Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BÁO cáo THỰC tập CÔNG NGHỆ tế bào THỰC vật mến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.59 KB, 16 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP CÔNG NGHỆ TẾ BÀO THỰC VẬT
Mục lục
Lời cảm ơn
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
giới thiệu chung về cây Lan Thạch hộc tía.
Phân loại, nguồn gốc, phân bố
Đặc điểm của cây Lan Thạch hộc tía
Giá trị cây lan Thạch hộc tía
Một số nghiên cứu nổi bật về chọn, tạo, nhân giống đối với cây lan thạch
hộc tía
II.
Mục tiêu, nội dung và phương phương pháp nghiên cứu
II.1 Mục tiêu nghiên cứu
II.2 Nội dung nghiên cứu
II.3 Vật liệu, địa điểm, điều kiện bố trí thí nghiệm
II.4 Phương pháp nghiên cứu
II.5 Nghiên cứu sự ảnh hưởng của auxin NAA lên quá trình nhân chồi lan
Thạch hộc tía
II.6 Nghiên cứu sự ảnh hưởng của kinetin lên quá trình nhân chồi lan Thạch
hộc tía
II.7 Nghiên cứu sự ảnh hưởng của auxin IBA lên quá trình nhân chồi lan Thạch
hộc tía
III.
Kết quả
III.1 Kết quả thí nghiệm
III.2 Kết
I.1
I.2
I.3
I.4


I.5


I, Đặt vấn đề
Là một loài hoa có nguồn gốc từ thiên nhiên, một trong những biểu tượng
của nét đẹp vương giả, tinh tế và hiếm thấy nên hoa lan ngày nay được
rất nhiều người ưa chuộng. Nét đẹp quyến rũ cộng thêm một chút kiêu sa,
huyền bí làm cho người ta không khỏi tò mò, thích thú và phong cho một
tước danh cao sang như vẻ đẹp vốn có của nó “ nữ hoàng các loài hoa”.
Và với những người yêu thích vẻ đẹp đặc biệt của loài hoa này thì không
chỉ thể hiện vẻ đẹp, hoa lan còn có những ý nghĩa riêng của nó.
theo:
/>Ở Việt Nam theo các tài liệu lưu hành, hoa lan được biết đến và trồng dưới thời
vua Trần Anh Tông nhưng hoa lan Việt Nam vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Hầu hết các nghiên cứu về hoa lan Việt Nam đều do các nhà khoa học nước ngoài
thực hiện. Mới đây, qua bộ sách Cây cỏ miền Nam Việt Namcủa GS. Phạm Hoàng
Hộ đã liệt kê và bổ sung thêm các loài phong lan nâng tổng số lan có ở
Việt Nam lên 755 loài.
Sản xuất hoa lan tại Việt Nam
Trước những năm 1986, nghề trồng hoa của Việt Nam chỉ tập trung ở một vài làng
nghề ở Hà Nội, Hải Phòng, TP. HCM, Đà Lạt và một vài tỉnh miền Tây Nam bộ.
Diện tích trồng hoa của Việt Nam theo số liệu thống kê năm 1993 chỉ chiếm
0,02% tổng diện tích đất nông nghiệp (# 1.585 ha). Trong thập niên 80, ngành
trồng hoa ở ViệtNam chỉ là ngành kinh doanh nhỏ của các nhà vườn nhỏ cung cấp
cho thị trường nội địa là chính. Diện tích trồng hoa của Việt Nam theo thống kê
năm 1993 như sau:
Hà Nội: 500ha, Hải Phòng: 320 ha, TP. HCM: 200 ha, Đà Lạt: 75 ha, Các tỉnh
khác: 490 ha. Tổng cộng diện tích trồng hoa của Việt Nam là 1.585 ha.
Hà Nội có các vùng trồng hoa là: Ngọc Hà, Quang Ân, Nhật Tân, Tây Tựu và làng
Vĩnh Tuy. Hải Phòng có Đặng Hải, An Hải. TP. HCM có quận Gò Vấp, Quận 12,

Củ Chi, Bình Chánh tập trung ở quận 11 và 12 và Đà Lạt nổi tiếng như là 1 thành
phố hoa. Trồng hoa cho thu nhập gấp 10 – 12 lần hơn gạo nên mức sống của người
dân ở những nơi trồng hoa thường cao hơn mức sống của vùng nông nghiệp khác.
Tuy nhiên trong số các loại hoa được trồng nhiều ở Việt Nam như hoa hồng, cúc,
lay-ơn... hoa lan chỉ chiếm xấp xỉ 10%. Hầu hết hoa được trồng trên những mảnh
vườn mở không có lưới và các phương tiện phòng chống mưa, bão, lụt rất thô sơ...


nên chất lượng và thời vụ thu hoạch bị ảnh hưởng rất nhiều. Hoa lan tuy cũng được
trồng trong vườn có lưới che mát nhưng cũng không có các phương tiện bảo vệ
tránh gió mưa, bão gây hại cho hoa.
Đà Lạt hiện nay đang trở thành điểm thu hút các nhà đầu tư kinh doanh hoa do sự
thành công của các công ty nước ngoài đầu tư vào cách đây hơn 10 năm như Dalat
Hasfarm chuyên trồng hoa ôn đới; công ty Lâm Thăng Đài Loan chuyên về
Phalaenopsis (lan Hồ Điệp). Vùng Sapa, Tam Đảo rất thích hợp cho việc trồng hoa
ôn đới như hồng, Lyly, lay ơn... Riêng hoa lan nhiệt đới, qua các năm từ 20032005 đã tăng từ 20 ha lên 50 ha (tăng 150%). Xu hướng tiêu dùng hoa lan đã tăng
lên đáng kể và dự đoán sẽ tăng mạnh trong thập niên tới do Việt Nam đã là thành
viên của tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ là yếu tố tăng mạnh đầu tư nước
ngoài làm tăng các dịch vụ du lịch, tổ chức hội nghị quốc tế.
Tiềm năng ngành sản xuất hoa lan ở Việt Nam
1.

Sự tăng trưởng của nền kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam những năm qua phát triển vượt bậc đã nâng cao mức sống
của người dân nhất là dân cư các thành phố lớn trong cả nước. Do đó nhu cầu tiêu
dùng hoa cắt cành trong đó có hoa lan ngày càng tăng. Hầu hết hoa lan được trồng
và tiêu thụ trong nước nhất là vào các dịp lễ hội như Tết, Giáng Sinh, ngày Phụ
Nữ, Quốc khánh, ngày nhà giáo, sinh nhật, hội nghị khách hàng v.v...
Hiện nay Việt Nam đã là thành viên của WTO tạo điều kiện cho ngành sản xuất

hoa lan của Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế trong các lĩnh
vực: kỹ thuật trồng, lai tạo giống, nhân giống (cấy mô), bảo quản sau thu hoạch...
để thúc đẩy công nghiệp hoa lan phát triển
Tuy công nghiệp hoa lan ở Việt Nam chưa được qui hoạch trong chiến lược phát
triển kế hoạch 5 năm của quốc gia nhưng xu hướng phát triển của hoa lan lại rất
nhiều triển vọng vì hầu như cung không đủ cầu: làn sóng đầu tư đổ vào Việt Nam
trong đó có Mỹ, Nhật, Trung Quốc và các quốc gia khác, các resort đang tạo một
cảnh quan du lịch sinh thái, các hội nghị quốc gia cũng như các diễn đàn quốc tế tổ
chức tại Việt Nam với tần suất ngày càng tăng khiến cho nhu cầu hoa lan tăng
thêm và hầu như Việt Nam hàng năm phải đổ ra hàng tỷ đồng để nhập khẩu hoa
lan từ các nước láng giềng cũng chỉ để đáp ứng cho thị trường nội địa.
2.

Thu nhập từ trồng hoa lan

Hiệu quả kinh tế nói chung của vườn lan cao hơn các loại cây trồng nông
nghiệp khác; nhất là tại những vùng đất sản xuất nông nghiệp không hiệu quả như


đất bạc màu, chua phèn hay nhiễm mặn vì cây lan không cần đến đất. Đặc biệt Việt
Nam có các tỉnh duyên hải và Bến Tre là nơi tập trung trồng dừa và vỏ dừa khô
chính là giá thể tốt nhất để cây lan phát triển. Xơ dừa là vật liệu rẻ tiền giúp cho
việc đầu tư vào sản xuất giảm đi rất nhiều so với các quốc gia khác. Các vật liệu
khác như lưới che mát, than, tre nứa cũng đã sản xuất được ở Việt Nam góp phần
làm giảm chi phí đầu tư cho người sản xuất.
Hiện nay người trồng lan có thu nhập cao gấp nhiều lần so với người trồng
lúa, gấp 4 -5 lần so với người trồng rau cải, cỏ cho chăn nuôi...Theo số liệu thống
kê của vụ kế hoạch thuộc Bộ NN &PTNT nếu trồng lan cắt cành Dendrobium và
Mokara 1 ha có thể cho doanh thu 500 triệu - 1 tỉ đồng/ha-năm.
3.


Thu nhập cao từ kinh doanh hoa lan:

Các cơ sở kinh doanh hoa lan, cây kiểng tăng nhanh kể từ năm 2003 từ 264
điểm đến nay đã trên 1.000 cơ sở lớn nhỏ trên địa bàn TP.HCM. Riêng trên toàn
quốc, số lượng các cửa hàng hoa tăng gấp nhiều lần so với năm 2000 cho thấy nhu
cầu tiêu dùng hoa của người dân tăng nhanh. Theo thống kê của Sở NN & PTNT
TP. HCM trong năm 2003 doanh số kinh doanh hoa lan cây kiểng chỉ đạt 200-300
tỉ đồng nhưng đến năm 2005 đã tăng đến 600-700 tỉ đồng và ngay từ đầu năm 2006
doanh số đạt được là 400 tỉ đồng.
4.

Điều kiện khí hậu, lao động, đất đai:

Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận có khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm cao
nên thích hợp cho việc trồng các giống Dendrobium và Mokara. Đặc biệt là việc
trồng Mokara tại TP. HCM cho thấy Mokara tăng trưởng và ra hoa tốt hơn trồng
tại Thái Lan.
Ngoài ra, lực lượng lao động cho việc trồng lan không cần nhiều, có thể sử dụng
lực lượng nông nhàn để theo dõi, chăm sóc cho cây hoa cũng là một lợi thế cho
ngành hoa lan Việt Nam.
Những vùng đất phèn nặng hoặc bạc màu là địa điểm thích hợp để người dân
chuyển đổi từ sản xuất trồng lúa hoặc rau cải cho thu nhập thấp sang trồng hoa lan
cho thu nhập cao. Diện tích những vùng đất phèn nặng và bạc màu chiếm số lượng
lớn ở TP. HCM đang được TP. HCM đưa vào qui hoạch những vùng cần chuyển
đổi cơ cấu kinh tế cây trồng sẽ giúp cho hàng ngàn nông dân thay đổi tập quán
canh tác từ cây lúa, cây rau sang cây hoa có giá trị kinh tế cao.
Các nhân tố ảnh hưởng chính đến sự phát triển công nghiệp hoa lan Việt Nam



1. Giống
Để nhân nhanh các giống lan, phương pháp nhân giống bằng nuôi cấy mô đang
được các quốc gia trên thế giới áp dụng. Việt Nam cũng có các phòng nuôi cấy mô
nhưng ở qui mô nhỏ, nên nguồn giống chủ yếu là nhập từ Thái Lan, Đài Loan và
một vài quốc gia Tây Âu như Bỉ, Hà Lan...Vì vậy giống lan tại Việt Nam tùy thuộc
rất nhiều vào nguồn giống ngoại nhập. Đây là một thực tế đáng lo ngại cho ngành
sản xuất hoa lan của Việt Nam nếu tương lai Việt Nam tham gia vào thị trường
xuất khẩu hoa lan trên thế giới.
Việc nhập khẩu giống từ các nguồn khác nhau gây ra nhiều vấn đề khó khăn cho
sự phát triển của ngành công nghiệp hoa lan như chất lượng hoa, sâu bệnh lan
truyền qua nhập khẩu và bản quyền tác giả... sẽ làm cho giá thành của hoa lan Việt
Nam cao hơn các nước trong khu vực và rủi ro trong nuôi trồng cũng nhiều hơn.
2. Công nghệ sinh học
Khi trồng các loại hoa cắt cành như hồng, cúc, cẩm chướng... sau khi thu hoạch
nông dân Việt Nam có xu hướng giữ lại hạt làm giống cho vụ sau. Trái lại việc
nhân giống hoa lan phải nhờ đến công nghệ sinh học. Hiện nay cũng có vài công ty
tư nhân đang đầu tư trong lĩnh vực cấy mô, lai tạo giống phong lan Dendrobium,
Mokara hay Oncidium để tạo ra nguồn giống riêng của Việt Nam mặc dù hướng
nghiên cứu gene phong lan ở Việt Nam chưa được chú ý đến. Tuy nhiên, nếu việc
lai tạo các giống phong lan thành công thì đây là bước khởi đầu cho công nghiệp
hoa lan Việt Nam và cần được sự hỗ trợ của nhiều ngành khoa học đặc biệt là công
nghệ gene trong nông nghiệp.
3. Công nghệ canh tác, sản xuất hoa lan
Tuy hoa lan không cần đất để phát triển nhưng việc ứng dụng công nghệ canh tác
tiên tiến rất quan trọng với mục đích tạo ra những hoa lan có màu sắc, kích thước,
số lượng hoa trên cành, tính bền, khả năng ra hoa và tính kháng bệnh của cây với
chất lượng cao và giá thành thấp.
Vai trò của hoa lan và hoa cắt cành ở Việt Nam mới chỉ trở nên quan trọng trong
những năm gần đây, nhưng các qui trình công nghệ tiên tiến áp dụng trong lĩnh vực
hoa lan chưa được chọn lọc và nghiên cứu đầy đủ trong điều kiện sinh thái của

Việt Nam. Hầu hết là học tập và mô phỏng theo cách trồng của Thái Lan ở qui mô
cá thể với diện tích chưa đủ lớn để tạo ra sự thay đổi sâu sắc trong tập quán trồng
hoa của nông dân Việt Nam, trong đó vấn đề sâu bệnh hại là yếu tố quyết định cho
sản xuất lan công nghiệp.


Đa số nông dân Việt Nam trồng hoa lan ở qui mô hộ gia đình từ vài m2 đến vài
ngàn m2. Cá biệt có vài hộ sản xuất kinh doanh trồng trên 1 – 2 ha. Chính do qui
mô nhỏ lẻ và nguồn giống phân tán nhập từ nhiều nguồn khác nhau nên đã dẫn đến
chất lượng hoa lan không đồng đều, số lượng trên mỗi giống hoa không đủ cho thị
trường, nhất là thị trường xuất khẩu trong tương lai.
4. Công nghệ sau thu hoạch
Hoa lan là sản phẩm của ngành nông nghiệp (khác với lan rừng thu hái từ tự nhiên)
nên nó cần một công nghệ bảo quản sau thu hoạch để giữ cho hoa bền, lâu tàn.
Trong điều kiện khí hậu Việt Nam thích hợp cho việc canh tác hoa lan nhiệt đới thì
cũng chính khí hậu nóng ẩm của ta cũng dễ ảnh hưởng đến chất lượng hoa lan. Đa
số nông dân cắt hoa và giao hoa ngay trên những phương tiện vận chuyển thô sơ,
không có kho mát hay phòng mát và cũng chưa có dụng cụ chứa dinh dưỡng để
cắm mỗi cành hoa vào để giữ cho hoa lâu tàn.
5. Thị trường và các biện pháp xúc tiến thương mại
5.1 Thị trường trong nước
Hoa lan và các loại hoa cắt cành khác đang được phân phối trên thị trường trong
nước qua các kênh bán sỉ tại các chợ đầu mối hoa. Các cửa hàng kinh doanh hoa
mua trực tiếp từ các vườn hoặc thông qua các cơ sở tư nhân thu gom từ các vườn
lan.
Hiện nay tuy chưa có một tổ chức hay doanh nghiệp nào đứng ra tổ chức hệ thống
thu mua và phân phối hoa lan cho thị trường trong nước, nhưng các hộ kinh doanh
hoa, các cửa hàng bán hoa đã rất nhạy bén nắm bắt tâm lý của người trồng hoa là
cần có đầu ra ổn định nên đã có những thỏa thuận ở mức sơ khai của hình thức hợp
đồng kinh tế, lấy uy tín là chính và việc đặt cọc tiền giữa 2 bên chỉ có giá trị tượng

trưng cho sự thỏa thuận giữa hai bên. Cho đến hiện nay chưa có hợp đồng nào có
giá trị ở mức cao và cũng chưa có thỏa thuận nào bị “bể” giữa bên bán và mua do
cầu lúc nào cũng cao hơn cung đối với hoa lan.
5.2 Thị trường xuất khẩu:
So với các quốc gia trong khu vực, hoa cắt cành của Việt nam cũng đã có
thị trường xuất khẩu và mức tăng trưởng hàng năm đều tăng cao hơn so với năm
trước. Tuy nhiên đối với hoa lan, nhất là hoa lan nhiệt đới thị trường xuất khẩu
vẫn còn là thị trường tiềm năng. Để có thể tiến vào thị trường hoa lan cắt cành hay
lan chậu của thế giới, ngành công nghiệp hoa lan Việt còn rất nhiều vấn đề cần
phải quan tâm. Thị trường xuất khẩu hoa lan trên thế giới ngày càng mở rộng. Kim


ngạch thương mại hoa lan cắt cành thế giới năm 2000 đạt 150 triệu USD trong đó
Nhật Bản là nước nhập khẩu hoa lan cắt cành số 1 thế giới, thứ hai là Ý, kế đến là
Pháp, Đức đứng thứ tư và thứ năm là Mỹ.
Thị trường xuất khẩu thế giới có thể liệt kê như sau:
1. Nhật; 2. Ý; 3. Pháp; 4. Đức; 5. Mỹ; 6. Anh; 7. Hà Lan; 8. Áo; 9. Bỉ; 10. Hy lạp;
11. Ba lan; 12. Tây Ban Nha; 13. Thụy Điển; 14. Canada; 15. Phần Lan; 16. Đan
Mạch; 17 Thụy Sĩ ....
Thị trường xuất khẩu hoa lan hiện nay rất lớn và đầy triển vọng. Ngày nay người
tiêu dùng có xu hướng mua hoa lan có giá thành hạ mà không cần biết xuất xứ vì
vậy thị trường hoa lan thế giới luôn có chỗ cho những quốc gia mới tham gia miễn
là giá hạ, hoa bền lâu và màu sắc đúng thị hiếu của đa số người tiêu dùng.
6. Xu hướng phát triển mới của ngành thương mại hoa lan thế giới
Điều đầu tiên phải kể đến là sự gia tăng diện tích của các trại lan, nhất là ở Thái
Lan đã có những trang trại chuyên trồng loài Dendrobium rộng đến 39 ha.
Thứ hai là qui mô các dự án đầu tư cho ngành thương mại hoa lan đang gia tăng
như tại Panama đang có dự án với vốn đầu tư lên đến 200.000 USD.
Thứ ba là sự phát triển của việc lai tạo giống hoa lan, nhất là Dendrobium tạo ra
các phát hoa dài, hoa lớn và đa dạng màu sắc.

Thứ tư là sự phát triển các loại hoa lan ôn đới như Cymbidium, Dendrobium ôn đới
và Oncidium cho những phát hoa có thể cắm trong bình đến 1 tháng.
Cuối cùng là sự thay đổi mạng lưới phân phối: ngày nay người ta ưa chuộng loại
hình vận chuyển FedEx hơn để giao hàng đến tận tay khách hàng.
Theo:
/>Trong 10 năm trở lại đây, lượng xuất khẩu hoa của Việt Nam sang thị trường lớn
thứ ba thế giới là Nhật Bản đã tăng gấp bốn lần.
Ngày nay, hoa Việt Nam không chỉ bắt đầu chiếm lĩnh Nhật Bản - thị trường hoa
lớn nhất châu Á, mà còn tăng cường thâm nhập vào nhiều thị trường khác như
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.


Trong 10 năm gần đây, xuất khẩu hoa của Việt Nam sang Nhật đã tăng gấp bốn
lần. Theo Nikkei, điều này bắt nguồn một phần là từ việc các công ty Đài Loan và
Nhật Bản đã mang kỹ thuật và kinh nghiệm trồng hoa đến với người nông dân
Việt.
Các cửa hàng hoa tại Tokyo thường chuộng hoa lan hồ điệp của Việt Nam, do
thích hợp để làm quà tặng. Các bó hoa cao cấp gồm 30 nhánh lan trắng có giá
30.000 yen (240 USD) là sản phẩm khá hút hàng. Lượng cây giống đến từ Việt
Nam cũng đang ngày một gia tăng.
Trên thị trường hạt giống hoa lan tại Nhật Bản, Đài Loan hiện đang chiếm 60% thị
phần, còn Việt Nam đã vươn lên chiếm 40% còn lại.

Các thách thức trong quá trình phát triển
Mặc dù các cơ hội phát triển hoa lan Việt Nam đã được đề cập ở trên nhưng các
nhân tố đó cũng chính là những thách thức cần được quan tâm cho sự phát triển
của ngành công nghiệp hoa lan còn non trẻ của Việt Nam như:
a.

Sản xuất lai tạo giống lan trong nước bằng phương pháp nuôi cấy mô

chưa có đột phá mới. Phần lớn các phòng cấy mô chỉ cấy chuyền các
giống nhập từ nước ngoài ở dạng chồi/phôi, do đó ngành kinh doanh lan
Việt Nam luôn bị động và có xu hướng nhập khẩu là chính

b.

Chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng còn cao nên việc mở rộng diện tích trồng
lan cần phải có sự quan tâm hỗ trợ của các tổ chức tín dụng.

c.

Chưa có công nghệ sản xuất tiên tiến, sản xuất canh tác hoa ổn định
không theo mùa vụ sẽ giúp bình ổn giá hoa trên thị trường ...

d.

Công nghệ sau thu hoạch và kỹ thuật đóng gói phù hợp chưa sẵn sàng.

e.

Chi phí lao động có kỹ thuật tăng cao.

f.

Dịch vụ hậu cần tại các cảng xuất hàng còn yếu kém như chưa có kho
mát tại sân bay.

g.

Các yêu cầu kiểm dịch nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu hoa trong

khi Việt Nam chưa có hệ thống và biện pháp kiểm tra hoa nhập khẩu từ
các nước khác.


h.

Hệ thống thông tin, tiếp thị hầu như chưa có nên rất khó khăn trong
việc hoạch định sản xuất theo nhu cầu thị trường.

i.

Công nghiệp hoa lan chưa được quan tâm đúng mức của các cấp
chính quyền nên chưa có những biện pháp hỗ trợ, thúc đẩy ngành hoa lan
phát triển.

Bên cạnh ứng dụng ưu việt của lan làm hoa cây cảnh còn ứng dụng rất quan
trọng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe con người. Một số loài lan có vị
ngọt, tính mát, tác dụng bổ âm nhuận phế, có tác dụng tăng cường sức
khỏe, làm khí huyết lưu thông, làm mát phổi, mát máu, an thần, kháng
khuẩn, chữa các bệnh viêm phế quản, viêm gan mạn tính, chữa các chứng
bệnh như ho khạc ra máu, thần kinh suy nhược, gây mất ngủ, kém ăn, trị
lao phổi, tiêu hóa kém, chán ăn, phổi kết hạch. Ngoài ra, còn chữa tăng
huyết áp, suy thận, di tinh, đau lưng, phong thấp, tiêu đờm, giải độc, giải
nhiệt…
Một trong những loài lan có nhiều hữu ích với con người là lan Thạch Hộc
Tía. Thạch hộc tía (Thiết bì) với đặc trưng vỏ cây có màu xanh tía, là cây
thảo bản phụ sinh lâu năm, sống bám vào cây gỗ lớn rừng nguyên sinh có
độ ẩm cao hoặc ở vách đá ẩm ướt, ưa khí hậu ẩm và râm mát, có giá trị
độc đáo về dược phẩm
Giới thiệu về la Thạch hộc tiá

1.2. Phân loại, nguồn gốc, phân bố
Thạch hộc tía có tên khoa học Dendrobium officinale Kimura et Migo,
thuộc chi Thạch hộc, họ Lan (Orchidaceae), phân bố tự nhiên chủ yếu ở
vùng rừng có độ cao 1.000 - 3.400 m so với mặt biển, thường phụ sinh
vào cây gỗ hoặc vách đá có mọc rêu dưới tán rừng. Đặc trưng hình thái
và phân bố Trong điều kiện môi trường tự nhiên độ ẩm 70%, nhiệt độ
không khí bình quân năm 12 - 18 độ C, lượng mưa 900 - 1.500 mm,
thường tập trung sống ở phần dốc núi râm mát, độ ẩm cao và vách đá
chua. Thạch hộc là cây phụ sinh mọc trên cây gỗ hay vách đá, cao 30 - 50
cm, thường mọc thành khóm. Thân hơi dẹt, có rãnh dọc, phía trên hơi dày
hơn, có đốt dài 2,5 - 3,0 cm, có vân dọc. Thân thạch hộc tía có màu tía,
thân các thạch hộc khác có màu xanh. Lá mọc so le thành dây đều hai
bên thân, thuôn dài, hầu như không cuống, đầu lá hơi cuộn hình móng, có
5 gân dọc, dài 12 cm, rộng 2 - 3 cm. Cụm hoa ở kẽ lá. Hoa to màu hồng,
mọc thành chùm trên những cuống dài, mang 2 - 4 cánh hoa có cánh môi


hình bầu dục, nhọn, cuốn thành phễu trong hoa, ở họng hoa có những
điểm màu tím. Quả nang hơi hình thoi, khi khô tự mở. Hạt rất nhiều và
nhỏ như bụi phấn. Mùa hoa tháng 2 - 4, mùa quả tháng 4 - 6. Cây mọc
hoang ở rừng núi trên cây gỗ, được trồng làm cảnh ở Việt Nam. Trên thế
giới họ Lan có 1.400 loài, trong đó Trung Quốc có 81 loài. Trong chi
Thạch hộc có nhiều loài dùng để làm thuốc quý. Ở Trung Quốc chi
Thạch hộc có 14 loài và 12 loài phụ, trong đó chỉ có 11 loài làm thuốc
quý nhưng Thạch hộc tía là loại làm thuốc tốt nhất, được bán với giá cao
nhất trên thị trường
. Công dụng và hiệu quả kinh tế Thành phần hóa học: Thạch hộc làm
thuốc có nhiều hoạt chất có hoạt tính sinh học quý. Thạch hộc tía giàu
polysacarit thạch hộc, alkaloit thạch hộc, các acid amine và nhiều chất
khoáng kali, canxi, magie, mangan, đồng, titan và nhiều nguyên tố vi

lượng, trong đó polysacarit thạch hộc tới 22%, hàm lượng các acid amine
như glutamic, asparagic, glucin chiếm tới 35% tổng lượng acid amine.
Ngoài ra Thạch hộc tía còn có những hợp chất đặc thù như phenanthryn,
bibenzyl , keton, ester và các chất nhầy, hợp chất amidon. Trong thân
Thạch hộc tía có hàm lượng alkaloit sinh học chiếm tới 0,3%, trong đó
những chất amine đã được giám định cấu trúc gồm dendrobine,
dendramine, nobilonine, dendrin, 6-hydroxy-dendroxine, shiunin,
shihunidine và muối amoniac N-methyl-dendrobium, 8-epidendrobine,
các chất này có vị hơi đắng. Thân Thạch hộc có dầu bay hơi, trong đó có
chất manool của hợp chất ditecpen chiếm hơn 50%. Chỉ có kiểm nghiệm
các thành phần hợp chất trên mới khẳng định được đúng là loài Thạch
hộc tía, tránh nhầm lẫn với hàng giả. Giá trị: Trong cổ thư đông y Trung
Quốc cách đây hơn 1.000 năm đã xác định ở Trung Quốc có 9 loại tiên
dược được xếp theo thứ tự như sau: Thạch hộc, Tuyết liên, Nhân sâm,
Thủ ô, Phục linh, Tùng dung, Linh chi, Ngọc trai, Đông trùng hạ thảo,
trong đó Thạch hộc xếp đầu bảng. Giá trị của thạch hộc có 2 loại công
năng chủ yếu:
- Làm thuốc: Thạch hộc tía có giá trị độc đáo và công năng bảo vệ sức
khỏe, đã trở thành sản phẩm bổ dưỡng từ lâu đời. Nghiên cứu về dược lý
hiện đại, Thạch hộc tiá có tác dụng chống ung thư, chống lão hóa, tăng
sức đề kháng của cơ thể, làm dãn mạch máu và kháng đông máu, được sử
dụng rộng rãi trong lâm sàng và làm các bài thuốc. Thạch hộc tía có thể
dùng đơn độc hoặc phối trộn với các dược liệu khác, đã có hơn 100 bài
thuốc từ Thạch hộc được thị trường đón nhận. Trong dược điển có đề cập


đến nhiều loài Thạch hộc nhưng tốt nhất vẫn là Thạch hộc tía. - Làm thực
phẩm: Cách sử dụng làm thực phẩm có nhiều cách như nấu súp với hồng
sâm, với bách sa sâm lợi phổi sinh tân. Ngoài ra có thể nấu cháo Thạch
hộc, trà Thạch hộc và nhiều món ăn khác. Những năm gần đây công năng

làm thực phẩm chức năng đã được khám phá thêm, là sản phẩm thiên
nhiên an toàn và bổ dưỡng. Thạch hộc tía có vị hơi ngọt hơi đắng vào 3
kinh phế, vị, thận, công năng tư âm, thanh nhiệt, chỉ khát, hư hao, gầy
yếu, miệng khô. Hiệu quả kinh tế: Thạch hộc trồng một lần có thể thu
hoạch 6 năm, đầu tư ban đầu có thể tốn kém, nhưng năm thứ 2 có thể thu
hồi vốn, từ năm thứ 3 có lãi. Trong điều kiện thâm canh, năng suất tươi
khoảng 5 tấn/ha/năm với giá bán khoảng 3 triệu đồng/kg, doanh thu đạt
15 tỷ đồng/ha/năm. Thị trường tiêu thụ là khả quan, nếu chế biến sâu, thị
trường càng lớn và hiệu qủa càng cao, bao gồm thị trường nội địa, thị
trường Đông Nam Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và châu Âu,
châu Mỹ. Hiện nay chỉ có Trung Quốc đang phát triển rộng khoảng 7
năm nay, sản lượng đưa ra thị trường còn rất khiêm tốn, sau mấy năm
nữa sản lượng có thể tăng lên nhiều, giá bán có thể giảm xuống, nhưng
hiệu quả vẫn cao hơn nhiều so với nhiều cây trồng khác.
Nguồn:
| NongNghiep.vn... Đọc thêm tại: | NongNghiep.
. Bởi vì có giá trị sử dụng làm thuốc cao, điều kiện sinh trưởng đặc biệt, phân bố
hẹp và bị con người khai thác trong thời gian dài nên nguồn thạch hộc trong tự
nhiên đang có nguy cơ bị tuyệt chủng, cũng bởi thế mà thị trường cung cấp bị thiếu
hụt, hiện nay giá của mỗi kg thạch hộc thành phẩm trên thị trường quốc tế vào
khoảng 22.000.000/kg.
Trên thị trường, thân cây tươi thạch hộc tía đang có giá bán khoảng 150
USD/kg. Giá trị của nó còn được cổ thư xếp trên nhân sâm, thủ ô, phục linh,
tùng dung, linh chi, ngọc trai, đông trùng hạ thảo.( theo số liệu ngày
06.07.2015)
Nguồn: />Vì những ứng dụng hiệu quả và có giá trị tiềm năng kinh tế rất lớn như
vậy, lan Thạch hộc tía đã và đang thu hút được rất nhiều sự quan tâm.
Đặc biệt là đã được áp dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật vào để
nhân giống lan Thạch hộc tía và đã thu được những thành tựu nghiên cứu
nổi bật.



Ban đầu Morel khám phá ra phương pháp nuôi cấy mô thành công loài
lan đa nhân. Năm 1970, N.vajrabhaya và T. vajrabhaya đã cấy mô thành
công loài lan đơn nhân. Năm 1974 các nhà khoa học đã cấy mô thành
công hầu hết các loại lan thuộc nhóm đơn thân khác và cũng nhờ có
phương pháp nuôi cấy mô tế bào các cây lan đã được chọn lọc từ phương
pháp lai hữu tính được nhân với tốc độ cao có thể đáp ứng nhu cầu sản
xuất, kinh doanh, môi trường có vai trò rất quan trọng trong quá trình
nuôi cấy, nó cung cấp chất dinh dưỡng đảm bảo cho sự sinh trưởng của
mô cấy. Môi trường dinh dưỡng thích hợp cho việc nuôi cấy là môi
trường MS ( Marushige-shoog, 1962), V W( Vaccin-went, 1949), KC
( Knusdone)…

I.
I.1

PHẦN 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Nhân giống bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật

Nuôi cấy mô tế bào thực vật là một phạm trù kháii niệm chung cho tất cả
các loại nuôi cấy những nguyên liệu là thực vật hoàn toàn sạch các vi
sinh vật trên môi trường dinh dưỡng nhân tạo ở điều kiện vô trùng.
Nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật là phương
pháp sản xuất hàng loạt cây con từ các bộ phan của cây( các cơ thể hoàn
chỉnh, cơ quan, mô, phôi non, tế bào) bằng cách nuôi cấy chúng trong
ống nghiệm ở điều kiện vô trùng có môi trường dinh dưỡng thích hợp và
được kiểm soát.
I.1.1


Cơ sở khoa học

+tính toàn năng của tế bào thực vật:
-Haberlandt (1902) lần đầu tiên quan niệm rằng mỗi tế bào bất kỳ của một cơ thể
sinh vật đa bào nào đều có khả năng iền tàng đểphát triển thành một cá thể hoàn
chỉnh.
-theo quan điểm của sinh học hiện đại thì mỗi tế bào riêng rẽ đã phân hóa đều
mang toàn bộ lượng thông tin di truyền cần thiết và đầy đủ của cả cơ thể sinh vật
đó. Khi gặp điều kiện thích hợp, mỗi tế bào đều có thể phát triển thành một cá thể
hoàn chỉnh. Đó là tính toàn năng của tế bào.


* sự biểu hiện tính toàn năng của tế bào trong nuôi cấy invitro
-quá trình từ nguồn vật liệu ban đầu là tế bào hoặc mô thực vật nuôi cấy phân hóa
thành cây hoàn chỉnh được gọi là sự biểu hiện về tính toàn năng của tế nào thực
vật.
Khả năng biểu hiện tính toàn năng của các tế bào, mô của cơ thể là khác nhau.
Tính toàn năng của tế bào trong nuôi cấy invitro biểu hiện qua ba giai đoạn:
-Tế bào phân hóa
-sự định hướng phân hóa tế bào
-sự phát sinh hình thái và phát triển cơ quan
+Sự trẻ hóa
+sự phân hóa và phản phân hóa tế bào.
Phần 2: MỤC TIÊU NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 mục tieeu nghiên cứu
2.1.1Muc tiêu chung
Góp phần hoàn thiện quy trình nhân giống loài lan Thạch Hộc Tía phục vụ sản
xuất công nghiệp và bảo tồn.
2.1.2 Muc tiêu cụ thể
Xác định được loại, hàm lượng chất điều hòa sinh trưởng, môi trường dinh dưỡng

cùng với điều kiện nuôi cấy thích hợp để nhân nhanh chồi lan Thạch Hộc Tía
Xác định được loại và hàm lượng chất điều hòa sinh ttrưởng thích hợp nhằm kích
thích nhân nhanh chồi.
2.1 Nội dung nghiên cứu
+Nghiên cứu ảnh hưởng củav


II.

Kết quả.

3.1 trong phòng thí nghiệm:
Làm được 11 công thức môi trường với kết quả trong bảng biểu sau:
III.3 Kết

quả đi kiến tập.
1, cơ sở: Trung tâm khoa học và sản xuất cây nông lân nghiệp.

Địa chỉ: Trụ sở: Phường Minh Thành, TX Quảng Yên, Quảng Ninh
Điện thoại: 033 3873002 ; Fax: 033 3873693
Email:
Web:
Sản phẩm;
-nấm
-cây lâm nghiệp: bạch đàn, keo
-cây cảnh; hoa đồng tiền, lan hồ điệp..
-cây dược liệu: ba kích, bình vôi...
A, Quy trình sản xuất nấm.
Quy trình sản xuất nấm


Tuyển chọn giống:Được tuyển chọn từ tự nhiên, sau đó được nghiên
cứu để nâng cao năng suất. Được lấy từ rừng tự nhiên.


Chọn giá thể-chế biến: Chọn thân gỗ đã qua kiểm tra về chất lượng,
thành phần dinh dưỡng tối ưu với nấm cấy. Được sơ chế, cắt khúc,
hấp khủ trùng,
Cấy nấm: Cấy nấm giống lên giá thể
Chăm sóc: Bảo quản ở nhiệt độ, độ ẩm thích hợp, có lưới bảo vệ.
Thu hoạch sản phẩm: Bảo quản sản phẩm với các điều kiện thích hợp,
tránh làm biến tính và mất đi hoạt tính của nấm.
Các loại nấm được sản xuất: Nấm linh chi, nấm sò, nấm rơm...


B, Nuôi cấy mô.
Tập trung vào các lĩnh vực:
-Cây lâm nghiệp: chủ yếu là bạch đàn, keo..
-Cây dược liệu: Chủ yếu là Lan Hồ Điệp, Lan Hoàng Thảo Đơn Cam...
-Hoa, cây cảnh: Ba kích, bình vôi.
Lựa chọn cành mẫu, thân mẫu bố mẹ thường xuyên. ( có mẫu gốc được đảm bảo).
2, cơ sở:
3, Cơ sở sản xuất Hoa cây cảnh



×