Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đánh giá nguyên tắc pháp căn trong bộ Hoàng Việt luật lệ Bài tập học kỳ Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.49 KB, 17 trang )

Đánh giá các quy định trong BLDS 2005 về hình thức sở hữu
Chuyên mục Bài tập học kỳ, Luật Dân sự 1

Bài tập học kỳ Luật Dân sự 1.

Ở Việt Nam, các hình thức sở hữu cũng được biểu hiện một cách rõ nét và mang những nét
riêng góp phần thúc đẩy nền kinh tế của đất nước. Các quy chế pháp lý đối với mỗi hình thức sở
hữu cũng có những nét riêng biệt nên việc phân biệt các hình thức sở hữu khác nhau trong luật
dân sự là cần thiết. Hình thức sở hữu là vấn đề rất lớn được Bộ luật Dân sự điều chỉnh nhưng
vẫn còn tồn tại những điểm bất cập, chưa hợp lý.

PHẦN THỨ HAI: NHỮNG NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ VỀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005 VỀ
HÌNH THỨC SỞ HỮU.

I. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ CHUNG VỀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005 VỀ HÌNH THỨC
SỞ HỮU.

Sau một thời gian đi vào cuộc sống, Bộ luật Dân sự đã phát huy vai trò trong việc tạo lập hành
lang pháp lý cho các giao dịch dân sự, tạo chuẩn mực ứng xử pháp lý cho các chủ thể tham gia
các giao dịch, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể. Tuy nhiên, do sự
phát triển của kinh tế - xã hội, Bộ luật cũng đã bộc lộ ít nhiều hạn chế, nhất là những vấn đề liên
quan đến sở hữu.

Trong chế định về các hình thức sở hữu, nhìn chung BLDS 2005 đã có những cải thiện rõ rệt so
với BLDS 1995. Điểm hợp lí đã được khẳng định trong suốt thời gian qua khi Bộ luật phát huy
vai trò trong thực tiễn cuộc sống. Tuy vậy, do các nguyên nhân khác nhau trong quá trình xây
dụng luật và do sự phát triển không ngừng của xã hội, chúng ta đã nhận thấy một vài điểm
không phù hợp trong nội dung về các hình thức sở hữu.

BLDS 2005 quy định có sáu hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức


chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (gọi chung là các tổ
chức). Nhìn chung thì sáu hình thức sở hữu của BLDS 2005 không thể hiện sự khác biệt về nội
dung của quyền sở hữu. Việc phân loại các hình thức sở hữu như trong Bộ luật Dân sự là chưa
hợp lý vì các hình thức sở hữu khác nhau ở hình thức thực hiện các quyền năng của chủ sở


hữu chứ không phải ở chức năng, nhiệm vụ, tính chất của các loại hình tổ chức. Sáu hình thức
sở hữu hiện nay được xác định dựa trên sự liệt kê các loại hình tổ chức dựa theo chức năng
nhiệm vụ của các loại hình tổ chức (pháp nhân). “Việc phân loại hình thức sở hữu căn cứ vào
việc liệt kê chủ thể tỏ ra chưa khoa học vì sự liệt kê có thể chưa đầy đủ vì có thể còn nhiều loại
hình tổ chức, các nhóm người mới phát sinh. Nếu như vậy thì khi có một thành phần kinh tế mới
xuất hiện trong xã hội thì BLDS lại phải sửa, như vậy tính ổn định của BLDS không cao” - theo
bà Hoàng Thị Thúy Hằng (Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp).

Ngoài ra còn có sự không thống nhất trong tên gọi của một số hình thức sở hữu như Luật Đất
đai thì quy định hình thức sử hữu toàn dân đối với đất đai còn Bộ luật Dân sự thì quy định hình
thức sở hữu nhà nước đối với đất đai. Ngoài tên gọi và tiêu chí phân loại thì việc thiếu các quy
định liên quan đến vật quyền như mối quan hệ giữa các loại quyền, thứ tự ưu tiên, hậu quả pháp
lý khi xử lý các quyền… chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc đẩy mạnh lưu thông hàng
hóa, khai thác có hiệu quả các loại tài sản, nhất là bất động sản.

Từ những hạn chế trên, kiến nghị của cá nhân em là:

Trong điều kiện Hiến pháp 1992 chưa sửa đổi, một mặt, vẫn phải ghi nhận các chế độ sở hữu
theo Hiến pháp, đồng thời trong bộ luật Dân sự, là các hình thức sở hữu: toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu pháp nhân, sở hữu tư nhân và sở hữu chung; Mặt khác, cần bổ sung các quy định
mang tính nguyên tắc trong bộ luật Dân sự làm cơ sở cho các quy chế pháp lý đối với các loại
tài sản đặc thù do các luật chuyên ngành điều chỉnh. Ví dụ: quyền sử dụng đất, sở hữu trí tuệ,
nhà chung cư, các loại giấy tờ có giá v.v…


Nên dựa vào tiêu chí là sự khác biệt trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản để khẳng định
hình thức sở hữu cho phù hợp, thay vì phân loại hình thức sở hữu theo kiểu liệt kê như hiện
nay. Cụ thể, nếu tài sản thuộc về một chủ thể thì gọi là hình thức sở hữu tư nhân. Nếu tài sản
thuộc sở hữu của từ hai chủ thể trở lên thì gọi là hình thức sở hữu chung. Cuối cùng, nếu tài sản
thuộc về Nhà nước thì gọi là hình thức sở hữu Nhà nước. Tất nhiên, với cả 3 hình thức sở hữu
này những đặc thù riêng trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của từng hình thức sẽ được pháp
luật quy định phù hợp. Còn nếu dựa vào tiêu chí chủ thể có quyền trực tiếp chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt tài sản thì sẽ có 4 hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước, sở hữu cá nhân, sở hữu
pháp nhân và sở hữu chung. Với một ý kiến khác: theo TS. Phùng Trung Tập (Đại học Luật Hà
Nội) cho rằng, “BLDS 2005 mới liệt kê được các hiện tượng sở hữu tồn tại trong xã hội và có vẻ
đánh đồng các hình thức sở hữu với các thành phần kinh tế. BLDS sửa đổi không nên cá biệt


hoá một nhóm tổ chức nhất định thành một hình thức sở hữu, bỏ quy định sở hữu tập thể và sở
hữu chung hỗn hợp, đồng thời bổ sung hình thức sở hữu hợp tác xã”.

II. MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ CHO CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU.

1. Đối với hình thức sở hữu nhà nước.

Trong BLDS 2005, việc quy định hình thức sở hữu nhà nước thay cho sở hữu toàn dân và sử
dụng thuật ngữ "sở hữu nhà nước" là tăng trách nhiệm cho chủ sở hữu. Nhà nước là một cơ
quan, một dạng của pháp nhân, là chủ thể có thực và cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật trước nhân dân trong việc thực hiện quyền năng sở hữu của mình. Đây là một điểm tiến bộ.

“Tài sản thuộc sở hữu nhà nước, Điều 200 BLDS 2005 có nêu ra các tài sản là núi non, sông hồ,
lãnh hải, thềm lục địa, vùng trời… giống như Điều 17 Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, các vật này
vốn dĩ không thuộc đối tượng của quyền cá nhân và cơ quan nhà nước cũng không có quyền
định đoạt. Chúng không thuộc đối tượng của Luật Dân sự và cũng không phải là các tài sản quy
định trong Luật Dân sự, không thuộc đối tượng của quyền sở hữu. Chúng cần được phân biệt

với các tài sản thuộc sở hữu nhà nước khác mà các cơ quan nhà nước có thể định đoạt thông
qua các thủ tục hợp pháp thông thường như đối với động sản (ô tô), bất động sản (đất đai)”.
Cho dù là sở hữu nhà nước thì các điều khoản về các hình thức sở hữu trong BLDS 2005 đều
quy định rằng cơ quan nhà nước cần phải quản lý và sử dụng tài sản nhà nước theo quy định
pháp luật. “Việc quản lý và sử dụng ấy bao gồm cả việc định đoạt với tài sản cho nên sở hữu
nhà nước càng không phải là quy định về quyền sở hữu có nội dung đặc biệt về quyền lợi” (dựa
theo ý kiến của GS Aikyo Morishima trong buổi tọa đàm về những vấn đề sửa đổi, bổ sung trong
Bộ luật Dân sự 2005)

Theo ý kiến của TS. Ngô Huy Cương (Đại học Quốc gia Hà Nội) thì khi thu gọn các hình thức sở
hữu trong Bộ luật Dân sự mới thì nên “trả” hình thức sở hữu nhà nước về cho Hiến pháp thức là
không quy định hình thức sở hữu này trong Bộ luật dân sự nữa.

2. Đối với hình thức sở hữu tập thể.

Tên gọi của hình thức "sở hữu tập thể" là chưa đúng với bản chất của nó. Theo Luật Hợp tác xã
(HTX) năm 2003, HTX là một tổ chức kinh tế, do nhiều người cùng góp vốn, góp sức thành lập
để thực hiện tốt hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, góp phần cải thiện đời sống
của từng xã viên. HTX có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản này. Như vậy, không


phải tất cả xã viên là đồng sở hữu đối với tài sản của HTX, mà chỉ có HTX với tư cách là pháp
nhân mới có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản của HTX. Vì vậy, thực chất, sở
hữu tập thể trong HTX là sở hữu của pháp nhân...

3. Hình thức sở hữu tư nhân.

Đối với hình thức sở hữu tư nhân, em có một vài nhận xét và kiến nghị sau: Xuất phát từ đặc
điểm riêng của hình thức sở hữu tư nhân là sự chi phối trực tiếp có ý thức của người chủ sở
hữu đối với TLSX nên hình thức sở hữu này đã có tác dụng lớn trong việc khuyến khích, thúc

đẩy nền sự phát triển của nền kinh tế nói chung vì chủ sở hữu đương nhiên coi TLSX của mình
là điều kiện để thu về toàn bộ lợi ích kinh tế trong quá trình sản xuất vật chất độc lập. Tuy các
quy định ngày càng thay đổi nhưng bản chất của sở hữu tư nhân vẫn là sự chuyển hóa từ
quyền sở hữu đối với tài sản thành quyền chiếm hữu lợi ích kinh tế. Điều này vẫn không có sự
thay đổi từ BLDS 1995. Tuy có nhiều mặt tích cực nhưng hình thức sở hữu tư nhân vẫn tiềm ẩn
những vấn đề phức tạp đặc biệt là khi nước ta đang trong thời kì quá độ hiện tại. Vấn đề đặt ra
là cần phải xác định cho được và quy định trong luật những điều kiện phải có khi phát triển sở
hữu tư nhân về TLSX trong tình hình mới.

4. Về vấn đề sở hữu chung trong nhà chung cư.

Theo Điều 225, phần sở hữu chung trong nhà chung cư là phần diện tích, trang thiết bị dùng
chung trong nhà chung cư, các chủ sở hữu trong nhà chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong việc quản lý, sử dụng phần diện tích và thiết bị chung… Tuy nhiên, trên thực tế, nảy
sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến phần sở hữu chung mà pháp luật dân sự chưa điều chỉnh.
Chẳng hạn, phần diện tích nào được coi là phần sở hữu chung phần diện tích này được bố trí ở
khu vực nào của tòa nhà chung cư, các chủ sở hữu khi căn hộ bán có được quyền để lại phần
diện tích được coi là sở hữu chung hay không… (theo ý kiến của ông Nguyễn Mạnh Khởi - Cục
Quản lý nhà và thị trường bất động sản, Bộ Xây dựng).

PHẦN THỨ NHẤT: CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG BLDS 2005.

Từ sự “định hướng” của Hiến pháp năm 1992 về chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu,
chương XIII, Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định 6 hình thức sở hữu được trình bày thành 6 mục
tương ứng đó là: Sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu chung; sở hữu của
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề ngiệp. Mỗi hình thức sở hữu có các chế độ pháp lí


mang tính chất đặc thù và những quy định khác nhau về các phương thức tồn tại, vận động của

sở hữu gắn liền với các chủ sở hữu cụ thể. Ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về từng hình thức sở hữu
được quy định trong BLDS 2005:

I. SỞ HỮU NHÀ NƯỚC.

1. Khái niệm chung và đặc điểm:

Sở hữu nhà nước là

Trong BLDS 2005, sở hữu nhà nước được quy định từ Điều 200 đến Điều 207. Điều 200 quy
định Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản của chế độ sở hữu toàn dân, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người đại diện cho nhân dân quản lí, nắm giữ những tư liệu sản
xuất (TLSX), là chủ sở hữu đối với tài sản được quy định tại điều 200 Bộ luật Dân sự và Điều 17
Hiến pháp năm 1992, Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với các
tài sản đó. Điều 201 Bộ luật Dân sự đã khẳng định điều này:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài
sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước.

2. Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài
sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước”.

Một vấn đề quan trọng của sở hữu nhà nước đó là quyền sở hữu nhà nước. Quyền sở hữu nhà
nước hiểu theo nghĩa khách quan là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm:

- Xác nhận việc chiếm hữu của Nhà nước đối với những TLSX chủ yếu, quan trọng nhất;

- Quy định về nội dung và trình tự thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
đối với tài sản của Nhà nước.


- Xác định phạm vi, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp do Nhà nước
thành lập trong việc quản lí nghiệp vụ những tài sản do Nhà nước giao theo quy định của pháp
luật để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh, quản lí hoặc hoạt động công ích.


Theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu nhà nước được hiểu là toàn bộ những hành vi mà Nhà
nước - với tư cách chủ sở hữu - thực hiện các quyền năng cụ thể về chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với tài sản của mình. Nhà nước “là chủ” đối với các TLSX chủ yếu và cũng tự quy
định các quyền năng và các trình tự để thực hiện các quyền năng, nhưng không có nghĩa là
quyền hạn của Nhà nước là vô tận đối với các tài sản mà nhà nước là chủ sở hữu. Nhà nước
cũng như các chủ thể khác chỉ thực hiện quyền của chủ sở hữu trong phạm vi pháp luật cho
phép.

2. Chủ thể của sở hữu nhà nước.

Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc chế độ sở hữu nhà nước, Nhà nước tham gia
quan hệ quyền sở hữu với tư cách là chủ thể đặc biệt và là chủ thể duy nhất đối với các TLSX
chủ yếu, Nhà nước đại diện cho nhân dân nắm và quản lí toàn bộ tài sản thuộc sở hữu toàn dân
đồng thời nắm toàn bộ quyền lực chính trị. Nhà nước giao tài sản cho các doanh nghiệp nhà
nước, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang quyền quản lí, sử dụng đúng mục đích theo quy định
của pháp luật và thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lí, sử dụng tài sản đó.

Các điều 203, 204, 205 BLDS 2005 quy định về việc thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước đối
với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, tài sản được giao cho cơ quan nhà nước,
đơn vị vũ trang, tài sản được giao cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Theo đó, các doanh nhiệp nhà nước, cơ quan, đơn vị, các tổ
chức khi được Nhà nước giao cho những tài sản phù hợp với chức năng, yêu cầu của mình thì
phải sử dụng, khai thác đúng mục đích, có hiệu quả, phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với
Nhà nước. Ngoài ra, trong phạm vi pháp luật cho phép, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà
nước được thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản được giao nhưng

không phải là chủ sở hữu đối với các loại tài sản đó.

3. Khách thể của sở hữu nhà nước.

Khách thể của sở hữu nhà nước rất đa dạng, phạm vi khách thể không bị hạn chế. Có những
loại tài sản chỉ thuộc sở hữu nhà nước, chúng đóng vai trò là khách thể đặc biệt của quyền sở
hữu nhà nước, đó là những TLSX chủ yếu, có giá trị kinh tế và có vai trò đặc biệt trong sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân. Điều 17 Hiến pháp 1992 và Điều 200 BLDS 2005 đã liệt kê khá
rõ những loại tài sản này:

Điều 17 Hiến pháp 1992:


“Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm
lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc
các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an
ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.”

Ðiều 200 BLDS 2005:

“Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước

Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn
vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự
nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ
thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định”.

4. Nội dung hình thức sở hữu nhà nước.


Điều 202 BLDS 2005: “Quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước

Việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước được thực hiện trong
phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định”.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là chủ sở hữu đặc biệt cũng có
những quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc sở hữu của mình.

Quyền chiếm hữu: Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu tài sản của mình bằng cách ban hành
các văn bản pháp quy, quy định việc bảo quản, quy định thể lệ kiểm tra tài sản định kì và đột
xuất để kiểm tra tài sản mà Nhà nước đã giao cho các cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước.
Các cơ quan, doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định này.

Quyền sử dụng: Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước đương nhiên có quyền khai thác công
dụng những tài sản thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên, việc này cũng khác với quyền sử dụng
của các chủ thể khác đối với tài sản của mình: Nhà nước thực hiện việc khai thác lợi ích đối với
tài sản của mình theo quy định của pháp luật và theo một kế hoạch nhất định, Nhà nước không
trực tiếp thực hiện quyền sử dụng tài sản mà quyền này được chuyển giao cho các cơ quan,


doanh nghiệp của Nhà nước để khai thác công dụng, hoặc Nhà nước chuyển giao cho các tổ
chức, cá nhân thông qua các hợp đồng dân sự hay thủ tục hành chính nhất định.

Quyền định đoạt: Nhà nước định đoạt tài sản của mình bằng nhiều phương thức khác nhau.
Việc định đoạt này có thể trực tiếp đươc thực hiện bởi các cơ quan quản lí Nhà nước ở trung
ương và địa phương hoặc Nhà nước có thể cho phép các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập
thực hiện một phần quyền định đoạt đó.

II. SỞ HỮU TẬP THỂ.


1. Khái niệm chung và đặc điểm.

Sở hữu tập thể là một phạm trù kinh tế chỉ một hình thức sở hữu về TLSX, vốn, các loại tài sản
khác do cá nhân, hộ gia đình đóng góp để sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung
của tập thể được quy định trong điều lệ.

Điều 208 BLDS 2005 đưa ra khái niệm sở hữu tập thể như sau:

“Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá
nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích
chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản
lý và cùng hưởng lợi”.

Quyền sở hữu tập thể của hợp tác xã là một phạm trù pháp lí gồm tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu tập thể của
hợp tác xã.

2. Chủ thể của sở hữu tập thể.

Xuất phát từ quy định ở Điều 208 BLDS: “Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các
hình thức kinh tế tập thể ổn định khác...”, có thể xác định được chủ thể của sở hữu tập thể chính
là từng hợp tác xã riêng biệt (ví dụ như các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã công nghiệp,
các hợp tác xã theo các ngành nghề khác theo Luật hợp tác xã năm 2003). Mỗi hợp tác xã là
một chủ thể riêng biệt, là một chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mình và do đó có quyền sở
hữu đối với toàn bộ tài sản của hợp tác xã. Hợp tác xã trong sở hữu tài sản tập thể là một chủ


thể dân sự thống nhất, không phụ thuộc vào số lượng xã viên, sở hữu tập thể của hợp tác xã
không phải là sở hữu chung theo phần của từng các nhân.


3. Khách thể của sở hữu tập thể.

Khách thể của sở hữu tập thể bao gồm các TLSX (không gồm các TLSX đặc biệt thuộc sở hữu
toàn dân theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp 1992 và Điều 200 BLDS 2005), công cụ lao động,
vốn góp của xã viên, các loại quỹ do hợp tác xã lập ra. Tài sản thuộc sở hữu tập thể được quy
định tại Điều 209 BLDS 2005: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể

Tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, thu nhập hợp pháp do sản
xuất, kinh doanh, được Nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của
pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của tập thể đó”.

4. Nội dung của sở hữu tập thể.

Nội dung của sở hữu tập thể (bao gồm cả ba lĩnh vực: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) được quy
định tại Điều 210 BLDS 2005 như sau:

“Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể

1. Việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể phải tuân theo
pháp luật, phù hợp với điều lệ của tập thể đó, bảo đảm sự phát triển ổn định của sở hữu tập thể.

2. Tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể được giao cho các thành viên khai thác công dụng
bằng sức lao động của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phục vụ nhu cầu mở
rộng sản xuất, phát triển kinh tế chung và lợi ích, nhu cầu của các thành viên.

3. Thành viên của tập thể có quyền được ưu tiên mua, thuê, thuê khoán tài sản thuộc hình thức
sở hữu tập thể”.

III. SỞ HỮU TƯ NHÂN.


1. Khái niệm chung và đặc điểm.

Điều 211 BLDS 2005 quy định:


“Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình.

Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”.

Theo các quy định từ Điều 211 đến Điều 213 có thể hiểu sở hữu tư nhân là sở hữu của từng cá
nhân công dân về tư liệu sinh hoạt, tư liệu tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng
nhu cầu vật chất và tinh thần của công dân. Ba loại của sở hữu tư nhân được phân biệt bởi các
yếu tố: Vốn, TLXS, đăng kí kinh doanh, quy mô vốn, sử dụng lao động làm thuê...

Quyền sở hữu tư nhân theo BLDS là một bộ phận của chế định quyền sở hữu, điều chỉnh các
quan hệ xã hội của cá nhân về sở hữu TLSX và tư liệu tiêu dùng. Quyền sở hữu tư nhân cũng
có thể hiểu là những quyền dân sự cụ thể của cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản
của mình thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Đây là quyền bất khả xâm
phạm, không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật.

2. Chủ thể của hình thức sở hữu tư nhân.

Chủ thể của sở hữu tư nhân là từng cá nhân công dân. Nếu một tài sản hoặc một tập hợp tài
sản thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều người thì chủ sở hữu là từng người trong số họ
(đồng chủ sở hữu).

Mọi cá nhân dù đã trưởng thành hay chưa trưởng thành, có hay không có năng lực hành vi dân
sự hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ đều có “Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các
quyền khác đối với tài sản” thuộc quyền sở hữu của mình. (khoản 2 Điều 15 BLDS 2005). Muốn
trở thành chủ thể của sở hữu tư nhân được toàn quyền tự mình hành xử những quyền năng của

chủ sở hữu phải có những điều kiện nhất định. Trường hợp công dân không có năng lực hành vi
dân sự, năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, khi thực hiện quyền sử dụng hay định đoạt phải
thông qua hành vi của người giám hộ theo quy định từ Điều 59 đến Điều 79 BLDS 2005. Người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi định đoạt tài sản như tặng, cho, trao đổi... phải có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật.

BLDS ngoài việc quy định chủ thể của sở hữu tư nhân là công dân Việt Nam còn công nhận các
chủ thể sở hữu tư nhân là công dân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có vốn
về nước để sản xuất, kinh doanh. Những nguời này cũng là chủ thể của sở hữu tư nhân đối với
phần vốn, tài sản mà họ sở hữu ở Việt Nam.


3. Khách thể của hình thức sở hữu tư nhân.

Khách thể của sở hữu tư nhân là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân công dân (có
thể là TLSX hoặc tư liệu tiêu dùng).

Trong BLDS 20065, các loại tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân được quy định tại Điều 212:
“Tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân

1. Thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi,
lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân.

Tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị.

2. Cá nhân không được sở hữu đối với tài sản mà pháp luật quy định không thể thuộc hình thức
sở hữu sở hữu tư nhân.”

4. Nội dung sở hữu tư nhân.


Trong BLDS 2005, Điều 213 quy định về việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở
hữu tư nhân: “Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân

1. Cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhằm phục
vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác phù hợp với
quy định của pháp luật.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân không được gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác”.

Cá nhân có thể tự mình thực hiện quyền chiếm hữu tài sản hoặc thông qua một hợp đồng dân
sự giao cho người khác thực hiện quyền chiếm hữu (gửi giữ) hoặc cả quyền sử dụng (cho thuê,
mượn).

Quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu tư nhân được pháp luật Dân sự khuyến khích tạo điều kiện
nhằm giải phóng sức sản xuất và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cá nhân không được sử dụng


quyền của mình để hoạt động sản xuất kinh doanh bất hợp pháp. Trong hình thức sở hữu tư
nhân, chủ sở hữu không những có quyền sở hữu mà còn có toàn quyền sử dụng, định đoạt tài
sản đó nhưng không được gây thiệt hại và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

IV. SỞ HỮU CHUNG.

1. Khái niệm chung và đặc điểm.

Trong sáu hình thức sở hữu tại Bộ luật Dân sự 2005 thì hình thức sở hữu chung được quy định
với nhiều Điều luật nhất (13 điều, từ Điều 214 đến Điều 226).


BLDS 2005 đưa ra khái niệm và phân loại sở hữu chung trong Điều 214: “Sở hữu chung

Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.

Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.

Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung”.

Việc xác lập sở hữu chung có thể từ thỏa thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp
luật hoặc theo tập quán (theo Điều 215).

“Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu
được xác định đối với tài sản chung” (khoản 1 Điều 216 BLDS). Sở hữu chung theo phần bao
gồm sở hữu chung hỗn hợp và các loại sở hữu chung theo phần khác. Các điều 216 và 218 quy
định về sở hữu chung theo phần, sở hữu chung hỗn hợp, tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp
và việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp. Sở hữu chung hợp
nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia (ví dụ sở hữu chung của vợ chồng trong
quá trình hôn nhân) và sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia (ví dụ sở hữu chung của
cộng đồng, sở hữu chung trong nhà chung cư đối với cầu thang, sân chơi...).

2. Chủ thể của sở hữu chung.

Chủ thể của sở hữu chung là tất cả các chủ sở hữu đối với tài sản đó (hình thức đồng sở hữu).
Mỗi đồng chủ sở hữu khi thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài


sản chung sẽ liên quan đến quyền lợi của tất cả các đồng chủ sở hữu khác. Tuy nhiên, mỗi đồng
chủ sở hữu trong sở hữu chung có vị trí độc lập và tham gia quan hệ pháp luật dân sự một với
tư cách là một chủ sở hữu độc lập. Tính chất cùng “chung nhau sở hữu” đối với tài sản chung

hoàn toàn khác tính chất chung trong sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của các tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp. (Trong sở hữu tập thể, tài sản là của chung tất cả xã viên nhưng
các thành viên của tập thể đó không có tư cách là chủ sở hữu).

3. Khách thể của sở hữu chung.

Khách thể của sở hữu chung là một hoặc một tập hợp tài sản có đặc điểm là thống nhất, tài sản
này khi chia tách về mặt vật lí thì sẽ không còn giá trị sử dụng như ban đầu, các chủ sở hữu sẽ
không còn khai thác được công dụng vốn có của nó. Ví dụ: đem chia tách chiếc cầu thang bộ
của một ngôi nhà chung cư ra thì chiếc cầu thang đó sẽ không còn tác dụng. BLDS 2005 cũng
có quy định về vấn đề chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung tại Điều 224, Điều 226 quy
định các trường hợp chấm dứt sở hữu chung.

4. Nội dung của sở hữu chung.

Việc sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu chung phải được các đồng chủ sở hữu
thỏa thuận dựa trên tính chất, công dụng của tài sản và dựa vào hoàn cảnh cụ thể của các đồng
sở hữu chung. Việc thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản
chung của hình thức sở hữu chung được quy định trong BLDS 2005 tại các Điều 221 (chiếm
hữu), Điều 222 (sử dụng) và Điều 223 (định đoạt).

Đối với việc sử dụng tài sản (Điều 222). Các đồng chủ sở hữu có thể thỏa thuận và lựa chọn
một trong những hình thức: Cùng sử dụng để khai thác công dụng của tài sản; thay phiên nhau
sử dụng; hoặc trong trường hợp các chủ sở hữu mua chung tài sản để cho thuê thì căn cứ vào
phần quyền tài sản của mỗi chủ sở hữu để xác định quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người.

Điều 223 quy định việc định đoạt tài sản chung như sau:

“1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thỏa
thuận hoặc theo quy định của pháp luật.


2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu
chung hoặc theo quy định của pháp luật.


3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu
chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động
sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận
được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì
chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác.

Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong
thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung
theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình
quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.

4. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc
khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước, trừ
trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung
còn lại”.

V. SỞ HỮU CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI.

1. Khái niệm chung và đặc điểm.

Khái niệm sở hữu chung của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (TCCT, TCCT-XH) được
quy định trong Điều 227 BLDS 2005. Theo đó ta có thể hiểu: Sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là
một phạm trù kinh tế để chỉ một loại hình sở hữu về tài sản là những cơ sở vật chất, kỹ thuật,
trang thiết bị, vốn, các loại quỹ... của các tổ chức đó. Sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là sở hữu
chung không phân chia của các thành viên trong tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ, mục

đích được ghi trong điều lệ. Sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là sở hữu chung của một pháp
nhân nhưng mang tính chất cộng đồng, khác hình thức sở hữu tập thể và sở hữu chung thông
thường. Quyền sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là một phạm trù pháp lý được hiểu là: Tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
của các chủ thể là TCCT, TCCT-XH.

2. Chủ thể của hình thức sở hữu tài sản của các TCCT, TCCT-XH.

Mỗi TCCT, TCCT-XH là một chủ thể sở hữu riêng biệt đối với tài sản của tổ chức mình. Các
TCCT, TCCT-XH ở nước ta rất đa dạng như: Đảng cộng sản Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động


Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội chữ thập
đỏ, Hội nhà văn, Hội luật gia, Hội cựu chiến binh, các hội theo ngành nghề khác... Các TCCT,
TCCT-XH là chủ sở hữu trong quan hệ pháp luật về sở hữu luôn nhân danh tổ chức mà không
nhân danh nhà nước. Để trở thành chủ thể quyền sở hữu trong quan hệ pháp luật dân sự, các
tổ chức đó phải là một tổ chức tự nguyện, thống nhất của người lao động cùng chung một lợi ích
hay cùng giai cấp hoặc cùng một nghề nghiệp. Với tư cách là chủ thể sở hữu, các TCCT, TCCTXH thực hiện đủ các quyền năng của một chủ sở hữu.

3. Khách thể của quan hệ sở hữu tài sản của các TCCT, TCCT-XH.

Khách thể của quan hệ sở hữu của các TCCT, TCCT-XH là những tài sản cụ thể, xác định của
một tổ chức. Tài sản đó có thể là những cơ sở vật chất, kỹ thuật, các trang thiết bị dùng để phục
vụ cho quá trình hoạt động của tổ chức; các loại tài sản khác như: vốn, các loại quỹ hoặc các tài
sản thuộc sở hữu của tổ chức đó. Phạm vi khách thể thuộc sở hữu của các TCCT, TCCT-XH rất
phong phú và đa dạng. Điều 228 quy định về tài sản thuộc hình thức sở hữu của TCCT, TCCTXH:

“Tài sản thuộc hình thức sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội

1. Tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, tài sản được tặng cho chung

và từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước đã chuyển giao quyền sở hữu cho tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội là tài sản thuộc sở hữu của tổ chức đó.

2. Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
để quản lý và sử dụng thì không thuộc sở hữu của tổ chức đó”.

4. Nội dung sở hữu của TCCT, TCCT-XH.

Các TCCT, TCCT-XH với tư cách là chủ sở hữu cũng có đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu
theo quy định của pháp luật dân sự nhưng cũng có những nét đặc thù. Điều 229 BLDS quy định:
“Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản thuộc sở hữu của mình theo quy định của pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt động
được quy định trong điều lệ”.


Quyền chiếm hữu: Các TCCT, TCCT-XH kiểm soát tài sản của mình bằng các phương thức như
ban hành các nội quy, quy định nội bộ về việc quản lí, kiểm kê, kiểm soát tài sản.

Quyền sử dụng: Cũng như các chủ thể khác, TCCT, TCCT-XH có quyền khai thác công dụng
của tài sản để thực hiện chức năng của tổ chức đó. Trong quá trình khai thác tài sản, ngoài việc
tuân theo các quy định của pháp luật còn phải phù hợp với mục đích hoạt động đã được quy
định trong điều lệ. Việc sử dụng tài sản phải đúng tính năng, đúng công dụng, đúng phương
thức, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Quyền định đoạt: TCCT, TCCT-XH có quyền quyết định về việc sử dụng, chuyển giao, mua bán
tài sản, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân cần giúp đỡ... Là chủ sở hữu, các TCCT, TCCT-XH có
toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng phải phù hợp với mục đích hoạt

động được quy định trong điều lệ, phù hợp với trình tự, thủ tục định đoạt nếu pháp luật có quy
định.

VI. SỞ HỮU CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI – NGHỀ NGHIỆP, TỔ CHỨC XÃ HỘI, TỔ
CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP.

Cũng tương tự như hình thức sở hữu của TCCT, TCCT-XH, trong BLDS 2005 hình thức sở hữu
này được quy định thành một mục gồm 3 điều từ Điều 230 đến Điều 232. Điều 230 đưa ra khái
niệm của hình thức sở hữu này: “Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (TCCTXH, TCXH, TCXH-NN) là sở hữu của cả tổ chức đó
nhằm thực hiện mục đích chung của các thành viên được quy định trong điều lệ”. Hình thức sở
hữu của TCCTXH, TCXH, TCXH-NN được quy định trong BLDS 2005 có đặc điểm là:

Về chủ thể: Cũng như hình thức sở hữu của TCCT, TCCT-XH, mỗi TCCTXH, TCXH, TCXH-NN
là chủ thể sở hữu riêng biệt đối với tài sản của mình và có đầy đủ các quyền năng của một chủ
sở hữu.

Về khách thể: Khách thể của quan hệ sở hữu của các TCCT, TCCT-XH, TCCTXH, TCXH,
TCXH-NN là những tài sản cụ thể, xác định. Tài sản đó “được hình thành từ nguồn đóng góp
của các thành viên, tài sản được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định
của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của TCCT, TCCT-XH, TCCTXH, TCXH, TCXH-NN đó”
(trích Điều 231 BLDS).


Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của các TCCT, TCCT-XH, TCCTXH,
TCXH, TCXH-NHÀ NƯỚC phải theo quy định của pháp luật và phù hợp với mục đích hoạt động
được quy định trong điều lệ (quy định trong Điều 232)

KẾT LUẬN.


Từ trước đến nay, thái độ của Nhà nước ta và các quy định cụ thể của pháp luật đối với từng
hình thức sở hữu cụ thể cũng có những quy chế pháp lí khác nhau. Nhà nước xác định nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng nhưng cũng xác định sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
là nền tảng, việc bảo hộ của pháp luật trong một chừng mực nhất định cũng có khác nhau.

Với việc quy định các hình thức sở hữu cụ thể, chúng ta sẽ có điều kiện quy định các phương
thức tồn tại, vận động của sở hữu gắn liền với các chủ sở hữu cụ thể cùng với các chế độ pháp
lí có tính chất đặc thù của từng hình thức sở hữu đó.

Tuy còn một vài hạn chế nhất định nhưng không thể phủ nhận những điểm hợp lí và tiến bộ của
các quy định về các hình thức sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Mong rằng trong lần sửa
đổi tới, quy định về các hình thức sở hữu sẽ có những thay đổi phù hợp hơn nữa để đáp ứng tốt
nhu cầu của thực tế và điều chỉnh một cách phù hợp những quan hệ dân sự có liên quan đến
các hình thức sở hữu.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005.

2. Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập 1, Trường đại học Luật Hà Nội, Nbx. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2006.

3. Giáo trình luật Dân sự Việt Nam, tập 1, Lê Đình Nghị (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.

4. Bộ môn luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,
“Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chế định pháp luật về hình thức sở hữu trong BLDS năm 2005”,
tháng 6/2010.

5. Tưởng Bằng Lượng, “Sở hữu chung theo phần hay sở hữu chung hợp nhất”, Tạp chí toà án
nhân dân, số 4/1999, tr. 20.




×