1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp (DN) muốn tồn tại, phát triển
cần xác định đúng đắn các nguồn lực kinh tế đang nắm giữ cũng như xu hướng phát
triển của thị trường từ đó đưa ra các các quyết định kinh doanh phù hợp đạt mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Một trong các điều kiện để DN thực hiện mục tiêu đó là
phát triển thị trường vốn một cách đáng tin cậy và bền vững. Hiện nay, DN có rất
nhiều lựa chọn nhằm mở rộng thị trường vốn trong đó thông qua thị trường chúng
khoán (TTCK) với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước là kênh thu
hút vốn tiềm năng, hiệu quả.
Yêu cầu về vốn thúc đẩy thị trường vốn không ngừng phát triển. Từ đó, sự ra
đời của TTCK là một tất yếu khách quan, khi các tổ chức tài chính trung gian đã có
trước đây không thể đảm nhận tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế. TTCK là
một thị trường cao cấp, hoạt động của thị trường có những yêu cầu rất khác biệt so
với các thị trường truyền thống như thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường lao
động …: Hàng hoá lưu thông, mua, bán trên thị trường là chứng khoán. Đây là các
công cụ chu chuyển vốn của nền kinh tế, những hoạt động kinh doanh trên TTCK
dựa vào thông tin là chính, lấy niềm tin làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của thị
trường. Trong các loại thông tin được cung cấp trên thị trường, thông tin kế toán
được cung cấp dưới dạng các báo cáo tài chính (BCTC) là những thông tin có vai
trò quan trọng đặc biệt: Nó có ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cung – cầu chứng
khoán, là động lực cho quyết định mua vào, bán ra của nhà đầu tư trên thị
trường sau khi phân tích các BCTC được công bố. Mặt khác đứng trên phương
diện vĩ mô nền kinh tế, những thông tin kế toán của các công ty niêm yết (CTNY)
cũng phần nào nói lên tình hình chung của toàn nền kinh tế, tình hình sức khoẻ tài
chính quốc gia.
Chính vì những lý do trên, yêu cầu đầu tiên của TTCK là phải xây dựng
được một hệ thống thông tin tài chính có chất lượng, một mạng lưới công bố thông
2
tin hiện đại và rộng khắp không chỉ nhằm công bố thông tin có chất lượng cao, mà
còn phải truyền thông tin nhanh chóng, kịp thời, đồng thời phải làm cho các chủ thể
hoạt động kinh doanh trên thị trường có quyền bình đẳng trong việc tiếp nhận thông
tin. Một trong những yếu tố góp phần đảm bảo thông tin công bố của các CTNY
được tin cậy là thông qua hoạt động kiểm toán BCTC của các CTNY.
TTCK Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự biến đổi mạnh mẽ cả về
số lượng và chất lượng. Với sự tham gia của rất nhiều CTNY và sự ra đời của hàng
trăm công ty chứng khoán đã thể hiện nhu cầu TTCK Việt Nam phát triển vượt bậc.
Cùng với sự phát triển trên, minh bạch hóa thông tin tài chính của các CTNY đang
trở thành nhu cầu cấp bách đối với những người sử dụng. Tuy nhiên độ tin cậy của
thông tin được cung cấp là điều quan tâm chủ yếu của các cơ quan quản lý nhà nước
và các nhà đầu tư. Để góp phần đảm bảo tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của
thông tin được công khai của các tổ chức niêm yết trên TTCK, Nhà nước Việt Nam
yêu cầu các CTNY trên TTCK Việt Nam phải bắt buộc kiểm toán BCTC hàng năm
do kiểm toán độc lập thực hiện.
Hiện nay, TTCK Việt Nam còn non trẻ và có rất nhiều biến động phức tạp: Số
lượng các CTNY ngày càng gia tăng, hàng hóa trên TTCK đa dạng, phong phú và
phức tạp. Bên cạnh đó, việc thu hút và mở rộng thị trường vốn của các CTNY còn
rất nhiều khó khăn do các nguyên nhân khách quan và chủ quan: Đối với Nhà nước,
việc quản lý vĩ mô đối với TTCK còn bất cập cả về chính sách và thực thi chính
sách; Các CTNY (người gọi vốn) chưa chủ động nắm bắt thị trường nhất là nhu cầu
và mong muốn của nhà đầu tư; Với các nhà đầu tư, việc phân tích thị trường và tình
hình tài chính của các CTNY chưa hiệu quả cùng với tâm lý dè dặt, e ngại đã cản
trở họ rất nhiều trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình. Nhằm đảm bảo
cho thị trường hoạt động lành mạnh, phát triển và đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm
của các chủ thể tham gia TTCK, việc cung cấp thông tin về tình hình tài chính của
các CTNY phải trung thực, hợp lý và hợp pháp là rất cấp bách. Tuy nhiên, hiện nay
việc kiểm toán BCTC của các CTNY còn nhiều bất cập cả về lý luận và thực tiễn.
Trong tình hình đó và với xu hướng hội nhập kinh tế thế giới nói chung và trong
3
lĩnh vực kiểm toán nói riêng càng đòi hỏi việc cụ thể hóa lý luận về kiểm toán
BCTC các CTNY và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán.
Nhận thức được tính cấp bách nêu trên, Tác giả mạnh dạn đi vào nghiên cứu
Luận án với Đề tài “ Hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của Luận án là nghiên cứu cụ thể hóa lý luận chung của kiểm toán
vào kiểm toán BCTC của các CTNY kết hợp với đánh giá thực trạng công tác kiểm
toán BCTC các CTNY trên TTCK Việt Nam để đưa ra một số giải pháp và kiến
nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam, góp
phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng kiểm toán nói chung tại Việt Nam hiện nay.
Luận án nghiên cứu cụ thể hóa lý luận chung về TTCK, hoạt động của CTNY
trên TTCK, Luận án nghiên cứu phát triển lý luận về kiểm toán BCTC của các
CTNY cùng kinh nghiệm của các nước có thể áp dụng vào Việt Nam. Trên cơ sở
đó, Luận án phân tích thực trạng kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt
Nam, đánh giá những mặt đã đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của những
hạn chế trong kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Từ nghiên
cứu lý luận và thực tế đó, Tác giả nêu ra các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận kiểm toán BCTC
của các DN từ đó đi sâu vào kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam.
CTNY được Tác giả nghiên cứu trong Đề tài là công ty cổ phần – công ty
được quyền phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra thị trường chứng khoán.
Về phạm vi nghiên cứu, Đề tài tập trung vào kiểm toán BCTC của các CTNY
(công ty cổ phần) trên TTCK do các công ty kiểm toán (CTKT) độc lập thực hiện
trong quan hệ với bộ phận kiểm toán nội bộ cùng việc quản lý rủi ro của các CTNY.
Trong mối quan hệ đó, Luận án cũng chú trọng đến quan hệ giữa kiểm toán BCTC
4
năm với việc soát xét BCTC giữa kỳ như một nội dung quan trọng trong quá trình
nghiên cứu trọng yếu và rủi ro kiểm toán BCTC. Tất nhiên, vấn đề tổ chức soát xét
BCTC cần được nghiên cứu qua một đề tài riêng. Trong quan hệ, Tác giả trực tiếp
khảo sát thực tế tại một số CTKT độc lập như: Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính
Kế toán và Kiểm toán (AASC), CTKT Deloitte Việt Nam; CTKT AVA, CTKT
Nhân Việt, CTKT và Tư vấn Sài Gòn (A&C) - Chi nhánh Hà Nội…
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Đề tài vận
dụng các phương pháp chung như thu nhận thông tin, tổng hợp, phân tích, thống kê
từ đó đưa ra luận cứ cơ bản về kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK. Kết
hợp lý luận với thực tiễn, kết hợp cả nghiên cứu định tính với nghiên cứu định
lượng. Cụ thể, trên cơ sở những kiến thức đã tích lũy được về kiểm toán BCTC của
các CTNY trên TTCK, kết hợp với việc tham khảo các tài liệu trong và ngoài nước
về lĩnh vực này, Tác giả phân tích và tổng hợp để hoàn thành lý luận chung về kiểm
toán BCTC của các CTNY trên TTCK.
Trong nghiên cứu thực tiễn, Đề tài vận dụng các phương pháp cụ thể như điều
tra, tổng hợp, phân tích thực trạng kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt
Nam. Từ nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đó, Luận án đề xuất các giải pháp hoàn
thiện kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Cụ thể, Luận án kết
hợp chọn mẫu chủ thể kiểm toán với khách thể kiểm toán: Với khách thể kiểm toán
(CTNY): Tác giả phân loại CTNY theo sàn chứng khoán và quy mô vốn của các
CTNY; Với chủ thể kiểm toán (CTKT): Tác giả chọn mẫu điển hình qua uy tín và
quy mô của các CTKT ( nhóm big four và nhóm còn lại).
Về phương pháp thu thập số liệu: Tác giả kết hợp nhiều phương pháp như trực
tiếp tham gia kiểm toán với một số CTKT tại một số khách hàng là các CTNY; phát
phiếu điều tra; phỏng vấn trực tiếp; sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp.
Về phương pháp phân tích số liệu: Tác giả tiến hành phân tích và xác định mức
độ ảnh hưởng của các nhân tố tới chất lượng kiểm toán để từ đó tạo cơ sở đề xuất giải
5
pháp hoàn thiện kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam. Để có dữ liệu
đó, Tác giả tiến hành điều tra và thu thập qua các phương pháp cụ thể sau:
Một là, tham gia thực hiện một số cuộc kiểm toán BCTC của các CTNY trên
TTCK Việt Nam tại một số CTKT độc lập của Việt Nam;
Hai là, khảo sát thực tế và nghiên cứu hồ sơ kiểm toán của một số CTKT;
Ba là, xây dựng “Bảng hỏi” và gửi tới các CTKT Việt Nam còn lại. Với mỗi
công ty, Tác giả gửi từ 2 đến 3 phiếu tới đối tượng thu thập ý kiến là thành viên ban
GĐ (GĐ) và kiểm toán viên (KTV). Việc sử dụng bảng hỏi này cho phép thu thập
được số liệu trên phạm vi rộng;
Bốn là, cùng với việc tìm hiểu thông tin qua “Bảng hỏi”, Tác giả trực tiếp gặp
và phỏng vấn các thành viên ban GĐ và KTV của các CTKT nhằm tìm hiểu sâu hơn
về thực tế kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam.
Sau khi đã có được thông tin về thực trạng kiểm toán BCTC của các CTNY
trên TTCK Việt Nam, Tác giả sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, phân
tích và tổng hợp để có được những đặc điểm chung và những điểm khác biệt. Từ
phân tích đó, Luận án khái quát những ưu điểm và nhược điểm nổi bật nhất trong
thực tế kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam.
Trên cơ sở tổng hợp lý luận chung, kết hợp với phân tích thực trạng kiểm toán
BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam, Tác giả đề xuất những giải pháp và
các kiến nghị hoàn thiện kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam
nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán, tạo niềm tin cho những người quan tâm, góp
phần đẩy mạnh sự phát triển của TTCK Việt Nam hiện nay.
5. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kiểm toán nói chung và
kiểm toán BCTC nói riêng: Một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về kiểm toán và kiểm
toán BCTC như: “Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập tại Việt Nam”
(Ngô Đức Long,2002); “Hoàn thiện tổ chức kiểm toán BCTC DN ở Việt Nam”
(Đoàn Thị Ngọc Trai, 2003); “Hoàn thiện kiểm toán BCTC các công ty xây lắp của
các tổ chức kiểm toán độc lập” (Phạm Tiến Hưng,2009); Trong các luận án đó: Tác
6
giả Ngô Đức Long đi vào nghiên cứu hoạt động kiểm toán độc lập nói chung để từ
đó nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập trong những thời kỳ mới phát triển
( Ngô Đức Long, 2002); Tác giả Đoàn Thị Ngọc Trai nghiên cứu khái quát chung
về kiểm toán BCTC trong các DN Việt Nam qua việc tiếp cận về qui trình kiểm
toán chung, về bộ máy kiểm toán, về tổ chức xây dựng chuẩn mực kiểm toán; Ngoài
ra, Tác giả cũng tìm hiểu cụ thể về qui trình kiểm toán tại CTKT Việt Nam
(VACO), Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC), CTKT
và Kế toán (AAC) và tại Kiểm toán Nhà nước; Tác giả Phạm Tiến Hưng nghiên cứu
chuyên sâu về kiểm toán BCTC các DN xây lắp tại Việt Nam qua lý luận và những
đặc điểm chung về BCTC các DN xây lắp cũng như qui trình kiểm toán, đối tượng
kiểm toán, phương pháp kiểm toán, kiểm soát chất lượng qua khảo sát thực tế tại
một số CTKT độc lập Việt Nam để từ đó tổng hợp thực tiễn về qui trình kiểm toán,
đối tượng kiểm toán, phương pháp kiểm toán và kiểm soát chất lượng.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu chung về kiểm toán BCTC đó, một số
luận án tiến sĩ khác nghiên cứu về TTCK và hệ thống kế toán DN như: Hoàn thiện
hệ thống kế toán DN trong điều kiện TTCK Việt Nam đang đi vào hoạt động
(Nguyễn Xuân Hưng, 2004); Phát triển TTCK Việt Nam đến 2020 (Trần Thị Mộng
Tuyết,2008); Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ kế toán, kiểm
toán - thực trạng và giải pháp (Trần Thị Kim Anh, 2008); Hoạt động tài chính của
các DN công nghiệp trên TTCK ở Việt Nam (Nguyễn Thị Loan,2009); Trong các
luận án đó: Tác giả Nguyễn Xuân Hưng qua việc nhìn nhận những bất cập trong hệ
thống kế toán DN khi TTCK đi vào hoạt động và phát triển để đề xuất giải pháp
hoàn thiện chúng; Tác giả Trần Thị Mộng Tuyết qua việc nghiên cứu về hoạt động
của TTCK và thực trạng phát triển TTCK Việt Nam hiện nay về chủ thể tham gia,
các chứng khoán niêm yết và thực trạng hoạt động của TTCK Việt Nam để đưa ra
định hướng cùng các giải pháp phát triển TTCK đến năm 2020; Tác giả Trần Thị
Kim Anh chủ yếu nghiên cứu về hệ thống pháp lý đối với hoạt động dịch vụ kế toán
và kiểm toán của Việt Nam hiện nay trong quan hệ với qui định chung của Tổ chức
Thương Mại quốc tế (WTO) để đáp ứng yêu cầu hội nhập về dịch vụ kế toán, kiểm
7
toán trong kinh tế quốc tế; Tác giả Nguyễn Thị Loan nghiên cứu về hoạt động tài
chính các DN công nghiệp thông qua việc phân tích về quá trình cổ phần hóa các
DN nhà nước, về phương pháp định giá, giá trị DN khi phát hành cổ phiếu ra công
chúng, về hoạt động phát hành chứng khoán, trả cổ tức, trái tức, về hoạt động đầu tư
kinh doanh chứng khoán của các DN công nghiệp trên TTCK Việt Nam từ đó vận
dụng mô hình SWOT để đánh giá hoạt động tài chính của các DN này trên TTCK.
Ngoài ra có một số bài báo trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả như :
Báo cáo kiểm toán CTNY đạt yêu cầu (Bùi Văn Mai – Mạnh Bôn, Báo Đầu tư
Chứng khoán Số 314, 2005); Từ góc nhìn kiểm toán – Thử tìm hiểu nguyên nhân
TTCK Việt Nam liên tục điều chỉnh giảm (Lê Quang Bính, Tạp chí Kiểm toán, Số
3,2008); Một số vấn đề công tác kế toán tài chính tại các CTNY trên TTCK Việt
Nam ( Hoàng Thị Việt Hà, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán Số 17, 2009)
hoặc một số đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước như: Giải pháp phát triển kiểm toán
độc lập ở Việt Nam đến năm 2015(GS.TS Ngô Thế Chi – CN Bùi Văn Mai, 2006);
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các CTKT độc lập ở Việt Nam hiện nay (PGS.TS
Đoàn Xuân Tiên,2008)… Các tác giả trên đã khái quát trên khía cạnh tổ chức kiểm
toán độc lập, kiểm toán BCTC các CTNY tại Việt Nam hiện nay.
Như vậy, có thể thấy chưa có nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam về kiểm toán
BCTC các CTNY trên TTCK Việt Nam. Vì vậy, việc đi sâu vào nghiên cứu về
kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK hiện nay mang tính thời sự cấp bách.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, Luận án gồm 3 chương sau:
Chương 1: Lý luận chung về kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán;
Chương 2: Thực trạng kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
8
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC
CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Thị trường chứng khoán và công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán với quản lý
1.1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán
TTCK là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn nhằm huy động những
nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho
các DN, các dự án đầu tư, các tổ chức kinh tế và nhà nước để phát triển sản xuất,
tăng cường kinh tế. Đây là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại
chứng khoán. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua
mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành và ở thị trường thứ cấp
khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Do
vậy, TTCK là nơi các chứng khoán được phát hành và trao đổi.
Về mặt pháp lý, theo Luật Sửa đổi, Bổ sung một số điều trong Luật Chứng
khoán Việt Nam: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng
khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử
bao gồm các loại: Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phần, chứng
quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán
hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các loại chứng khoán khác do
Bộ Tài chính quy định.” [60, tr.1].
Từ đó, TTCK có các đặc trưng sau:
Một là, TTCK xuất hiện khi có các chứng khoán được phát hành và trao đổi;
Hai là, TTCK là thị trường vốn trung và dài hạn;
Ba là, TTCK là thị trường mà ở đó không có sự can thiệp, độc đoán hay cưỡng chế
về giá cả . Giá mua bán trên TTCK hoàn toán do cung cầu quyết định;
9
Bốn là, TTCK là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa, thị trường này
chỉ tồn tại và phát triển trong cơ chế kinh tế thị trường.
Cấu trúc của TTCK được thể hiện qua Sơ đồ 01.1:
Thị trường tài chính
Thị trường tài chính ngắn hạn
( thị trường tiền tệ)
Thị trường tài chính dài hạn
( thị trường vốn)
Thị trường
tín dụng dài
hạn
Thị trường
cầm cố
Thị trường
chứng khoán
Sơ đồ 1.1: TTCK trong hệ thống thị trường tài chính
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
TTCK có nhiều loại nên cần phân loại TTCK theo từng tiêu chí khác nhau:
Thứ nhất, Căn cứ vào quá trình lưu thông chứng khoán, có thể phân chia
TTCK thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi phát
hành lần đầu chứng khoán ra công chúng, tạo vốn cho đơn vị phát hành và chỉ tạo ra
phương tiện huy động vốn. Thị trường thứ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua bán
những chứng khoán đã được phát hành thông qua thị trường sơ cấp. Những loại
chứng khoán này có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên TTCK thứ cấp với
nhiều giá cả cáo thấp khác nhau. Thị trường thứ cấp không ảnh hưởng tới nguồn
vốn cả các tổ chức đã phát hành ra chứng khoán đó nhưng nó giúp tạo nên một yếu
tố quan trọng cơ bản của việc mua bán chứng khoán, đó là tính thanh khoản.
Thứ hai, Căn cứ vào phương thức giao dịch, TTCK bao gồm thị trường tập
trung và thị trường phi tập trung. Thị trường tập trung là thị trường có tổ chức,
trong đó các chứng khoán giao dịch mua bán tại một nơi gọi là Sở Giao dịch chứng
10
khoán hay Trung tâm giao dịch chứng khoán. Thị trường phi tập trung bao gồm thị
trường không qua quầy (OTC) và thị trường giao dich “trao tay” (thị trường thứ ba)
Thứ ba, Căn cứ vào kỳ hạn giao dịch, TTCK bao gồm thị trường trao ngay,
thị trường giao dịch kỳ hạn và thị trường giao dịch tương lai. Thị trường trao ngay
là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán theo giá thỏa thuận khi ký
hợp đồng, nhưng thanh toán và giao nhận chứng khoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó
một hoặc hai ngày. Thị trường giao dịch kỳ hạn là thị trường mà việc giao dịch mua
bán chứng khoán theo giá thỏa thuận khi ký hợp đồng, nhưng thanh toán và giao
nhận chứng khoán sẽ diễn ra sau khoảng thời gian nhất định theo qui định trọng hợp
đồng. Thị trường giao dịch tương lai là thị trường mà việc mua bán chứng khoán
theo loại hợp đồng định sẵn, giá cả được thực hiện trong ngày giao dịch nhưng việc
thanh toán và giao nhận chứng khoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định trong
tương lai.
Như vậy, nói một cách khách quan, đầy đủ và phù hợp với hoạt động thực tế
của TTCK thì TTCK là nơi mà ở đó người ta mua bán, chuyển nhượng và trao đổi
chứng khoán với mục đích kiếm lời.
1.1.2 Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (Tập 1), công ty là DN do nhiều thành viên
cùng góp vốn cùng chia lợi nhuận hoặc cùng chịu lỗ, tương ứng với phần vốn góp.
[29]. Theo Từ điển Luật học, công ty là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc
pháp nhân bằng một sự kiện pháp lí nhằm tiến hành các hoạt động để đạt được mục
tiêu chung nào đó. [66]
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, khái niệm về “công ty” được áp dụng không hoàn
toàn giống nhau. Ở Pháp, công ty (La socie’te’, La compagnie) được hiểu là “tổ
chức của những người góp chung vốn và chung hoạt động nhằm mang lại những lợi
ích hoặc lợi nhuận về kinh tế”[90]. Tại Mỹ, theo Luật Công ty của hầu hết các bang
ở Mỹ, công ty (company, corporation) được hiểu là một thực thể được hình thành
bởi một sự kiện pháp lý, được nhà nước (chính quyền bang) thừa nhận và cấp phép,
thành lập chủ yếu nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh [22, tr.6]. Tại Việt
11
Nam, Theo Điều 4, Luật DN của Việt Nam - năm 2005, công ty là các tổ chức kinh
tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của luật pháp nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh. [58]
Như vậy, công ty được hiểu là một tổ chức của một hoặc nhiều cá nhân, pháp
nhân tiến hành hoạt động kinh doanh theo luật pháp và mục tiêu chung.
Các loại hình công ty thường có những đặc điểm sau:
Một là, Công ty là sự liên kết của cá nhân hoặc pháp nhân. Kết quả của sự liên
kết này tạo ra một tổ chức được pháp luật thừa nhận;
Hai là, Việc hình thành công ty là một sự kiện pháp luật. Theo đó, sự kiện
được nảy sinh trong thực tế và được pháp luật làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt
các quan hệ pháp luật nhất định;
Ba là, Công ty phải có tên gọi riêng. Tên công ty được đặt theo các qui định cụ
thể của luật pháp từng quốc gia;
Bốn là, Công ty phải có tài sản do các chủ sở hữu đóng góp và các chủ sở hữu
có quyền đối với phần vốn góp của mình trong công ty. Đa phần các loại công ty
đều có sự độc lập giữa tài sản của công ty và các chủ sở hữu về quyền cũng như
nghĩa vụ. Tỷ lệ vốn góp của các chủ sở hữu trong công ty thường là căn cứ xác định
quyền hạn và trách nhiệm của họ trong công ty;
Năm là, Công ty phải tự chịu trách nhiệm về tài sản cũng như nghĩa vụ nợ phải
trả theo qui định từng quốc gia;
Sáu là, Mục tiêu chính của công ty là hoạt động kinh doanh với mục đích kiếm lời;
Tuy nhiên, tùy theo từng loại công ty khác nhau, những đặc điểm trên cũng
được thể hiện khác nhau. Theo Từ điển Luật học, Công ty cổ phần là công ty, trong
đó vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau, nhỏ nhất gọi là cổ phần [66].
Theo Điều 77 – Luật DN Việt Nam, công ty cổ phần là DN, trong đó: “Vốn điều lệ
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá
nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm
12
vi số vốn đã góp vào DN; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác”. [58]
Có rất nhiều loại công ty cổ phần. Tùy vào cơ cấu tổ chức có thể có: công
ty hoạt động riêng lẻ, độc lập và công ty hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh
doanh (mô hình công ty mẹ-công ty con). Công ty hoạt động theo mô hình tập
đoàn kinh doanh.
Đặc trưng cơ bản của công ty cổ phần:
Một là, Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh, chịu trách nhiệm trước các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của
công ty trong phạm vi giá trị tài sản của công ty;
Hai là, Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Công ty cổ phần phải có cổ phiếu phổ thông và có thể phát hành cổ phiếu ưu đãi các
loại như cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại, cổ phiếu ưu đãi biểu
quyết, cổ phiếu ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định. Cổ phần được chuyển
nhượng tự do, trừ cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng. Trong 3
năm đầu, kể từ ngày công ty được đăng kí kinh doanh cổ phần phổ thông của cổ
động sáng lập chỉ được chuyển nhượng cho người ngoài nếu được sự chấp thuận
của đại hội cổ đông;
Ba là, cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng tối thiểu là 3 và không
hạn chế số lượng tối đa;
Bốn là, công ty được quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn
trong công chúng.
Như vậy, công ty cổ phần là loại hình DN được xây dựng trên mối quan hệ về
đầu tư vốn giữa các cá nhân, các tổ chức với sự đa dạng của các chủ sở hữu và cùng
mục tiêu kinh doanh chung. Vì vậy, để đảm bảo sự công bằng giữa các chủ sở hữu
và công khai minh bạch các thông tin, nhu cầu kiểm toán nói chung và kiểm toán
BCTC nói riêng là rất cần thiết và có tác dụng thiết thực.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, sự ra đời của TTCK đã hình thành rất
nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia TTCK. Các chủ thể tham gia TTCK
13
tập trung thường bao gồm: Uỷ ban chứng khoán quốc gia; sở giao dịch chứng
khoán; các tổ chức phát hành chứng khoán; các nhà đầu tư chứng khoán; các định
chế tài chính trung gian.
Theo Từ điển Thuật ngữ thị trường chứng khoán Anh – Việt (Dictionary of
stock market), Nhà phát hành chứng khoán là thực thể pháp lý có quyền phát hành
và phân phối chứng khoán. [67]
Theo Luật Sửa đổi, Bổ sung một số điều trong Luật Chứng khoán Việt Nam, tổ
chức phát hành là tổ chức thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng. [60]
Như vậy, tổ chức phát hành là các tổ chức cần vốn thông qua TTCK. Tổ chức
phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của TTCK – trên TTCK.
Tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm: Chính phủ - phát hành tín phiếu kho
bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư; Chính quyền địa phương – phát hành trái
phiếu để tài trợ cho các dự án, nhu cầu chi tiêu của chính quyền địa phương; các
công ty cổ phần – phát hành cổ phiếu và trái phiếu của công ty; các doanh nghiệp
nhà nước (DNNN) và công ty TNHH – phát hành trái phiếu DN; Các quỹ đầu tư
chứng khoán và công ty quản lý quỹ - phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.
Các tổ chức phát hành chứng khoán tiến hành chào bán chứng khoán lần đầu
qua thị trường sơ cấp nhằm tăng vốn phục vụ cho việc tài trợ các dự án, mục tiêu
hoạt động của tổ chức phát hành. Sau đó, chứng khoán đã được phát hành được giao
dịch, mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp. Hình thức chào bán chứng khoán ra
công chúng bao gồm chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng, chào bán thêm
cổ phần hoặc quyền mua cổ phần ra công chúng và các hình thức khác. Chứng
khoán có thể được giao dịch trên thị trường giao dịch tập trung (thông qua Sở giao
dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập
trung. Các tổ chức phát hành tiến hành niêm yết chứng khoán là việc công bố chứng
khoán đủ tiêu chuẩn được giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung. Theo Điều 6
– Luật Chứng khoán Việt Nam, niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán
có đủ điều kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao
dịch chứng khoán. [59]
14
Theo Từ điển Thuật ngữ thị trường chứng khoán Anh – Việt (Dictionary of
stock market), CTNY là công ty có các cổ phần được ghi trên thị trường chính của
sở giao dịch chứng khoán. [67]
Như vậy, CTNY là một tổ chức phát hành chứng khoán trên TTCK tập
trung; là công ty cổ phần tiến hành phát hành chứng khoán trên TTCK tập trung
nhằm huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty; là công ty
có chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) được niêm yết trên sở giao dịch chứng
khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán.
CTNY được quyền phát hành chứng khoán dưới dạng cổ phiếu và trái phiếu ra
công chúng. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của CTNY. Trái phiếu là loại chứng
khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn
nợ của tổ chức phát hành.
Cổ phiếu gồm có hai loại cơ bản là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Cổ
phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất. Cổ phiếu này không có thời gian đáo
hạn, thể hiện quyền sở hữu vĩnh viễn đối với công ty. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu
thường chính là chủ sở hữu của công ty, có quyền tham gia kiểm soát và điều khiển
các công việc của công ty. Cổ phiếu thường không quy định mức cổ tức tối đa hay
tối thiểu mà cổ đông được nhận. Tỉ lệ cũng như hình thức chi trả cổ tức cho cổ đông
tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động và chính sách của công ty, do HĐQT quyết định.
Như vậy, thu nhập mà cổ phiếu thường mang lại cho cổ đông là thu nhập không cố
định. Đó có thể là mức lợi tức cao nhưng đồng nghĩa với việc chấp nhận mức rủi ro
cao. Khi công ty phải thanh lý tài sản, cổ đông thường chỉ được nhận những gì còn
lại sau khi công ty trang trải xong tất cả các nghĩa vụ như thuế, nợ và cổ phiếu ưu
đãi. Các công ty thường cố gắng duy trì tỉ lệ nợ/vốn cổ phần để giữ vững khả năng
thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỉ lệ này ở mức thấp, nếu cần vốn thì các
công ty thường lựa chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ mà không tăng vốn
cổ phần. Nếu tỉ lệ này ở mức cao, công ty phải tránh tăng thêm tỉ lệ nợ/vốn cổ phần
và chọn cách phát hành cổ phiếu. Thông thường nếu công ty dự kiến trong vài năm
15
tới lợi nhuận của công ty có thể tăng ổn định thì họ không muốn huy động vốn bằng
cách phát hành cổ phiếu thường mới bởi các cổ đông cũ muốn giành quyền kiểm
soát và quyền hưởng lợi nhuận. Cũng có trường hợp công ty phát hành thêm cổ
phiếu khi giá của cổ phiếu tăng trên TTCK. Giá cổ phiếu tăng lên là một dấu hiệu
có nhiều cơ hội đầu tư và mở rộng công ty. Cổ phiếu ưu đãi là công cụ tạo vốn
trung gian giữa cổ phiếu thường với trái phiếu. Trong điều kiện bình thường, cổ
đông ưu đãi sẽ nhận được lượng cổ tức cố định theo tỉ lệ ấn định. Trong trường hợp
công ty không có đủ lợi nhuận để trả theo tỉ lệ đó, công ty sẽ trả theo khả năng có
thể, và một khi cổ đông ưu đãi chưa được trả cổ tức thì cổ đông thường cũng chưa
được trả. Thông thường trong tổng số vốn huy động thì cổ phiếu ưu đãi chỉ chiếm
một tỉ trọng nhỏ. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi
lại tỏ ra thích hợp. Đó là khi công ty vừa muốn tăng VCSH, đồng thời lại không
muốn san sẻ quyền lãnh đạo. Tuy nhiên, khi tình hình tài chính của công ty đang
gặp khó khăn thì việc trả lãi thường xuyên và cố định cũng là điều bất lợi. Cổ phiếu
ưu đãi là công cụ tài trợ lưỡng tính (giữa cổ phiếu thường và trái phiếu). Hiếm khi
cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có quyền bỏ phiếu đầy đủ. Khi mà tình hình tài
chính của công ty gặp khó khăn thì công ty có thể hoãn trả lợi tức cho cổ phiếu ưu
đãi trong một thời gian nhất định. Nếu quá thời gian này, cổ đông của những cổ
phiếu đó có thể bỏ phiếu. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu
nhập DN, cổ tức không được tính vào chi phí hợp lý mà lấy từ lợi nhuận sau thuế.
Tuy nhiên, điều kiện ưu đãi của cổ phiếu ưu đãi đã làm giảm rủi ro, có thể tăng tính
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và giảm chi phí huy động vốn đối với nhà phát hành.
Như vậy, công ty sẽ phát hành cổ phiếu ưu đãi khi mà công ty muốn tăng VCSH,
chống lại được sự phá sản của công ty nhưng lại không muốn san sẻ quyền lãnh
đạo. Nói cách khác công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi khi sử dụng cổ phiếu thường
và trái phiếu là bất lợi.
Để trở thành CTNY trên TTCK cần phải có các tiêu chuẩn hay điều kiện
cụ thể tùy thuộc vào qui định của từng sở giao dịch trên từng quốc gia. Thông
16
thường, các CTNY cần đảm bảo cả hai loại tiêu chuẩn : tiêu chuẩn định tính và
tiêu chuẩn định lượng.
Nhóm tiêu chuẩn định tính: Triển vọng phát triển của tổ chức phát hành; tính
khả thi của phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt phát hành; nhận xét của
KTV về BCTC của công ty; lợi ích kinh tế mang lại của công ty đối với nền kinh tế
quốc dân; việc thực hiện công tác công bố thông tin;….
Nhóm tiêu chuẩn định lượng: Thời gian hoạt động - công ty phải có thời gian
hoạt động liên tục trong một số năm nhất định tính đến thời điểm niêm yết; quy mô
vốn - công ty cần có số vốn góp vốn cổ đông mức độ nhất định đủ lớn để tạo cơ sở
tiềm lực tài chính mạnh; phân phối quyền sở hữu cổ phần - công ty cần có số lượng
cổ đông nhất định để đảm bảo khả năng hoàn tệ của cổ phiếu được niêm yết; hiệu
quả hoạt động - công ty phải có lợi nhuận trong một số năm tính đến thời điểm niêm yết.
Cơ sở pháp lý đối với CTNY trên TTCK
Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào đăng
ký và giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung. Để được niêm yết trên thị trường,
công ty xin niêm yết phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Khi
đã có chứng khoán được niêm yết trên thị trường, CTNY cũng phải tuân thủ một số
yêu cầu như nghĩa vụ công bố thông tin, BCTC phải được kiểm toán… để đảm bảo
TTCK hoạt động hiệu quả. Tất cả những điều kiện, yêu cầu, quy định đó đối với
CTNY thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật như luật DN, luật chứng khoán, ngoài
ra còn có các văn bản liên quan đến các ngành nghề đặc thù của CTNY như luật bảo
hiểm xã hội…Cụ thể:
Một là, các sắc luật về DN là cơ sở pháp lý đảm bảo sự hoạt động của các DN
nói chung và CTNY nói riêng tuân thủ qui định;
Hai là, luật chứng khoán là văn bản pháp luật quy định những vấn đề chung
nhất về chứng khoán và TTCK, tạo khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của
TTCK. Luật chứng khoán có phạm vi điều chỉnh cả thị trường phát hành cũng như
thị trường giao dịch, đồng thời điều chỉnh hoạt động của các thành viên tham gia thị
17
trường tạo điều kiện cho thị trường phát triển nhanh và ổn định, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào TTCK;
Ba là, các sắc luật trong ngành nghề cụ thể của CTNY;
Bốn là, các văn bản pháp lý khác gồm các văn bản pháp quy khác mang tính
chất hướng dẫn, quy định chi tiết cụ thể hơn các nội dung trong luật DN, luật chứng
khoán hoặc những vấn đề mà các sắc luật khác chưa điều chỉnh.
Những lợi thế của niêm yết đối với các CTNY: Đối với các CTNY, khi chứng
khoán được chính thức niêm yết và giao dịch trên TTCK sẽ đem lại nhiều lợi thế, cụ thể:
Một là, dễ dàng huy động vốn, CTNY sẽ có sự tín nhiệm của các nhà đầu tư
hơn các công ty không niêm yết nên việc huy động vốn thuận lợi hơn;
Hai là, củng cố và nâng cao uy tín của công ty với công chứng và các đối tác
kinh doanh;
Ba là, nâng cao tính thanh khoản cho chứng khoán công ty: Khi chứng khoán
được niêm yết đồng nghĩa việc đạt được ưu tín đối với thị trường nên tính thanh
khoản nâng cao, phạm vi chấp nhận các quan hệ tài chính khác được mở rộng;
Bốn là, được hưởng ưu đãi của nhà nước: các CTNY có thể nhận được ưu đãi
về thị trường, về tín dụng, về thuế …từ phía nhà nước.
Những bất lợi của niêm yết đối với CTNY: Bên cạnh những lợi thế trên, các
CTNY khi tham gia vào TTCK phải chấp nhận những bất lợi sau:
Một là, Nộp phí niêm yết; Đây sẽ là khoản chi phí không nhỏ với các CTNY;
Hai là, Nghĩa vụ công khai; Các CTNY phải có nghĩa vụ cung cấp các thông
tin liên quan tới các hoạt động kinh doanh – tài chính của công ty đến các nhà đầu
tư trên thị trường dẫn đến những bí quyết, bí mật công nghệ, kinh nghiệm quản lý,
chiến lược kinh doanh bị ảnh hưởng đáng kể. Ngoài ra, việc công khai thông tin
cũng đòi hỏi trách nhiệm của công ty với nhà đầu tư cao hơn;
Ba là, Những cản trở trong việc sáp nhập, thâu tóm của công ty; Khi niêm yết,
quyền biểu quyết của các cổ đông chủ chốt sẽ chia sẻ cho các cổ đông khác và sẽ
gây trở ngại cho việc đưa ra các quyết định của các cổ đông chủ chốt.
18
Như vậy, đặc điểm của CTNY ảnh hưởng tới kiểm toán được xem xét trên
một số khía cạnh chủ yếu:
Thứ nhất, CTNY là loại công ty cổ phần, chịu trách nhiệm trước các khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi giá trị tài sản của công ty; Vốn điều lệ
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Các cổ đông là các tổ chức
và các cá nhân sở hữu cổ phần của công ty.
Thứ hai, CTNY được quyền phát hành chứng khoán dưới hai dạng là cổ phiếu
và trái phiếu ra công chúng; chứng khoán của CTNY được niêm yết tại sở giao dịch
chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán và việc mua bán, trao đổi trên
cơ sở qui luật cung cầu; Số lượng cổ đông của CTNY khá phức tạp về số lượng và
thay đổi theo từng thời điểm nên rất khó kiểm soát;
Thứ ba, việc huy động vốn của CTNY có thể được tiến hành theo nhiều hình
thức đa dạng và mang lại hiệu quả cao: thông qua vay vốn ngân hàng và TTCK;
Thứ tư, việc công khai hóa thông tin nói chung và thông tin tài chính nói riêng
của CTNY phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định về chế độ tài chính kế toán và quy
định của TTCK. Tùy thuộc quy định của từng sàn chứng khoán quốc gia, việc quy
định về nội dung thông tin công khai hóa, thời gian công khai của các CTNY sẽ có
những điểm cụ thể khác nhau nhưng thường có các nội dung sau: BCTC quý,
BCTC bán niên đã được soát xét bởi CTKT được chấp thuận, BCTC năm đã được
kiểm toán bởi CTKT được chấp thuận; giải trình về tình hình biến động lợi nhuận
bất thường; báo cáo về biến động vốn chủ sở hữu (khi tăng vốn điều lệ…); biên bản
họp đại hội đồng cổ đông, HĐQT, ban GĐ; các chiến lược, phương án kinh doanh
chủ yếu của CTNY; công bố các thông tin bất thường ảnh hưởng lớn đến hoạt động
kinh doanh của công ty (tùy thuộc từng quy định của sàn chứng khoán); công bố về
các giao dịch nội bộ, cổ đông chiến lược, người đại diện pháp luật, người được ủy
quyền công bố thông tin; công bố thông tin về quản trị công ty …
Thứ năm, khi niêm yết chứng khoán trên TTCK, số lượng và trình độ người
quan tâm đến thông tin tài chính của CTNY rất lớn và phức tạp: những người tham
19
gia mua bán chứng khoán sẽ phải xem xét, đánh giá và sử dụng thông tin tài chính
nhiều hơn, đa dạng hơn và phức tạp hơn.
Thứ sáu, hoạt động của CTNY sẽ được quản lý chặt chẽ từ nhiều hệ thống
pháp luật trong và ngoài công ty. Các CTNY phải xây dựng và thực hiện KSNB rất
chặt chẽ các hoạt động trong công ty để đảm bảo hiệu quả kinh doanh và kỳ vọng
của các cổ đông và các nhà đầu tư trên TTCK. Ngoài ra, CTNY còn phải chịu sự
kiểm soát rất chặt chẽ từ bên ngoài như từ UBCK, từ các sở giao dịch chứng khoán,
từ cơ quan thuế và các nhà đầu tư. Chính điều này tạo nên áp lực rất lớn trong quản
lý và hoạt động của CTNY và các nhà quản lý của công ty.
Thứ bảy, Đặc điểm hoạt động kinh doanh của các CTNY rất phức tạp và
phong phú. Các CTNY có thể tham gia vào nhiều loại hoạt động kinh doanh (mô
hình tập đoàn, tổng công ty) dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh, rủi ro trong
quản lý rất cao.
1.2 Lý luận chung về kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán
1.2.1 Đặc điểm chung kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán
1.2.1.1 Khái quát chung về kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán được hiểu chung là “ hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực
trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm
toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các KTV có trình độ nghiệp vụ tương
xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”. [62, tr.37]
Từ đó, có thể thấy rõ vai trò cơ bản của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường
là đảm bảo các thông tin đúng đắn, trung thực, khách quan giúp những người sử dụng
thông tin có niềm tin trong việc đưa ra các quyết định của mình. Ngoài ra, kiểm toán
góp phần hướng dẫn nghiệp vụ, củng cố nề nếp hoạt động và góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
20
Hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế thị trường phát triển rất đa dạng và
phong phú. Tùy theo từng tiêu chí phân loại cụ thể, kiểm toán được phân ra thành các
loại kiểm toán cụ thể khác nhau. Theo đối tượng cụ thể, kiểm toán có thể phân thành
kiểm toán (báo cáo) tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán liên kết; Theo lĩnh
vực cụ thể của kiểm toán kiểm toán có thể phân thành kiểm toán thông tin, kiểm
toán qui tắc (tuân thủ), kiểm toán hiệu năng và kiểm toán hiệu quả; Theo phương
pháp áp dụng trong kiểm toán, kiểm toán có thể phân thành kiểm toán chứng từ và
kiểm toán ngoài chứng từ; Theo quan hệ giữa chủ thể với khách thể kiểm toán, kiểm
toán có thể phân thành nội kiểm và ngoại kiểm; Theo phạm vi tiến hành kiểm toán,
kiểm toán có thể phân thành kiểm toán toàn diện và kiểm toán chọn điểm (điển
hình); Theo tính chu kỳ của kiểm toán, kiểm toán có thể phân thành kiểm toán
thường kỳ, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường (đột xuất); Theo quan hệ về
thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp vụ, kiểm toán có thể phân thành
kiểm toán trước, kiểm toán hiện hành và kiểm toán sau; Theo tổ chức bộ máy kiểm
toán, kiểm toán có thể phân thành kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm
toán nội bộ; Theo quan hệ pháp lý của kiểm toán, kiểm toán có thể phân thành kiểm
toán bắt buộc và kiểm toán tự nguyện; Theo tính chất và phạm vi của kiểm toán,
kiểm toán có thể phân thành kiểm toán ngân sách và tài sản công, kiểm toán dự án
và các công trình, kiểm toán các đơn vị dự toán….
Như vậy, kiểm toán BCTC là loại hình kiểm toán cụ thể khi phân loại theo đối
tượng kiểm toán cụ thể. Kiểm toán tài chính vẫn chứa đựng nhưng đặc trưng chung
của hoạt động kiểm toán như chức năng, chủ thể kiểm toán, khách thể kiểm toán...
Từ đó, có thể khái quát về kiểm toán tài chính như sau:
“Kiểm toán BCTC là xác minh và bày tỏ ý kiến về BCTC của các đơn vị do
các KTV có đủ năng lực và trình độ chuyên môn tương xứng thực hiện theo hệ
thống pháp lý có hiệu lực”.
Kiểm toán BCTC là loại hình kiểm toán cụ thể khi phân loại theo đối tượng
cụ thể nên cần nghiên cứu một số đặc trưng cơ bản sau:
21
Thứ nhất, đối tượng kiểm toán là hệ thống BCTC. BCTC là hệ thống báo
cáo bằng văn bản được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành phản
ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị. Cụ thể, các nguyên tắc
chung khi lập BCTC:
Một là, khái niệm DN hoạt động liên tục: BCTC phải được lập dựa trên giả
định DN hoạt động liên tục trong tương lai (nhà quản lý phải đánh giá và dự
đoán tối thiểu trong vòng 12 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính);
Hai là, khái niệm cơ sở dồn tích: Theo đó, các giao dịch và sự kiện được
ghi nhận theo thời điểm phát sinh, không căn cứ vào số thực thu, thực chi và
được ghi nhận vào sổ kế toán và BCTC của các kỳ kế toán liên quan;
Ba là, nguyên tắc nhất quán: Việc trình bày và phân loại các khoản mục
trong BCTC phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác trừ khi có thay
đổi đáng kể về mặt bản chất của các hoạt động;
Bốn là, nguyên tắc trọng yếu: Từng khoản mục trọng yếu phải được trình
bày riêng biệt trong BCTC. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải
trình bày riêng rẽ mà được tập hợp váo những khoản mục có cùng tính chất
hoặc chức năng;
Năm là, nguyên tắc bù trừ: Các khoản mục tài sản và nợ phải trả, doanh
thu và chi phí trình bày trên BCTC không được bù trừ trừ khi có chuẩn mực
kế toán khác qui định hoặc cho phép bù trừ;
Sáu là, nguyên tắc có thể so sánh được: Số liệu trên BCTC phải được
trình bày tương ứng với các thông tin kỳ trước để có thể so sánh được. Cụ thể,
các nguyên tắc chung khi lập BCTC:
Thứ hai, cách thức tiếp cận đối tượng kiểm toán nói chung trong kiểm toán BCTC
có thể tiếp cận theo khoản mục và tiếp cận theo chu trình. Tiếp cận theo khoản mục là
cách tiếp cận trực tiếp từng khoản mục hoặc nhóm khoản mục theo sự phân chia trong
22
BCTC. Tiếp cận theo chu trình là cách tiếp cận nhóm khoản mục theo mối quan hệ
giữa các khoản mục trong quá trình tuần hoàn vốn của DN. (Sơ đồ 1.2)
Vốn bằng tiền
Bán hàng và thu
tiền
Tiếp nhận và
hoàn trả
Mua hàng và
thanh toán
Tiền lương
và nhân viên
Hàng tồn kho
Sơ đồ 1.2. Các phần hành kiểm toán cơ bản của kiểm toán BCTC
(Nguồn: Giáo trình Kiểm toán tài chính – [63, tr.12])
Với mỗi loại đối tượng cụ thể trên (khoản mục hoặc chu trình), KTV tiếp cận
theo hai cách: tiếp cận theo hệ thống và tiếp cận theo rủi ro. Cách tiếp cận theo hệ
thống là cách tiếp cận truyền thống mang tính chuẩn tắc. Theo đó các KTV căn cứ
vào chuẩn mực với các trình tự, hướng dẫn cụ thể để thực hiện công việc kiểm toán.
Cách tiếp cận theo rủi ro là cách tiếp cận gắn với quản lý hiện đại theo rủi ro của
các hoạt động được kiểm toán (đối tượng kiểm toán cụ thể);
Thứ ba, phương pháp kiểm toán được sử dụng trong kiểm toán BCTC thường
là thử nghiệm cơ bản và thử nghiệm tuân thủ. Thử nghiệm cơ bản là phương pháp
rà soát lại các thông tin biểu hiện bằng tiền được phản ánh trên các bảng tổng hợp
trên cơ sở sử dụng cả phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ. Thử
nghiệm tuân thủ là phương pháp dựa vào kết quả của hệ thống KSNB khi hệ thông
này tồn tại bằng chứng có hiệu lực. Các thử nghiệm này được cụ thể hóa thành các
trắc nghiệm kiểm toán như trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm phân tích và trắc
nghiệm trực tiếp số dư.
Thứ tư, mục tiêu kiểm toán BCTC là " đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có
được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận,
có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía
cạnh trọng yếu hay không. Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được
23
kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất thông tin
tài chính của đơn vị ". [5]
Như vậy, kiểm toán BCTC gắn chặt với các mục tiêu về độ tin cậy của các
thông tin và mức tuân thủ các quy tắc hơn là tính hiệu quả của các hoạt động và hiệu
năng quản lý.
Thứ năm, cơ sở pháp lý đối với chủ thể kiểm toán
Một là, luật kiểm toán là cơ sở pháp lý cao nhất ở mỗi quốc gia về hoạt động
kiểm toán, tuy nhiên luật kiểm toán có thể được cụ thể hóa theo từng bộ máy: Luật
kiểm toán Nhà nước, luật kiểm toán độc lập... Luật kiểm toán độc lập hoặc luật kế
toán viên công chứng là văn bản có giá trị pháp lý cao quy định về nghề kiểm toán
độc lập, KTV hành nghề, điều kiện thành lập và hoạt động của CTKT. Luật cũng
quy định về hoạt động kiểm toán độc lập bao gồm quy trình kiểm toán, báo cáo
kiểm toán và hồ sơ kiểm toán. Cũng như cơ sở pháp lý đối với đối tượng kiểm toán
và khách thể kiểm toán, cơ sở pháp lý đối với chủ thể kiểm toán còn bao gồm nhiều
văn bản pháp quy khác hướng dẫn, quy định chi tiết hơn các vấn đề về kiểm toán
độc lập, nhưng không được trái với các quy định trong văn bản luật;
Hai là, hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA) và hệ thống chuẩn mực
kiểm toán được chấp nhận (GAAS) là những qui định mang tính hướng dẫn và yêu
cầu KTV phải tuân thủ khi tiến hành kiểm toán. Từ đó tùy từng quốc gia sẽ triển
khai hệ thống chuẩn mực kiểm toán của riêng từng quốc gia trên nền tảng qui định
quốc tế trên. Chuẩn mực kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về các nguyên
tắc và thủ tục kiểm toán làm cơ sở để KTV và DN kiểm toán thực hiện kiểm toán và
làm cơ sở kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán của
nhiều nước đã được xây dựng từ đầu thế kỷ 20 dưới một hình thức sơ khai là những
ấn phẩm hướng dẫn về các thủ tục kiểm toán do tổ chức nghề nghiệp ban hành. Đến
năm 1948, Hiệp hội Kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) ban hành các chuẩn
mực kiểm toán được chấp nhận phổ biến (GAAS). Sau đó, chuẩn mực kiểm toán
của các quốc gia khác cũng lần lượt ra đời như Úc (1951), Đức (1964), Pháp
(1971), Anh (1980)…;
24
Ba là, các quy tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán, các quy tắc này đòi hỏi các
KTV khi thực hiện hoạt động kiểm toán phải đảm bảo yêu cầu về đạo đức nghề
nghiệp như trung thực, cẩn trọng và độc lập. Sau này, trong quá trình hoạt động và
phát triển mỗi quốc gia còn xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cụ thể và các
vản bản pháp lý khác; Đặc biệt là Đạo luật Sarbanes-Oxley ra đời năm 2002 tại Mỹ,
sau sau bài học rất lớn trong nghề nghiệp – CTKT Authur Andenxen ( trong nhóm
big five về kiểm toán) phá sản sau những dính líu đến việc một số DN Mỹ trốn thuế.
Đây là những quy định, hướng dẫn về nguyên tắc, các tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp làm cơ sở để đánh giá đạo đức nghề nghiệp KTV và CTKT;
Bốn là, các văn bản qui định cụ thể như hướng dẫn, qui trình hoặc các cẩm
nang hướng dẫn nghề nghiệp kiểm toán nhằm giúp cho người thực hiện hiểu rõ và
cụ thể hơn các qui định nêu trên.
1.2.1.2 Đối tượng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán
BCTC là báo cáo phản ánh các thông tin kinh tế tài chính cơ bản của một đơn
vị trong một kỳ nhất định và được lập theo các nguyên tắc, chuẩn mực chung.
BCTC cung cấp cho những người sử dụng những thông tin hữu ích về tình hình
kinh tế, tài chính giúp cho họ đưa ra các quyết định đúng đắn trong kinh doanh.
Thông qua BCTC, những người sử dụng đánh giá về tình hình tài sản, nguồn vốn,
doanh thu, chi phí, lợi nhuận, dòng tiền luân chuyển, khả năng sinh lời…
Cơ sở pháp lý đối với BCTC của các CTNY
BCTC là bản báo cáo tổng hợp về tình hình tài chính của DN, được lập trên cơ
sở các quy định, chuẩn mực, chế độ kế toán. Bởi vậy, BCTC chịu sự chi phối trực
tiếp của hệ thống các văn bản pháp luật về kế toán từ sắc luật về kế toán qua các
nghị định và thông tư hướng dẫn, hệ thống chuẩn mực kế toán và các văn bản pháp lý
khác. Việc lập và trình bày BCTC của các CTNY thường tuân thủ các qui định sau:
Một là, các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao quy định những vấn đề
chung nhất của kế toán như nội dung công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán,…
nhằm điều chỉnh hoạt động kế toán của mọi thành phần kinh tế và mọi lĩnh vực hoạt
25
động. Ngoài sắc luật cụ thể ra, còn có những văn bản dưới luật quy định chi tiết hơn
cho những điều khoản trong luật;
Hai là, Chuẩn mực kế toán hoặc chuẩn mực BCTC Quốc tế (IFRS) (bao gồm
cả chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS) đã ban hành và còn hiệu lực) gồm những quy
định do Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) nghiên cứu và ban hành làm
cơ sở cho việc lập BCTC và giải thích các thông tin trình bày trên BCTC. Chuẩn
mực BCTC Quốc tế quy định việc ghi nhận, xác định giá trị và trình bày thông tin
về các giao dịch hay sự kiện quan trọng trên BCTC cho mục đích chung cũng như
trong các ngành cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy vào đặc điểm kinh tế, có những chuẩn
mực kế toán của riêng mình hoặc áp dụng Chuẩn mực BCTC Quốc tế;
Ba là, các văn bản qui định cụ thể như qui trình, hướng dẫn hoặc các cẩm nang
hướng dẫn nghề nghiệp kế toán giúp người thực hiện hiểu rõ và cụ thể hơn các qui
định trên.
BCTC của các CTNY vẫn phải đáp ứng nhưng yêu cầu cơ bản của BCTC
DN thông thường về nguyên tắc tuân thủ, về cách lập, về cơ sở lập, về mẫu biểu, về
loại báo cáo, về thời gian nộp báo cáo…
Bên cạnh đó, những đặc điểm hoạt động của CTNY dẫn tới những đặc điểm
riêng BCTC của các CTNY:
Một là, số lượng và trình độ của những người quan tâm đến thông tin trên
BCTC của các CTNY rất đa dạng và phức tạp dẫn đến độ tin cậy BCTC của các
CTNY rất cao;
Hai là, do CTNY tham gia nhiều các ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh khác
nhau nên các thông tin trình bày trên BCTC cũng như kết cấu các bộ phận đặc thù
trên BCTC của các CTNY khác nhau theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh đó;
Ba là, CTNY là công ty cổ phần niêm yết chứng khoán trên TTCK dẫn đến số
lượng cổ đông của công ty rất lớn đồng thời biến động liên tục. Vì vậy, việc theo
dõi và phản ánh các nghiệp vụ chi tiết về VCSH theo đối tượng cụ thể trên sổ sách
kế toán rất khó khăn;