Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.46 KB, 25 trang )

Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường diễn biến phức tạp và cạnh
tranh ngay càng gay gắt, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức
Thương Mại Thế giới (WTO). Các công ty đang bị cuốn hút vào vòng xoáy
cạnh tranh khốc liệt trong tất cả các lĩnh vực để tồn tại và phát triển. Lạm
phát là một trong những vấn đề của kinh tế học vĩ mô. Nó đã trở thành mối
quan tâm lớn của các nhà chính trị và công lý. Lạm phát đã được đề cập rất
nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế.
Để triển khai thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần thứ IX của
Đảng cần phải động viên mọi nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tăng trưởng bền vững và ổn
định lạm phát ở mức thấp đó là những mục tiêu hàng đầu của điều tiết vĩ mô
ở tất cả các nước. Không có gì đáng ngạc nhiên khi câu hỏi có sự tồn tại và
bản chất của mối quan hệ giữa lạm phát và phát triển kinh tế đã được các
nhà kinh tế hoạch định chính sách đặc biệt quan tâm và trở thành trung tâm
của nhiều cuộc tranh luận về chính sách.
Chính vì những tác hại to lớn do lạm phát gây ra cho nền kinh tế mà
việc nghiên cứu lạm phát là một vấn đề cần thiết và cấp bách đối với nền
kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường con non nớt như nền kinh tế nước
ta. Chúng ta cần phải tìm hiểu xem lạm phát là gì? Do đâu mà có lạm phát?
Tại sao người ta quan tâm đến lạm phát?
Bài viết này sẽ điểm lại một cách có hệ thống các lý thuyết, các bằng
chứng thực nghiệm về lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế.
Page 1


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế


I. Khái niệm và phân loại lạm phát
1. Khái niệm lạm phát và các khái niệm liên quan
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa lạm phát.
 Theo Mác: “ Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu
thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu của kinh tế thực tế làm cho tiền tệ
bị mất giá và phân phối lại thu nhập quốc dân”.
 Một quan điểm khác cho rằng: “Lạm phát là sự mất cân đối nghiêm
trọng giữa tiền và hàng trong nền kinh tế, điều này đã đẩy giá cả hàng
hóa lên cao ở mọi lúc mọi nơi”.
 Tuy nhiên, Milton Friedman đã phát hiện ra: “Những đặc trưng cơ
bản của lạm phát gồm sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng lên quá mức,
sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy, sự
phân phối lại giá cả, sự bất ổn về kinh tế xã hội”
Từ những quan điểm trên, một khái niệm về lạm phát đã được đưa ra
và nhiều người chấp nhận: “Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên
kéo dài làm cho mức giá cả chung tăng nhanh và kéo dài trong một thời
gian dài.”
Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả các hàng hóa tăng
lên so với mức giá thời điểm trước (vật giá leo thang). Cần phải hiểu việc
tăng giá ở đây là gia tăng chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, chứ
không phải tăng giá một hàng hóa cá biệt. Khi giá trị của hàng hóa và dịch
vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi. Khi đó, với cùng
một lượng tiền nhưng người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn so với trước
đó.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm
sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là
sự phá giá đồng tiền nội tệ so với các loại tiền tệ khác.
Page 2



Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Một số khái niệm liên quan
 Giảm phát: Là hiện tượng mức giá chung của các loại hàng hóa và
dịch vụ giảm xuống trong một thời gian nhất định.
Ví dụ: vào cuối năm 2008, ở Việt Nam đã xảy ra tình trạng giảm phát.
Chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến
tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm
0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%)
và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục
giảm.
 Giảm lạm phát: Là hiện tượng xảy ra khi tỉ lệ lạm phát của năm được
xét thấp hơn tỉ lệ lạm phát của năm trước.
 Thiểu phát: Là hiện tượng xảy ra khi tỉ lệ lạm phát thực tế nhỏ hơn tỉ
lệ lạm phát dự kiến làm sản lượng thực nhỏ hơn sản lượng dự kiến.
Ví dụ: Một số tình huống thiểu phát ở Việt Nam như trong năm 2008
đánh dấu một năm lạm phát cao, song chỉ đến đầu quý 3, do các biện pháp
kiềm chế lạm phát quá mức, bắt đầu có nỗi lo thiểu phát và "Nhiều người lo
ngại Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ tương tự, nhất là khi chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,19%. Đây là lần đầu tiên sau một năm rưỡi trở
lại đây, CPI ở mức âm.
2. Phân loại lạm phát
Có hai căn cứ: Theo khả năng dự đoán và theo tỷ lệ lạm phát
a. Theo khả năng dự đoán
 Lạm phát dự đoán được: Là lạm phát diễn ra đúng như dự kiến. Mọi
người đã tính trước sự tăng giá đều đặn của nó (ví dụ tăng 1% một
tháng)
Tác động: Lạm phát này không gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế vì dân
chúng sẽ làm giảm thiệt hại bằng hai cách:
Page 3



Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Thứ nhất: hạch toán thêm tỉ lệ lạm phát (trượt giá) vào những chỉ tiêu có
liên quan.
Thứ hai: nếu lạm phát dự đoán xảy ra với tỉ lệ lạm phát cao, người dân sẽ
tránh giữ tiền mà thay vào đó là vàng và ngoại tệ mạnh.
Ảnh hưởng không tốt của lạm phát dự đoán:
• Tạo chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
• Kích thích gia tăng khối tiền trong việc giao dịch.
 Lạm phát ngoài dự đoán: Là phần ti lệ lạm phát luôn vượt ra ngoài
khả năng dự đoán của con người, con người luôn bị bất ngờ bởi tốc độ
của nó. Khi đó:
TLLP thực = TLLP dự đoán + TLLP ngoài dự đoán
Lạm phát ngoài dự đoán gây ra sự phân phối lại của cải trong dân
chúng ( giữa người đi vay và người cho vay, giữa người trả lương và người
hưởng lương…).
b. Theo tỷ lệ lạm phát
 Lạm phát vừa phải
Khái niệm: Là lạm phát một con số, có tỉ lệ lạm phát dưới 10% một năm.
Được đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể dự đoán trước được. Đối với
các nước đang phát triển lạm phát dừng ở mức 1 con số coi là lạm phát vừa
phải.
Tác động: Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế trải qua và ít
gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong bối cảnh đó mọi người vẫn sẵn
sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn tính theo
đồng nội tệ và họ tinh rằng giá và chi phí của hàng hoá mà họ mua và bán sẽ
ko đi chệch quá xa.
 Lạm phát phi mã
Khái niệm: Lạm phát trong phạm vi 2, 3 con số 1 năm.
Page 4



Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Tác động: Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài
sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó đồng
tiền bị mất giá rất nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa
đủ cho các giao dịch ngắn ngày.
Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hoá, mua bất đọng sản và chuyển
sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán
cho các giao dich có giá trị lớn và tích luỹ của cải. Việt Nam và hầu hết cá
nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện
cải cách.
 Siêu lạm phát
Khái niệm: Tỷ lệ lạm phát rất lớn, từ 4 con số trở lên (khoảng 1000%
trở lên trong một năm).
Một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát:
• Thứ nhất, các biện pháp này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng
tiền pháp định.
• Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã có xu hướng xuất hiện trong thời
gian sau chiến tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về
ngân sách chính phủ. Vào những năm 1980, các cú sốc bên ngoài và
cuộc khủng hoảng nợ của thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng
trong việc gây ra siêu lạm phát ở 1 số nước Mỹ la-tinh.
Tác động: Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá
mức trong cung tiền, điều này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải cài trợ
cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Hơn nữa một khi lạm phát cao đã bắt đầu,
tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên không thể kiểm soát được: lạm
phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm so với
Page 5



Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
GDP mà điều này đến lượt nó làm tưng thâm hụt ngân sách và dẫn đến lạm
phát cao hơn.
Dựa trên các bằng chứng lịch sử, dường như là thâm hụt ngân sách kéo
dài được tài trợ phát hành tiền trong khoảng từ 10- 12 % của GDP sẽ gây ra
lạm phát.
Lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển
thường diễn ra dài và vì thế hậu quả của nó trầm trọng và phức tạp hơn.
Chính vì thế nhiều nhà kinh tế học kết hợp 3 loại lạm phát trên và thời gian
diễn ra của nó để chia lạm phát ở các nước này thành 3 loại:
+ Lạm phát kinh niên thường kéo dài trên 3 năm với tỉ lệ lạm phát
đến 50% một năm.
+ Lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỉ lệ lạm
phát trên 50% một năm.
+ Siêu lạm phát kéo dài trên 1 năm với tỉ lệ lạm phát trên 200% một
năm.
II.

Nguyên nhân gây ra lạm phát
Có thể tóm tắt các yếu tố tác động đến lạm phát xuất phát từ 3 nguyên

nhân chính: cung tiền tăng quá mức, giá hàng hóa thế giới tăng cao đột ngột,
và sức cầu về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng
kịp.
Có nhiều ý kiến đồng thuận cho rằng cung tiền được xem là nguyên
nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam. Từ năm 2000 đến năm 2009, tín
dụng trong nền kinh tế tăng hơn 10 lần, cung tiền M2 tăng hơn 7 lần, trong
khi đó GDP thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị

mất giá. Thực tế chúng ta dễ nhận thấy là lạm phát ở Việt Nam cao hơn rất
nhiều so với các quốc gia khác trong cùng thời kỳ, mặc dù cùng chịu chung
cú sốc tăng giá của hàng hóa thế giới.
Page 6


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Tại sao Việt Nam cần một mức tăng trưởng cung tiền cao như vậy?
Nguyên nhân là do tỷ lệ đầu tư/GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao,
nhưng lại không tạo ra được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng.
Hàng năm, đầu tư trong nền kinh tế đều quanh mức 40% GDP. Tỷ lệ đầu tư
lớn này đòi hỏi một mức tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao để phục vụ
nhu cầu đầu tư. Trong khi đó, tăng trưởng GDP chỉ quanh mức 7%, thậm chí
năm 2008 và 2009 chỉ lần lươt đạt mức 6.19% và 5.32%. Điều này cho thấy
chất lượng tăng trưởng, đầu tư và phát triển ở Việt Nam vẫn cần được tiếp
tục cải thiện. Đây là nguyên nhân sâu xa khiến cho lạm phát luôn ở trong
tình trạng chực chờ, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngoài nguyên nhân tiền tệ kể trên, chúng ta xem xét những nguyên
nhân còn lại xuất phát từ phía cầu và phía cung hàng hóa (lạm phát chi phí
đẩy (cost push) và cầu kéo (demand pull). Đây là những nguyên nhân trực
tiếp và dễ thấy nhất.
Nguyên nhân khách quan: Bao gồm các nguyên nhân như thiên tai,
động đất, sóng thần là những nguyên nhân bất khả kháng hoặc nguyên nhân
nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh, tình hình biến động của thị trường
nguyên liệu, vàng, ngoại tệ trên thế giới. Cụ thể:
a. Lạm phát do cầu kéo – Demand pull inflation:
Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng
cung trong cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng
cầu tăng nhưng tổng cung không đổi, hoặc tổng cung cũng tăng nhưng tăng
không bằng tổng cầu.

Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình - C, chi
tiêu của chính phủ - G, Đầu tư trong nền kinh tế - I, Nhu cầu hàng hóa cho
xuất khẩu - X, lượng hàng hóa nhập khẩu - M, hàng hóa nhập khẩu làm
phong phú thêm hàng hóa trong nước làm giảm căng thẳng của tổng cầu nên
Page 7


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
được biểu diễn bằng dấu âm (-) trong biểu thức cộng các yếu tố của tổng
cầu.
Nếu gọi tổng cầu là AD thì: AD = C + I + G + X – M. Tổng cầu tăng
có thể do một hoặc một số các yếu trong vế bên phải của biểu thức tăng lên.
b. Lạm phát do chi phí đẩy – Cost push inflation:
Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc
năng lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút.
Chi phí đầu vào tăng có thể do giá các nguồn nguyên liệu đầu vào cho
sản xuất tăng giá, điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí
hơn; thiên tai mất mùa lụt bảo động đất làm giảm năng lực sản xuất; khủng
hoảng ngành dầu mỏ do các liên minh dầu mỏ tăng giá hoặc chiến tranh
vùng vịnh làm tăng giá, giá dầu tăng làm tăng chi phí trong ngành năng
lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các ngành khác.
Các chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh
nghiệp tăng giá bán để bù đắp chi phí. Giá bán tăng - tạo lạm phát. Nhưng
mặt khác giá bán tăng, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống,
các doanh nghiệp sẽ cắt giảm sản xuất sa thải nhân công. Hậu quả dẫn đến
cho nền kinh tế lúc này là vừa có lạm phát lại vừa bị suy thoái.
c. Lạm phát ỳ của nền kinh tế:
Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết
trước và tính đến khi thoả thuận về các biến tỷ lệ lạm phát cân bằng trong
ngắn hạn và nó sẽ được duy trì cho đến khi có các cú sốc tác động đến nền

kinh tế.

Page 8


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

III.

Đo lường lạm phát

Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của
một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường
dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên
đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các
loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả
trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số
giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung
bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua
chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so
với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá
cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích
thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được
thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
 Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết
giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế

học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn
hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên
lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang
giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay
các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ
giá cả thế giới nói chung).
Page 9


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi
"người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều
quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm
trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc
tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả
lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh
định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi,
các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó
ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của
CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và
cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
 Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được
không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác
với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là
giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì
người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó
trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán
gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên
lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là

khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là
các dịch vụ.
 Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán
buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn.
Chỉ số này rất giống với PPI.
 Chỉ số giá hàng hóa do sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa
một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa
Page 10


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng
kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
 Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm
quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh
định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP
của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và
danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng
rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của
GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã
chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử
lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của
mình.
 Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính
sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo
Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open
Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo
cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi
của các chi phí tiêu dùng cá nhân".
III.


Tác động của lạm phát và các nhân tố ảnh hưởng

1. Tác động của lạm phát
a. Tác động của lạm phát tới lãi suất ngân hàng:
Lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều
khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình
chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn
biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài
toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài
mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc
Page 11


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh
đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi
suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh
hưởng bất ổn cho cả hệ thống Ngân Hàng Thương Mại (NHTM).
Nhưng trong thực tế, tăng lãi suất là giảm cung tiền. Tuy nhiên, lãi suất
liên tục tăng cao không chỉ có khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp trong việc
tiếp cận vốn vay, mà còn khó khăn cho NHTM trong việc huy động vốn
trung và dài hạn vì thực tế khi lãi suất ở một mức quá cao, các nhà đầu tư sẽ
lợi dụng sự cạnh tranh trong việc tăng lãi suất của các NHTM để tranh thủ
kiếm lời từ những ngân hàng có mức lãi suất cao hơn, từ đó làm cho lạm
phát ngày càng nghiêm trọng. Tuy nhiên, đó chỉ là biện pháp trong ngắn hạn.
Vì vậy, khi việc tăng lãi suất có dấu hiệu không tiếp tục mang lại hiệu quả
thì cần xem xét tới biện pháp duy trì lãi suất ổn định và có xu hướng giảm
dần.
Để xu hướng này diễn ra như mong muốn, thì NHNN có vai trò rất quan

trọng trong việc kiểm tra, giám sát với những chế tài cụ thể và đủ mạnh đối
với các NHTM cố tình tăng lãi suất huy động vốn quá cao vượt quá ngưỡng
an toàn, đưa những chi phí bất hợp lý vào giá của khoản vay, để làm lành
mạnh môi trường đầu tư, cho vay của chính các ngân hàng.
b. Tác động của lạm phát tới khối lượng tiền trong nền kinh tế:
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch
hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều
kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng
thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân
hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư
không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng
lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng
Page 12


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín
dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều
doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát
ly ngoài hoạt động
Vì vậy, NHNN phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền
trong lưu thông, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng
với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức
độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho
vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng,
rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng
và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự
khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn
đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều

này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn
và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Để giải quyết vấn đề này, cần phải phát triển các dịch vụ phi tín dụng,
đặc biệt là dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, khi sử dụng cách này
chúng ta vừa có điều kiện tăng thu nhập cho ngân hàng, vừa thu hút khách
hàng đến với ngân hàng để tăng khả năng huy động vốn với chi phí thấp. Để
tăng tỉ lệ dịch vụ phi tín dụng, về phía các ngân hàng cần nâng cao chất
lượng và tính tiện ích của dịch vụ:
+ Đối với dịch vụ truyền thống: đây là yếu tố nền tảng không chỉ
có ý nghĩa duy trì khách hàng truyền thống, tạo nguồn thu nhập
lớn nhất cho ngân hàng, mà còn phát triển các dịch vụ mới trên
nền tảng của dịch vụ truyền thống để thu hút các khách hàng
tiềm năng.
Page 13


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
+ Đối với các dịch vụ hiện đại: cần thực hiện chiến lược
Marketing sâu rộng, có chính sách khuyến khích khách hàng
(chính sách phí, khuyễn mãi…) sử dụng các dịch vụ ngân hàng
điện tử như dịch vụ mở tài khoản cá nhân, thanh toán, chi trả
thu nhập theo hướng không dùng tiền mặt qua thẻ ATM.
+ Đối với các kênh phân phối: Phát triển các kênh phân phối hiện
đại như các loại hình giao dịch tại nhà, qua điện thoại, internet,
ngân hàng tự phục vụ (self-service outlest)…
c. Tác động của lạm phát tới việc phân phối lại thu nhập:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là tỷ số phản ảnh giá cả của một rổ hàng
hóa chọn lựa qua các năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hóa đó
trong một năm được chọn là năm gốc. Đó là một thước đo của lạm phát. Giá
tiêu dùng tăng cao ắt sẽ dẫn đến lạm phát. Lạm phát cao làm giảm giá trị

đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn
thì các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn.
Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị giảm
xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến
khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các
hoạt động sản xuất
Ví dụ: Khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửi thì
dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai
khiến giá cả đất đai tăng cao...).
Lạm phát cao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập
không tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu
nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi
và mức sống của họ sẽ bị giảm đi.
d. Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm:
Page 14


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Trong điều kiện lạm phát vừa phải sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển vì
nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho
các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích sự tiêu dung của chính phủ và
nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có quan hệ nghịch biến.Nhà kinh tế đoạt
giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát vừa phải sẽ là “ dầu bôi
trơn” cho kinh tế.. Lạm phát khuyến khích nhà đầu tư mở rộng sản xuất.
Việc làm được tạo thêm. Tỉ lệ thất nghiệp giảm.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này
co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của
mình.

2. Các nhân tố ảnh hưởng
a. Yếu tố tiền tệ
Tăng cung tiền ngay lập tức làm cho lạm phát tăng và ảnh hưởng của nó
còn kéo dài tới 3 tháng sau đó. Cung tiền thực tế là yếu tố ảnh hưởng mạnh
nhất tới tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam từ năm 2000 tới nay.
b. Yếu tố phía cầu
Tổng cầu tăng ngay lập tức làm lạm phát tăng và tiếp tục tăng ở 3 tháng
tiếp theo. Tổng cầu tác động tới lạm phát mạnh nhất sau 1 tháng.
Tỷ lệ lạm phát biến động cùng chiều với biến động giá gạo xuất khẩu. Độ trễ
tác động là 1, 2 và 3 tháng.
c. Yếu tố phía cung
Giá dầu thế giới tăng làm cho giá xăng dầu nhập khẩu của Việt Nam
tăng, chi phí sản xuất tăng và tác động tới lạm phát. Độ trễ tác động là 1
tháng.

Page 15


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Như vậy, tiền tệ là yếu tố tác động mạnh nhất tới lạm phát. Chính sách
tiền tệ và chính sách tài khoá là công cụ kiềm chế lạm phát hiệu quả. Theo
một số chuyên gia, áp lực lạm phát tiền tệ và lạm phát cầu kéo đã giảm bớt;
nhưng lạm phát cơ cấu và lạm phát chi phí đẩy chưa được cải thiện nhiều.
Trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu hiện nay, tái cơ cấu nền kinh tế là điều
kiện cần thiết để tồn tại và phát triển. Thực hiện được tái cơ cấu nền kinh tế
sẽ giảm bớt áp lực của lạm phát (đặc biệt là lạm phát cơ cấu, lạm phát chi
phí đẩy tới nền kinh tế.
IV.

Hậu quả của lạm phát

Lạm phát có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống và nền kinh tế-

xã hội tùy theo mức độ của nó. Lạm phát gây ảnh hưởng theo hai hướng:
Tích cực và tiêu cực.
Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh
những tác hại không đáng kể còn lạm phát cao và siêu lạm phát thì có tác hại
nghiêm trọng đến nền kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy
thuộc vào lạm phát có dự đoán trước được hay không, nghĩa là với lạm phát
dự báo trước được thì có thể đưa ra những giải pháp thích nghi với nó nên
không gây gánh nặng về kinh tế còn lạm phát không dự báo trước được sẽ
dẫn tới những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên
làm mất tinh thần và sinh lực của kinh tế.
 Tích cực
Lạm phát vừa phải (ít hoặc lạm phát trung bình) tức là có thể điều chỉnh
được thì lạm phát tác động đến phát triển kinh tế và việc làm. Trong điều
kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự
phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông,
cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu
dùng của chính phủ và nhân dân. Giữa lạm phát và việc làm có mối quan hệ
Page 16


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
nghịch biến: Khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại
khi thất nghiệp giăm xuống cũng kéo lạm phát tăng lên. Nhà kinh tế học
A.W.Phillips đã dưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm” theo
đó một nước có thể mua một tỉ lệ thát nghiệp thấp hơn nếu sẵn sáng trả giá
bằng một tỉ lệ lạm phát cao hơn.
Lạm phát cũng làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những
trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần mà lạm phát cao thì sễ

đẩy người ta nhanh hơn sang nhóm phải đánh thuế cao hơn. Như vậy, chính
phủ sẽ thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Trong thời kì
lạm phát giá cả các sản phẩm dịch vụ tăng lên nên theo đó tiền lương dang
nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên như vậy tiền lương của người lao động
nói chung sẽ vững hoặc tăng lên hoặc giảm đi chứ không bao giờ suy giảm.
 Tiêu cực
 Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh
Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng hóa bị tăng liên tục,
điều này làm cho sản xuất gặp khó khăn. Quy mô sản xuất không tăng hoặc
bị giảm sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ cấu nền kinh tế
dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triển những nghành sản xuất có chu
kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, còn những nghành sản xuất có chu kỳ
dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản.
Vì vậy, trong điều kiện có lạm phát, lãnh vực thương nghiệp thường phát
triển mạnh. Bên cạnh đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không
còn chính xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác hoạch toán chỉ
còn là hình thức .
 Trong lĩnh vực thương mại
Người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời
chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng hóa đẩy khỏi tay mình những đồng
Page 17


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
tiền mất giá. Điều này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối loạn. Lạm phát
xảy ra còn môi trường tốt để những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát
sinh, như đầu cơ, tích trữ gây cung – cầu hàng hóa giả tạo...
 Trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng
Tín dụng cũng bị rơi vào khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu
tư trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức mua của đồng tiền bị

giảm, lưu thông của tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị
trường tăng lên một cách đột biến, hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào
tình trạng khủng hoảng do nguồn tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh
chóng, nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán, và thua lỗ
trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị rối loạn không thể kiểm soát
nổi .
 Trong lĩnh vực tài chính nhà nước
Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho ngân sách nhà nước qua cơ
chế phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân, nhưng do ảnh hưởng nặng
nề của lạm phát mà những nguồn thu của ngân sách nhà nước (chủ yếu là
thuế ) ngày càng bị giảm do sản xuất bị sút kém, do nhiều công ty xí nghiệp
bị phá sản, giải thể...
 Trong lĩnh vực đời sống xã hội
Đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp
lực từ sự gia tăng của giá cả. Gía trị thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm
trọng dẫn đến trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề .
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội,
và nhà nước phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng
kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát.
Ví dụ về hậu quả của lạm phát:

Page 18


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Báo chí ngoại quốc và trong nước và những cơ quan tài chính và đầu tư
quốc tế từ đầu năm tới nay nói rất nhiều tới tình trạng lạm phát nghiêm trọng
ở Việt Nam . Điểm đặc biệt là trong tất cả vùng Đông và Đông Nam Á châu,
ngoại trừ Việt Nam, mức lạm phát rất thấp, 1% như ở Đài Loan, 1.7% như ở
Mã Lai, 3.3% ở Thái Lan và cao nhất là 6% ở Lào. Lạm phát gây ảnh hưởng

đến mọi giới trong xã hội kể cả chính quyền. Lạm phát làm giảm giá trị đồng
tiền, ngăn cản đầu tư và tiết kiệm, giảm sự phát triển kinh tế, tạo ra sự khan
hiếm hàng hóa do nạn đầu cơ tích trữ. Nếu sự lạm phát ở mức độ cao kéo dài
có thể tạo ra sự bất ổn xã hội và chính trị vì đa số người dân thuộc thành
phần nghèo, có đồng lương nhất định sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và trực tiếp
của lạm phát giá cả.
Một trong những hậu quả của tình trạng lạm phát là làm giảm phát triển.
Nhà nước sau cùng đã phải giảm chi tiêu phát triển 1% từ 7%-7.5% xuống
6.5% cho năm 2011 đặc biệ là ngừng, đình hoãn giãn tiến độ thực hiện một
số dự án đầu tư của nhà nước. Với lãi suất và đối với tình trạng kinh tế vĩ mô
bất ổn do lạm phát gây ra, các nhà đầu tư tư nhân có khuynh hướng giảm
đầu tư hoặc rút ra khỏi Việt Nam.
Nạn lạm phát làm cho đồng tiền VNĐ bị yếu đi và mất giá. Người tiêu
thụ bớt tin tưởng vào VNĐ và do đó có khuyng hướng giữ vàng hoặc ngoại
tệ. Mới đây ngân hàng nhà nước đã áp dụng một số biện pháp để giảm bớt
hiện tượng dollar hóa thị trường bằng cách kiểm soát chợ đen, tăng tỉ lệ dự
trữ USD từ 4% lên đến 6% , và giới hạn lãi suất dành cho tiền USD ký quỹ
xuống còn 3%. Kể từ khi có cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vào năm
2008, các đồng nội tệ Á châu đề lên giá so với USD và mức lạm phát tối đa
cũng chỉ bằng nữa Việt Nam. Chỉ riêng tiền của Việt Nam bị mất giá. Đây là
một thử thách đối với Việt Nam.
V.

Một số giải pháp chống lạm phát
Page 19


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt khi lạm phát có nguyên nhân tiền
tệ

Đối với những nước đang phát triển theo đuổi chính sách tiền tệ mở
rộng và tương đối độc lập so với chính sách ngân sách, lạm phát có thể xảy
ra hoàn toàn do nguyên nhân tiền tệ; tức là khi Ngân hàng trung ương liên
tục tung vào lưu thông những khoản tiền lớn để giảm lãi suất tín dụng,
khuyến khích đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Trong trường hợp này, giải pháp
hợp lý là đi theo khuyến nghị của thuyết trọng tiền, tức là giảm mạnh tốc độ
đưa tiền vào lưu thông, và giữ tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ xấp xỉ với tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế.
2. Thực hiện chính sách tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất
kinh doanh khi lạm phát có nguyên nhân cơ cấu
Trong trường hợp lạm phát không xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ mà
từ nguyên nhân cơ cấu, cần phải hạn chế sử dụng liều thuốc chống lạm phát
truyền thống là thực hiện chính sách tiền tệ chặt. Theo các nhà kinh tế trọng
cơ cấu, chính sách tiền tệ chặt thường gây ra hậu quả rất tai hại vì nó làm
tăng thêm những bế tắc trong quá trình phục hồi tăng trưởng và làm giảm
thu nhập thực của dân cư; điều này không thể chấp nhận được vì vì dân cư
tại các nước này vốn đã rất nghèo và nhu cầu xoá đói giảm nghèo, chống mù
chữ và các dạng áp lực kinh tế, xã hội bao giờ cũng rất lớn.
Họ cũng nhấn mạnh rằng cần phải tiếp tục tăng trưởng tiền tệ để đáp
ứng nhu cầu do những phi cân bằng cơ cấu sinh ra, và nếu chỉ chú trọng tới
hạn chế tín dụng và kiểm soát chặt cung tiền tệ mà không đi sâu giải quyết
những nguyên nhân cơ bản của lạm phát thì sẽ dẫn đến thất bại vì các doanh
nghiệp sẽ bị cắt khỏi những nguồn lực cần thiết để duy trì sản xuất, làm cho
sản xuất tiếp tục suy thoái. Đối với các nhà kinh tế trọng cơ cấu, tất cả các
chính sách tiền tệ dẫn tới trì trệ hoặc suy thoái nền kinh tế của các nước đang
Page 20


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
phát triển sẽ là sai lầm và các áp lực lạm phát sẽ nhanh chóng gia tăng trở

lại.
Vì lý do trên và theo cách phân tích nguyên nhân lạm phát của thuyết
cơ cấu, các nhà kinh tế trọng cơ cấu khuyến nghị chính sách chống lạm phát
phải chủ yếu dựa vào ba trụ cột: (i) tháo gỡ những khó khăn để kích thích
sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp; (ii) thực hiện các giải pháp động viên
xuất khẩu, lập lại cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; và (iii) kiểm soát chi
tiêu ngân sách, giảm tốc độ tăng trưởng tiền lương cho bộ máy chính phủ.
Một số chính sách cụ thể theo hướng trên là thực hiện cải cách ruộng
đất để kích thích người dân phát triển sản xuất nông nghiệp; đa dạng hoá các
nguồn hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu để giảm bớt căng thẳng về
ngoại tệ; tăng cường phân cấp cho các đơn vị cơ sở; giảm mạnh tệ quan liêu
và tham nhũng; cắt giảm một số khoản chi tiêu ngân sách đồng thời cơ cấu
lại chi tiêu theo hướng tăng chi tiêu cho giáo dục để tăng chất lượng lao
động mà không phải tăng đáng kể tiền lương...
3. Chính sách chống lạm phát tại các nước đang phát triển còn được
chia làm 2 loại: chính thống và phi chính thống
Chính sách chống lạm phát chính thống là chính sách dựa trên quản lý
chặt tài chính tiền tệ, trọng tâm là chính sách tài chính chặt hoặc chính sách
tiền tệ chặt, nhưng vẫn duy trì tự do hoá giá cả và các quan hệ kinh tế khác.
Chính sách chống lạm phát phi chính thống là chính sách dựa trên
một loạt các biện pháp quản lý hành chính, tập trung vào kiểm soát chặt giá
cả, tiền lương, tỷ giá và nhiều loại chi phí khác.
4. Chính sách chống lạm phát ôn hòa
Lạm phát ôn hoà là loại lạm phát phổ biến trên thế giới, được định
nghĩa là lạm phát trong khoảng 20-100%/năm nhưng kéo dài trong nhiều

Page 21


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

năm, gây ảnh hưởng bất lợi dài hạn cho nền kinh tế. Một số giải pháp
thường được sử dụng trong chính sách chống lạm phát ôn hoà là:
- Kiểm tra giá: chính phủ ra sắc lệnh cấm các doanh nghiệp tăng giá,
tuy nhiên không cấm tăng lương. Việc cấm tăng lương là không cần thiết vì
hai lý do. Một là, dù giá đã bị cấm tăng, nhưng nếu năng suất lao động tăng
lên thì doanh nghiệp vẫn có thể tăng lương mà không ảnh hưởng tới hiệu
quả của doanh nghiệp và không đòi hỏi phải gây sức ép với chính phủ để
tăng giá. Hai là, nếu như doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải tự kiểm soát
được tỷ lệ tăng lương không vượt quá tỷ lẹe tăng năng suất lao động; nếu
không kiểm soát được thì doanh nghiệp buộc phải phá sản do làm ăn thua lỗ.
Việc áp đặt giá trần cũng là một giải pháp để nhanh chóng cắt giảm
lạm phát nhưng không được áp dụng phổ biến. Ngoài ra, việc kiểm soát giá
chỉ nên mang tính tạm thời; không có nền kinh tế thị trường tự do nào lại sử
dụng thường xuyên giải pháp này để kiểm soát lạm phát, trừ trong trường
hợp chiến tranh.
- Kiểm soát cầu quá cao: Nếu lạm phát có nguyên nhân là tổng cầu
vượt quá so với tổng cung thì việc loại bỏ số cầu dư này là một trong những
điều kiện tiên quyết để giảm lạm phát. Vì chính phủ thường là người tiêu
dùng lớn nhất và những thay đổi trong chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng rất
lớn tới tổng cầu xã hội thông qua các hiệu ứng nhân tử trực tiếp và gián tiếp
nên giải pháp đầu tiên phải là giảm cầu của chính phủ. Ngoài ra, chính phủ
cũng có thể ảnh hưởng tới chi tiêu của khu vực dân cư thông qua chính sách
thuế và chính sách tiền tệ, ví dụ giảm cung tiền tệ và tăng lãi suất...
- Kiểm soát tiền tệ: Giải pháp tiền tệ do trường phái trọng tiền đề ra,
theo đó cần phải giữ tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ ổn định. Tỷ lệ này được xác
định theo quan hệ tỷ lệ cố định với tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng của nền kinh
tế; trong đó tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng được xác định trên cơ sở các
Page 22



Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
nhân tố sản xuất, tình trạng công nghệ và độ co dãn của cầu tiền tệ khi thu
nhập thực thay đổi.
- Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tiền lương trong lạm phát do chênh
lệch giữa tăng lương và tăng năng suất: Đây là vấn đề tương đối dài hạn để
duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng cầu tương ứng với tốc độ tăng trưởng
sản xuất tiềm năng. Loại lạm phát này là kết quả của việc tiền lương danh
nghĩa tăng nhanh hơn tốc độ tăng của năng suất lao động trong một số ngành
kinh tế. Tăng lương trong những ngành này sẽ dẫn đến xu hướng sử dụng
vốn thay cho sử dụng lao động vì lao động ngày càng đắt hơn và làm cho
năng suất lao động tăng nhanh hơn. Dĩ nhiên, xu hướng tăng cường chất
lượng lao động và tăng đầu tư sử dụng công nghệ mới sẽ có tác dụng tích
cực tới giảm lạm phát.
- Kiểm soát thu nhập: Chính sách này tập trung vào điều chỉnh các
nguyên tắc xác định tiền lương và thu nhập khác làm cơ sở cho doanh
nghiệp và người lao động đàm phán lựa chọn phương án phân chia lợi nhuận
phù hợp với giai đoạn lạm phát. Mục tiêu của chính sách này là ngăn ngừa
tình trạng tổng thu nhập tiền tệ tăng nhanh hơn kết quả sản xuất thực.
- Kiểm soát tỷ giá: Trong thời kỳ lạm phát ôn hoà, không nhất thiết
phải cố định tỷ giá và dùng tỷ giá làm chiếc neo duy trì sự ổn định của toàn
bộ hệ thống giá. Tuy nhiên, nếu lạm phát có dấu hiệu tăng cao và có nguyên
nhân tiền tệ thì việc duy trì ổn định tỷ giá là cần thiết để tạm thời ổn định
lạm phát.

Page 23


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

KẾT LUẬN

Lạm phát là căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, tác động sâu
rộng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm đời sống nhân dân trở nên
khó khăn, dẫn đến mất ổn định kinh tế, chính trị. Do đó việc tiếp tục chống
lạm phát và kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu được đặt ra trong giai
đoạn hiện nay, việc đẩy lùi lạm phát sẽ đem lại sự ổn định vĩ mô, là cơ sở để
tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội.

Page 24


Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Page 25


×