Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Hoàn thiện Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.7 KB, 29 trang )

LUẬN VĂN:

Hoàn thiện Chính sách phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam


Lời nói đầu

Trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm
khoa học và công nghệ tiến triển rất mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra khá
sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những chuyển biến sâu sắc,
thì các DNNVV lại càng được chú trọng ở các nước.
ậ nước ta, DNNVV cũng có vai trò quan trọng như vậy, do sự phát triển còn thấp
của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng rất lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong 20 năm đổi mới vừa qua, DNNVV ngày
càng được coi trọng. Đầu năm 2001, báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương
đảng tại Đại hội IX của Đảng một lần nữa vạch rõ: “Chú trọng phát triển các DNNVV...”
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 nhấn mạnh: “ Phát triển rộng
khắp các cơ sở sản suất công nghiệp nhỏ và vừa với nghành nghề đa dạng...”
Chọn đề tài : “ Hoàn thiện Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam ’’ . em muốn góp thêm tiếng nói nhỏ của mình vào việc nhận thức đúng về
vai trò và sự cần thiết của việc khuyến khích, thúc đẩy phát triển các DNNVV ở Việt
Nam hiện nay. Đề án được chia làm 3 phần :
Phần I Vai trò của DNVVN và Nội dung chính sách nhà nước phát triển DNV&
N
Phân II

: Chính sách nhà nước nhằm phát triển DNNVV ở Việt Nam.

Phần III : Hoàn thiện chính sách Nhà nước phát triển DNNVV ở Việt Nam.




Phần I

Những điểm mạnh của DNNVV
1.Dễ khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi nhiều gì về mọi mặt. Một số doanh
nghiệp lớn hiên nay đã khởi nghiệp từ DNNVV.
2.Giàu tính mềm mại, linh hoạt, năng động để thích ứng nhanh, thậm chí đón đầu
những biến chuyển của công nghệ quản lý, nhưng dao động lâm thời từng lúc hoặc cơ
bản lâu dài của thị trường, những thay đổi có khi đột ngột của môi trường thể chế, chế độ
kinh tế, xã hội.
3.Đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở. Có
ưu thế của sự gần kề với các nguồn lực đầu vào (lao động, tài nguyên, nguồn vốn tại
chỗ) và với thị trường tiêu thụ. Sự “gần kề” này (proximity) là một lợi thế so sánh lớn để
cạnh tranh ngay trong thời đại toàn cầu hoá, được nghiên cứu về khoa học và vận dụng
nhiều thực tế ở các nước.
4.Giàu hơn về những hiệu quả tràn ra ngoài tích cực và ít hơn hẳn về những tích
cực và ít hơn hẳn về những hiệu quả tràn ra ngoài tiêu cực so với doanh nghiệp lớn.
5.Thuận lợi để kết hợp kinh tế với công bằng xã hội, để thể hiện trong kinh tế bản
sắc văn hoá dân tộc và những nét riêng ưu trội của địa phương.
6.Là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển của các doanh nghiệp
lớn. Về nghiên cứu- triển khai, có thể là nơi thử nghiệm những đổi mới, phát minh, sáng
chế. Về sản sản xuất, là người đảm nhiệm có hiệu quả cao những công đoạn cả ở phần
đầu, phần giữa và phần cuối của quá trình chế tác, mà doanh nghiệp lớn không cần và
không nên làm. Về phía dịch vụ, với ưu thế của sự “ gần kề”, tạo nên những hiểu biết
qua tiếp xúc trong ” thế giới thực” với khách hàng. Về thương mại, DNNVV có tính cơ
động, nhanh nhậy thâm nhập vào những thị trường tốt và rút lui khỏi những thị trường
xấu, từ những thị trường nghách đến những thị trường lớn.



Những điểm yếu của DNNVV
1.Thiếu nguồn lực để tiến hành những công trình nghiên cứu. Triển khai lớn, đáp
ứng yêu cầu và tận dụng khả năng của cách mạng khoa học và công nghệ.
2.Không đủ sức thực hiện những dự án lớn về đầu tư về chuyển đổi cơ cấu, về
tiếp thị, về đào tạo… để theo kịp, thúc đẩy và tận thu lợi ích của toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế.
3.Không có ưu thế của kinh tế qui mô (ecomomy of scale), tức là những thành
quả và lợi ích đặc biệt mà chỉ từ một qui mô thích hợp (thường là đủ lớn) thì mới là có
được. DNNVV là ”mèo nhỏ”, nên chỉ làm và chỉ bắt được ”chuột con”.
4.Nói chung vẫn lép vế trong các mối quan hệ (với Nhà nước, với thị trường, với
ngân hàng, với các trung tâm khoa học, với giới báo chí, với đối tác, đối thủ, với khách
hàng…). Thậm chí, thường phải dựa cậy và phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn, như
doanh nghiệp con của doanh nghiệp mẹ, như chân rết ngoại vi của trung tâm.
5.Thiếu sức phòng, tránh và chống các rui ro, thường xuyên có nhiều, rất nhiều
DNNVV ra đời, thì cũng có nhiều, rất nhiều DNNVV phá sản.
6.Ngay trong trường hợp thực tế là và được công nhận là động lực chính hoặc
động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, DNNVV rất khó tự tập hợp hoặc được
tập hợp thành lực lượng thống nhất và rất mạnh để có thể có thể có vị thế chi phối về
kinh tế-xã hội và chính trị. Nói chung, DNNVV là” người ăn theo” chứ không phải là
người đề xuất, là người tuân lệnh chứ không phải là người ra lệnh (về điểm này) hiện
nay trên thế giới và nhiều nước còn có sự tranh cãi.
Khi đánh giá DNNVV cần tránh sự thiên lệch, hoặc quá nặng về những điểm
mạnh hoặc quá nặng về những điểm yếu. Thấy đúng, thấy rõ mặt mạnh để phát huy và
thấy đúng, thấy rõ mặt yếu để tìm cách khắc phục, đó là sự đánh giá cần thiết để có
chính sách và hành động sáng suốt, có hiệu quả cao.

3.Quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn
Nếu nói một cách đơn giản, thì đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, với
những phương pháp phức tạp do sự cùng tồn tại trong các tổ hợp sản xuất, kinh doanh
khổng lồ hoặc các cụm kinh tế có tầm cỡ quốc gia hoặc toàn cầu.



Đại thể của mối quan hệ đó là: Doanh nghiệp lớn vừa giúp đỡ, hướng dẫn, sử
dụng vừa kiềm chế, chèn ép, thậm chí bãi bỏ (thủ tiêu DNNVV); còn DNNVV thì vừa
tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác, vừa thủ thế, giành giật đối với doanh nghiệp lớn. Động cơ
ở đây chính là lợi nhuận, cuộc đấu tranh để sinh tồn và phát triển vì lợi nhuận trong kinh
tế thị trường.
Phân tích cụ thể hơn có thể thấy mối quan hệ trên đây diễn biến nhiều hình vẻ,
nhiều mức độ, nhiều phạm vi, có lúc nặng hơn về hợp tác, có lúc nặng hơn về cạnh
tranh, do tác động của mấy yếu tố sau:
1.Tuỳ ở chỗ DNNVV là doanh nghiệp độc lập hay là doanh nghiệp con, nằm
trong tổ chức của doanh nghiệp lớn.
2.Tuỳ ở chỗ DNNVV thuộc nghành sản suất, nghành kinh doanh, nghành dịch vụ
nào, hoạt động trên thị trường nào (chú ý rằng mối quan hệ của DNNVV với doanh
nghiệp lớn cùng nghành, cùng thị trường có khá nhiều mối quan hệ của DNNVV với
doanh nghiệp lớn khác nghành, khác thị trường).
3.Tuỳ ở mục tiêu, chiến lược, phương pháp và tài năng xoay sở của doanh nghiệp
lớn cũng như của DNNVV. Nói rõ hơn cả hai bên giống nhau hoặc mỗi bên khác nhau
trong sự lựa chọn, và có khả năng đến đây để thực hiện sự lựa chọn ấy: giành giật hay là
cộng tác, hay là pha trộn cả hai.
4.Tuỳ ở chính sách Nhà nước và tác động của dư luận xã hội tại từng nước, dẫn
đến chỗ thị trường được hướng dẫn đúng hay sai, bị bóp méo nhiều hay ít, mặt tích cực
được phất huy và mặt tiêu cực được khắc phục thế nào.
Như vậy, về quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, trên cơ sở một số
không nhiều các nét chung dễ nhận thấy, cần phải phân tích cụ thể với từng thời kỳ, từng
quốc gia, từng ngành, từng vùng, từng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, ngay dù chỉ vì mục đích thu thật nhiều lợi nhuận,
doanh nghiệp lớn và DNNVV đều cần đến nhau. Dù giỏi kìm chế và chèn ép đến đâu,
doanh nghiệp lớn cũng không thể thủ tiêu hết DNNVV, chính từ lợi ích của bản thân
mình. Cũng như vậy, dù giỏi xoay sở và giành giật đến đâu, DNNVV cũng không thể

thay thế được, càng không thể loại bỏ được doanh nghiệp lớn, chính từ yêu cầu tồn tại


của bản thân mình. Cả hai loại doanh nghiệp là những bộ phận hợp thành không thể
thiếu của một nền kinh tế ở thế kỷ 21.
II. Chính sách phát triển DNNVV
1. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển các DNNVV
Trước hết, ta cần hiểu thế nào là”chính sách”. Thuật ngữ “chính sách” được sử
dụng phổ biến trên báo chí, các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể
kinh tế- xã hội đều có những chính sách của mình. Ví dụ, có chính sách của các cá nhân,
chính sách của doanh nghiệp , chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia, chính
sách của một liên minh các nước hay tổ chức quốc tế .v.v..
Theo quan điểm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể
khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Tuyên bố chính sách có nghĩa là một tổ chức hay một cá nhân đã quyết định một
cách thận trọng và có ý thức cách giải quyết những vấn đề tương tự.
Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chúng
vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở những nhà quản lí
quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính
sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiên
các mục tiêu chung của tổ chức.
Chính sách kinh tế- xã hội (chính sách công), xét theo nghĩa rộng, là tổng thể các
quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản
để thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước.
Chính sách theo quan niệm trên là đường nối phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước. ở Việt Nam, đường nối do Đảng Cộng Sản Việt Nam- lực lượng chính trị lãnh đạo
Nhà nước và xã hội xây dựng.
Theo nghĩa hẹp, có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách phát triển kinh tế- xã
hội (chính sách công) được đưa ra. Nhìn chung lại, ta có thể đưa ra khái niệm cơ bản
sau: chính sách kinh tế- xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và

công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động nên các chủ thể kinh tế- xã hội nhằm giải
quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu
tổng thể của đất nước.


Từ những quan điểm về chính sách nói chung và chính sách kinh tế- xã hội
(chính sách công) nói riêng, ta có thể rút ra khái niệm về chính sách phát triển hệ thống
DNNVV ở Việt Nam như sau: Chính sách phát triển hệ thống DNNVV là tổng thể các
quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để nhằm khuyến
khích, thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả
cho hệ thống các doanh nghiệp này, nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước.
Nói cách khác, chính sách phát triển DNNVV là sự thể chế hoá pháp luật của Nhà
nước đối với các vấn đề về các DNNVV, là hệ thống các quan điểm, phương hướng,
mục tiêu và các giải pháp nhằm phát triển hệ thống này.
Chưa bao giờ và không ở đâu sự phát triển của DNNVV lại chỉ do bàn tay vô
hình, tức là sự hoạt động tự phát của thị trường, ở mọi quốc gia và trong mọi thời kỳ, bàn
tay hữu hình luôn luôn hiện hữu, tức là tác động của Nhà nước rất quan trọng, rất cơ bản,
thậm chí có tính quyết định. Đối với toàn bộ khu vực DNNVV, Nhà nước là người khởi
xướng, ngưòi khuyến khích, người giúp đỡ, người bảo vệ, người cứu trợ (khi khó khăn)
người điều tiết thoả đáng (khi cần thiết).
Hầu hết các Nhà nước chẳng những đối xử với DNNVV bình đẳng như với doanh
nghiệp lớn, mà còn dành ưu đãi rõ rệt cho DNNVV, với nhận thức đúng đắn rằng sự bất
bình đẳng có lợi cho DNNVV là dân chủ, là con đường và biện pháp tốt để thực hiện
bình đẳng xã hội.
Bàn tay hữu hình của Nhà nước thể hiện qua hệ thống luật lệ của Nhà nước, từ
chính quyền trung ương đến chính quyền địa phương và chính quyền cơ sở, có thể hiện
hữu ngay trong hiến pháp, và từ hệ thống luật lệ toả ra trong mọi công việc mà Nhà nước
tiến hành.
Tóm tắt những chính sách thể hiện trong luật lệ của Nhà nước về DNNVV là như

sau:
1. Tạo dễ dàng việc khởi nghiệp và việc hành nghề của DNNVV.
2. Cho vay vốn với điều kiện thuận lợi( như Nhà nước góp phần thế chấp hoặc
bảo lãnh) với lãi suất thấp, với ân hạn dài, với sự trợ giúp khi gặp khó khăn trong việc trả
nợ.


3. Cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế.
4. Chuyển giao và giúp làm chủ công nghệ và quản lý tiên tiến.
5. Giúp đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, từ giám đốc đến kĩ thuật viên, nhân
viên quản lý, kế toán và công nhân hành nghề.
6. Cho nhận thầu công việc sản xuất, kinh doanh; cho đảm nhận từng dự án hoặc
bộ phận dự án kinh tế ( của Nhà nước ); cho hạn ngạch hoặc tỷ phần trong việc cung ứng
hàng hoá hoặc dịch vụ cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu. 7. Giúp tiếp cận thị
trường, cung cấp thông tin kịp thời và chuẩn xác về thị trường, cho tham gia nhiều hình
thức thiết lập và phát triển quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước.
8. Đặc biệt chăm sóc và giúp đỡ:
+ Các DNNVV nhiều triển vọng
+ Các DNNVV bị thiệt thòi hoặc gặp nhiều khó khăn
+ Các DNNVV do phụ nữ làm chủ
+ Các DNNVV trong một số nghành và vùng ưu tiên v.v...
9. Hoạch định, thông qua và thực hiện những chiến lược trung hạn và dài hạn,
những chương trình quốc gia từng năm hoặc vài năm về phát triển DNNVV.
10. Theo dõi tình hình, thường thì làm thống kê riêng về DNNVV, kiểm điểm
việc thực hiện các luật lệ, chiến lược và chương trình nói trên, phát hiện và xử lý kịp thời
các vấn đề nảy sinh để phát triển DNNVV.
11. Lập cơ quan Nhà nước chuyên trách về DNNVV, có nơi là cơ quan cấp bộ
hoặc là một bộ trong Chính Phủ.
12. Giúp thành lập và hoạt động có hiệu quả của các hiệp hội DNNVV. Dành cho
các hiệp hội ấy cơ hội và vị trí đích đáng trong các Hội đồng, các Uỷ ban, các hội nghị

quan trọng của Nhà nước để hoạch định các chính sách kinh tế quốc gia.
Qua nghiên cứu luật lệ của nhiều nước, thì rõ ràng mỗi nước bắt đầu từ một số
luật lệ nhằm vào những vấn đề bức xúc và quan trọng nhất của sự phát triển DNNVV, do
vậy còn chưa hoàn thiện và chưa đầy đủ, rồi từng bước các luật lệ đó được bổ sung hoàn
chỉnh dần, đến khi bao quát khắp các mặt như vừa giới thiệu trong 12 diều nêu trên.


Sự khác nhau giữa các nước chủ yếu là ở mức độ khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ
nhiều hay ít, cao hay thấp đối với DNNVV, và một phần nữa là ở một số biện pháp
khuyến khích cụ thể, có nét riêng biệt của từng nước.


Phần 2
chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Việt Nam
I.Tình hình phát triển DNNVV ở Việt Nam
Theo tổng kết cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp trên
phạm vi cả nước tại thời điểm ngày 1/7/1995 tiến hành ở 23.708 doanh nghiệp, thì có
20.856 doanh nghiệp, tức là 87,6% trong tổng số là DNNVV, dựa vào tiêu chí phân loại
theo tổng giá trị vốn đã qui định. Doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng: 20.856, chiếm
88%, doanh nghiệp có số vốn trên 5 tỷ đồng: 2.852, chiếm 12%.
Trong những doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng:
+Doanh nghiệp có số vốn dưới 1tỷ đồng: 16.673, chiếm 70,3%.
+Doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng: 4.183, chiếm 17,6%.
Như vậy là, theo tiêu chí vốn, năm 1995, các DNNVV chiếm 99,56% trong tổng
số các doanh nghiệp tư nhân, chiếm 97,38% trong tổng số các hợp tác xã, chiếm 94,72%
trong tổng số các công ty TNHH, chiếm 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần và
65,88% trong tổng số các doanh nghiệp Nhà Nước. Trong tổng số doanh nghiệp được
điều tra là 23.708, có tới 20.856 DNNVV.



Theo số liệu thống kê đến 30/6/1998, trong tổng số các doanh nghiệp dân doanh
là 25.517, có 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.900 công ty TNHH, 153 công ty cổ phần
và 2.900 hợp tác xã.
Xét về lĩnh vực kinh doanh, cũng theo số liệu của cuộc điều tra nói trên, trong số
20.856 DNNVV có 77,6% hoạt động trong các ngành thương nghiệp, sửa chữa và công
nghiệp chế biến, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, sửa
chữa chiếm 42,2% và các doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp chế biến chiếm
35,4%. Doanh nghiệp hoạt động trong xây dựng chiếm gần 10%; trong khách sạn, nhà
hàng 44,4%; trong ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 3,3%; trong ngành kinh
doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn 2,1%; trong ngành khai thác mỏ 1,2%; còn lại dưới
1% là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác.
Về phân bố giữa các địa phương, DNNVV tập chung chủ yếu tập ở vùng Đông
Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 55% tổng số DNNVV của cả nước, ngoài
ra là Đồng bằng sông Hồng chiếm 18,1%, Duyên hải miền Trung 10,1%.

2.Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay DNNVV có vị trí đặc biệt quan trọng thể hiện
qua các mặt dưới đây:
-Tạo việc làm cho người lao động. Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNNVV và là
nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNNVV ở nước
ta hiện nay.
Số liệu điều tra lao động và việc làm (7/2000) cho thấy ở Việt Nam, dân số trong
độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55) là 46,2 triệu người chiếm 59,2%
tổng dân số (năm 1989 mới chỉ là 55%). Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn cấu trúc
dân số trẻ sang "cơ cấu dân số vàng", nghĩa là tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở mức
cao trong khi tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm. Dự báo trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI
tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm
2009 (56 triệu người). Từ năm 1999 đến năm 2009 mỗi năm sẽ có thêm 1,8 triệu người
bước vào độ tuổi lao động. Đây là mức tăng nguồn nhân lực cao nhất từ trước đến nay



trong lịch sử dân số Việt Nam, là tiềm năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là
thách thức rất lớn về giải quyết việc làm.
Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 25-26% lực
lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút thêm lao động rất
lớn vì suất đầu tư cho một làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn,
chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo tài liệu
"Một số chỉ tiêu chủ yếu về qui mô và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh
trên lãnh thổ Việt Nam " của Tổng Cục Thống Kê xuất bản năm 1997, lượng vốn trung
bình cho một chỗ làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong
công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại
doanh nghiệp Nhà Nước là 87,5 triệu đồng. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi
nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông thôn tăng mỗi năm; đồng thời còn tiếp nhận
số lao động từ các doanh nghiệp Nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán,
cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai.
-Đóng góp tăng trưởng kinh tế. Mỗi năm DNNVV đóng góp khoảng 25-26%
GDP của cả nước. Năm 1995, DNNVV tạo ra 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp,
78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng vận chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản
lượng hàng hoá của một số ngành nghề như chiếu cói, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ
...
Xét về tương quan giá trị TSCĐ với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng đồng
vốn, có thể thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn ở khu vực DNNVV đang rất khả quan: để
tạo ra một đồng doanh thu, các doanh nghiệp Nhà nước thuộc Trung ương quản lý phải
đầu tư 0,562 đồng vốn cố định, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương
quản lý chỉ đầu tư 0,220 đồng; doanh nghiệp tập thể 0,298 đồng; doanh nghiệp tư nhân
0,197 đồng; công ty TNHH 0,188 đồng. Nếu so sánh các doanh nghiệp Nhà nước Trung
ương quản lý số vốn cố định mà doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý sử dụng
cho một đồng doanh thu chỉ bằng 39%; tương tự như vậy, các doanh nghiệp tập thể bằng
53%; các doanh nghiệp tư nhân băng 35%; còn công ty TNHH chỉ bằng 33%.

-Bảo đảm cho nền kinh tế năng động hơn. Do yêu cầu vốn ít, qui mô nhỏ,
DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công


nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Một số nền kinh tế như Đài Loan vừa qua ít
chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực, chủ yếu do dựa vào DNNVV. Đối
với doanh nghiệp lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hoá hoặc
cung cấp vật tư đầu vào với giá rẻ hơn do đó góp phần hạ giá thành nâng cao hiệu quả
sản xuất cho doanh nghiệp lớn.
-Tăng thu nhập cho dân cư. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp do kinh tế
chậm phát triển; ngay trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh thì cũng chỉ
đủ no, chứ không giầu được nếu không có công nghiệp chế biến. Phát triển DNNVV ở
thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu
nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các vùng trong nước. Việc phát triển DNNVV chế
biến nông, lâm, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ truyền thống phân bố rộng khắp trong các
vùng nông thôn sẽ tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, góp
phần rất quan trọng thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
-Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế xóa đói giảm nghèo theo
hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu thành phần kinh
tế, cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lãnh thổ, phân bố dân cư... Việc phát triển DNNVV sẽ tạo
ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, từ một nền
kinh tế sản xuất nhỏ, thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo
hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ nhận thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt
kinh tế, xã hội của nhiều vùng đã có thay đổi theo hướng đó: nhiều thị trấn, thị tứ, đông
đúc hợn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành, đi đôi
với giao thông nông thôn phát triển và nhiều đường dẫn toả ra nhiều vùng nông thôn...
-Và cuối cùng là góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội
ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường. Trong thực tế, có những DNNVV vẫn tiếp
tục giữ tổ chức của mình là nhỏ hoặc vừa vì qui mô này phù hợp với khả năng kinh
doanh ngành, nghề đang theo đuổi, nhưng cũng có những doanh nghiệp phát triển lên

thành những doanh nghiệp có qui mô lớn. Đã có những gương doanh nhân thành đạt
xuất thân từ những công việc rất đơn giản, do ý chí và quyết tâm rất đáng khích lệ, dù ở
qui mô nào, DNNVV cũng vẫn là những vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển
kinh tế của đất nước.


II.Hệ thống thể chế, chính sách khuyến khích trợ giúp DNNVV ở Việt Nam.
DNNVV ở nước ta hiện nay đang còn nhiều yếu kém, việc trợ giúp là hết sức cần
thiết.
Đối với các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, từ những năm đổi mới, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật để từng bước hình thành hệ thống
thể chế, chính sách khuyến khích phát triển.
Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng nhất.
-Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo
qui định của pháp luật; công nhận quyền được đối xử bình đẳng của các thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
-Luật đất đai năm 1993, được sửa đổi hai lần bằng các luật sửa đổi, bổ xung một
số điều của luật đất đai của năm 1998 và năm 2001, qui định các doanh nghiệp có quyền
hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
-Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 qui định khung pháp luật
cho các doanh nghiệp này hoạt động hoặc tham gia thị trường trong nước và nước ngoài.
-Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1994 được sửa đổi
bằng các pháp lệnh năm 1997 và năm 2001.
-Luật dân sự năm 1995 qui định nhiều quyền dân sự, trong đó có quyền kinh
doanh thông qua hợp đồng và quyền thực hiện hợp đồng thông qua tài sản cầm cố và thế
chấp.
-Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997, đơn giản hoá và thực hiện thống
nhất một sắc thuế thu nhập cho các loại hình doanh nghiệp trong nước.
-Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 thay thế luật thuế doanh thu bị coi là thuế
chồng lên thuế bằng một sắc thuế đơn giản hơn, công bằng hơn.

-Luật thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của các
doanh nghiệp.
-Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và nghị định số 51
(tháng 7/1999) cụ thể hoá điều kiện luật đó đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng
cho tất cả loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, kể cả cá nhân, nhằm kinh doanh theo
nghị đinh 66-HĐBT ngày 2/3/1992.


-Nghị địng số 57 (7/1998) qui định tất cả các doanh nghiệp đã đăng ký có quyền
xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng đã đăng ký kinh doanh (mà trước đây cần phải có
giấy phép) trừ một số ít sản phẩm còn qui định hạn ngạch hoặc xuất nhập khẩu có điều
kiện.
-Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000) qui định tổ chức
và hoạt động của 4 loại hình doanh nghiệp: công ty TNHH, đào tạo cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, trên cơ sở hợp nhất hai luật về công ty và doanh
nghiệp tư nhân trước kia.
-Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính Phủ về xuất nhập
khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một số cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây,
giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế.
Rõ ràng là, trải qua 15 năm đổi mới theo đường lối của Đảng, thể chế kinh tế
nước ta đã từng bước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ
thống các văn bản pháp luật theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy
chưa thật hoàn chỉnh; nhờ đó kinh tế dân doanh bước đầu bừng nở, mọi lực lượng sản
xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của kinh tế nước ta, tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho người lao động.
Thế nhưng, trên con đường kinh doanh, DNNVV đang còn gặp không ít khó
khăn. Để khuyến khích phát triển mạnh hơn nữa nhiều DNNVV, việc tiếp tục đổi mới
công tác quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng, mà trước hết là cải cách thể chế
kinh tế. Trong khi các yếu tố của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang rất sơ khai,
không đồng bộ, thể chế ấy phải bảo đảm hình thành, phát triển và hoàn thiện các loại thị

trường, nhất là thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị
trường khoa học- công nghệ. Điều quan trọng trong thể chế là phải dứt khoát xoá bỏ cơ
chế "xin cho" tràn lan đã ăn sâu trong nếp nghĩ cũng như cung cách quản lý của không ít
cơ quan và công chức, đôi khi lại còn vì cơ chế cũ đã đem lại cho họ những bổng lộc mà
họ không sao dứt bỏ được.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra nhiệm vụ "trong 5 năm
tới, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN,


khắc phục những yếu kém, tháo gỡ những vướng mắc" và đến năm 2010, "thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN phải được định hướng về cơ bản".
Như vậy, việc cần thiết là tiếp tục cụ thể hóa thêm thể chế, chính sách đó và vận
dụng phù hợp với đặc điểm DNNVV trong tình hình hiện nay. Dưới đây là một số chính
sách cụ thể nhất cần được quan tâm.
1.Chính sách khuyến khích đầu tư:
Lâu nay, phần lớn DNNVV tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ
đời sống (chiếm tới 46,2% số doanh nghiệp), còn lĩnh vực công nghiệp thì quá ít. Điều
đó thể hiện rõ tâm lý của người dân chưa thật sự tin tưởng vào kinh doanh dài hạn, nhiều
rủi ro. Vì vậy, việc khuyến khích đầu tư vào công nghiệp, nhất là phát triển sản xuất
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu rất cần được chú trọng. Công nghiệp chế biến nông sản,
lâm sản cần được đầu tư nhiều hơn nữa, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nghị định 51-CP ngày 8/7/1999 đã đề ra nhiều chính sách khuyến khích đầu tư
phát triển doanh nghiệp trong nước, về ngành, nghề, vùng khó khăn và đặc biệt khó
khăn, thế nhưng hiệu lực thi hành nghị định này rất kém thể hiện ở hai mặt: một là, có
những ngành (ví dụ thuế) không những không thực hiện đúng qui định trong nghị định
51 lại còn đòi hỏi những điều kiện trái với nghị định; hai là, còn nhiều thủ tục hành chính
hạn chế doanh nghiệp dân doanh tiếp cận các chính sách ưu đãi. Vì vậy, rất cần kiểm
điểm để đẩy mạnh việc thi hành Nghị định 51, bổ xung những qui định cần thiết.
Đồng thời, rất cần thiết rà soát lại toàn bộ thể chế, chính sách đối với doanh

nghiệp, xoá bỏ những trở ngại trong sản xuất kinh doanh, những bất bình đẳng, sửa đổi,
bổ xung những qui định mới có tác dụng khuyến khích mạnh hơn nữa, tiến đến một cơ
chế chung cho doanh nghiệp dân doanh với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh
doanh và doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Việc này cần có thời gian, tiến hành từng
bước, trước mắt, cần sớm sửa đổi, bổ xung những cơ chế, chính sách đã rõ là không hợp
lý, tiếp tục tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (kể cả DNNVV).
2. Chính sách về mặt bằng kinh doanh:
Hiện nay đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có hiệu quả mong muốn
mở rộng sản xuất kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất để làm mặt bằng . Việc


xin cấp đất hoặc thuê đất của doanh nghiệp đều bị cảm trở bởi hồ sơ và thủ tục phức tạp
tuy nhiên có vài địa phương làm tốt điều này nhưng chỉ là số ít . Trước sức ép tất đất tất
vàng có chủ doanh nghiệp thốt lên : Nghỉ đến chuyện xin cấp đất , thuê đất tôi như nhìn
thấy trên con đường có những tấm dào cản không thể vượt qua .Làm con đường chỉ cho
người ta đích nhưng lại xây dào qua cao thì còn nói chuyện gì nữa .( Báo Doanh nghiệp
– Doanh ngày 17/11/2004 “ DNV&N Sáu bước rào cản “ . Đó là do các qui định về
quyền sử dụng đất thường không rõ ràng, quyền mua bán, thế chấp chuyển nhượng đất
công nghiệp vẫn chưa được thừa nhận. Khó khăn đang còn rất lớn. Một ví dụ: năm 1997
trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư mới, chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân; mặc dù
các dự án này đã nộp đơn xin cấp quyền sử dụng đất hoặc thuê đất nhưng chỉ có duy
nhất một dự án được thuê đất. Do những khó khăn trong việc xin quyền sử dụng đất, cho
nên nhiều DNNVV thường phải dùng ngay nơi ở của mình để làm cơ sở sản xuất, gây ô
nhiễm môi trường, cũng do đó thị trường ngầm về đất đai hoạt động khá nhộn nhịp, tuy
bị coi là bất hợp pháp, nhưng DNNVV không thể không tiếp cận để có mặt bằng cho sản
xuất kinh doanh.
Vì vậy, các thủ tục về quyền chuyển nhượng sử dụng đất cho DNNVV, thủ tục
thuê địa điểm lập doanh nghiệp cần được cải tiến, giảm bớt khó khăn về mặt bằng. Để
giải quyết địa điểm cho các doanh nghiệp phải di chuyển từ nội thành, nội thị ra ngoại ô
nhằm tránh ô nhiễm môi trường, đồng thời cũng để chuẩn bị mặt bằng cho doanh nghiệp

mới, thực hiện qui hoạch đô thị hoá, tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn, một số địa
phương như các thành phố: Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, đã hình thành những khu
công nghiệp nhỏ và vừa, hoặc cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cho DNNVV. Khó
khăn hiện nay là chi phí di chuyển quá sức chịu đựng của doanh nghiệp, giá thuê đất
không phù hợp, chi phí đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp cũng còn cao.
Quốc hội khoá X trong kỳ họp thứ 9 ( tháng 5 năm 2001) đă thông qua một số
điều sửa đổi luật đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dân doanh trong
việc thuê đất, giải phóng mặt bằng. Tuy vậy vẫn là những sửa đổi chưa thật cơ bản, hy
vọng rằng trong những năm tới, sẽ có những đổi mới mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực đất
đai, giải quyết cơ bản yêu cầu của DNNVV trong lĩnh vực mặt bằng cho sản xuất kinh
doanh.


3.Chính sách về vốn
Hiện nay, 75% số DNNVV có số vốn dưới 50 triệu đồng, thiếu vốn đang là khó
khăn phổ biến, nhưng số DNNVV được vay vốn của ngân hàng rất ít. Theo báo cáo của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc thực hiện cấp tín dụng từ quĩ trợ giúp đầu tư theo luật
khuyến khích đầu tư trong nước từ ngày 1/12/1999 đến ngày 30/6/2000, đã có 164 dự án
với tổng số vốn vay ưu đãi trên 424 tỷ đồng, trong đó 61 dự án thuộc khu vực dân doanh
(39% tổng số dự án) được vay 294 tỷ đồng (69% tổng giá trị khoản tín dụng ưu đãi). Chỉ
có 103 dự án thuộc khu vực dân doanh được vay ưu đãi 130 tỷ đồng, tính trung bình 1,2
tỷ đồng cho một dự án. Nếu nghiên cứu sâu hơn nữa có thể thấy phần lớn tín dụng tập
trung vào các doanh nghiệp tư nhân lớn, chứ không phải các DNNVV.
Do vậy, phần lớn DNNVV huy động vốn của các tổ chức phi tài chính, cụ thể là
trong gia đình, bạn bè hoặc dựa vào nhau với lãi suất cao hơn gấp 3-6 lần so với lãi suất
chính thức. DNNVV còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn ngắn
hạn, trung hạn cũng như dài hạn từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng chính thức khác;
các khoản vay có bảo lãnh cũng thường không đến với các DNNVV. Đối với ngân hàng,
dù đã được ưu đãi cũng không dễ, nhiều doanh nghiệp cho biết: tuy lãi suất vay ngân
hàng là thấp nhưng các thủ tục vay rất phức tạp, nếu tính cả các lệ phí tiêu cực thì thực

chất chi phi giao dịch là quá cao; việc phải hoa hồng 10% là phổ biến (tuy đây là hiện
tượng có thật nhưng khó phát hiện). Những qui định khắt khe về tài sản thế chấp và việc
xem xét tính khả thi của dự án đầu tư cũng làm cho nhiều DNNVV không thể đáp ứng
được, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước lại được vay mà không cần thế chấp.
Hiện nay, đã có qui định cho rằng ngân hàng chủ động xem xét dự án của doanh nghiệp,
có thể cho doanh nghiệp vay không cần thế chấp, nhưng việc thực hiện rất khó khăn nhất
là các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ việc
đầu tư cho DNV&V Do nhận thức chưa thông thoáng , cho nên bị hạn chế rất nhiều (
Báo Doanh nghiệp – Doanh ngày 17/11/2004 “ DNV&N Sáu bước rào cản ). Vì vậy, để
doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng còn nhiều vấn đề giải quyết về
thủ tục vay.
Để giải quyết vấn đề tài sản thế chấp cho DNNVV, mấy năm gần đây tại Bắc
Giang đã tiến hành thí điểm Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Trên cơ sở kinh


nghiệm của Bắc Giang, một Nghị định về Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV cũng
đang được các cơ quan hữu quan nghiên cứu để ban hành, thi hành trong cả nước. Quỹ
này phải là một tổ chức do các DNNVV cũng ngân hàng thành lập, có sự trợ giúp ban
đầu của Nhà Nước để cùng chia sẻ rủi ro với ngân hàng trong quá trình cho DNNVV vay
vốn, mà thiết thực nhất là cùng trợ giúp trực tiếp cho DNNVV trong quá trình chuẩn bị
dự án sản xuất kinh doanh, bảo đảm tính khả thi của dự án.
Hiện đang có tình trạng thừa vốn, thiếu dự án khả thi. Vì vậy, điều quan trọng là
giúp cho doanh nghiệp xây dựng được dự án khả thi và về phía mình ngân hàng cần tăng
cường năng lực thẩm định dự án, nâng cao trách nhiệm và chủ động hơn trong việc cho
vay. Cũng nên khuyến khích việc ngân hàng cùng đầu tư với doanh nghiệp để kinh
doanh, ngân hàng không nên chỉ đơn thuần là tổ chức tín dụng.
4.Chính sách thị trường:
Hiện nay các DNV&N của chúng ta thường phải chịu thiệt thòi ,phải gánh chịu
những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước ; khả
năng xúc tiến thương mại , tiếp cận với thị trường trong nước và quốc tế rất khó khăn ;

điều kiện tiếp cận với thông tin về văn bản ,phát luât , thị trừờng ,tiến bộ khoa học và
công nghệ …. Còn tản mạn và hạn chế . Vì vậy, phải có nỗ lực của cả hai phía doanh
nghiệp và các cơ quan tư vấn, xúc tiến của các tổ chức xã hội hoặc của cơ quan Nhà
nước. Việc bảo hộ cũng chỉ có điều kiện và có thời gian, DNNVV cũng vẫn rất cần thiết
tìm mọi biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá do doanh nghiệp mình
sản xuất. Thời gian gần đây, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đang có nhiều triển
vọng mới (năm 1999 đạt 169 triệu USD) là một hướng cần được trợ giúp để có thể tăng
nhanh kim nghạch.
Vừa qua, Quyết định số 46 ngày 4-4-2001 của Thủ Tướng Chính Phủ đã đề ra
những qui định mới hết sức thuận lợi cho việc xuất khẩu: Có những chủ trương chính
sách cho từ nay đến năm 2005, tạo cho doanh nghiệp bức tranh dài hạn để bố trí công
việc làm ăn, các cơ quan Nhà nước quản lý cũng có định hướng rõ ràng tạo điều kiện cho
doanh nghiệp. Điểm mới rất quan trọng là quyết định 46 đã giảm bớt phi quan thuế, tăng
các biện pháp kinh tế, giảm bớt các mặt hàng cấm nhập khẩu, giảm bớt qui chế xin- cho,
xoá bỏ mạnh mẽ đầu mối. Đặc biệt, đã đề ra lộ trình rõ ràng: Năm nào bỏ cái gì, cái gì


bảo hộ và bảo hộ đến bao giờ, bằng biện pháp gì.... Điều quan trọng là đưa những Quyết
định mới vào cuộc sống, thiết thực giúp đỡ DNNVV trong các thủ tục để tiếp cận thị
trường ngoài nước theo tinh thần mới của Quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ.
Cần thực hiện rộng rãi các chính sách để DNNVV tiếp cận thị trường, tham gia
các hội trợ, triển lãm ở nước ngoài, thuê gian hàng triển lãm, chính sách hưởng xuất
khẩu, kể cả sử dụng quĩ trợ giúp xuất khẩu, nhằm khuyến khích mạnh hơn nữa việc thu
hút ngoại tệ về cho dất nước. Riêng đối với DNNVV, lại càng khuyến khích sản xuất
hàng xuất khẩu, dù khối lượng và số ngoại tệ thu về ban đầu có thể chưa nhiều. Thời
gian gần đây một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ đã tìm được thị trường, tăng được kim
nghạch xuất khẩu quá nhanh, cần tạo thêm điều kiện để có thể xuất khẩu thêm nhiều sản
phẩm loại này, khai thác tốt tiềm năng của các nghành, nghề truyền thống.
Đối với các DNNVV, việc hội nhập với kinh tế thế giới vừa qua là cơ hội, vừa là
thách thức không nhỏ, nhưng nhiều DNNVV chưa sẵn sàng. đây là trách nhiệm của cả

hai phía: các cơ quan chức năng cần giúp DNNVV nắm được thông tin, nâng cao hiểu
biết và luật lệ thương mại quốc tế, khai thác thị trường phù hợp; các doanh nghiệp cần có
trương trình đổi mới công nghệ, giảm thiểu chi phí ,nâng cao chất lượng hàng hoá, trong
đó chú trọng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000, điều quan trọng là mỗi
doanh nghiệp tự đánh giá nâng cao sức cạnh tranh bằng sự vươn lên của chính mình,
tránh một chiều trông chờ ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước.
Trong thực tế, đã có nhiều mô hình DNNVV tự mình hoặc tự liên kết với nhau
thành các tổ, nhóm, hoặc dựa vào các doanh nghiệp lớn chủ động ra thị trường nước
ngoài, tìm được chỗ đứng của mình. Ví dụ như kẹo dừa Bến Tre, nước mắn Phú Quốc và
riêng nón lá Phú Mỹ (Quốc Oai , Hà Tây) đã mở rộng được thị trường Trung Quốc, qua
"tổ tiêu thụ nón lá đi Trung Quốc" của xã, từ năm 1997 đến nay, phải hàng năm xuất 6070 vạn nón lá các loại, doanh thu 3-4 tỷ đồng, năm 2000 đã xuất được 80 vạn nón mũ
các loại. Những kinh nghiệp phát triển thị trường từ nhỏ đến lớn rất cần được tổng kết và
nhân rộng.
5. Chính sách thuế
Kinh nghiệm đã cho thấy, thuế xuất hợp lý thì thu được thuế cao cho ngân sách,
ngược lại thuế xuất quá cao thì người dân sẽ tìm mọi cách để tránh thuế, kết quả là Nhà


nước thất thu, doanh nghiệp chịu thiệt, còn người được lợi là những cán bộ thuế mất
phẩm chất.
Riêng về thuế giá trị gia tăng được ban hành năm 1997 và thi hành từ 1-1-1999
thay thế cho thuế doanh thu là loại thuế đánh vào người tiêu dùng, tránh được tình trạng
" thuế chồng thuế", bằng cách khấu trừ số thuế đã nộp, người tiêu dùng phải chịu thuế sẽ
chỉ trả thuế cho phần " Giá trị gia tăng" ở mỗi giai đoạn sản xuất không phải chịu thuế
doanh thu chồng chéo. Tuy vậy, thuế giá trị gia tăng còn tới 4 loại thuế suất 6%, 5%,
10% và 20% và nhiều trường hợp được miễn trừ, cho nên việc thu thuế giá trị gia tăng
vẫn gây ra nhiều khó khăn cho người nộp cũng như người thu thuế. Nhiều DNNVV cho
rằng, mức thuế còn cao, chia làm 4 loại quá phức tạp chỉ nên thống nhất một loại thuế
suất.
Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng vậy, được áp dụng để thay thế thuế lợi tức có

thuế suất 32% (Dù chưa có thu nhập, doanh nghiệp vẫn phải nộp theo từng quý). Tuy
vậy, nhiều DNNVV vẫn cho rằng mức thuế suất đó là cao; hơn nữa lại còn thuế thu
nhập bổ xung (Đối với các cơ sở kinh doanh được coi là có địa điểm kinh doanh thuận
lợi; nghành, nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh, thu nhập cao) là một thứ thuế bất hợp lý,
triệt tiêu động lực kinh doanh, kìm hãm sản xuất. Doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp theo thuế xuất chung là 32% mà phần thu nhập còn lại so với vốn
chủ sở hữu hiện có cao hơn 12% thì phần vượt đó phải nộp thuế thu nhập bổ xung (thuế
suất là 25%). Từ phần thu nhập còn lại phải chịu thêm thuế thu nhập không phải là cao
hơn 12%, mà là phần cao hơn 20% so với vốn chủ sở hữu hiện có.
Một loại thuế khác cũng được doanh nhân trong các DNNVV đăc biệt quan tâm,
đó là thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao. Thuế này đã nhiều lần sửa
đổi, từ 1- 7- 2001 đã áp dụng biểu thức mới: Khởi điểm chịu thuế được nâng từ 2 triệu
đồng lên 3 triệu đồng và hạ mức thuế xuất cao nhất xuống còn 50%
(Trước đây là 60%). Tuy vậy, doanh nhân trong DNNVV vẫn cho rằng mức này không
động viên được những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, hơn nữa điều không
hợp lý là thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở nước ta đánh đơn thuần vào thu
nhập, không tính đến gia cảnh như ở các nước khác. Theo giải thích của cơ quan có trách
nhiệm thì đó là tình hình thực tế của nước ta hiện nay; sau này, khi có luật thuế thu nhập


cá nhân, mọi người đều có trách nhiệm nộp thuế, thì việc tính thuế sẽ phải tính đến việc
miễn trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế, cho người ăn theo, còn lại mới tính thuế.
Tóm lại, về thuế hiện đang tồn tại nhiều bất cập, hệ thống thuế quá phức tạp, thuế
suất có phần cao, khuyến khích những hành vi trốn thuế và tham nhũng; rất cần có sự
nghiên cứu nghiêm túc, sửa đổi cơ bản để có hệ thống thuế đơn giản, xoá bỏ những
trường hợp miễn giảm thuế và những khẽ hở trong chính sách thuế; chỉ có như vậy mới
hạn chế được tình trạng trốn thuế và hơn nữa, tạo thêm động lực khuyến khích nhân dân
đầu tư vào sản xuất kinh doanh, nhất là phát triển thêm nhiều DNNVV. Cung cách thuế
cũng cần được sửa đổi tránh gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, nhất là các DNNVV
đang chịu việc khoán thuế, chủ doanh nghiệp thường bị áp đặt về số thuế phải nộp.

6. Chính sách về công nghệ
Phần lớn doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung
bình của thế giới từ 3-4 thế hệ. Nhiều DNNVV lại còn đang sử dụng những máy móc
thiết bị cũ kỹ mà Doanh nghiệp Nhà nước đã loại bỏ. Trong tình hình cạnh tranh đang
gay gắt, đây là một vấn đề hết sức khó khăn đối với DNNVV.
Trong thực tế, đối với các DNNVV, cùng với việc tạo nguồn vốn để đầu tư công
nghệ hiện đại, điều phù hợp với khả năng thực tế của doanh nghiệp là chọn lựa và ứng
dụng công nghệ thích hợp với khả năng về vốn, trình độ công nhân cũng như trình độ
quản lý hiện đại của chủ doanh nghiệp, sau đó sẽ tiến lên dần. Hiện nay, vấn đề lớn nhất
là trình độ công nghệ thấp dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh kém.
Cần sửa đổi các cơ chế để khuyến khích và tạo dễ dàng cho doanh nghiệp tiếp cận và
ứng dụng công nghệ mới, kể cả trong việc xuất khẩu công nghệ có công nghệ nguồn,
chuyển giao công nghệv.v…
ứng dụng công nghệ mới không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh
của sản phẩm, mà một nội dung có ý nghĩa cấp bách khác là để chống ô nhiễm, bảo vệ
môi trường đối với một số làng nghề (Ví dụ: làm giấy, nấu rượu ở Bắc Ninh, sản xuất
nước mắm, làm hàng thủ công mỹ nghệ ở Đà Nẵng.v.v..).
Đáng chú ý là cho đến nay, lĩnh vực chuyển giao công nghệ là lĩnh vực mà các
DNNVV quan tâm vẫn chưa đủ mức khuyến khích DNNVV ứng dụng công nghệ mới
cho mình, kể cả các thủ tục phiền hà trong việc tiếp thu công nghệ mới qua con đường


chuyển giao công nghệ cũng như các thủ tục để được ưu đãi về tài chính khi áp dụng
công nghệ mới. Để khuyến khích DNNVV đầu tư cho máy móc thiết bị mới, thuế thu
nhập doanh nghiệp nên cho phép khấu hao nhanh máy móc và thiết bị mới, đây cũng là
một trong những biện pháp ưu đãi thuế thành công nhất được sử dụng để khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, tạo điều kiện nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm.
Gần đây, đã hình thành mô hình vườn ươm công nghệ trong khu vực công nghệ
cao Hoà Lạc, vườn ươm các doanh nghiệp sản xuất phầm mềm Quang Trung tại Thành

phố Hồ Chí Minh là những hình thức tổ chức rất đáng khuyến khích để giúp các
DNNVV phát triển kinh doanh dựa vào công nghệ, nhất là trong bước đầu DNNVV khởi
sự kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ.
7. Chính sách về lao động
Theo Tiến sĩ Hoàng Trung Hải ( Trung tâm nghiên cứu kinh tế Quốc tế : Cần phát
triển thị trường lao động – cần phải mở rộng quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tuyển dụng lao động nghiên cứu xây dựng chính sách bảo hiển thất nghiệp để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc cơ cấu lại doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Hiện nay các DNNVV, trình độ tay nghề của người lao động càng kém, chủ yếu
là lao động phổ thông, trình độ văn hoá thấp, thiếu kỹ năng lao động. Thời gian tới, các
trường đào tạo nghề chính qui của Nhà nước sẽ chỉ đảm nhận 15-20% số chỉ tiêu đào tạo
nghề hàng năm, còn lại sẽ do các doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nghề tư nhân, các trung
tâm đào tạo nghề của các địa phương, đoàn thể xã hội đảm nhận. Điều đó đòi hỏi Nhà
nước phải tạo thuận lợi, khuyến khích phát triển và giúp đỡ nâng cao cơ sở dạy nghề dân
doanh; khuyến khích các doanh nghiệp lớn liên kết các DNNVV đào tạo công nhân lành
nghề.
Về tiền lương các DNNVV thuộc khu vực dân doanh, Bộ luật lao động (năm
1994) đã quyết định các vấn đề về tiền lương tối thiểu, thang lương, bảng lương, Nghị
Định số 197 CP ngày 31-12-1994 đã qui định chỉ tiêu các điều nói trên. Điều quan trọng
cần nhấn mạnh là đối với các DNNVV trong khu vực dân doanh, việc xác định thang
lương, bậc lương, mức lương trong doanh nghiệp là quyền của doanh nghiệp để bảo vệ
lợi ích người lao động, Nhà nước chỉ nên kiểm soát việc trả lương tối thiểu nhằm bảo vệ


quyền của người lao động thông qua việc công bố mức lương tối thiểu cho từng vùng,
trong từng thời điểm, đó là mức lương để trả cho người lao động làm công việc giản đơn
nhất (thông qua đào tạo ) với điều kiện lao động và môi trường lao động bình thường.
Luật lao động đã qui định rõ: "tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong
hợp đồng lao động và được trả theo năng xuất lao động, chất lượng và hiệu quả công
việc" ( Điều 55). Mỗi doanh nghiệp có trách nhiệm xây dựng thang bảng lương của mình

với mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố, đăng ký mức lương, thang lương, bảng
lương của doanh nghiệp đối với cơ quan thuế, lao động địa phương (chỉ cần đăng ký,
chứ không phải xin duyệt); đồng thời tuân thủ các chế độ trong luật lao động. Trên cơ sở
mức lương tối thiểu đó doanh nghiệp có quyền đề bạt nâng bậc lương, trả lương cao hơn
cho những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
Một vấn đề đang gây nhức nhối trong nhiều DNNVV là vấn đề xác định chi phí
tiền lương, tiền công để tính thuế thu nhập doanh nghiệp thường bị cơ quan thuế xác
định thấp hơn từ 30-50%, có nơi đến 100% so với mức chi phí thực tế mà doanh nghiệp
trả cho người lao động; phần chênh lệch này bị xác định là thu nhập chịu thuế mà chủ
doanh nghiệp phải chịu, do đó ảnh hưởng đến nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Lý do họ thường nêu ra là tránh tình trạng doanh nghiệp khai tiền lương
cao hơn để trốn thuế. Tuy vậy, việc làm này trái với quyền tự chủ của doanh nghiệp
trong kinh tế thị trường; cơ quan thuế chỉ có quyền kiểm tra việc thi hành thang lương,
bảng lương mà doanh nghiệp đã công bố và đăng ký, nếu doanh nghiệp trả lương cho
người lao động đúng như họ đã đăng ký thì cơ quan thuế không thể không công nhận
thực tế đó.
Những việc nêu trên đây chỉ là phác qua một số định hướng cần suy nghĩ trong
quy định các điều khoản cụ thể về các chính sách khuyến khích DNNVV. Trong nội
dung các chính sách rất cần chú trọng khuyến khích, tạo điều kiện cho các chủ DNNVV
là nữ, do những đặc điểm của giới nữ. Theo kết quả cuộc điều tra do Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung ương cùng phối hợp với tổ chức JICA (Nhật Bản) tiến hành năm
2000 đối với 481 doanh nghiệp dân doanh thì tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp chiếm
tới 21%; đó là một tỷ lệ khá cao so với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này chứng tỏ sức
vươn lên mạnh mẽ của phụ nữ nước ta và trong thực tế đã có nhiều nữ doanh nhân thành


đạt. Tuy vậy, sự trợ giúp cho doanh nhân chưa được nhiều, ngoài một số dự án riêng cho
hội viên Hội Liên Hiệp Phụ Nữ, đáng quan tâm nhất là những chính sách đối với lao
động nữ trong doanh nghiệp cũng hầu như chưa được thực hiện.


Phần 3
hoàn thiện cơ chế chính sách nhà nước phát triển DNNVV ở nước ta
1-Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp
Để phát huy khả năng và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV phát triển mạnh
mẽ, ổn định và đúng hướng, cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, có chính sách ưu đãi hợp lý và công bằng đối với mọi hình thức doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ hai, có chính sách trợ giá xuất khẩu cho các DNNVV để ổn định sản xuất
trong thời gian đầu tìm kiếm, thâm nhập thị trường mới.
Thứ ba, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước cần đảm bảo tính hợp lý, tạo điều
kiện cho các DNNVV góp phần tích cực vào việc chiếm lĩnh thị trường trong nước, thay
thế nhập khẩu tiến tới xuất khẩu. Đặc biệt không để các doanh nghiệp Nhà Nước độc


×