đầu tư vào thời kì sau.
Cơ quan đầu mối tập trung nhất là ngân hàng Đông Dương, đại biểu cho

ngân hàng Pháp, có quyền phát hành giấy bạc và quản lí tiền tệ ở Đông Dương.
Với ưu thế hơn hẳn, Ngân hàng Đông Dương đã chèn ép, bóp chẹt các ngân hàng
của Hoa kiều, Ấn kiều. Cách cho vay là bắt tập thể nông dân đứng vay hoặc
những địa chủ có tài sản lớn bảo đảm cho vay. Lãi suất theo tỷ lệ: Chính quyền
thực dân 20%, Hội Nông tín hỗ tương 20%, và Ngân hàng Đông Dương 60%. Số
tiền nợ thu được, từ năm 1901 đến 1906 đã tăng từ 728 ngàn đồng lên tới 4444
ngàn đồng Đông Dương. Tổng số lãi từ 1885 đến 1905 là từ 393 ngàn đồng lên
tới 2666 ngàn. Vốn đầu tiên của Ngân hàng Đông Dương năm 1875 khi mới
thành lập là 8 triệu, năm 1910 đã lên tới 48 triệu Fr.
12


II.1.1.2. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai.
-

Nông nghiệp.

Nông nghiệp là ngành được thực dân pháp chú trọng đầu tư khai thác hơn
tất cả các ngành khác trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ 2. Nếu 1924 thực dân
Pháp đầu tư 52 triệu Phơ-răng thì đến 1927 đã đầu tư 400 triệu Phơ-răng, ra sức
cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền. Đến 1930, tổng số ruộng đất thực dân Pháp
chiếm đoạt lên đến 1,2 triệu ha.
Hầu hết đồn điền đều chủ yếu trồng lúa và 1 số loại cây công nghiệp như
chè, cà phê, cao su… Tại các đồn điền trồng lúa, phương thức canh tác và bóc lột
của địa chủ Pháp-Việt vẫn chủ yếu theo kiểu phong kiến(cho mướn ruộng đất thu tô thuế), các biện pháp kỹ thuật ít được áp dụng, năng suất lúa rất thấp so với
các nước(11-12 tạ/năm; Xiêm 18 tạ/năm; Malaixia 21 tạ/năm)
Do nhu cầu thị trường thế giới sau chiến tranh, nhất là Pháp, giá cao su
tăng lên nhanh chóng, do đó các nhà tư bản Pháp đổ xô vào kiếm lời trong kinh
doanh cao su. Chỉ tính 2 năm 1927-1928, các đồn điền cao su được đầu tư 600
triệu Phơ-răng. Diện tích đồn điền cao su mở rộng không ngừng: năm 1919, diện

tích là 15.850ha; 1925 là 18.000ha; 1930 là 78.620ha. Các hoạt động kinh doanh
cao su tập trung chủ yếu quanh 3 công ti lớn là: Công ti đất đỏ, Công ty trồng
cây nhiệt đới, Công ty Michelin. Sản lượng mủ cao su ngày càng tăng: năm 1919
là 3.500 tấn; 1924 là 6.796 tấn; năm 1929, riêng số cao su xuất khẩu là 10.000
tấn.
Bên cạnh đó, nhiều đồn điền chè, cà phê cũng được xây dựng ngày 1
nhiều và mở rộng diện tích, nhất là thời gian sau 1924. Đến 1930, thực dân Pháp
có khoảng 10.000ha cà phê, 3.000ha chè, ngoài ra còn có hang nghìn hecta dùng
trồng mía, bong, hồ tiêu…

13


Tuy nhiên, tốc độ phát triển trung bình của nông nghiệp Việt Nam thời
này vẫn thấp, khoảng 1,4%/năm; riêng Nam Kỳ, có tốc độ phát triển cao hơn,
khoảng 8,5%/năm trong giai đoạn những năm 20. Chỉ tính từ 1926-1930, các
tỉnh Nam Kỳ đã thu hoạch được 3.360 nghìn tấn lúa, trong đó một phần được
xuất khẩu ra thế giới. Những năm 20, lúa là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm
khoảng 60-70% giá trị (năm 1880 xuất 240.000 tấn gạo; 1928 xuất 1.700.000 tấn
gạo), Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, sau Malaixia.
-

Công nghiệp

Công nghiệp cũng được tăng cường vốn đầu tư và mở rộng quy mô sản
xuất. Tư bản Pháp tiếp tục gia tăng tốc độ đầu tư khai mỏ, nhất là mỏ than(năm
1911 diện tích mỏ là 6 vạn ha; năm 1930 là 43 vạn ha, gấp 7 lần). Những năm
20, nhiều công ty khai mỏ mới được thành lập như: Công ty than Hạ Long, Đồng
Đăng, Tuyên Quang, Đông Triều, Công ty than và mỏ kim khí Đông Dương…
Sản lượng than khai thác tăng qua các năm: năm 1919 đạt 665.000 tấn; năm

1929 đạt 1.972.000 tấn, gấp 3 lần.
Bên cạnh than, các mỏ thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn, nhân
công và đẩy mạnh tiến độ khai thác: so với trước chiến tranh thế giới thứ 1, sản
lượng thiếc tặng gấp 3 lần; kẽm 1,5 lần; vonfram 1,2 lần. Riêng năm 1928, tư
bản Pháp đã khai thác được ở Việt Nam gần 2 triệu tấn than, 21.000 tấn kẽm,
250 tấn chì, 105 tấn vonfram, 20 tấn phốt phát, trên 150 nghìn tấn muối.
Tổng giá trị các loại quặng khoáng sản đã khai thác từ 1923 – 1929 tăng
gấp 2 lần, đạt 18,6 triệu đồng(tương đương trên 200 triệu Phơ-răng). Số quặng
khai thác được chủ yếu để xuất khẩu (năm 1929 Pháp xuất khẩu 1,3 triệu tấn
than, chiếm 65% sản lượng khai thác, tăng gấp 2 lần 1913).

14


Để phục vụ ngành khai khoáng, một số cơ sở chế biến quặng, đúc kẽm,
thiếc… đã được thành lập tại Quảng Yên, Hải Phòng, Cao Bằng… để sơ chế
khoáng sản để xuất khẩu hoặc phục vụ công nghiệp chính quốc.
Công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến thời kỳ này cũng khá phát đạt,
như: xi măng Hải Phòng; các nhà máy tơ - sợi - dệt ở Hà Nội, Nam Định, Hải
Phòng, Sài Gòn; các nhà máy xay xát gạo, chế biến rượu, làm đường ở Hải
Dương, Hà Nội, Nam Định, Chợ Lớn… đều được nâng cấp và mở rộng quy mô
sản xuất.
Tuy nhiên, một ngành công nghiệp nặng (luyện kim, cơ khí) với đầy đủ
tính chất của nó, chưa thật sự ra đời. Công nghiệp Việt Nam vẫn là 1 nền công
nghiệp dịch vụ và phục vụ (chủ yếu sản xuất hang tiêu dùng và cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp chính quốc) nên chịu lệ thuộc nặng nề vào thực dân Pháp
và thị trường nước ngoài.
-

Giao thông vận tải


Giao thông vận tải tiếp tục được tăng cường đầu tư vốn và các trang thiết
bị kỹ thuật để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa. Chính quyền thực dân cho
xây dựng một số tuyến đường sắt xuyên Đông Dương như: Vinh - Đông Hà,
Đồng Đăng - Na Sầm. Đến 1931, Pháp xây dựng được 2389 km đường sắt trên
lãnh thổ Việt Nam. Đường bộ, bao gồm đường liên tỉnh và nội tỉnh, cũng được
đẩy nhanh tiến độ xây dựng, cho đến 1930 đạt gần 15.000km, trong đó đường
nhựa thì mới chỉ đạt vài nghìn km. Các cảng Hải Phòng, Sài Gòn được nạo vét
và củng cố nhà kho, bến bãi; một số cảng mới như Hòn Gai, Bến Thuỷ… được
xúc tiến xây dựng. Mạng lưới giao thông thuỷ trên các sông Hồng, Cửu Long
tiếp tục được khai thác. Nhìn chung, những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, Đông
Dương là một trong những nơi có hệ thống giao thông tốt nhất ở Đông Nam Á.
-

Thương nghiệp
15


Thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, có bước tiến rõ rệt so với trước.
Sau các đạo luật thuế quan vào các năm 1887, 1892, 1910, 1913, năm 1928
chính quyền thực dân ra thêm một nghị định mới nhằm đánh thuế nặng vào các
hàng của nước ngoài, nhất là hàng Trung Quốc và Nhật Bản, qua đó thực hiện
độc quyền thương mại, giúp hang hoá Pháp tràn ngập thị trường Việt Nam (trước
thế chiến I hàng Pháp chiếm 37%, những năm 1929 - 1930 hàng Pháp chiếm đến
63% tổng số hang nhập khẩu). Cán cân thương mại thời kỳ này khá ổn định,
thậm chí có xu hướng xuất siêu(trong giai đoạn 1928 - 1932 chỉ có 1 năm nhập
siêu còn lại 4 năm xuất siêu, riêng 1928 giá trị xuất siêu đạt trên 50 triệu đồng).
Tổng giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu tăng nhanh (năm 1920 giá trị xuất đạt 318
triệu, năm 1928 xuất đạt 550 triệu đồng). Việt Nam được tăng cường mở rộng
quan hệ buôn bán với các nước Anh, Đức, Mĩ, Italia và một số nước trong khu

vực Đông Nam Á và Đông Á như Thái Lan, Trung Quốc, Singapo, Hồng Kông.
Tuy nhiên bạn hàng chính của Việt Nam vẫn là Pháp (giai đoạn 1911-1920 hàng
Pháp và các thuộc địa của Pháp chiếm 29,6%; giai đoạn 1921-1930 chiếm
43,2%). Nhìn chung trong 1 giai đoạn khá dài, Việt Nam và Đông Dương đóng
vai trò “người điều chỉnh” thương mại chính quốc. Hàng hoá Việt Nam bán ra
ngoài chủ yếu gồm gạo, khoáng sản, chè, cao su, cà phê, hạt tiêu (năm 1932,
riêng giá trị gạo chiếm trên 60% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam). Hàng hoá
Pháp sang Việt Nam gồm hàng tiêu dùng và phục vụ sinh hoạt như: vải, bông
sợi, giày dép, rượu, thuốc lá, ôtô; các thiết bị máy móc phục vụ phát triển công
nghiệp hầu như không được nhập vào (ví dụ năm 1929, riêng giá trị rượu nhập
vào Việt Nam là 63 triệu Phơ-răng, trong khi đó giá trị máy nông nghiệp nhập
chỉ là 2,4 triệu).
Nội thương cũng phát triển hơn so với trước; quan hệ giữa các tỉnh, các
miền của Việt Nam cũng được đẩy mạnh. Người Pháp vẫn độc quyền mua - bán

16


về rượu, muối và thuốc phiện. Nhìn chung các hoạt động mua bán lớn của Việt
Nam đều nằm trong tay người Pháp và Hoa Kiều.
-

Tài chính.

Ngân hàng Đông Dương nắm vai trò tổ chức và chi phối các hoạt động
kinh tế-tài chính ở Việt Nam. Ngoài việc độc quyền phát hành giấy bạc và cho
vay lãi, ngân hàng Đông Dương còn trực tiếp quản lí và chỉ đạo hoạt động của
các chi nhánh ở các ngành, các tỉnh. Giai đoạn 1925-1930 ngân hàng Đông
Dương phát triển thêm 19 Nông phố Ngân hàng ở khắp các tỉnh Bắc, Trung,
Nam, qua đó phát triển việc cho vay lãi nặng và can thiệp sâu vào đời sống nông

thôn Việt Nam.
Đánh giá cuộc khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam
không chỉ dừng lại ở góc độ tăng cường đầu tư vốn và mở rộng quy mô khai
thác, mà còn phải đánh giá ở góc độ yếu tố kỹ thuật và nhân tố con người. Tuy
nhiên, cuộc khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp chỉ là sự mở rộng, nhân
lên của tình trạng sản xuất lạc hậu trong các cơ sở kinh tế; số máy móc và tiến bộ
kĩ thuật được áp dụng cực kỳ hạn chế và ít ỏi trong sản xuất.
Như vậy, đặc điểm nổi bật của toàn bộ cơ cấu kinh tế Việt Nam thời thuộc
địa là sự phát triển mất cân đối: nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ, bên cạnh nền
công nghiệp mỏng manh, yếu ớt; trong công nghiệp, ngành khai mỏ chiếm phần
lớn, các ngành khác như hoá chất, luyện kim, cơ khí, năng lượng… thì hầu như
không phát triển.
Tính chất mất cân đối, lệch lạc còn thể hiện qua quan hệ giữa các vùng,
miền trong cả nước. Miền Bắc và miền Nam, kinh tế còn ít nhiều phát triển;
riêng miền Trung, chỉ trừ một vài chuyển biến có tính chất cục bộ ở Vinh - Bến
Thuỷ, Quảng Nam - Đà Nẵng…, còn lại các nơi khác hầu như vẫn nguyên trạng
trong nghèo nàn, lạc hậu; các khu vực miền núi hầu như không có chuyển biến
17


gì, người dân vẫn chủ yếu du canh du cư, sống phụ thuộc chủ yếu vào việc tận
dụng các sản vật của thiên nhiên.
Thực dân Pháp cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đầu tư vốn để khai
thác tài nguyên, xây dựng hệ thống đường bộ, đường thủy, bến cảng để phục vụ
cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp dẫn đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc
vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
I.4.3. Chính sách về văn hóa.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, xu hướng thôn tính dân tộc và bành trướng thuộc
địa của các nước đế quốc diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Các quốc gia ở châu

Á, châu Phi... lần lượt trở thành thuộc địa của Anh, Pháp, Hà Lan, Nga, Đức...
Việt Nam cũng bị thực dân Pháp xâm lược từ giữa thế kỷ XIX. Sau khi dập tắt các
phong trào yêu nước, hoàn thành căn bản công cuộc bình định nước ta về mặt
quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa, áp đặt một chính
sách thống trị quy mô và triệt để trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá giáo
dục... nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa khai khẩn, bảo đảm siêu lợi nhuận
cho chính quốc.
Về văn hoá, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách đầu độc, ngu dân
đồng thời truyền bá văn hoá và giáo dục của Pháp để phục vụ cho chính sách thuộc
địa của mình. Mục đích của những chính sách đó là nhằm cai trị tinh thần quần
chúng, biến quần chúng thành những đám đông tự ti, khiếp nhược trước sức mạnh
của văn minh đại Pháp, mất tin tưởng vào khả năng và tiền đồ của dân tộc, cắt đứt
với mọi truyền thống tốt đẹp, phục vụ trung thành cho quyền lợi của đế quốc.
Ngu dân về giáo dục và đầu độc về văn hoá là một trong những biện pháp
hỗ trợ đắc lực cho công cuộc khai thác ở Việt Nam. Ban đầu, thực dân Pháp thực
hiện chính sách giáo dục chỉ nhằm mục đích đào tạo đội ngũ thông dịch viên và
18


những người phục vụ trong bộ máy chính quyền thuộc địa, đồng thời từng bước
truyền bá chữ Pháp và chữ Quốc ngữ, hạn chế ảnh hưởng của chữ Hán. Các
trường học được tổ chức với ba bậc: bậc ấu học ở xã, bậc tiểu học ở phủ, huyện
và bậc trung học ở tỉnh. Học sinh theo học trong hệ thống các bậc học này, ngoài
việc được trang bị các kiến thức khoa học phổ thông còn phải học tiếng Pháp.
Các bậc học càng cao thì môn tiếng Pháp và các kiến thức về văn hoá Pháp thành
bắt buộc. Các khoa thi Hương, Hội, Đình vẫn được tổ chức như cũ.càng trở
Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp vừa ra sức xây dựng một nền giáo dục
mới, vừa tìm cách thủ tiêu vai trò của nền giáo dục cũ. Hệ thống các trường tiểu
học Pháp Việt được mở rộng nhằm thay thế dần nền Hán học. Các khoa thi
Hương, Hội, Đình bị bãi bỏ với mục đích chấm dứt vai trò của các sỹ phu phong

kiến.
Hệ thống giáo dục mới sau hai lần cải cách, đến năm 1917 đã thực sự trở
thành “Pháp hoá” gồm có ba cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Ở cấp
tiểu học học sinh sẽ theo học trong 5 năm. Nhưng với mục đích hạn chế việc đến
trường của thanh thiếu niên Việt Nam, học sinh sau khi học xong ba năm bậc sơ
đẳng phải thi lấy bằng “sơ học yếu lược” rồi mới được học tiếp hai năm còn lại
của bậc tiểu học và thi tốt nghiệp. Trong ba năm học đầu tiên đó, học sinh phải
học bằng tiếng Pháp. Hơn nữa, chính quyền thuộc địa lại quy định rất chặt chẽ về
hạn tuổi vào học ở các cấp học nên càng góp phần gạt bỏ số học sinh muốn theo
học.
Bên cạnh các trường tiểu học và trung học, chính quyền thuộc địa cũng đã
chú ý xây dựng các trường chuyên nghiệp và dạy nghề: các trường sư phạm ở Hà
Nội, Nam Định, Huế, Gia Định; các trường chuyên nghiệp và xưởng học nghề;
các trường kỹ thuật thực hành, mỹ thuật thực hành... Cuối năm 1907, nhằm tranh
giành ảnh hưởng với Đông Kinh nghĩa thục và ngăn chặn thanh niên xuất dương
19


sang Nhật theo phong trào Đông Du, đồng thời để cổ động cho thế lực của nước
Pháp ở Á Đông, thực dân Pháp đã quyết định mở trường Đại học Đông Dương.
Các trường cao đẳng, đại học khác thuộc các ngành sư phạm, công chính,
thương mại, nông nghiệp, y dược... cũng được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu
cao hơn về nhân lực cho nền thống trị thực dân.
Tuy nhiên, phần lớn học sinh và sinh viên đại học, cao đẳng đều là con em
các gia đình giàu có hoặc có địa vị nhất định trong xã hội lúc bấy giờ. Các gia
đình nông dân, nhân dân lao động nghèo rất ít có khả năng cho con em theo học.
Cho đến năm 1930, “tổng cộng học sinh, sinh viên tất cả các trường từ tiểu học
đến đại học chỉ chiếm 1,8% dân số”. Số trẻ em thất học phổ biến trong xã hội.
Hơn nữa, trong nội dung chương trình giảng dạy của hệ thống giáo dục này,
thực dân Pháp đã loại trừ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thay

vào đó là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp” nhằm đào tạo một thế hệ
người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần yêu nước và ý thức về số phận của
người dân mất nước, nô lệ để từ đó phục vụ đắc lực cho công cuộc thống trị của
thực dân.
Phản ánh về chính sách giáo dục của thực dân, trong tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Đông Dương khẩn khoản đòi mở
trường học vì trường học thiếu một cách nghiêm trọng... Hàng ngàn trẻ em đành
chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường... Chính phủ thuộc địa tìm đủ mọi cách để ngăn
cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp,... Làm cho ngu dân để
dễ cai trị đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng.
Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện
chính sách đầu độc, truỵ lạc hoá đối với người dân, đặc biệt là thanh niên với
mọi thủ đoạn. Những thói hư tật xấu được chính quyền các cấp ra sức dung
dưỡng. Nạn cờ bạc được khuyến khích bằng cách cho mở các sòng bạc để thu
20


thuế. Ngoài những sòng bạc công khai có tính chất thường xuyên, tổ chức quy
mô ở Chợ Lớn, Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai còn có nhiều sòng bạc
kín được tổ chức ở các dịp chợ phiên, ở những vòng đua ngựa ở Hà Nội, Hải
Phòng, Sài Gòn...
Tệ uống rượu không bị hạn chế mà thậm chí nhân dân còn bị bắt phải
uống một loại rượu nặng độ do hãng rượu độc quyền Phông ten sản xuất trên cả
nước. Loại rượu này có nồng độ từ 40-45 độ và được nấu từ những loại gạo rẻ
tiền rồi sau đó pha thêm chất hoá học. “Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán
lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số 1.000 làng đó lại chỉ vẻn vẹn 10
trường học... Hàng năm người ta cũng đã tặng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12
triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con”.
Thuốc phiện đã trở thành một công cụ hữu hiệu để đầu độc người dân, đặc
biệt là giới trẻ. Chúng mở các cơ quan thu mua và các công ty bán thuốc phiện

một cách công khai. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí
Minh trích đăng bức thư của Toàn quyền Đông Dương Xarô gửi viên Công sứ
dưới quyền: “Tôi trân trọng yêu cầu ông vui lòng giúp đỡ những cố gắng của
Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý bán lẻ thuốc phiện và rượu... Để
tiến hành việc đó tôi xin gửi ông một bản danh sách những đại lý cần đặt trong
các xã đã kê tên...”. Chính quyền các cấp đã tìm mọi cách để ép các viên chức từ
công sứ cho tới các nhân viên văn phòng tăng mức tiêu thụ rượu và thuốc phiện
lên mức cao nhất có thể.
Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp dung túng và trở nên phổ biến ở
các thành phố lớn... Ở nông thôn và miền núi, các hủ tục về ma chay cưới xin
còn tồn tại, nạn bói toán, đồng bóng, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp đã lợi dụng vũ khí báo chí để tuyên truyền
cho các chính sách “khai hoá”, thống trị của chúng tại Việt Nam. Chúng đã cấp
21


phép cho nhiều tờ báo được xuất bản. Hàng loạt các tờ báo được xuất bản bằng
chữ Hán, chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp. Nổi bật như: ở Nam kỳ có các tờ Nam
trung nhật báo (sau đổi thành Lục tỉnh tân văn), Đại Việt quan báo (sau đổi
thành Đại Việt tân báo và Đại Việt công báo), Nông cổ mín đàm. Ở Bắc kỳ có
tờĐăng cổ tùng báo xuất bản ở Hà Nội. Đến năm 1913, chính quyền thực dân
cho ra đời tờ Đông Dương tạp chí là chi nhánh đặc biệt của Lục tỉnh tân văn xuất
bản ở miền Trung và miền Bắc.
Vào tháng 6 năm 1915, “Thư viện truyền bá”được thành lập gồm hai bộ
phận: thứ nhất làĐông Dương tạp chí, tuần báo văn chương, khoa học giáo dục và
thứ hai là Trung Bắc tân văn, thời báo chính trị, kinh tế, ấn hành bằng ba loại khác
nhau và được viết bằng chữ Quốc ngữ và chữ Hán. Sau khi Đông Dương tạp chí bị
đình bản, chính quyền thực dân đã thành lập tờ Nam phong (1916).
Qua báo chí, thực dân Pháp đã chuyển một hệ thống tư tưởng nô dịch, văn
hoá duy tâm thấm sâu vào xã hội Việt Nam; cổ động cho chủ nghĩa “Pháp Việt

đề huề”; tuyên truyền cho việc thu “thuế máu” đối với nhân dân, khuyến khích
nhân dân gia nhập quân đội Pháp làm bia đỡ đạn...
Ngoài ra, chúng còn sử dụng sách báo để xuyên tạc và công kích cách
mạng tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đả kích
phong trào cách mạng ở Pháp và Trung Quốc. Các diễn đàn thảo luận về các vấn
đề như: “Tư bản và lao động”, “Dân chủ và chuyên Các chiến dịch công kích
chính” được đăng trên báo chí. không ngoài mục đích gieo rắc những nhận thức
sai lệch về cách mạng tháng Mười, về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
trong dân chúng hòng ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác Lênin, vũ khí tư
tưởng cho công cuộc giải phóng dân tộc.

22


Tuy vậy, trên một số tờ báo, những trí thức tiến bộ đương thời cũng đã lợi
dụng để đăng tải một số thơ văn yêu nước, cổ động tinh thần dân tộc nên bị chính
quyền thực dân đình bản như:Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí...
Ngoài thủ đoạn lợi dụng triệt để báo chí làm công cụ tuyên truyền cho chủ
nghĩa cải lương, thực dân Pháp và tay sai đã thành lập những cơ quan văn hoá
cai trị mà tiêu biểu là hội “Khai trí Tiến Đức” thành lập đầu năm 1919. Hội viên
của hội này gồm địa chủ, quan lại, chánh phó tổng, lý trưởng, các nhà tư sản
mới, các công chức cao cấp trong bộ máy chính quyền thuộc địa. Mục đích của
hội là: “ Bảo tồn đạo đức, phong tục lạc hậu và giới thiệu những tư tưởng bảo
thủ của văn học Pháp”(5).
Rõ ràng, song song với công cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã
thực hiện những chính sách cai trị về văn hoá hết sức phản động hòng xô đẩy
nhân dân vào vòng ngu dốt, thất học; truỵ lạc về thể xác, bạc nhược về tinh thần.
Những truyền thống tốt đẹp, tinh hoa văn hoá dân tộc bị kìm hãm. Nền văn hoá
dân tộc đã bị chà đạp một cách thô bạo. Tuy nhiên thực dân Pháp không thể ngăn
trở được những trào lưu văn hoá dân tộc tiến bộ đã xuất hiện và phát triển trong

thời gian này.
I.5.

Hậu quả của chính sách cai trị của thực dân Pháp.

I.5.1. Tình hình giai cấp trong xã hội.
Sự phân hoá của các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của chính
sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi đặt ách thống trị
lên nước ta chúng bắt tay ngay vào khai thác thuộc địa nước ta. Chính vì thế
chúng cần một lượng lớn nhân công lao động do đó giai cấp công nhân đã ra đời.
Ngay sau đó các giai cấp khác cũng lần lượt ra đời đó là giai cấp tư bản, giai cấp
tiểu tư sản điều này đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa hết sức sâu sắc.

23


Mỗi giai cấp lại có một đặc điểm riêng biệt việc xác định giai cấp lãnh đạo cách
mạng là rất quan trọng.


Địa chủ phong kiến: Giai cấp địa chủ phong kiến tồn tại hàng

nghìn năm trong lịch sử từ địa vị là giai cấp thống trị nay trở thành tay sai cho
thực dân Pháp câu kết với thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta. Giai cấp địa chủ
được chia thành:
- Đại địa chủ: có nhiều ruộng đất, câu kết với thực dân Pháp bóc lột
nhân dân ta.
- Trung địa chủ.
- Tiểu địa chủ.
Những địa chủ phong kiến phản cách mạng được thực dân Pháp dung

dưỡng và nuôi béo vì vậy đây chính là đối tượng của cách mạng.
Những địa chủ phong kiến bị đế quốc chèn ép có tinh thần dân tộc và tinh
thần cách mạng. Tuy nhiên cũng không trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.


Giai cấp nông dân:
- Chiếm 90% trong xã hội phong kiến thực dân Việt Nam bao gồm:
Phú nông, trung nông, bần nông, cố nông.
- Giai cấp nông dân bị địa chủ phong kiến và đế quốc bóc lột nặng
nề, đế quốc bóc lột nhân dân bằng sưu cao thuế nặng, địa chủ bóc
lột nhân dân bằng cướp đoạt ruộng đất, địa tô, cướp đoạt ruộng đất
dẫn đến giai cấp nông dân bị đẩy vào đường cùng.
- Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất và hăng hái nhất có
vai trò quyết định đến cuộc giải phóng dân tộc, bị đế quốc và địa
chủ chèn ép mâu thuẫn đặc biệt với đế quốc thực dân và phong kiến
tay sai phản động vừa có mâu thuẫn về dân tộc vừa có mâu thuẫn về
24


giai cấp trong đó mâu thuẫn dân tộc là lớn nhất. Tuy nhiên giai cấp
nông dân cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng
do trình độ văn hoá thấp.


Giai cấp công nhân:
- Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ngay từ
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
- Giai cấp công nhân Việt Nam còn rất trẻ chiếm 1% dân số, trình độ
văn hoá kỹ thuật rất thấp.
- Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: Ngoài những đặc điểm

chung với giai cấp công nhân thế giới giai cấp công nhân Việt Nam
còn có những đặc điểm riêng biệt khác so với giai cấp công nhân
thế giới.

* Đặc điểm riêng của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Chịu 3 tầng áp bức bóc lột (Đế quốc, tư bản trong nước, địa chủ
phong kiến).
- Phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân cho nên họ gắn bó với dân
tộc có mới quan hệ gần gũi với nhân dân và có mối thâm thù với
thực dân Pháp.
- Ra đời trước tư sản lực lượng đồng nhất không bị phân tán về lực
lượng và sức mạnh.
- Kế thừa truyền thống yêu nước đấu tranh của dân tộc.
- Do ra đời muộn giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu được ảnh
hưởng của phong trào cách mạng thế giới, ảnh hưởng của chủ nghĩa
Mác-Lênin và cách mạng tháng Mười Nga.
25


×