Trờng Đại học Vinh
Khoa ngữ văn
********************
ngô thị ngà
vũ trung tùy bút của phạm đình
hỉ víi hiƯn thùc lÞch sư x· héi
viÖt nam cuèi thÕ kû xviii
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: văn học việt nam
Vinh, 2010
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Văn học trung đại Việt Nam trải qua bốn giai đoạn vận động và
phát triển. Trong suốt quá trình đó, giai đoạn thứ ba (từ thế kỷ XVIII đến
1
nửa đầu thế kỷ XIX) là giai đoạn rực rỡ, phồn thịnh nhất trong lịch sử văn
học dân tộc. Ở loại hình văn xi trung đại thời kỳ này, bên cạnh sự xuất
hiện của tiểu thuyết chương hồi, mà tiêu biểu là Hồng Lê nhất thống chí
(Ngơ gia văn phái) thì chúng ta khơng thể khơng nói đến thể loại kí với
những tác phẩm có giá trị phản ánh hiện thực xã hội rộng lớn và sâu sắc.
Tác phẩm mở đầu cho trào lưu viết kí ở thế kỷ XVIII – XIX là Cơng dư
tiệp kí của Vũ Phương Đề. Tiếp đó là Tiên tướng cơng niên phả lục, Trần
Khiêm Đường niên phả của Trần Tiến. Rồi Thượng kinh kí sự của Lê Hữu
Trác, Bắc hành tùng kí của Lê Quýnh. Kí trung đại chắc hẳn sẽ kém phần
đa dạng và thiếu sự hồn thiện nếu khơng có Vũ trung tuỳ bút của Phạm
Đình Hổ. Trong Vũ trung tuỳ bút, với kết cấu tự do, Phạm Đình Hổ đã ghi
lại một cách tự nhiên, chân thực những điều trông thấy thành những mẩu
chuyện nhỏ. Tác giả đã ghi lại những vấn đề xã hội, vấn đề con người trong
những năm tháng cuối cùng của triều Lê – Trịnh. Đó là những điều “trái tai
gai mắt” từ lối sống xa hoa hưởng lạc của vua chúa, sự tham nhũng, lộng
hành, thừa cơ “đục nước béo cò” của đám quan lại cho đến chế độ thi cử
hay hiện thực trớ trêu trong cuộc sống của nhân dân. Vũ trung tuỳ bút là
một tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học trung đại nói chung và thể loại kí
trung đại nói riêng. Đây là lí do trước tiên để chúng tơi tìm hiểu đề tài này.
1.2. Trong đời sống phê bình văn học Việt Nam, có ít cơng trình
nghiên cứu quan tâm đến Vũ trung tuỳ bút. Dường như, chưa có một bài
viết nào đề cập, tìm hiểu một cách hệ thống, tỉ mỉ, cặn kẽ về những vấn đề
trong tác phẩm có giá trị trên. Nó chỉ được đề cập một cách khái lược khi
người ta bàn về những tác phẩm, những hiện tượng văn học cùng thời. Với
lí do này, chúng tơi đi vào tìm hiểu bức tranh lịch sử xã hội thế kỷ XVIII –
một phương diện quan trọng trong tác phẩm.
1.3. Hiện nay, văn bản Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – một trong
90 mẩu chuyện trong Vũ trung tuỳ bút được đưa vào giảng dạy trong
chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở (Lớp 9, Tập 1). Vì vậy, việc nghiên
2
cứu tác phẩm này cịn là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với người dạy
và người học ở trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Kí là một loại hình văn học ra đời sớm trong lịch sử văn học
nước nhà. Ngay từ thời Lý – Trần, nó đã xuất hiện dưới dạng các bài văn
ngắn khắc trên bia đá, chuông đồng…Đến thế kỷ XVIII thì kí phát triển rực
rỡ. Bên cạnh các tác phẩm Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác), Cơng dư tiệp
kí (Vũ Phương Đề), Bắc hành tùng kí (Lê Qnh) cịn có tác phẩm tiêu
biểu là Vũ trung tuỳ bút (Phạm Đình Hổ). Tuy nhiên, có một thực tế mà ta
khơng thể phủ nhận, đó là chưa hề có một cơng trình nào nghiên cứu về tác
phẩm này một cách kỹ lưỡng và độc lập. Các cơng trình nghiên cứu có đề
cập đến nhưng đều nằm ở dạng khái quát, điểm qua. Trong phạm vi quan
tâm của đề tài, chúng tơi xin điểm lại một số cơng trình, tài liệu có liên
quan, làm cơ sở cho việc nghiên cứu hiện thực lịch sử Việt Nam cuối thế
kỷ XVIII trong Vũ trung tuỳ bút.
2.2. Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu, khi tìm hiểu
văn học chữ Hán, đã lưu tâm đến hàng loạt các tác phẩm kí, trong đó có Vũ
trung tuỳ bút. Với sự khảo cứu của mình, ơng chia tác phẩm thành tám loại
cụ thể : tiểu truyện các bậc danh nhân; ghi chép các cuộc du lãm, những
nơi thắng cảnh; ghi chép các việc xảy ra về cuối đời Lê; khảo cứu về duyên
cách địa lí; khảo cứu về phong tục; khảo cứu về học thuật; khảo cứu về lễ
nghi; khảo cứu về điển lệ [12, 142-143]. Như vậy, cơng trình này chỉ mang
tính khảo sát, điểm qua.
2.3. Trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi đã
có những điểm nhìn cụ thể, tập trung vào một số tác phẩm kí tiêu biểu.
Riêng Vũ trung tuỳ bút, ông coi trọng giá trị của nó ở chỗ “người đương
thời ghi chép chuyện đương thời”, “phản ánh xã hội phong kiến suy đồi
qua những biến đổi về phong tục” [Dẫn theo 20, 5].
3
2.4. Trong Lịch sử văn học Việt Nam – Uỷ ban khoa học xã hội Việt
Nam, các tác giả khi nói đến sự suy tàn của xã hội phong kiến cuối Lê đầu
Nguyễn, đã dẫn Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ [40, 319]. Điều này có
nghĩa rằng, Vũ trung tuỳ bút là tác phẩm kí mang đậm chất hiện thực.
2.5. Cơng trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu
thế kỷ XIX của Nguyễn Lộc có nói đến tác phẩm Vũ trung tuỳ bút. Nguyễn
Lộc cho rằng, tác phẩm này thuộc “loại văn kí sự”, có nhiều bài kí về sinh
hoạt và phong tục [22, 26].
2.6. Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên chỉ ra : Vũ trung tuỳ bút là một trong những tác phẩm soạn về triều
Nguyễn. Qua khảo sát, ông chia tác phẩm thành tám mục giống như Dương
Quảng Hàm. Việc tìm hiểu tác phẩm đang cịn mang tính khái qt [27,
301-302].
2.7. Các tác giả Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận trong
Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX khi bàn về văn học giai
đoạn cuối XVIII – đầu XIX đã khẳng định : văn học giai đoạn này cũng
khơng hồn tồn thốt li với quan niệm “văn dĩ tải đạo”. Vũ trung tuỳ bút là
một dẫn chứng vì nó có ý kiến “phê phán truyện Nôm” [21, 32].
2.8. Văn học Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XX) – Nguyễn Phạm
Hùng điểm qua Vũ trung tuỳ bút – một tác phẩm đánh dấu sự phát triển của
văn xuôi tự sự vào giai đoạn cuối XVIII – đầu XIX [18, 144].
2.9. Đặc biệt, cơng trình Văn học trung đại Việt Nam (Tập 2) và Con
đường giải mã văn học trung đại Việt Nam của PGS.TS Nguyễn Đăng Na
đã có những đánh giá, nhận xét sâu sắc, cụ thể về giá trị của Vũ trung tuỳ
bút. Về thể tài, Nguyễn Đăng Na khẳng định, Vũ trung tuỳ bút viết theo thể
tài tuỳ bút. Qua khảo sát, tác giả khái quát Vũ trung tuỳ bút “khá đa dạng về
bút pháp. Có thiên ơng viết kiểu tự thuật ngắn gọn, không theo thứ tự thời
gian và thường viết về những kỷ niệm thời thơ ấu. Nhiều thiên, Phạm Đình
Hổ viết theo lối khảo cứu. Tác giả có sở trường về kí khảo cứu. Ơng khảo
4
từ hoa cỏ đến phong tục, từ chữ viết đến văn thể, thể thơ, từ điềm kì dị đến
phép thi cử, khảo từ nhân vật đến quỷ thần, tang lễ, cưới xin, đất đai phong
vật, nhân tình thế thái…”[26, 73]. Trình bày về điều gì ơng cũng viết “cặn
kẽ, nói có sách, mách có chứng và so sánh thực tại”[26,73]. Điều đáng ghi
nhận ở Phạm Đình Hổ là : “khảo cứu chỉ là cái cớ để nói về hiện tại và nói
về hiện tại mới là chủ yếu…”[26, 73]. Văn ông lại thấm đậm chất trữ tình,
chất thời sự. Lời văn nhẹ nhàng mà ý vị sâu xa. Bởi vậy, Vũ trung tuỳ bút
không rơi vào lãnh địa văn học chức năng. Nguyễn Đăng Na đã phát hiện
ra nét riêng trong phong cách kí của Phạm Đình Hổ: “Đọc tác phẩm của
Phạm Đình Hổ ta thấy có chiều sâu của người uyên thâm Hán học, có chất
lịch thiệp của người trải đời, có cái ngạo nghễ, hóm hỉnh của bậc hàn nho
thanh bạch, có cái tinh tế của trí thức kinh kì biết thưởng thức ăn
chơi”[26,73]. Đi sâu vào nội dung tác phẩm, Nguyễn Đăng Na đã cảm nhận
được Vũ trung tuỳ bút “phảng phất đó đây một phong vị buồn của con
người luôn trăn trở với đời”[26,73]. Cũng trong Vũ trung tuỳ bút, tác giả đã
có cái nhìn tiến bộ, ngồi “nhìn thấy những cái hay cái đẹp, cái khả thủ của
người Việt”, thì “vẫn nhận ra cái chưa đạt của dân tộc”[26, 73]. Có thể nói,
Nguyễn Đăng Na là nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp nhất trong hành
trình khai thác, khẳng định giá trị to lớn của kí trung đại nói chung và Vũ
trung tuỳ bút nói riêng. Nét độc đáo của tác phẩm đã được ông “giải mã”.
2.10. Trần Đình Sử cũng đã đưa ra ý kiến của mình trong Mấy vấn
đề thi pháp văn học trung đại. Ông khảo sát tác phẩm, chia Vũ trung tuỳ
bút thành bốn mục: nhân vật; đền chùa; ma quỷ, thần linh, chuyện lạ; các lễ
tục, thi cử, thể văn [ 33, 327].
2.11. Ở chương 11 trong Lý luận văn học (Tập 2), Trần Đình Sử đã
tìm hiểu về kí văn học. Ơng khẳng định, cùng với một số tác phẩm khác
như Thượng kinh kí sự, thì Vũ trung tuỳ bút là một trong những “thành tựu
đột xuất” của kí Việt Nam đời Lê, Nguyễn. Sở dĩ như vậy là vì nó có sự
phá cách, sáng tạo trong hình thức[34,357].
5
2.12. Ngoài ra, rải rác trên các Tạp chí văn học, Nghiên cứu văn học,
Tạp chí Hán Nơm, cũng đã đề cập đến những vấn đề trong Vũ trung tuỳ
bút. Chẳng hạn như: Về tác phẩm Hồng Lê nhất thống chí – Nguyễn Đình
Thi trên Nghiên cứu văn học, số 6, 2005; Thi pháp truyện ngắn trung đại
Việt Nam – Trần Nho Thìn trên Nghiên cứu văn học, số 10, 2006; Thử
phác hoạ tiến trình văn học trung đại Việt Nam ( theo quan điểm của một
số tác gia trung đại) – Trần Nho Thìn trên Tạp chí văn học số 5, 2003; Thi
tự của Phạm Đình Hổ - Trần Thị Kim Anh trên Tạp chí Hán Nơm, số 2,
2006; Sách văn và kinh nghĩa trong khoa trường – Trần Thị Kim Anh, trên
Tạp chí Hán Nơm, 2009. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dùng Vũ trung tuỳ bút
như một dẫn chứng để làm sáng tỏ một vấn đề trung tâm nào đó, chứ chưa
đi sâu nghiên cứu nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Qua tập hợp, thống kê, tìm hiểu các cơng trình nói trên, chúng tơi
thấy rằng: các nhà nghiên cứu đã ít nhiều quan tâm đến tác phẩm Vũ trung
tuỳ bút. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về giá trị của tác
phẩm một cách độc lập, sâu sắc. Có nhiều bài viết chỉ điểm qua tên tác
phẩm, khảo sát tác phẩm để phân loại. Chỉ có Nguyễn Đăng Na là đi vào cụ
thể hơn cả. Bởi vậy, khoá luận của chúng tôi trên cơ sở tiếp thu, kế thừa
thành tựu khoa học của các nhà nghiên cứu đi trước, mong muốn đi vào tìm
hiểu giá trị nội dung của Vũ trung tuỳ bút: hiện thực lịch sử xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XVIII.
3. Mục đích nghiên cứu.
3.1. Vũ trung tuỳ bút là một tác phẩm chưa được đánh giá cụ thể của
giới nghiên cứu. Với khố luận này, chúng tơi muốn giới thiệu cho người
đọc về tác giả Phạm Đình Hổ, giá trị nội dung của tác phẩm – hiện thực
lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Từ đây, chúng ta thấy được sự độc đáo
trong việc phản ánh hiện thực đương thời, cũng như đóng góp to lớn cho sự
phát triển văn xuôi trung đại Việt Nam của tác giả họ Phạm.
6
3.2.Thực hiện đề tài Vũ trung tuỳ bút với hiện thực xã hội Việt Nam
cuối thế kỷ XVIII, chúng tôi hy vọng thấy được cái hay, cái đẹp của tác
phẩm, để từ đó có thể cảm thụ và giảng dạy tác phẩm tốt trong nhà trường
phổ thông.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Như nhan đề của đề tài đã thể hiện, ở khố luận này, chúng tơi
hướng đến tìm hiểu nội dung phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam cuối thế
kỷ XVIII với những biến cố lớn lao về nhiều mặt. Đồng thời, chúng tôi
cũng hướng đến nghiên cứu thái độ của Phạm Đình Hổ - một con người
luôn trăn trở với đời. Về giá trị nghệ thuật của Vũ trung tuỳ bút, cũng được
đề cập đến, nhưng chỉ là thứ yếu.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn bản dịch Vũ trung tuỳ bút
của Nguyễn Hữu Tiến dịch và chú thích, Lâm Giang giới thiệu (2001),
NXB Văn học, Hà Nội. Đây là bản dịch được các nhà nghiên cứu đã sử
dụng nhiều bởi tính chính xác, độ tin cậy của nó cao.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ với hiện
thực lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, chúng tôi chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau: Phương pháp hình thức, phương pháp tiểu sử,
phương pháp thống kê, phương pháp loại hình, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp phân tích - tổng hợp.
6. Đóng góp của khóa luận.
- Khẳng định vị trí của Vũ trung tùy bút trong kí trung đại nói riêng
và văn xi trung đại Việt Nam nói chung.
- Khẳng định được giá trị nội dung của Vũ trung tùy bút : tái hiện
được bức tranh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
- Khẳng định được tài năng của Phạm Đình Hổ qua việc sử dụng một
số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu để viết Vũ trung tùy bút.
7. Bố cục luận văn.
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính
của khố luận này sẽ triển khai trong ba chương.
Chương 1: Vũ trung tuỳ bút trong tiến trình kí trung đại Việt Nam.
Chương 2: Hiện thực lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII –
nội dung chính của Vũ trung tuỳ bút.
Chương 3: Một số thủ pháp nghệ thuật được vận dụng trong Vũ
trung tuỳ bút.
CHƯƠNG 1
VŨ TRUNG TÙY BÚT TRONG TIẾN TRÌNH KÍ
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Thể kí trong tiến trình kí trung đại Việt Nam.
8
Kí là một trong những thể loại thuộc hệ thống văn học ngoại nhập.
Tuy vậy, nó vẫn có chỗ đứng quan trọng trong nền văn xuôi tự sự trung đại
Việt Nam.
Kí trung đại Việt Nam từ khi hình thành đến khi vận động và phát
triển tới đỉnh cao đã trải qua bốn giai đoạn: thế kỷ X – XIV, thế kỷ XV –
XVII, thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, nửa cuối thế kỷ XIX.
1.1.1.Giai đoạn thứ nhất: thế kỷ X – XIV.
Đây là thời kỳ hình thành, phát triển của chế độ phong kiến Việt
Nam, thời kỳ phục hưng các truyền thống tốt đẹp của dân tộc (yêu nước,
nhân văn), kết hợp với việc tiếp thu văn hoá nước ngoài ( Phật, Đạo, Nho).
Từ thế kỷ X đến XIV, văn học viết chưa tách khỏi văn học dân gian
và văn học chức năng (hành chính, tơn giáo), tức nó lấy văn học dân gian
và văn học chức năng làm cơ sở. Trong nền văn xi tự sự “kí lại phải dựa
hồn tồn vào văn học chức năng, là văn học chức năng”[26, 61]. Nó chưa
có tên gọi theo đúng nghĩa. Tuy vậy, kí vẫn tồn tại dưới hai loại hình chính:
văn khắc và tự bạt.
Về thành tựu, nếu như loại hình truyện ngắn đã xuất hiện một số tác
phẩm, mà ảnh hưởng của chúng có sức lan toả suốt thời trung đại, thì kí
chưa đạt tới trình độ như vậy. Giai đoạn này, chỉ có vai trị là đặt nền móng
cho giai đoạn sau.
1.1.2. Giai đoạn thứ hai: thế kỷ XV – XVII.
Đầu thế kỷ XV, nhà nước phong kiến trải qua nhiều biến động lớn. Hồ
Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập nên nhà Hồ. Sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly
ban hành nhiều cải cách tiến bộ nhưng đều không thành công do vấp phải
sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của tầng lớp quý tộc đương thời. Đất nước
rơi vào ách đơ hộ của giặc Minh. Ngót hai mươi năm đó, kho tàng thư tịch,
sách vở, điển chương phần lớn bị thiêu huỷ, hoặc bị đem về Trung Quốc.
Vì vậy, sau khi lãnh đạo nhân dân giành lại nền độc lập thì nhà Lê, đặc biệt
là Lê Thánh Tơng cho sưu tầm sao chép những thư tịch đã bị mất.
9
Sau năm thế kỷ hình thành và phát triển, dịng văn học viết có nhiều
thành tựu rực rỡ. Đến thế kỷ XV, dịng văn học ấy phát triển mạnh mẽ, toàn
diện hơn. Văn xuôi tự sự đã giảm thiểu mối quan hệ với văn học dân gian
và văn học chức năng; để vươn lên thành một loại hình nghệ thuật mới
mang đậm sắc thái dân tộc, phản ánh sâu sắc hiện thực đương thời. Có
nhiều tác phẩm đáng chú ý như: Lam Sơn thực lục (Nguyễn Trãi), Thánh
Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Lĩnh Nam chích qi (Trần Thế Pháp),
Nam Ơng mộng lục (Hồ Nguyên Trừng), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ)..
Kí ở giai đoạn này tồn tại dưới dạng tự, bạt. Nó tách ra thành mơn
khoa học riêng: nghiên cứu, phê bình, lí luận văn học và đặt nền móng cho
loại hình kí nghệ thuật. “Bằng phương pháp ghép những đoạn suy tư và
bình giá đối tượng mình đang phản ánh cuối mỗi thiên tự sự, Hồ Nguyên
Trừng đã đặt một chân lên biên giới thể kí.Riêng Lê Thánh Tơng và
Nguyễn Dữ thì đã đi những bước đi đầu tiên lên lãnh địa của kí bằng con
đường dựng lên những nhân vật của thế giới khác để trực tiếp đối thoại với
họ về thế cuộc”[25,429].Tuy nhiên, chúng ta phải thấy rằng, ranh giới giữa
kí và truyện rất mỏng manh, tính chất kí trong văn xi tự sự giai đoạn này
rất yếu, đơi khi đó chỉ là lối viết tự sự nhiều thiên, cái tôi cá nhân trong đó
chưa bộc lộ, chưa thốt khỏi vỏ bọc của cái ta cộng đồng (như Nam Ông
mộng lục của Hồ Nguyên Trừng. Hoặc như nhiều thiên trong Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ, được xếp vào thể kí lại mang đặc trưng của
truyện. Bích câu kì ngộ kí của Đặng Trần Côn cũng không thể xem là tác
phẩm thuộc thể kí. Điều làm nên sự khác biệt giữa truyện và kí về bản chất
là do “thái độ của người cầm bút. Nếu người cầm bút tách mình ra khỏi các
sự kiện, các nhân vật đang được miêu tả như người ngồi cuộc thì đó là
truyện, cịn tác giả hồ vào sự kiện, vào các nhân vật là tư cách là người
trong cuộc thì đấy lại là kí”[25,427].
Như vậy, “kí chỉ thực sự ra đời khi người cầm bút trực diện trình bày
đối tượng mình đang phản ánh bằng cảm quan của chính mình” [Dẫn theo
10
20,19]. Văn học, mà cụ thể là văn xuôi tự sự thế kỷ XV – XVII chưa làm
được điều đó vì cái tơi cá nhân chưa phá vỡ khỏi cái ta cộng đồng, phải đợi
đến giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX khi có đủ điều kiện.
1.1.3. Giai đoạn thứ ba: thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX.
Lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là một
giai đoạn đầy biến động. Sau khi phát triển đến đỉnh cao ở triều Lê Thánh
Tông, nhà nước phong kiến Việt Nam đi dần vào khủng hoảng. Nội chiến
kéo dài nhiều năm giữa Lê – Mạc (1545 – 1592) và Trịnh – Nguyễn (1627
– 1672) đã phá vỡ trật tự mà xã hội trước đây từng gây dựng. Đất nước có
sự ngăn cách, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Hậu quả nặng nề đó kéo
dài và trở nên nghiêm trọng hơn khi mà triều Lê – Trịnh lại có những biểu
hiện suy thoái trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Càng về sau do vua
Lê “ nhu nhược cầu an, rủ áo chắp tay” để “chúa gánh cái lo, cịn mình
hưởng cái vui” thì xã tắc giang sơn đã chuyển dần sang tay nhà chúa. Chúa
Trịnh tìm mọi cách lấn át hồng tộc, thâu tóm quyền hành. Vua Lê chỉ cịn
là cái bóng hư vị. Mâu thuẫn giữa vua và chúa ngấm ngầm diễn ra. Sự
khủng hoảng khơng chỉ ở chúa Trịnh Đàng Ngồi mà cịn diễn ra với các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Chính sự thay đổi nhanh chóng của các triều
đại, đã kéo theo sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, tư tưởng ngày càng
trầm trọng trong mấy chục năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đặc
biệt, nó ảnh hưởng một cách sâu sắc đến vốn sống, tình cảm, quan niệm
sống, quan điểm thẩm mĩ của các nhà văn thời bấy giờ. Họ đã chú tâm ghi
chép “thực tế bể dâu”, “những điều trông thấy” trong từng trang sách.
Giai đoạn này, kí phát triển mạnh, đạt được thành tựu rực rỡ. Tác
phẩm mở đầu cho kí thế kỷ XVIII – XIX là Cơng dư tiệp kí của Vũ Phương
đề. Lần đầu tiên, trong văn xi tự sự Việt Nam xuất hiện một tác phẩm có
quy mô lớn tới 43 thiên, được người viết dùng thuật ngữ chỉ thể loại là kí.
Tiếp theo Trần Tiến viết Cát Xuyên tiệp bút, Trần Quý viết Tục công dư
tiệp kí. Trần Tiến viết tiếp hai tác phẩm kí khá đặc sắc là Tiên tướng công
11
niên phả lục và Trần Khiêm Đường niên phả lục. Thành công của hai tác
phẩm này là, tác giả đã tách tác phẩm của mình ra khỏi lối viết truyện. Thể
kí đã được Trần Quýnh đưa lên một bước phát triển mới. Tuy nhiên, tác
phẩm của ông vẫn chưa cắt dứt mối dây ràng buộc với văn học chức năng.
Phải đến Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, hạn chế này mới được khắc
phục. “Thượng kinh kí sự là tác phẩm kí nghệ thuật đích thực đầu tiên của
Việt Nam” [27, 69]. Nó là đỉnh cao, thể hiện sự hồn thiện của kí thời trung
đại trong nền văn học dân tộc. Tác phẩm của Lê Hữu Trác chẳng có chút
vấn vương đến văn học chức năng. Tác giả đã kết hợp nhiều bút pháp nghệ
thuật trong tác phẩm của mình: du kí, nhật kí, hồi kí, kí phong cảnh, kí
người, kí vật…Sau Thượng kinh kí sự, Bắc hành tùng kí của Lê Quýnh ra
đời. “Sự độc đáo của tác phẩm là, tác giả đã phản ánh chân thật cuộc sống
lưu vong của vua tôi Lê Chiêu Thống, đặc biệt là đời sống ngục tù cùng
những thủ đoạn hiểm độc của nhà Thanh” [27, 72]. Nếu như những tác giả
trước mở ra lối viết kí dài hơi , thì Phạm Đình Hổ “mở ra lối kí đa dạng về
bút pháp” [27, 72]. Ơng đã viết bốn tác phẩm kí: Vũ trung tuỳ bút, Tang
thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án), Châu Phong tạp thảo và
Hành tại diện đối kí với bốn thể tài khác nhau: tuỳ bút, ngẫu lục, tạp thảo
và kí.
Như vậy, ở giai đoạn thứ ba, kí đạt tới đỉnh cao với nhiều tác phẩm
mẫu mực.
1.1.4. Giai đoạn bốn: nửa cuối thế kỷ XIX.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI, thế giới bước sang giai đoạn phát triển của
nền kinh tế hàng hoá. Chủ nghĩa tư bản châu Âu bắt đầu tìm kiếm thuộc địa
bằng con đường xâm lược. Trong bối cảnh chung đó, năm 1858, Pháp
chính thức nổ súng xâm lược nước ta. Xã hội Việt nam trở thành xã hội
thực dân nửa phong kiến. Văn học chịu ảnh hưởng rõ nét của lịch sử.
12
Nếu ở giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, kí đạt đến độ
viên mãn, thì nửa cuối thế kỷ XIX, nó rơi vào bế tắc. Thể kí đi theo hai
hướng. Hướng thứ nhất, tiếp tục truyền thống viết kí bằng chữ Hán. Đại
diện là Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Nguỵ Khắc Đản với Giá Viên
biệt lục ghi lại hành trình từ Huế xuống Gia Định, từ Gia Định đến Tân
Gia Ba, Mã Lai; rồi từ Mã Lai qua kênh đào Xuyê đến Ai Cập rồi vào nước
Pháp; sau đó từ Pháp đến Tây Ban Nha đi Italia. Hơn chín tháng ở Tây Âu,
họ được sống giữa những trung tâm phát triển nhất của Chủ nghĩa Tư bản:
Julông, Mácxây, Pari, Cairô…để xem xét, khảo sát phương Tây về kinh tế,
văn hóa, xã hội, khoa học kĩ thuật. Chỉ có điều Giá Viên biệt lục viết ra để
trình lên nhà vua. Bởi thế, tác phẩm trở thành biên bản, tác giả trở thành
thư kí. “Và vì vậy, Giá Viên biệt lục quay lại với hình thức văn học chức
năng. Hình thức ấy mâu thuẫn với nội dung. Giá Viên biệt lục báo hiệu sự
bế tắc của thể kí” [25,457]. Sau Phạm Phú Thứ và nhóm tác giả của Giá
Viên biệt lục là các tác giả kí cuối cùng của thế kỷ XIX: Đặng Huy Trứ,
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Họ tận mắt chứng kiến cuộc sống
của người Việt “ từ năm Mậu Ngọ 1858 đến nay, lũ lụt, hạn hán, bão tố,
hồng trùng, binh đao, tật dịch, chi phí ngày càng nhiều, tài chính ngày
càng thiếu hụt. Ba tỉnh Gia Định, Biên Hồ, Định Tường ở Nam Kì là
những nơi tài nguyên nhiều, đất đai rộng thì đã bị bọn Phú Lãng Sa chiếm
đóng…” [Dẫn theo 20,22]. Tác phẩm của Đặng Huy Trứ có nội dung sâu
sắc, mang tính chất hùng biện, nhưng thiên về hình thức nghị luận. Kí của
Nguyển Tường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch lại ngả hẳn sang điều trần và kế
sách. Thể kí càng rơi vào bế tắc.
Hướng thứ hai, kí viết bằng chữ quốc ngữ hiện đại. Tác phẩm
Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi 1876 do Trương Vĩnh Kí viết đánh dấu bước
chuyển của kí. Từ kí trung đại chuyển sang loại hình kí hiện đại. Trước thời
cuộc mới, kí trung đại kết thúc vai trị lịch sử của mình và nhường chỗ cho
nền văn học hiện đại.
13
Tóm lại, qua mười thế kỷ (X – XIX), ta thấy được quá trình hình
thành, vận động và phát triển của kí trung đại. Từ chỗ nó cịn là văn học
chức năng đã trở thành một loại hình nghệ thuật với nhiều thành tựu rực rỡ.
Bên cạnh loại hình truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi, kí đã góp phần
tạo nên diện mạo hoàn chỉnh cho nền văn học trung đại Việt Nam.
Như trên đã khẳng định, Vũ trung tuỳ bút (Phạm Đình Hổ) là tác
phẩm kí ra đời vào giai đoạn thứ ba trong tiến trình kí trung đại. Hầu hết,
các nhà nghiên cứu đều có ý kiến chung như vậy. Và thực sự, Vũ trung tuỳ
bút là một tác phẩm tiêu biểu, có giá trị trong giai đoạn văn học có bước
nhảy vọt.
1.2. Giới thiệu về tác giả Phạm Đình Hổ và tác phẩm Vũ trung
tuỳ bút
1.2.1.Tác giả Phạm Đình Hổ.
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), tự Tùng Niên, hoặc Bỉnh Trực, hiệu
Đông Dã Tiều. Ông là người làng Đan Loan, huyện Đường An, Hải Dương
( nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) sau dời ra ở phường Thái Cực,
huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, Thăng Long (nay thuộc nội thành Hà
Nội).
Phạm Đình Hổ là con một ông quan đại thần, tư chất thông minh,
được học hành từ nhỏ. Lên chín tuổi, Phạm Đình Hổ đã đọc sách Hán Thư.
Nhưng đến năm mười ba tuổi, cha ơng qua đời, nên việc học hành có phần
bị ngưng lại. Ơng có học ở trường “Quốc Tử Giám”, đi thi đậu sinh đồ ( tú
tài ). Thế rồi, nhiều biến cố lịch sử đã dồn dập xảy ra: Tây Sơn lên thay nhà
Lê, họ Trịnh bị diệt vong. Phạm Đình Hổ đều khơng làm quan, mà ở nhà
dạy học. Đến năm 1821, Minh Mệnh tuần du Bắc Hà, có xuống chiếu cầu
sách hay. Phạm Đình Hổ đem dâng một số sách đã viết, được nhà vua chú
ý, cho làm chức Hành tẩu, rồi cất nhắc lên làm Tế tửu Quốc Tử Giám, kiêm
Thị giảng học sĩ. Đối với một tú tài, được giữ chức vụ ấy kể ra cũng đã là
14
một sự biệt đãi. Tuy vậy, chỉ một thời gian ngắn, ơng lấy cớ dưỡng bệnh để
nghỉ. Ơng mất năm 1839.
Phạm Đình Hổ làm rất nhiều sách, được chia làm ba loại.
Loại điển lệ có Lê triều hội điển (chia làm 6 bộ, chép tường điển lệ
về cuối đời Lê) và Bang giao điển lệ (phép tắc về việc giao thiệp nước này
nước nọ).
Loại địa lí có An Nam chí, Ơ Châu lục, Kiến khơn nhất lãm, bắt đầu
trích lục các bộ Nhất thống chí đời Thanh rồi đến bản đồ các đường đi ở
nước Nam, Ai Lao sứ trình (Đường đi Ai Lao).
Tạp loại có Hi kinh trắc lãi ( Bàn về kinh Dịch), Nhật dụng thường
đàm (Sách dạy những chữ nho hàng ngày dùng đến khi nói chuyện
thường).
Về sáng tác văn học, ông có các tập thơ Đơng dã học ngơn thi tập;
Tùng, cúc, trúc, mai tứ hữu. Ngồi thơ, Phạm Đình Hổ cịn có bốn tập kí
Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án), Châu
Phong tạp thảo và Hành tại diện đối kí. Bốn tác phẩm trên viết bằng bốn
thể tài khác nhau: tuỳ bút, ngẫu lục, tạp thảo và kí.
Phạm Đình Hổ sáng tác từ những năm dưới thời Tây Sơn, nhưng giai
đoạn chủ yếu là thời nhà Nguyễn. Qua các sáng tác, ơng đã “khiến cho
người đọc có thể hiểu sâu thêm phần nào một giai đoạn lịch sử đầy sử biến
bể dâu”[25, 418]. Vì vậy, tác phẩm của ông là những tài liệu quý giá để thế
hệ đời sau khảo cứu về lịch sử, địa lí, điển lễ, phong tục về cuối đời Lê.
Đằng sau bức tranh xã hội mà tác giả tái hiện thấm đượm nỗi buồn khôn
nguôi trước cảnh ngộ éo le, thất thế; nhưng điểm xuyết trong một số tác
phẩm đã nói lên được niềm lạc quan, vui tươi.
Nói đến sự nghiệp sáng tác của Phạm Đình Hổ gợi cho chúng ta nhớ
đến một câu chuyện trong Tự thuật – Vũ trung tuỳ bút.
“Bà bảo mẫu họ Hoàng thường hỏi ta: “Về sau có chí muốn gì?”
Ta nói: “Làm người con trai phải lập thân hành đạo, đó là phận sự của
15
mình rồi; khơng phải nói nữa. Sau này, trưởng thành mà được lấy văn thơ
nổi tiếng đời để cho người ta biết là con cháu nhà nọ nhà kia thì đó chính
là chí muốn của tơi vậy” [14,9].
Quả thật, Phạm Đình Hổ đã thực hiện được chí nguyện lớn lao và
đẹp đẽ của đời mình.
1.2.2. Tác phẩm Vũ trung tuỳ bút.
Trong quá trình vận động của nền văn xi tự sự (thế kỷ X – XIX)
thì kinh nghiệm nghệ thuật được tích luỹ. Sang thế kỷ XVIII, văn xi tự
sự đạt tới độ chín muồi và gặp mơi trường xã hội thích hợp nên đã đơm hoa
kết trái. Đó là bước nhảy vọt lớn nhất – nhảy vọt Tự thân của q trình văn
học. Nó khơng cịn gắn với văn học dân gian, văn học chức năng; cũng
không dừng lại ở thể truyền kì, mà xuất hiện các tác phẩm kí và tiểu thuyết
chương hồi. Nó chứng tỏ sự phát triển trong trình độ nhận thức, trong tư
duy của con người. Vũ trung tuỳ bút là một tác phẩm tiêu biểu của kí giai
đoạn này. Nó góp phần tạo nên sự phong phú văn học giai đoạn từ XVIII
đến đầu XIX - giai đoạn văn xuôi tự sự phát triển rưc rỡ nhất trong nền văn
học trung đại.
Vũ trung tuỳ bút là tác phẩm kí viết bằng chữ Hán. Theo lời giới
thiệu của Lâm Giang trong Vũ trung tuỳ bút (2001), NXB Văn học, Hà Nội
thì tập sách Vũ trung tuỳ bút được phân chia thành hai quyển: Quyển
thượng có 38 đề mục, quyển hạ có 52 đề mục. Tác phẩm này hiện cịn 5 dị
bản, với 5 kí hiệu thư viện khác nhau, lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu
Hán Nôm (4 bản) và Thư viện Quốc gia (1 bản). Sau khi so sánh đối chiếu,
các nhà nghiên cứu đều cho rằng: sự ghi chép giữa các bản đều khá thống
nhất,các đề đề mục cũng sắp xếp theo trật tự như nhau, sự sai lệch về từ
ngữ không đáng kể. Đây là cơ sở thuận lợi cho các nhà biên dịch dịch tác
phẩm ra tiếng Việt.
Vũ trung tuỳ bút lần đầu tiên được Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến
dịch ra tiếng Việt,đăng tải trên Tạp chí Nam Phong từ số 121 đến 126 trong
16
khoảng thời gian từ tháng 9 năm 1927 đến tháng 2 năm 1928. Tiếp đó, năm
1972, NXB Văn học cho in thành sách nguyên văn bản dịch của Nguyễn
Hữu Tiến, với lời giới thiệu của Trương Chính. Đến 1989, NXB Trẻ thuộc
hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh tái bản sau
khi Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú thích. Để phục vụ cho đề tài
“Vũ trung tuỳ bút” của Phạm Đình Hổ với hiện thực lịch sử xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XVIII; chúng tôi chọn Vũ trung tuỳ bút, Nguyễn Hữu Tiến
dịch và chú thích, Lâm Giang giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 2001 làm
cứ liệu.
Theo bản dịch trên, Vũ trung tuỳ bút gồm 90 bài văn ngắn (kể cả bài
Tự thuật) , mỗi bài chép một đề mục. Việc phân nhóm cho tác phẩm kí này
cũng là một vấn đề phức tạp.Dựa trên những tiêu chí nhất định, các nhà phê
bình nghiên cứu có cách phân chia riêng.
Nguyễn Lộc trong Lời bạt in sau sách Vũ trung tùy bút do NXB Trẻ
và Hội nghiên cứu giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm
1989, phân Vũ trung tuỳ bút ra làm bốn loại: ghi chép những việc xảy ra
trong xã hội thời bấy giờ; bàn về các thứ lễ( lễ, tệ tục, thi cử, phong tục, âm
nhạc, chữ viết); viết về nhân vật lịch sử, di tích lịch sử; một số sự vật linh
tinh khác.
Trong Việt Nam văn học sử yếu, NXB Tổng hợp Đồng Tháp,1993
(tái bản) Dương Quảng Hàm đã chia tác phẩm ra làm nhiều loại; tiểu truyện
các bậc danh nhân ( Phạm Ngũ Lão, Phạm Trấn, Đỗ Uông, Lê Lợi, Nhà Họ
Nguyễn ở Tiên Điền…); loại ghi chép các cuộc du lãm, những nơi thắng
cảnh ( Cảnh chùa Sơn Tây, Cảnh chùa Đế Thích…); ghi chép các việc xảy
ra về cuối đời Lê ( Chuyện cũ trong Phủ chúa Trịnh, Cuộc bình văn trong
nhà Giám, Các việc tai dị, Các điềm ghở…); khảo cứu về duyên cách địa
lý( Thay đổi địa danh, Xứ Hải Dương, Tên huyện Đường An, Tên làng
Châu Khê…); khảo cứu về học thuật (các thể văn, các lối chữ, âm nhạc,
đàn, y học); khảo cứu về lễ nghi(lễ đội mũ, tang, tế, lễ tế giao…);khảo cứu
17
về điển lễ (khoa cử, phép thi, quan chức…). Cách phân chia này tương đối
cụ thể, dựa trên tiêu chí nội dung được phản ánh trong tác phẩm.
Phạm Thế Ngũ trong cơng trình nghiên cứu Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên (tập 1), NXB Đồng Tháp (tái bản),1996 cũng đồng tình
với cách phân chia như của Dương Quảng Hàm [27,301-302].
Theo Lâm Giang trong Giới thiệu văn bản (Vũ trung tuỳ bút, NXB
Văn học, Hà Nội, 2001), Vũ trung tuỳ bút được chia làm bốn nhóm: Nhóm
những bài bút kí được ghi chép những điều “mắt thấy tai nghe”, nhóm
những bài bút kí được ghi theo trí nhớ, nhóm những bài bút kí được ghi
theo lời kể của người khác, nhóm những bài bút kí được viết qua khảo cứu
sách vở[17, 6].
Cuối cùng, trong Từ điển văn học (bộ mới),NXB Thế giới(2004) do
Nguyễn Phương Chi chủ biên, mục Vũ trung tùy bút cũng đã phân ra bốn
loại nhưng khác hơn trên. Đó là: một phần lớn sách dành cho các bài
nghiên cứu phong tục và các biến thiên của nó qua các thời đại. Ở phần này
tác giả đã phê phán một cách nghiêm khắc việc thờ cúng nhảm nhí (Thần
trẻ con, Miếu bà chúa Ngựa) cũng như nhiều hủ tục cưới xin, ma chay,
đình đám khác. Thơng qua đó, tác phẩm phản ánh được thực trạng thối nát
của xã hội phong kiến đương thời và sự sụp đổ tất yếu của thể chế xã hội
đó. Một số những mẩu kí sự hồi ức trực tiếp phản ánh hiện thực xã hội
đàng ngoài thời Lê mạt. Ở một số truyện khác tác giả miêu tả và thưởng
ngoạn thiên nhiên với con mắt nhà nghệ sĩ. Đồng thời, ở một số truyện
Phạm Đình Hổ cịn phân tích một số hiện tượng văn học, tìm hiểu đặc điểm
của văn học Việt Nam ở từng thời đại cũng như sự phát triển của các thể tài
văn học [29, 2037].
Qua việc phân loại, phân nhóm trên chứng tỏ Vũ trung tuỳ bút là một
tác phẩm viết về nhiều đề tài khác nhau. Và đây chính là tài liệu quý giá, để
ngày nay các nhà nghiên cứu có thể khảo cứu về lịch sử, địa lý, điển lễ,
phong tục…cuối đời Lê. Đồng thời, Vũ trung tuỳ bút cũng là minh chứng
18
cho sự hiểu biết phong phú, sâu rộng của Phạm Đình Hổ về văn hố, đất
nước; những nỗi niềm tâm sự về nhân tình thế thái, về cuộc đời của một
nhà nho mực thước. Trong những cách phân chia trên, chúng tơi đồng tình
hơn cả với cách chia của Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử
yếu, bởi nó phục vụ đắc lực cho đề tài nghiên cứu ở khoá luận này.
Một điểm đáng chú ý khi chúng ta tìm hiểu tác phẩm này, chính là
tiêu đề của nó. Vũ trung tuỳ bút – một cái tên đầy sức gợi, sức lan toả sâu
xa. Vũ trung tuỳ bút được hiểu là “ tuỳ bút viết trong mưa”, hay có người
dịch là “theo ngọn bút viết trong khi mưa”. Mưa ở đây có thể là một hiện
tượng có thật, nhưng cũng có thể là hình ảnh mang tính chất tượng trưng –
tượng trưng cho một xã hội loạn lạc đau thương. Nhan đề tác phẩm đã gửi
gắm bao niềm xót xa thầm kín. Người đọc không khỏi bâng khuâng xao
động. Chỉ với nhan đề, bức tranh hiện thực của xã hội đương thời đã hiện
lên trong tâm trí người đọc.
Đi sâu vào tìm hiểu, chúng tơi thấy Vũ trung tuỳ bút đã tái hiện một
cách sinh động, hấp dẫn hiện thực đen tối lịch sử nước ta vào cuối thế kỷ
XVIII, đồng thời cung cấp những kiến thức về văn hoá truyền thống, về
phong tục, địa lý, những danh lam thắng cảnh. Lối ghi chép rất thoải mái,
tự nhiên, nhưng chân thực, tỉ mỉ, không nhàm chán, xen kẽ những lời bình
luận ngắn gọn đầy cảm xúc, đơi khi rất kín đáo của tác giả càng làm tăng
thêm sức hấp dẫn cho Vũ trung tuỳ bút.
Trên đây, là những nét chính, cơ bản, khái quát về tác phẩm Vũ
trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ. Chúng ta có thể khẳng định rằng, đây là
tác phẩm kí tiêu biểu trong văn học trung đại. Nói tới kí trung đại, người ta
không thể không nhắc tới cái tên Vũ trung tuỳ bút. Tuy nhiên, ở khố luận
này, chúng tơi chỉ bàn đến phương diện tác phẩm: hiện thực lịch sử xã hội
Việt Nam cuối thế kỷ XVIII được phản ánh trong đó.
1.2.3.Vấn đề thể loại của Vũ trung tuỳ bút.
19
Có thể nói rằng, thể loại là một trong những phạm trù cơ bản nhất
của sáng tác, cũng như tiếp nhận văn học. Khơng có một tác phẩm văn học
nào lại khơng thuộc về một loại thể dưới dạng một thể tài nhất định nào đó.
Người nghệ sĩ bắt buộc phải lựa chọn một phương thức, một cách thức với
một dạng thức cấu trúc – tổ chức ngôn từ nhất định khi muốn chiếm lĩnh
hiện thực cuộc sống. Hiện thực cuộc sống là phong phú, là bề bộn, là đa
chiều. Chính vì thế, sự chiếm lĩnh của nhà văn cũng phải phù hợp, tinh tế.
Đến lượt người tiếp nhận - có thể là học sinh, sinh viên học tập; giáo viên
giảng dạy, người làm cơng tác nghiên cứu phê bình- thể loại tác phẩm
chính là “đường dẫn” để người ta lý giải, giải mã, tìm hiểu tồn bộ chiều
sâu bên trong của tác phẩm…Đối với Vũ trung tuỳ bút cũng vậy, muốn tìm
hiểu phương diện nào của tác phẩm, chúng ta cũng cần phải xác định thể
loại của nó. Đứng ở góc độ thể loại, độc giả sẽ thâm nhập sâu vào những
giá trị đích thực mà nhà văn thể hiện trong đó.
“Thể loại văn học là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình của văn
học” [8, 39]. Thể loại là phương diện phân biệt rõ nét nhất hai loại hình văn
học trung đại và hiện đại. Qua hệ thống thể loại văn học trung đại, Phó giáo
sư Tiến sĩ Biện Minh Điền, trong bài nghiên cứu “Vấn đề phân loại thể
loại văn học trung đại Việt Nam” đã chỉ rõ ba đặc điểm khu biệt của hệ
thống thể loại văn học trung đại trong tương quan với hệ thống thể loại văn
học hiện đại. Thứ nhất, nó có sự “hỗn dung, bề bộn, chồng chéo hay có thể
gọi là đậm tính ngun hợp”[8, 39]. Thứ hai, “ nó mang tính quy phạm cao,
có đặc trưng thi pháp hết sức chặt chẽ” [8, 39]. Thứ ba, “ nhìn bề ngồi từ
bề mặt hình thức văn bản tác phẩm, dễ thấy tên thể loại được nêu ngay từ
đầu đề tác phẩm”[8, 39]. Trong khi đó, Vũ trung tuỳ bút là một tác phẩm
thuộc một thể loại nhất định trong hệ thống thể loại văn học trung đại. Tìm
hiểu, đưa ra vấn đề thể loại của Vũ trung tuỳ bút có nghĩa rằng, chúng tơi
đang làm rõ đặc trưng của một thể loại văn học trung đại. Tên thể loại của
Vũ trung tuỳ bút, có thể trùng với tên thể loại trong hệ thống thể loại văn
20