Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn bản chương trình ngữ văn trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÙI THỊ HOÀN

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI MỞ
PHẦN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÙI THỊ HOÀN

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI MỞ
PHẦN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:TS. Nguyễn Trọng Hoàn

HÀ NỘI – 2015




LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính
trọng tới Lãnh đạo trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc Gia Hà Nội, các Thầy
Cô giáo đã tham gia giảng dạy và cung cấp những kiến thức cơ bản, chuyên sâu, tạo
điều kiện giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, rèn luyện tại nhà
trường.
Tôi xin trân trọng gửi tới Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn – Phó vụ trưởng Vụ
Giáo dục Trung học Bộ Giáo dục và Đào tạo, tình cảm biết ơn sâu sắc nhất. Thầy đã
hướng dẫn tôi rất tận tình, khoa học trong quá trình viết luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường THCS Phan Đình Giót,
bạn bè đồng nghiệp cùng những người thân trong gia đình đã giúp đỡ, tạo điều kiện
để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn

Bùi Thị Hoàn

i


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GD&ĐT

: Giáo dục và Đào tạo

GV

: Giáo viên


HS

: Học sinh

SGK

: Sách giáo khoa

SGV

: Sách giáo viên

THCS

: Trung học cơ sở

NXB

: Nhà xuất bản

ii


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ................................................................................................................... i
Danh mục chữ viết tắt .................................................................................................ii
Mục lục ..................................................................................................................... iii
Danh mục bảng .......................................................................................................... vi
Danh mục sơ đồ.........................................................................................................vii

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
XÂY DỰNG CÂU HỎI MỞ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN CẤP THCS ........8
1.1. Cơ sở lí luận .........................................................................................................8
1.1.1. Lí thuyết về hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn ......................................8
1.1.2. Lí thuyết về hệ thống câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn ..............................10
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................14
1.2.1.

Đặc điểm của môn Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS) ...............................14

1.2.2. Khảo sát sách giáo khoa (SGK), sách giáo viên (SGV) và một số giáo án của
GV về việc xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn
THCS. ........................................................................................................................20
1.2.3. Một số đánh giá về thực trạng sử dụng câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn
hiện nay ở trường THCS ...........................................................................................26
Tiểu kết chương 1......................................................................................................29
Chƣơng 2: ĐỀ XUẤT VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI MỞ PHẦN
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN CẤP THCS ................30
2.1. Nguyên tắc xây dựng câu hỏi mở phần đọc – hiểu văn bản chương trình Ngữ
văn cấp THCS ...........................................................................................................30
2.1.1. Câu hỏi mở phải đảm bảo nội dung khoa học, cơ bản, chính xác của kiến thức
trong văn bản .............................................................................................................30
2.1.2. Câu hỏi mở phải phát huy được tính tích cực trong hoạt động đọc hiểu văn
bản của HS ................................................................................................................30
2.1.3. Câu hỏi mở phải phản ánh được tính hệ thống ...............................................31
2.1.4. Câu hỏi mở phải phù hợp với trình độ nhận thức của HS...............................31

iii



2.2. Kĩ năng đặt câu hỏi mở phần đọc – hiểu văn bản chương trình Ngữ văn cấp
THCS .........................................................................................................................31
2.2.1. Lên kế hoạch chuẩn bị cho các câu hỏi ...........................................................31
2.2.2. Đặt câu hỏi ......................................................................................................32
2.2.3. Lắng nghe, đồng cảm và chia sẻ .....................................................................33
2.3. Đề xuất hệ thống câu hỏi mở phần Văn học dân gian .......................................34
2.3.1. Khái quát đặc trưng chủ yếu của một số thể loại của Văn học dân gian trong
chương trình Ngữ văn cấp THCS..............................................................................34
2.3.2. Một số đề xuất khi xây dựng câu hỏi mở trong dạy học Văn học dân gian ở
trường THCS .............................................................................................................39
2.4. Đề xuất hệ thống câu hỏi mở phần Văn học trung đại .......................................44
2.4.1. Khái quát đặc trưng của Văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn bậc
THCS .........................................................................................................................44
2.4.2. Một số đề xuất khi xây dựng câu hỏi mở trong dạy học Văn học trung đại ở
trường THCS .............................................................................................................48
2.5. Đề xuất hệ thống câu hỏi mở phần Văn học hiện đại ........................................50
2.5.1. Khái quát đặc trưng của Văn học hiện đại trong chương trình Ngữ văn cấp
THCS .........................................................................................................................50
2.5.2. Một số đề xuất khi xây dựng câu hỏi mở trong dạy học Văn học hiện đại ở
trường THCS .............................................................................................................53
2.6. Điều kiện để xây dựng hệ thống câu hỏi mở .....................................................55
2.6.1. Trên cơ sở mục tiêu bài học, giáo viên chủ động thiết kế nội dung chuẩn bị
bài cho học sinh .........................................................................................................55
2.6.2. Học sinh tích cực trong việc khai thác kiến thức và bộc lộ năng lực .............56
2.6.3. Giáo viên và học sinh làm việc trên lớp theo tinh thần tương tác ..................57
2.6.4. Đổi mới phương pháp kiểm tra và đánh giá ....................................................57
Tiểu kết chương 2......................................................................................................58
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ..............................................................59
3.1. Mục đích của thực nghiệm .................................................................................59

3.2. Đối tượng và nội dung thực nghiệm ..................................................................59
3.3. Quy trình triển khai thực nghiệm .......................................................................59

iv


3.3.1. Truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” ............................................................59
3.3.2. Văn bản “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến .........................................65
3.3.3. Văn bản “Một thứ quà của lúa non: Cốm” ......................................................77
3.4. Kết quả của quá trình thực nghiệm ....................................................................97
3.4.1 Thời gian thực nghiệm .....................................................................................97
3.4.2. Kết quả thu được sau khi tiến hành giảng dạy bài “Thầy bói xem voi”, “Bạn
đến chơi nhà”, “Một thứ quà của lúa non: Cốm” theo hướng sử dụng câu hỏi mở ..97
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................................109
1. Kết luận ...............................................................................................................109
2. Khuyến nghị ........................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................111
PHỤ LỤC ...............................................................................................................113

v


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Phân loại một số dạng câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn ......................12
Bảng 1.2. Số tiết dạy học đọc hiểu văn bản phân bố trong từng khối lớp ................15
Bảng 1.3. Thống kê các văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 6 ........................16
Bảng 1.4. Thống kê các văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 7 ........................17
Bảng 1.5. Thống kê các văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 8 ........................18
Bảng 1.6. Thống kê các văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 9 ........................19
Bảng 1.7. Thống kê các câu hỏi hướng dẫn HS được sử dụng trong phần đọc hiểu

văn bản Ngữ văn lớp 6 ..............................................................................................20
Bảng 1.8. Thống kê các câu hỏi hướng dẫn HS được sử dụng trong phần đọc hiểu
văn bản Ngữ văn lớp 7 ..............................................................................................21
Bảng 1.9. Thống kê các câu hỏi hướng dẫn HS được sử dụng trong phần đọc hiểu
văn bản Ngữ văn lớp 8 ..............................................................................................21
Bảng 1.10. Thống kê các câu hỏi hướng dẫn HS được sử dụng trong phần đọc hiểu
văn bản Ngữ văn lớp 9 ..............................................................................................21
Bảng 1.11. Cấu trúc giảng dạy trong sách giáo viên Ngữ văn ..................................22
Bảng 1.12. So sánh hai dạng câu hỏi: Câu hỏi phát hiện và câu hỏi mở ..................25
Bảng 2.1. Các nội dung giảng dạy của tục ngữ .........................................................37
Bảng 2.2. Hệ thống câu hỏi mở giúp HS tìm hiểu tư liệu về văn bản truyền thuyết 40
Bảng 2.3. Hệ thống câu hỏi mở khi dạy truyện cổ tích “Thạch Sanh” .....................41
Bảng 2.4. Hệ thống câu hỏi mở khi dạy truyện cười “Lợn cưới, áo mới” ................42
Bảng 2.5. Đề xuất hệ thống câu hỏi mở khi dạy các văn bản tự sự ..........................53
Bảng 3.1: Bảng thống kê ý kiến học sinh về kiến thức, kĩ năng, thái độ của bài học
...................................................................................................................................98
Bảng 3.2: Bảng thống kê số lượng ý kiến về mức độ phù hợp giữa năng lực với hệ
thống câu hỏi mở đã sử dụng trong bài “Thầy bói xem voi” ....................................99
Bảng 3.3: Bảng thống kê số lượng ý kiến về mức độ phù hợp giữa năng lực với hệ
thống câu hỏi mở đã sử dụng trong bài “Bạn đến chơi nhà”. ...................................99
Bảng 3.4: Bảng thống kê số lượng ý kiến về mức độ phù hợp giữa năng lực với hệ
thống câu hỏi mở đã sử dụng trong bài “Một thứ quà của lúa non: Cốm” .............100

vi


Bảng 3.5: Bảng thống kê số lượng ý kiến đánh giá của học sinh về khả năng đạt yêu
cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ của bản thân ......................................................101
Bảng 3.6: Bảng thống kê số lượng ý kiến học sinh về mức độ cơ hội được tham gia
trong bài học ............................................................................................................102

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Quá trình đặt câu hỏi mở của GV ............................................................33
Sơ đồ 2.2. Đề xuất sơ đồ hệ thống câu hỏi mở khi giảng dạy văn bản văn học trung đại
...................................................................................................................................49
Sơ đồ 2.3. Đề xuất hệ thống câu hỏi mở khi dạy các văn bản trữ tình .....................55

vii


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quá trình dạy học ngày nay nhấn mạnh vào việc phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của người học. Người giáo viên (GV) trong quá trình giảng dạy
không chỉ giúp học sinh lĩnh hội tri thức mà còn phải giúp các em rèn luyện đạo đức,
nhân cách và các kĩ năng (kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc và tổ chức hoạt
động…). Chính vì thế, trong quá trình dạy học, GV luôn phải xác định cho mình
mục tiêu của quá trình dạy học, lựa chọn cho mình một hoặc một vài phương pháp
tối ưu nhất, phù hợp nhất đối với bài học để có thể cung cấp nhiều nhất kiến thức, kỹ
năng cho học sinh (HS).
Trong bộ môn Ngữ văn, giờ đọc hiểu văn bản chiếm một vị trí vô cùng quan
trọng. Giờ đọc hiểu văn bản giúp học sinh cảm thụ và phân tích được tác phẩm văn
chương, rèn luyện năng lực thẩm mỹ và năng lực tư duy. Năng lực thẩm mỹ còn tuỳ
thuộc vào yếu tố năng khiếu của HS, còn năng lực tư duy là một yêu cầu có tính phổ
biến trong dạy học văn. Tác phẩm văn chương là một bức tranh phản ánh đầy đủ và
sinh động hiện thực cuộc sống xung quanh chúng ta. Mỗi người có một cách cảm
nhận riêng về tác phẩm văn học mà mình được tiếp xúc. HS khi tiếp xúc với tác
phẩm văn chương, được học trong nhà trường cũng vậy. Vì thế, trong giờ giảng văn
cần phát huy hết năng lực tư duy, khả năng tìm tòi phát hiện cảm nhận theo những
suy nghĩ riêng của HS. Như vậy, tác phẩm văn học sẽ trở thành đối tượng của thầy
trò trong quá trình dạy học. Hiện nay phương pháp giảng dạy tích cực theo quan

điểm “Lấy học sinh làm trung tâm” đã được đưa vào ứng dụng. Trong hoạt động dạy
học nói chung, trong giờ giảng văn nói riêng với phương pháp này thì phải có sự tác
động qua lại giữa GV và HS. Để phát huy tính tích cực của HS trong hoạt động học
tập thì GV có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo hoạt động của trò. Trò phải là chủ thể tự giác
tích cực trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Để giờ học tác phẩm văn chương trở nên
sinh động, vai trò của học trò trong giờ học được khẳng định và mối liên hệ qua lại
thường xuyên giữa thầy và trò được duy trì thì không thể thiếu hệ thống câu hỏi.
Lý luận dạy học đã có nhiều công trình nghiên cứu được áp dụng trong quá
trình giảng dạy văn học đem lại hiệu quả cao. Trong các công trình đó các nhà
nghiên cứu cũng đều chú trọng đến phương pháp gợi mở mà trong đó câu hỏi được

1


sử dụng như một liệu pháp chính để phát huy tư duy của HS. Trong quá trình giảng
dạy, tuỳ vào điều kiện thực tế, tuỳ cách sáng tạo của mỗi GV xây dựng hệ thống câu
hỏi và tiến hành thực hiện cách hỏi nhằm định hướng và tổ chức điều khiển hoạt
động của HS trong giờ giảng văn. Nhưng việc sử dụng câu hỏi như thế nào để kích
thích HS, giúp các em học tập chủ động hơn càng là một yêu cầu không thể thiếu.
Bởi lẽ dạy học văn là không chỉ là dạy một môn nghệ thuật mà cũng là dạy một môn
khoa học. Vì vậy, dạy học văn ngày nay cần phải giúp HS bộc lộ suy nghĩ và cách
cảm thụ văn học riêng. Để từ đó, học văn thực sự mang lại hứng thú cho HS, bồi
dưỡng tâm hồn, nhân cách các em, mang lại nhiều lợi ích và kĩ năng sống cho bản
thân người học.
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng thì câu
hỏi luôn được xem là một trong những cách thức tích cực hóa vai trò của người học.
Đó là một trong những công cụ quan trọng để hướng dẫn người học chiếm lĩnh tri
thức và hình thành kỹ năng. Khi được đặt vào những tình huống đối diện với những
câu hỏi, HS sẽ phải vận dụng các thao tác phân tích, so sánh, liên tưởng, suy luận rồi
từ đó rút ra kết luận và tự giải quyết vấn đề. Làm như vậy, theo TS. Nguyễn Thị

Hồng Nam (Trường Đại học Cần Thơ), kiến thức sẽ được HS thu nhận bằng con
đường tích cực: học bằng cách khám phá (learning by discovering) và học bằng cách
làm (learning by doing).
Tuy nhiên, vì văn học là một môn nghệ thuật nên việc đặt câu hỏi cũng có
những đặc trưng riêng. Câu hỏi đó phải giúp HS đạt được những yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng, thái độ sau khi học đối với môn văn học. HS học xong môn học không
chỉ có những kiến thức, kĩ năng sử dụng trong cuộc sống mà còn biết trân trọng
những giá trị tinh thần cao đẹp của đất nước và nhân loại, tâm hồn các em được bồi
dưỡng, nhân cách được hoàn thiện.
Thực tế, việc dạy và học văn ở trường phổ thông nói chung và trường Trung
học cơ sở (THCS) nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề nan giải. Việc đặt câu hỏi trong
giờ học văn vẫn mang hình thức nặng nề với những câu hỏi khô khan, những câu hỏi
yêu cầu phải trả lời theo đáp án chính xác. Với những câu hỏi đóng như vậy, chưa
hoàn toàn kích thích được sự sáng tạo của HS. Như vậy, ta có thể thấy, mức độ phát
triển tư duy của HS, một phần, phụ thuộc vào câu hỏi của GV. Việc thiết kế câu hỏi

2


đã khó, nhưng làm sao để có thể xây dựng được một hệ thống các câu hỏi mở để
kích thích được suy nghĩ và cảm nhận của HS lại càng khó hơn, nhất là với thực
trạng HS ngày càng chán học môn Văn như hiện nay. Đó quả là một vấn đề nan giải
đối với giáo viên dạy Văn?!
Mặt khác, hiện nay chưa có một lý thuyết thật hệ thống và “bài bản” về đặt câu
hỏi, đặt biệt là câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn. Trong khi đó, nghiên cứu vấn đề
đặt câu hỏi mở trong dạy học thật sự cần thiết và có tính ứng dụng cao. Nó có ý
nghĩa như một sự chỉ dẫn bước đầu trong công việc giảng dạy trên lớp.
Từ thực tế và lí luận ấy, ta thấy rằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi mở
trong dạy học Ngữ văn là rất cần thiết. Vì vậy, luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu về
đề tài “Xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn bản chương trình Ngữ

văn cấp THCS” với mục đích nghiên cứu xây dựng hệ thống câu hỏi phần đọc hiểu
văn bản chương trình Ngữ văn THCS một cách khái quát và dự đồ kết quả đạt được
của học sinh sau khi học xong học phần đọc hiểu văn bản chương trình Ngữ văn
cấp THCS, đóng góp về mặt lí luận cho lí luận dạy học.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học không còn là vấn đề mới trên thế
giới. Ngay từ những năm trước công nguyên vấn đề này đã gắn liền với tên tuổi của
nhà triết học Socrát (470-390 TCN). Khổng Tử (551- 479 TCN) cho rằng khi dạy
học là đưa người học vào tình huống mâu thuẫn, tức là đặt ra cho họ những câu hỏi
bẫy để kích thích cho người học.
Ở Liên Xô (cũ), các tài liệu đề cập đến phương pháp xây dựng và sử dụng câu
hỏi trong dạy học của các tác giả như: P.B. Gophman, O.Karlinxki, B.P.Exipop,
M.A.Danilop, I.F.Khrlamop, N.M.Veczilin. Cũng đi sâu vào nghiên cứu và vấn đề
này còn có một số nhà giáo dục như: Skinner (Mỹ), Okon (Ba Lan)... Gần đây đáng
chú ý có công trình Đặt câu hỏi có hiệu quả cao (HEO) cách thức giúp học sinh
tham gia tích cực vào các hoạt động học tập của Ivan Hanel.
Ở trong nước, vấn đề nghiên cứu phương pháp xây dựng câu hỏi trong dạy học
môn văn cũng được đề cập đến từ lâu.
Trong cuốn Giáo trình Phương pháp dạy học Văn tập I của Giáo sư Phan
Trọng Luận (Chủ biên), trong phần “Phân tích nêu vấn đề”, tác giả đã nêu: Nói như

3


Rubinxten “Tư duy con người chỉ bắt đầu từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ một sự
ngạc nhiên hay sự thắc mắc, từ một sự mâu thuẫn”... [12] nhưng muốn xây dựng
được tình huống có vấn đề, trước hết lại phải biết xây dựng một hệ thống câu hỏi nêu
vấn đề. Tác giả phê phán loại câu hỏi trong hoạt động tái hiện thường vụn vặt, rời
rạc và đưa ra những yêu cầu có tính nguyên tắc khi xây dựng hệ thống câu hỏi.
Còn PGS, TS Nguyễn Viết Chữ trong cuốn: Phương pháp dạy học tác phẩm

văn chương trong nhà trường (NXB Giáo dục Việt Nam, 2010) đã trình bày những
cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng hệ thống câu hỏi cảm thụ trong dạy học
tác phẩm văn chương. Tác giả đã nối tiếp quan điểm của các nhà sư phạm Nga để
vận dụng linh hoạt hệ thống câu hỏi cảm thụ khi dạy học tác phẩm văn chương ở
trường Phổ thông Việt Nam. Ông đưa ra những yêu cầu cho việc đặt câu hỏi trong
quá trình dạy học và vận dụng cách thức đặt câu hỏi cho những thể loại văn học tiêu
biểu.
Trong bài “Đa dạng hiệu quả của câu hỏi trong dạy học văn” (Tạp chí Giáo
dục số 148 kì 2-10/2006) GS. TS. Nguyễn Thanh Hùng – trường Đại học sư phạm
Hà Nội đã khẳng định: “Đề cập những vấn đề khó nhất trong dạy học Ngữ văn có lẽ
ai cũng thừa nhận rằng xây dựng được những câu hỏi có chất lượng trong một hệ
thống nào đấy là vô cùng khó khăn và phức tạp” [6]. Tác giả cũng đã giải thích cụ
thể hơn “Phương pháp nêu câu hỏi trong dạy học Ngữ văn có một nét rất mới mà
phải phát huy là thực hiện sự bình đẳng về nhân cách giữa GV và HS. Thông qua
câu hỏi nêu ra tốt, nghĩa là biết hỏi những điều đáng hỏi, HS trả lời, GV có cơ hội
để bổ sung thêm kiến thức cơ bản và kinh nghiệm sư phạm cho mình” [6].
Với Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương (2002), tiến
sĩ Nguyễn Trọng Hoàn đã trao đổi rằng: “Việc đặt câu hỏi đối với học sinh trong
quá trình tiếp nhận văn học có ý nghĩa làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói
cách khác là mở tình huống có vấn đề, xác định tâm thế thực tại và đặt học sinh vào
các yêu cầu của việc nhận thức”. Thêm nữa, “các câu hỏi liên tưởng và tưởng tượng
trong hệ thống các câu hỏi sáng tạo trong bài học tác phẩm văn chương được xem
như một trong những giải pháp liên kết phương hướng triển khai quá trình hình
thành kiến thức, góp phần làm phong phú các hướng tiếp nhận tích cực ở học sinh”
[4].

4


Bên cạnh đó, một số tài liệu như Luận án tiến sĩ khoa học Hệ thống câu hỏi

trong sách giáo khoa bậc trung học phổ thông phần tác phẩm văn học Việt Nam
(2000) của Nguyễn Quang Cương, Hệ thống câu hỏi trong đánh giá Pisa của Việt
Nam (2012) đã đưa ra căn cứ để xây dựng hệ thống câu hỏi Ngữ văn cấp THCS...
Những năm gần đây, trong cuốn Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn
Ngữ văn cấp THCS (2009-2010), Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các môn khoa
học xã hội phải xây dựng hệ thống câu hỏi mở và đáp án mở trong quá trình dạy học.
Cùng với nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, trường Đại học Giáo dục đã tổ
chức nhiều cuộc hội thảo đề cập vấn đề dạy học với câu hỏi hiệu quả. Trong
cuộc hội thảo đã cung cấp nhiều bài nghiên cứu có giá trị về vấn đề này cũng
như đưa ra những tiêu chí đánh giá câu hỏi có hiệu quả.
Nhìn chung, ở trên thế giới và trong nước, vấn đề đặt câu hỏi trong dạy học
không còn xa lạ. Và sự phong phú của các công trình cũng đã phần nào nói lên điều
đó. Tuy nhiên vấn đề đặt câu hỏi nói chung và câu hỏi mở trong môn Ngữ Văn nói
riêng chưa có tài liệu nào viết một cách thật sự “bài bản”. Chưa có một cuốn sách
thật sự chuyên về vấn đề đặt câu hỏi mở trong dạy học Ngữ Văn. Những bài viết về
vấn đề này phần nào mới chỉ nằm rải rác trong các tài liệu. Trong khi đó, nghiên
cứu đặt câu hỏi mở trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ Văn nói riêng có giá trị
ứng dụng rất cao trong việc giúp giáo viên thực hiện một giờ dạy phù hợp với bản
chất của dạy học hiện đại theo quan điểm “lấy người học làm trung tâm”. Thông
qua đề tài Xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn bản chương trình
Ngữ văn cấp THCS, chúng ta sẽ xác lập một hệ thống khoa học các vấn đề về đặt
câu hỏi mở trong dạy học và áp dụng lý thuyết đó xây dựng một quy trình thiết kế
câu hỏi mở với đối tượng cụ thể là dạy học phần đọc hiểu văn bản chương trình
Ngữ văn cấp THCS.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn
bản chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở nhằm nâng cao chất lượng dạy học
Ngữ văn cấp THCS.

5



4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn bản chương
trình Ngữ văn THCS.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Quá trình xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc
hiểu văn bản chương trình Ngữ văn THCS.
5. Giả thuyết khoa học
Trong bối cảnh giáo viên Ngữ văn còn nhiều lúng túng khi xây dựng hệ
thống câu hỏi mở trong dạy học thì việc xác định tính khả thi và vận dụng linh hoạt
hệ thống câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học đọc hiểu văn bản
nói riêng sẽ góp phần đa dạng hóa phương pháp giảng dạy bộ môn, tạo hứng thú và
tích cực hóa hoạt động của học sinh; đồng thời hình thành cho học sinh những năng
lực quan trọng, cần thiết như: năng lực tự học, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực
hợp tác...
6. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của lí luận dạy học về câu hỏi và câu hỏi mở trong
dạy học.
- Khảo sát phân tích thực trạng việc dạy học Ngữ văn và dạy học phần đọc
hiểu văn bản chương trình Ngữ văn THCS.
- Đề xuất xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn bản chương trình
Ngữ văn THCS.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Hệ thống các câu hỏi mở phần đọc hiểu văn bản Ngữ văn cấp THCS. Ở
đây, chúng tôi không bám sát trình tự các bài học trong sách giáo khoa, bởi cách
xây dựng này ít có khả năng khái quát, tổng hợp kiến thức về từng mảng, từng chủ
điểm nội dung hoặc từng thể loại. Nhằm góp phần khắc phục tình trạng đó, chúng
tôi chỉ đi sâu nghiên cứu Hệ thống các câu hỏi mở phần Đọc hiểu văn bản Ngữ
văn cấp THCS một cách khái quát theo các nội dung sau để có cơ sở so sánh và

nhận xét. Đó là:
+ Hệ thống câu hỏi mở phần Văn học dân gian
+ Hệ thống câu hỏi mờ phần Văn học trung đại

6


+ Hệ thống câu hỏi mở phần Văn học hiện đại
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp: hệ thống hóa phân tích tổng hợp các thông tin để
phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu lý luận.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phương pháp: điều tra, phỏng vấn, thống kê toán học, phân
tích, tổng hợp số liệu, lấy ý kiến chuyên gia để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu
thực tiễn.
7.3. Phương pháp thực nghiệm
Soạn, giảng trực tiếp trên lớp bằng một số giáo án trong chương trình Ngữ
văn THCS.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa lí luận của đề tài
- Bổ sung thêm phần cơ sở lý luận về lí luận dạy học, phương pháp dạy học
và phương pháp dạy học Ngữ văn.
- Làm rõ thực trạng dạy học Ngữ văn ở nhà trường THCS hiện nay.
- Cung cấp một cách rõ ràng và hệ thống cơ sở lí luận những vấn đề cơ bản
về xây dựng hệ thống câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn THCS.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Xây dựng và triển khai hiệu quả hệ thống câu hỏi mở có thể góp
cao chấ t lươ ̣ng da ̣y ho ̣c Ngữ văn


phầ n nâng

trong nhà trường phổ thông và có thể được ứng

dụng rộng rãi tại tất cả các trường THCS, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của việc
dạy học Ngữ văn hiện nay.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc nghiên cứu xây dựng câu hỏi mở
trong dạy học Ngữ văn cấp THCS.
Chương II: Đề xuất việc xây dựng hệ thống câu hỏi mở phần đọc hiểu văn
bản chƣơng trình Ngữ văn cấp THCS
Chương III: Thực nghiệm sƣ phạm

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG
CÂU HỎI MỞ TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN CẤP THCS
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Lí thuyết về hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn
1.1.1.1. Khái niệm câu hỏi trong dạy học
Hỏi là nêu ra điều mình muốn người khác trả lời để mình biết về vấn đề nào đó.
Câu hỏi: Aristotle là người đầu tiên đã phân tích câu hỏi dưới góc độ lôgic, ông
cho rằng: Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cả cái đã biết và cái chưa biết.
Câu hỏi đó là những bài làm mà khi hoàn thành chúng, học sinh phải tiến hành hoạt
động tái hiện, bất luận là trả lời miệng, trả lời viết hoặc có kèm theo thực hành hoặc
xác minh bằng thực nghiệm.

Khái niệm câu hỏi cũng còn được diễn đạt dưới dạng khác như: câu hỏi là
dạng cấu trúc ngôn ngữ, diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi, một mệnh lệnh cần được
giải quyết.
Câu hỏi thuộc phạm trù khả năng; nó chứa đựng cả hai yếu tố, sự có mặt của
cái không rõ và nguyện vọng nhu cầu của người muốn hỏi.
Tuy có những quan niệm khác nhau nhưng về dấu hiệu bản chất của câu hỏi,
đều được các tác giả nêu ra, đó là: xuất hiện điều chưa rõ, cần được giải quyết từ
điều đã biết. Trong đời sống cũng như trong nghiên cứu khoa học, con người chỉ
nêu ra thắc mắc, tranh luận khi đã biết nhưng chưa đầy đủ, cần biết thêm. Nếu khi
không biết gì hoặc biết tất cả về sự vật nào đó, thì không có gì để hỏi về sự vật đó
nữa. Sự tương quan giữa cái biết và cái chưa biết thúc đẩy việc mở rộng hiểu biết
của con người.
Trong quá trình dạy học nói chung và trong dạy học Ngữ văn nói riêng, câu
hỏi được đặt ra khi người dạy muốn tạo “tình huống có vấn đề”, đòi hỏi HS phải
suy nghĩ trả lời nhằm thu được kiến thức và đạt được những yêu cầu về kĩ năng,
hoặc thái độ cụ thể cho từng bài học.
Câu hỏi được đặt ra là cách thức để thực hiện sự giao tiếp và cốt yếu là để
khêu gợi, thúc đẩy sự giao tiếp nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của bài học.
Câu hỏi chứa trong mình những nội dung khác nhau để học hỏi, để truyền đạt

8


và để kiểm tra, tích lũy tri thức cho HS.
Mục đích nêu câu hỏi trong dạy học là để:
+ Kiểm tra sự chuẩn bị bài học ở HS.
+ Thực hiện việc giảng bài.
+ Luyện tập và thực hành.
+ Tổ chức, hướng dẫn HS học tập.
+ Khích lệ, kích thích suy nghĩ.

+ Đánh giá trình độ của HS.
Về bản chất, theo GS. TS Nguyễn Thanh Hùng thì “câu hỏi trong nhà trường
là hình thức phổ biến và hết sức cơ bản để bày tỏ quan hệ tin cậy và tôn trọng HS ở
người GV” [43;7]. Thực chất nêu câu hỏi là vận dụng phương pháp đối thoại trong
dạy học Ngữ văn. Nó xứng đáng là một trong những phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hóa hoạt động của HS.
1.1.1.2. Vai trò của câu hỏi trong dạy học
Lí luận giáo dục hiện đại nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là
người tham gia chủ động, trực tiếp vào quá trình dạy học để tìm kiếm kiến thức và
lĩnh hội kỹ năng dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nhưng để người học có thể phát
huy tối đa vai trò của mình thì các nhà giáo dục phải xây dựng được một môi trường
giáo dục giúp học sinh có thể sử dụng năng lực tư duy ở mức tối đa. Môi trường ấy
sẽ được xây dựng bằng các hoạt động tương tác giữa giáo viên với học sinh và giữa
học sinh với nhau mà hệ thống câu hỏi là công cụ quan trọng để “kích hoạt” và dẫn
dắt những hoạt động tương tác đó. Việc sử dụng câu hỏi trong những tình huống
dạy học nhất định sẽ đòi hỏi học sinh phải vận dụng các thao tác tư duy như phân
tích, so sánh, phán đoán, suy luận, đánh giá và giải quyết vấn đề. Qua quá trình giải
quyết vấn đề, học sinh vừa lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng vừa rèn luyện tư
duy.
Câu hỏi là phương tiện dùng trong dạy và học, là nguồn để hình thành kiến
thức, kỹ năng cho HS. Khi tìm được câu trả lời là người học đã tìm ra được kiến
thức mới, rèn được kỹ năng xác định mối quan hệ, đồng thời sử dụng được những
điều kiện đã cho. Như vậy là vừa củng cố kiến thức, vừa nắm vững và mở rộng kiến
thức. Câu hỏi là phương tiện để rèn luyện và phát triển tư duy.

9


Khi trả lời câu hỏi, HS phải phân tích, xác định mối quan hệ, so sánh, đối
chiếu những điều đã cho và những điều cần tìm, đòi hỏi phải suy nghĩ logic. Người

học phải luôn luôn suy nghĩ, do đó, tư duy được phát triển. Cũng qua việc tìm câu
trả lời mà lôi cuốn, thu hút người đọc vào nhiệm vụ nhận thức.
Câu hỏi phát huy năng lực tự học, nếu được GV sử dụng thành công còn có
tác dụng gây được hứng thú nhận thức khát vọng tìm tòi dựa trên năng lực tự học
của HS. Ngoài ra, nó cho phép GV thu được thông tin ngược về chất lượng lĩnh hội
kiến thức của HS (không chỉ là chất lượng kiến thức mà cả về chất lượng tư duy).
Những thông tin này giúp GV điều chỉnh quá trình dạy học một cách linh hoạt.
Vì câu hỏi có một vai trò quan trọng như thế nên có thể nói chất lượng cũng
như khả năng thành công của một bài học và một giờ dạy sẽ được quyết định chủ
yếu qua hệ thống câu hỏi. Bài học ấy, giờ học ấy đã thật sự phát huy được tính tích
cực của người học hay chưa; mục đích của bài học ấy, giờ học ấy có hướng đến
phát triển năng lực hay không, về căn bản là do hệ thống câu hỏi quyết định.
1.1.2. Lí thuyết về hệ thống câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn
1.1.2.1. Khái niệm câu hỏi mở
Có nhiều tài liệu đã giải thích cụ thể “Thế nào là một câu hỏi mở”? Theo TS.
Nguyễn Minh Tuấn thì câu hỏi mở là hỏi khi muốn nắm bắt ý kiến riêng của người
hỏi, đào sâu thêm thông tin, khơi gợi người được hỏi nói về những điều mà người
hỏi muốn biết hay chưa rõ [26].
Còn trong dạy học, các câu hỏi yêu cầu HS tự bảo vệ ý kiến và giải thích lý
do của mình gọi là những câu hỏi mở. Câu hỏi mở là câu hỏi có nhiều đáp án và
khuyến khích HS suy nghĩ chứ không chỉ khôi phục thông tin từ trong trí nhớ.
1.1.2.2. Vai trò của câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn
Việc giảng dạy tri thức mới hay kỹ năng mới trong môn Ngữ văn thông
thường phải dựa trên nền tảng đã biết của HS. Chiến thuật đặt câu hỏi gợi mở của
GV sẽ khiến HS nhớ thông tin tốt hơn, học bài mà có cảm giác thú vị khi mình tự
cảm nhận, phát hiện những chi tiết nghệ thuật độc đáo, hay tiếp thu kiến thức mới.
Việc đặt câu hỏi gợi mở không chỉ giới hạn về ở phạm vị ngôn ngữ như từ vựng,
cấu trúc cú pháp mà còn có thể khơi gợi ý tưởng, cảm xúc, tình huống, sự liên
tưởng nào đó…


10


Câu hỏi mở kích thích HS đào sâu suy nghĩ và đưa ra nhiều quan điểm.
Không chỉ có một câu trả lời đúng. Đưa ra các câu hỏi mở cho nhóm HS sẽ thu
được vô số các ý tưởng và câu trả lời khác nhau.
Câu hỏi mở giúp GV thăm dò, lấy ý kiến của HS, đòi hỏi HS tư duy nhiều,
khuyến khích HS tham gia thảo luận. Câu hỏi mở buộc HS phải ngẫm nghĩ và tư
duy. Từ đó, GV sẽ nhận được nhiều ý kiến và cảm nhận từ HS. Nó trao quyền làm
chủ cuộc đối thoại cho người trả lời. Đối với giáo viên, nghệ thuật đặt câu hỏi mở là
một công cụ tuyệt vời, nó giúp giáo viên biết được học viên đã biết gì, chưa biết gì,
để bài giảng có trọng tâm và có chiều sâu.
Thật khó để GV có thể khơi gợi được ý kiến hay vốn từ của HS nếu không
cung cấp cho họ ngữ liệu, không tạo ra một ngữ cảnh hợp lý. Thông thường thì GV
có thể sử dụng những công cụ có tác dụng gợi mở như hình ảnh, âm thanh, đôi khi
là cử chỉ, điệu bộ… Ví dụ như giờ luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản, GV có thể sử
dụng hình ảnh, hoặc tiêu đề của đoạn văn cần đọc và phân tích làm phương tiện để
đặt câu hỏi gợi mở, để HS dự đoán nội dung của bài học… GV nên sử dụng những
câu hỏi mở mang tính chất thảo luận. Có thể bắt đầu giờ học với một cuộc thảo luận
sôi nổi bằng cách đặt một câu hỏi mở mang tính khuyến khích HS tìm ra câu trả lời.
Sử dụng những câu hỏi mở trong giờ dạy văn bản, GV có thể dễ dàng tạo
một không khí sôi nổi trong lớp khi gợi ra những ý kiến trái chiều của HS, từ đó,
GV có thể nắm bắt được cách suy nghĩ của HS về tác phẩm, thấy được những cái
đúng, cái sai để “nắn” HS theo hướng chuẩn, hoặc khuyến khích hơn sự sáng tạo
của HS trong quá trình đọc hiểu tác phẩm.
Từ việc cung cấp hệ thống câu hỏi mở, GV dần dần hình thành các kĩ năng
cần thiết cho HS như kĩ năng tự học, kĩ năng đánh giá, khả năng làm việc theo
nhóm một cách khoa học và hiệu quả cho HS, tránh được lối dạy “một chiều”, “định
hướng sẵn” một cách khô cứng khi hướng dẫn HS cảm thụ tác phẩm văn học. Thay
vì một giờ dạy theo trật tự thông thường, với câu hỏi mở, GV hoàn toàn có thể biến

giờ dạy thành một giờ thảo luận dành cho HS (với định hướng mở cho trước), để
HS phải làm việc hoàn toàn dưới sự giám sát của GV, rồi từ đó, GV tổng kết, khái
quát vấn đề được và chưa được, nên hay không nên, bổ sung hoặc giải thích...Như
vậy, giờ học sẽ thực sự là của HS, do HS tự hoạt động để chiếm lĩnh, khuyến khích

11


sự bạo dạn, khả năng thuyết trình và bảo vệ ý kiến riêng của HS. Sự nhàm chán của
những tiết dạy thông thường sẽ được thay thế bằng sự cởi mở, sôi nổi, hồn nhiên và
đầy thú vị! Vậy mới biết, hiệu quả của những câu hỏi mở quả thực là rất lớn.
1.1.2.3. Đặc điểm của câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn
Qua quá trình thực tế giảng dạy trên lớp và việc nghiên cứu các tài liệu, chúng tôi
thấy có một số đặc điểm tiêu biểu để chúng ta có thể dễ dàng nhận ra dấu hiệu của
các câu hỏi mở được sử dụng trong giờ dạy:
+ Khi một câu hỏi mở được đặt ra, nó yêu cầu HS phải tạm dừng, suy nghĩ và phản
ứng.
+ Câu trả lời của HS có thể không phải là đúng theo định hướng của GV, mà nó là
cảm xúc cá nhân, ý kiến, hay ý tưởng, nhận định riêng của HS về một vấn đề nào
đó.
+ Khi hỏi những câu hỏi mở, việc kiểm soát nội dung sẽ chuyển qua cho GV và GV
bắt đầu trao đổi với HS.
Có thể phân loại các dạng câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn như sau:
Bảng 1.1. Phân loại một số dạng câu hỏi mở trong dạy học Ngữ văn
Một số dạng câu hỏi mở

Ví dụ

a. Câu hỏi đào sâu (giúp khai thác (?) Chi tiết trong tác phẩm này có ý nghĩa gì với
thông tin tác phẩm, mở rộng vấn em?

đề, giúp tìm bản chất cốt lõi, chủ (?) Em có thể mở rộng ý này như thế nào?
đề của tác phẩm)

(?) Tại sao vấn đề này lại quan trọng thế? Tại sao
em nghĩ vậy?
(?) Em có thể trình bày vấn đề được gợi ra trong
tác phẩm theo một cách khác được không? Em
có thể giải thích lý do cho mọi người không?
(?) Từ những chi tiết của tác phẩm, em cho rằng
đâu là vấn đề cốt lõi? Từ đó, em hãy chỉ ra chủ
đề của tác phẩm?
...

12


b. Câu hỏi giả định (giúp HS suy (?) Điều gì sẽ xảy ra nếu...?
nghĩ vượt qua khỏi khuôn khổ của (?) Nếu..., em nghĩ thế nào?
tình huống hiện tại, khuyến khích (?) Nếu..., em đồng ý hay phản đối? Ta có thể
sự liên tưởng, sáng tạo)

đưa ra giả định nào để thay thế?
(?) Hãy hình dung, nếu...,thì điều gì sẽ xảy ra?
Hãy trình bày suy nghĩ của em về giả thuyết ấy?
...

c. Câu hỏi xác định nguồn thông (?) Những dữ liệu này (về tác giả, tác phẩm)
tin (giúp đánh giá mức độ tin cậy, được thu thập như thế nào?
trung thực của thông tin mà HS (?) Em đã sử dụng phương pháp nào để thu thập?
đưa ra) (Thƣờng sử dụng trong (?) Tại sao em nghĩ những thông tin mình đưa ra

các buổi thảo luận hoặc các câu là có thể tin cậy được? Tại sao em lại nghĩ rằng
hỏi nêu vấn đề)

điều này là đúng?

d. Câu hỏi về sự đánh giá của cá (?) Em có suy nghĩ gì về nhân vật...?
nhân (giúp đánh giá quan điểm, (?) Em đánh giá như thế nào về...?
tình cảm, suy nghĩ cá nhân xoay (?) Em đã bao giờ ở trong tình huống như ở
quanh tác phẩm)

trong tác phẩm chưa và em đã xử lý ra sao?
...

e. Câu hỏi hành động (giúp HS (?) Em chuẩn bị làm gì...?
lập kế hoạch và triển khai các ý (?) Khi nào em sẽ...?
tưởng vào tình huống thực tế)
Như vậy, thông qua hệ thống các câu hỏi trên, khi GV áp dụng vào từng bài
giảng, từng văn bản theo những đặc trưng riêng biệt, nó sẽ giúp cho HS tìm ra được
các mối quan hệ trong hiện tượng, sự kiện, tự đưa ra diễn giải hoặc kết luận riêng
về tác phẩm. Hệ thống câu hỏi này giúp khuyến khích quá trình đọc và đồng sáng
tạo với tác giả, tăng khả năng liên tưởng, tưởng tượng (đây là yếu tố quan trọng đối
với việc học Văn).
Đồng thời, HS biết cách lựa chọn nhiều phương pháp để giải quyết các đề
văn, hình thành lối tư duy và cách viết, cách giải quyết vấn đề mà không lâm vào
“thế bí” khi viết văn như các HS gặp phải hiện nay.

13


1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Đặc điểm của môn Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS)
1.2.1.1. Cấu trúc
Bộ sách giáo khoa Ngữ văn bậc THCS được biên soạn theo Chương trình
THCS ban hành kèm theo Quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT, ngày 24 tháng 1
năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh những hướng cải tiến
chung của bộ Chương trình như giảm tải, tăng thực hành, gắn đời sống, nét cải tiến
nổi bật nhất của Chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn là hướng tích hợp.
Biểu hiện rõ nhất của hướng đó là việc sáp nhập ba phần lâu nay vẫn thường
được gọi là ba phân môn (Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn) vào một chỉnh thể là Ngữ
văn.
Việc thay đổi cấu tạo và tên gọi môn học ảnh hưởng không nhỏ đến cấu trúc
sách giáo khoa, tổ chức bài học cũng như nhiều mặt của nội dung và phương pháp
học tập, giảng dạy. Mỗi bài học, đơn vị của sách giáo khoa, nói chung đều gồm đủ
ba phần: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn.
Mục Kết quả cần đạt đặt ở đầu nêu mục tiêu mà học sinh cần đạt tới ở mỗi
bài, nói chung cũng gồm đủ ba phần ứng với ba phân môn. Trừ phần Văn bản và
Chú thích dùng chung cho cả ba phần, các mục còn lại đều thống nhất sắp xếp theo
trình tự Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Các văn bản được bố trí theo hệ thống thể
loại và phần nào theo tiến trình văn học sử.
Ngoài số lớn văn bản được hướng dẫn tìm hiểu tại lớp, còn một số văn bản
“tự học có hướng dẫn” mang tính chất bắt buộc nhằm hình thành, phát triển thói
quen và khả năng tự học, tìm tòi nghiên cứu; số lượng loại văn bản này sẽ được
nâng dần lên ở những lớp trên.
Ở từng phân môn, còn một số văn bản phụ và văn bản “Đọc thêm” có tính
chất tư liệu nhằm giúp học sinh hiểu rõ hơn một vài phương diện của văn bản chính,
nắm vững hơn các vấn đề lí thuyết hay có thêm chất liệu để làm tốt hơn các bài tập.
Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài luận văn này, người viết chỉ đề cập đến
phần Văn bản của mỗi khối lớp. Cụ thể số tiết dạy đọc hiểu Văn bản (bao gồm cả
phần ôn tập văn bản) phân bố cho từng khối lớp như sau:


14


Bảng 1.2. Số tiết dạy học đọc hiểu văn bản phân bố trong từng khối lớp
Lớp

Học kì I

Học kì II

Tổng số tiết/năm học

6

24 tiết

23 tiết

47 tiết

7

27 tiết

16 tiết

43 tiết

8


24 tiết

21 tiết

45 tiết

9

37 tiết

29 tiết

66 tiết

1.2.1.2. Nội dung phần Văn bản Ngữ văn trong chương trình cấp THCS
Qua quá trình giảng dạy trên lớp nhiều năm, chúng tôi nhận thấy: Để phục vụ
cho việc dạy và học môn Ngữ văn THCS, ngoài sách giáo khoa (SGK) và sách giáo
viên, đã có nhiều tài liệu tham khảo, tài liệu hướng dẫn đều biên soạn theo chương
trình từng lớp, bám sát trình tự các bài học trong SGK, với ba phân môn: Văn học,
Tiếng Việt và Tập làm văn. Ưu điểm của cách cấu trúc này là bám sát quá trình dạy
– học của thầy và trò ở mỗi lớp, tiện cho việc chuẩn bị bài ở nhà và ôn bài sau khi
học trên lớp của HS. Tuy nhiên, nhược điểm của cách biên soạn này là không có sự
khái quát, tổng hợp kiến thức về từng mảng, từng chủ điểm nội dung hoặc từng thể
loại để HS có sự so sánh, đối chiếu bài học. Vì vậy, qua thực tế giảng dạy, trong
luận văn này, chúng tôi sẽ khái quát các văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS
thành các mảng theo chuyên đề:
+ Hệ thống văn bản văn học dân gian
+ Hệ thống văn bản văn học trung đại
+ Hệ thống văn bản văn học hiện đại
Các văn bản này được sắp xếp đan xen giữa các khối lớp và đều hướng tới

việc hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu và tạo lập văn bản cho HS.
Ngoài ra, trong chương trình Ngữ văn cấp THCS, còn một hệ thống các văn
bản nhật dụng (có phương pháp và mục đích dạy khác với việc hướng dẫn HS đọc
hiểu văn bản văn học thông thường) nhưng ta cũng có thể xếp chúng vào nhóm văn
bản thuộc giai đoạn văn học hiện đại.
Nội dung dạy học các văn bản văn học của môn Ngữ văn THCS cụ thể như sau:

15


Lớp 6
Bảng 1.3. Thống kê các văn bản trong chương trình Ngữ văn lớp 6
- Truyền thuyết:
Con Rồng, cháu Tiên, Bánh chưng bánh giầy, Thánh
Gióng; Sơn Tinh, Thủy Tinh, Sự tích Hồ Gươm.
- Truyện cổ tích:
Văn học dân gian

Thạch Sanh, Em bé thông minh, Cây bút thần (truyện cổ
tích Trung Quốc), Ông lão đánh cá và con cá vàng (truyện
cổ tích của A. Pu-skin).
- Truyện ngụ ngôn:
Ếch ngồi đáy giếng, Thầy bói xem voi; Chân, Tay, Tai, Mắt,
Miệng.
- Truyện cười:
Treo biển, Lợn cưới áo mới.
- Con hổ có nghĩa (Truyện trung đại Việt Nam).
- Mẹ hiền dạy con (Trích từ sách “Liệt nữ truyện” – Trung

Văn học trung đại


Quốc)
- Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng (Hồ Nguyên Trừng)
- Bài học đường đời đầu tiên (Trích “Dế Mèn phiêu lưu kí”
– Tô Hoài).
- Sông nước Cà Mau (trích “Đất rừng phương Nam” –
Đoàn Giỏi).
- Bức tranh của em gái tôi (Tạ Duy Anh)
- Vượt thác (trích “Quê nội” – Võ Quảng)
- Buổi học cuối cùng (An-phông-xơ Đô-đê)

Văn học hiện đại

- Cô Tô (Nguyễn Tuân)
- Cây tre Việt Nam (Thép Mới)
- Lòng yêu nước (I-li-a Ê-ren-bua)
- Lao xao (Trích “Tuổi thơ im lặng” – Duy Khán)

16


×