Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

DỊCH tễ học y huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.64 MB, 164 trang )

ĐỊNH NGHĨA, MỤC ĐÍCH CỦA DỊCH TỄ HỌC
DỊCH TỄ HỌC VÀ VẤN ĐỀ DỰ PHÒNG
Mục tiêu học tập
1. Trình bày được những khái niệm cơ bản và các chiến lược của Dịch tễ học (DTH);
2. Trình bày được sự phát triển của DTH thông qua các định nghĩa của các tác giả
khác nhau và các lĩnh vực hoạt động của DTH;
3. Nêu ra được mục đích thực tiễn của DTH và các cấp độ dự phòng.

I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA DỊCH TỄ HỌC
1. Những khái niệm cơ bản
Dịch tễ học (DTH) đang dần dần trở thành khoa học lý luận cơ bản của y học và của các
ngành khoa học khác về sức khỏe, được ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu cũng như
trong các công tác thực tiễn hằng ngày.
Một môn học, đầu tiên được coi như môn học của các vụ đại dịch, nghĩa là khoa học về
các bệnh truyền nhiễm quan trọng, đã có một sự biến đổi sâu sắc trong khoảng thời gian gần
đây. Có thể coi DTH là một bộ phận của sinh thái học ở người, bởi vì nó quan tâm tới sự
tương tác giữa cơ thể con người và môi trường. Sự tương tác giữa các yếu tố bên trong (cơ
thể) và các yếu tố bên ngoài (môi trường). Sức khỏe là sản phẩm của mối tương tác đó. Sự
tương tác mà kết quả có thể thành công (khỏe mạnh) và có thể là thất bại (bệnh, chết). DTH
có nhiệm vụ khảo sát, trình bày các hiện tượng đó, cho nên có thể nhấn mạnh rằng:
-

DTH không phải chỉ có liên quan tới truyền nhiễm;

-

Không phải chỉ là khoa học của các vụ đại dịch;

-

Không phải chỉ là vi sinh học hay thống kê ứng dụng;



- Và không phải chỉ là chính sách y tế hay chỉ có quan tâm tới vấn đề tìm nguyên nhân.
DTH có một tầm nhìn tổng quát, quan tâm tới tất cả các yếu tố sinh học, xã hội học liên
quan tới con người; cố gắng hiểu rõ nó để nhằm tìm ra sự can thiệp tốt nhất có lợi cho cộng
đồng, vấn đề này được thể hiện qua các chiến lược DTH.
2. Các chiến lược DTH
(1) Phải phân biệt trường hợp một cá nhân bị bệnh và trường hợp một tập hợp người
mắc bệnh trong cộng đồng (còn gọi là hiện tượng bệnh hàng lọat). Trường hợp sau, riêng tiếp
cận lâm sàng sẽ không đủ sức giải quyết. Có thể phân biệt sự tiếp cận lâm sàng và tiếp cận
DTH như sau: cả hai đều có các bước tiến hành như nhau, gồm chẩn đoán, giải thích nguyên
nhân, chọn phương pháp can thiệp hợp lý nhất và theo dõi sự diễn biến tiếp tục. Nhưng nội
dung của từng bước tiến hành thì có sự khác nhau, vì đối tượng tiếp cận khác nhau. Đối tượng
của lâm sàng là trường hợp một cá nhân bị bệnh, của DTH là một tập hợp người mắc bệnh, có
những tính chất riêng về con người, thời gian, địa điểm (xem bảng 1).
Cho nên có thể coi người làm công tác lâm sàng là người nghiên cứu chi tiết
(microscopiste) và người làm công tác dịch tễ học là người nghiên cứu tổng quát
(Téléscopiste).
(2) Không chỉ riêng các bệnh truyền nhiễm mới gây nên hiện tượng bệnh xảy ra hàng
loạt. Gần như tất cả các loại bệnh, các hiện tượng sinh lý, sự tăng trưởng, sự lão hóa đều xuất
1


hiện bằng các diễn biến hàng loạt . Các thói quen trong cuộc sống, những trạng thái trước khi
bị bệnh, các can thiệp trị liệu, các chăm sóc y tế, các chương trình dinh dưỡng, các hoạt động
thể dục, giáo dục sức khỏe,... cũng là những diễn biến hàng loạt trong quần thể.
Bảng 1: So sánh sự tiếp cận của lâm sàng và dịch tễ học
Các bước

Của lâm sàng


Của DTH

- Đối tượng:

+ Một người bệnh

+ Một hiện tượng sức khỏe/cộng đồng

- Chẩn đoán:

+ Xác định một cas bệnh

+ Xác định một hiện tượng sức khỏe/cộng
đồng (hiện tượng xảy ra hàng loạt).

- Tìm
nguyên nhân:

+ Nguyên nhân gây bệnh cho một + Nguyên nhân làm xuất hiện và lan tràn
cá thể
bệnh / cộng đồng.

- Điều trị:

+ Điều trị cho một người bệnh + Một chương trình y tế can thiệp, giám
bằng phác đồ
sát, thanh toán hiện tượng bệnh hàng loạt/
cộng đồng

- Đánh giá

kết quả:

+ Chẩn đoán sự cải thiện sức khỏe + Phân tích sự thành công (kết quả) của
của một người bệnh. Theo dõi tiếp chương trình can thiệp. Giám sát DTH tiếp
tục sau điều trị.
tục.

(3) Khái niệm về mạng lưới DTH: Các nghiên cứu về bệnh truyền nhiễm đã cho thấy:
mối quan hệ giữa tác nhân gây bệnh và vật chủ (quần thể) có một sự biến đổi tùy thuộc vào
các tính chất của môi trường chung quanh.
Phức hợp của các mối tương tác giữa các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong hình
thành tập hợp căn nguyên gây bệnh. Các phức hợp đó có thể được hiểu như là các mạng lưới.
Tồn tại một số mạng lưới như sau: Mạng lưới về nguyên nhân, mạng lưới về hậu quả,
và mạng lưới về tương tác giữa các yếu tố căn nguyên (sơ đồ 1.1.)
Tác động của các yếu tố có thể là gây bệnh tức thời, mà cũng có thể là gây bệnh sau một
khoảng thời gian khá dài. Ví dụ : Chế độ ăn uống ở độ tuổi trước 15 sẽ là yếu tố góp phần của
bệnh tim mạch ở tuổi trưởng thành.
Các yếu tố tác động không đơn lẽ, mà là tác động đồng thời dẫn tới kết quả hợp lực, có
thể là hợp lực tổng cộng (bằng tổng các tác động riêng lẻ); có thể là hợp lực tiềm tàng (hậu
quả lớn hơn tổng các tác động riêng lẻ). Hiện tượng tác động hợp lực tiềm tàng xảy ra ngày
càng nhiều trong mối quan hệ giữa con người và môi trường.
(4) Tránh việc chỉ sử dụng toán thống kê đơn thuần để xác lập mối quan hệ nhân quả.
Phải có đầy đủ lý luận chặt chẽ và khoa học để giải thích mối quan hệ từ nguyên nhân dẫn đến
hậu quả (mối quan hệ nhân quả) các nghiên cứu thực nghiệm thường khó thực hiện được
trong quần thể (ví dụ gây ung thư thực nghiệm). Các căn cứ của mối quan hệ nhân quả phải
được rút ra từ các nghiên cứu phân tích.
(5) Phải giải thích được mối quan hệ nhân quả bằng các hiểu biết sinh học và xã hội
học. Chỉ mới biết được sự phân bố các hiện tượng sức khỏe trong quần thể là chưa đủ. Mà
phải giải thích được tại sao lại có sự phân bố đó. Đây là yếu tố quan trọng để phân biệt DTH,
một môn học của y học với việc sử dụng toán thống kê đơn thuần trong các nghiên cứu mô tả

và phân tích. Nhưng không có toán thống kê thì không có mối tương quan nào cả.
(6) Nghiên cứu thực nghiệm trong điều kiện tự nhiên sẵn có là tốt nhất. Chỉ trong điều
kiện tự nhiên mới có đầy đủ các yếu tố, các mối tương tác, như vậy mới có thể hiểu biết được
quá trình xuất hiện, diễn biến, tồn tại và tàn lụi của một bệnh trong một sinh cảnh. Các nghiên
cứu về bệnh sốt rét, bệnh xơ gan do rượu, đã được giải thích trên cơ sở này.
2


+ Mạng lưới về nguyên nhân:
Hút nhiều thuốc lá
Ô nhiễm không khí
Ung thư khí phế quản
Phơi nhiễm với các chất gây ung thư
Các yếu tố khác (bên trong, bên ngoài)
+ Mạng lưới về hậu quả:
Viêm phế quản mãn
Ung thư phổi
Hút nhiều thuốc lá

Thiếu máu cục bộ tim
Viêm nghẽn mạch
Những bệnh khác “ về sau “

+ Mạng lưới về tương tác giữa các căn nguyên:
Người mẹ sử dụng
các hóa chất
Sức khỏe của
thai nhi

Sức khỏe thể chất,

tinh thần / người mẹ
Thiếu dinh dưỡng /
người mẹ
Sơ đồ 1.1. Các mạng lưới DTH

(7) Vấn đề can thiệp: Biết quá trình phát triển tự nhiên của bệnh trong cộng đồng là
chưa đủ, chưa phải là mục đích, mà chỉ mới là một phần của DTH. Quan trọng là vấn đề can
thiệp. Các biện pháp kiểm tra, giám sát và lọai trừ các hiện tượng bệnh xảy ra hàng loạt phải
được đặt ra để chống lại nhiều bệnh.
(8) Các tiếp cận DTH sẽ cho những nhận xét, đánh giá chính xác đối với các phương
pháp chẩn đoán: Có một sự chuyển đổi giữa phương pháp chẩn đoán được coi là xác định và
phương pháp định hướng, phát hiện. Các tiếp cận DTH sẽ làm cho khoa học về các phương
pháp đó phát triển nhanh chóng.

3


(9) Không được đánh giá một hiện tượng sức khỏe ngoài bối cảnh tự nhiên của nó, mà
phải xét nó trong mối quan hệ với các vấn đề sức khỏe khác. Ví dụ: Một loại thuốc làm sút
cân (chống béo phì) có thể gây ung thư, cần phải chứng minh để loại bỏ nó. Nhưng tỷ lệ mới
mắc ung thư do thuốc đó gây nên là rất thấp so với tỷ lệ mới mắc các bệnh khác liên quan tới
bệnh béo phì do không dùng lọai thuốc này, thì vẫn phải duy trì thuốc đó, nếu như tỷ lệ hiện
mắc và tỷ lệ chết của bệnh này là cao.
Như vậy DTH không phân tích một yếu tố căn nguyên riêng lẽ, mà phải tiến hành phân
tích đồng thời các bệnh quan trọng và tất cả các yếu tố liên quan tới nó.
(10) Phải gắn liền một hiện tượng sức khỏe với phức hợp các điều kiện kinh tế xã hội.
Mỗi quần thể đều có những tính chất kinh tế xã hội đăc trưng, những tính chất đó là những
yếu tố quan trọng góp phần quyết định đặc điểm của các hiện tượng sức khỏe trong cộng
đồng. Việc can thiệp đối với cộng đồng: như dự phòng, trị liệu, các chương trình can thiệp y
tế, vv... cũng xuất phát từ khả năng của cộng đồng, gắn liền với các điều kiện khoa học, kinh

tế, chính trị, xã hội cộng đồng, gắn liền với trình độ tổ chức quản lý của cộng đồng.
(11) Quần thể đích: Phải quan tâm tới các đối tượng có khả năng (nguy cơ) mắc bệnh
cao hơn các đối tượng khác. Các kết quả nghiên cứu của DTH áp dụng trước tiên nhằm bảo
vệ sức khỏe cho các đối tượng đó. DTH giúp nhận ra đối tượng có nguy cơ bị bệnh cao, vì họ
phơi nhiễm với các yếu tố căn nguyên, hoặc có những dấu hiệu báo trước - nhóm người này là
quần thể đích của chương trình can thiệp.
Nhìn một cách tổng quát các chiến lược nêu trên có thể thấy rằng, DTH. được sử dụng
trong nghiên cứu y học cũng như trong công tác thực tiễn hàng ngày, mỗi loại nghiên cứu sẽ
liên quan tới các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển tự nhiên của bệnh, có thể được
minh họa bằng hình dưới đây (sơ đồ1.2.).

Nghiên cứu hằng số
Nhận biết quần thể có nguy cơ
Nghiên cứu các phương pháp phát hiện
và chẩn đoán sớm
Nghiên cứu căn nguyên
DTH lâm sàng
(giúp chẩn đoán, đánh giá kết quả điều trị)
Nghiên cứu mô tả và giám sát Dịch tễ học

KHỎE MẠNH

PHƠI NHIỄM

TIỀN LÂM SÀNG

LÂM SÀNG

HẬU QUẢ VỀ SAU


Sơ đồ 1.2. Các hoạt động Dịch tễ học trong quá trình phát triển tự nhiên của bệnh
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA DTH
Bệnh tật đã ảnh hưởng tới một số lượng lớn các cá thể trong cộng đồng, đó là mục tiêu
khảo sát từ lâu của DTH. DTH hiện đại là một quá trình phát triển dần, có thể thấy được tiến
4


trình phát triển đó thông qua một số định nghĩa về DTH kế tiếp nhau của một số tác giả như
sau:
Các định nghĩa Dịch tễ học:
+ W.H. Frost (1927): “... Là khoa học của bệnh nhiễm trùng xét ở góc độ hiện tượng
xảy ra hàng loạt, nghiên cứu quá trình phát triển tự nhiên của bệnh, quá trình lan truyền của
bệnh, trong bối cảnh một triết lý.”
+ M. Greenwood (1934) :”... Nghiên cứu hiện tượng bệnh xảy ra hàng loạt.”
+ K.F. Maxcy (1951): “... Là một ngành của y học, nghiên cứu mối tương quan giữa
các yếu tố - các yếu tố qui định qui mô và sự lan truyền của bệnh trong cộng đồng người, có
thể là bệnh nhiễm trùng hoặc một hiện tượng sinh lí nhất định.”
+ B.Mac. Mahon và T.F. Pugh (1970) “... Nghiên cứu sự phân bố của bệnh trong quần
thể loài người và những yếu tố qui định sự phân bố đó.”
+ J.N. Morris (1975):” ...Là khoa học cơ bản của y học dự phòng và y tế công cộng.”
+ R.R. Neutra (1978) “ ... Là một khoa học khảo sát hoặc một phương pháp luận.”
+ P.E. Enterline (1979) ”... Để hiểu biết đầy đủ trong các nghiên cứu về các vấn đề sức
khỏe ở người phải dựa vào các kĩ thuật đặc biệt, nhất là DTH.”
+ M. Jénicek (1984) : ” DTH là một khoa học lí luận, một phương pháp khách quan
trong y học và các khoa học khác về sức khỏe, dùng để mô tả các hiện tượng sức khỏe, giải
thích nguyên nhân qui định các hiện tượng sức khỏe đó, và nghiên cứu, tìm các biện pháp can
thiệp hữu hiệu nhất.”
III. CÁC LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG CỦA DỊCH TỄ HỌC
1. Phương pháp DTH học phân tích một vấn đề sức khỏe
Sinh lý

Trưởng thành
và lão hóa

Các yếu tố liên quan
tới sinh học ở người

Xã hội
Tinh thần

Môi
trường

Phục hồi
PHƯƠNG PHÁP DTH.
PHÂN TÍCH MỘT
VẤN ĐỀ SỨC KHỎE

Vật chất
Nguy cơ từ
nghề nghiệp

Yếu tố
di truyền

Các dịch
vụ y tế
Dự phòng

Hành vi


Nguy cơ từ
giải trí

Kiểu tiêu thụ

Sơ đồ 1.3. Phương pháp DTH phân tích một vấn đề sức khỏe.

5

Điều trị


2. Một số áp dụng Dịch tễ học



Nghiên cứu căn nguyên
Yếu tố di truyền

Khỏe mạnh

Bị bệnh

Yếu tố môi trường

• Nghiên cứu quá trình phát triển tự nhiên của bệnh
Chết

Rối loạn
tiền lâm sàng


Khỏe mạnh

Bị bệnh
(lâm sàng)
Hồi phục

• Mô tả tình trạng sức khỏe của quần thể
Tỷ lệ mắc bệnh diễn biến theo tính chất về con người, thời gian, không gian
Tỷ lệ
Khỏe
Bị
bệnh

Thời gian

• Đánh giá sự can thiệp

Điều trị
Chăm sóc y tế

Khỏe mạnh
Các yếu tố bảo vệ
Các biện pháp dự phòng
Các dịch vụ y tế công cộng

6

Bị bệnh



IV. MỤC ĐÍCH THỰC TIỄN CỦA DTH HIỆN ĐẠI
Hiện nay, DTH phải đối mặt với các vấn đề khác nhau của sức khỏe, trên những khu
vực khác nhau của thế giới.
Ở những nước đang phát triển, các bệnh truyền nhiễm, bệnh của trẻ em, bệnh thiếu dinh
dưỡng, các vấn đề cấp tính, vẫn là những vấn đề rất quan trọng. Ở những nước này đang diễn
ra một sự biến đổi mau chóng các điều kiện xã hội, kinh tế, văn hóa ,v.v. cho nên, ngoài
những bệnh quen thuộc nêu trên , còn bị chồng chất lên những vấn đề rối loạn thích ứng do sự
biến đổi đó gây nên.
Ở những nước phát triển, có một sự biến đổi nhanh chóng các điều kiện sinh hoạt, các
tiện nghi thời đại, vấn đề đô thị hóa, v.v… đã gây nên nhiều vấn đề sức khỏe quan trọng: các
bệnh ung thư, tim mạch, các tiến trình mãn tính và thoái hóa, vấn đề tai nạn, các vấn đề sức
khỏe mang tính xã hội, v.v…
Quan tâm tới tình trạng sức khỏe hiện nay ở từng khu vực, cùng với sự phát triển của
các ngành khoa học khác về sức khỏe, các mục đích của Dịch tễ học có thể được tóm tắt như
sau:
1. Mục đích lý thuyết
(1). Sự đúng đắn: DTH phải quan tâm tới việc làm giảm bớt và loại trừ các sai số mắc
phải, và các sai số hệ thống trong các điều tra, nghiên cứu.
(2). Sự phân loại: DTH phải cung cấp thêm các thông tin cơ bản nhằm hoàn chỉnh hệ
thống phân loại.
(3). Về lý luận: DTH phải góp phần xây dựng hoàn chỉnh hơn nữa các tiêu chuẩn trong
việc phán xét một vấn đề sức khỏe trong lâm sàng cũng như một vấn đề sức khỏe cộng đồng.
(4). Tiêu chuẩn hóa: DTH phải góp phần vào sự phát triển và xây dựng hoàn chỉnh
những khái niệm, những kỹ thuật “chuẩn” về các hiện tượng sức khỏe.
(5). Tính đại diện: DTH phải xác lập nên sự đại diện cho các quan sát: (Các số liệu, dữ
kiện điều tra thu được đại diện cho quần thể nào ).
2. Mục đích thực hành
(6). Góp phần lựa chọn phương pháp tốt nhất sẽ xác định rõ bệnh, góp phần phân loại
chính xác.

(7). Nhận biết được tầm quan trọng của một hiện tượng sức khỏe trong một cộng đồng
nhất định, nhận biết được nhóm có nguy cơ mắc bệnh cao, xác định vị trí của các chương
trình can thiệp.
(8). Phát hiện nguyên nhân của bệnh, sự xuất hiện, tồn tại và biến mất trong cộng đồng
của bệnh - là cơ sở vững chắc cho mọi dự phòng.
(9). Đánh giá hiệu quả của chương trình can thiệp làm cơ sở cho sự can thiệp tiếp tục.
(10). Giám sát DTH: Nghiên cứu tình hình sức khỏe của cộng đồng trong một thời gian
dài ngay trong điều kiện tự nhiên luôn biến động có thể hình thành các dự báo DTH.
V. CÁC CẤP ĐỘ DỰ PHÒNG
Có các cấp độ dự phòng khác nhau tương ứng với mỗi giai đoạn trong quá trình phát
triển tự nhiên của bệnh (sơ đồ 1.4.).
1. Dự phòng cấp I

7


Dự phòng cấp I là tác động vào thời kì khoẻ mạnh, nhằm làm giảm khả năng xuất hiện
của bệnh, hay chính là làm giảm tỷ lệ mới mắc; muốn đạt được điều đó thì phải tăng cường
các yếu tố bảo vệ, loại bỏ các yếu tố nguy cơ.
Tăng cường sức khoẻ nói chung bằng tập luyện thể dục thể thao, sinh hoạt ăn uống
điều độ hợp vệ sinh... chính là tăng cường các yếu tố bảo vệ không đặc hiệu; tiêm chủng
vaccin phòng bệnh là tạo ra các yếu tố bảo vệ đặc hiệu. Không hút thuốc lá, bỏ hút thuốc lá
chính là loại bỏ yếu tố nguy cơ của ung thư phổi, của các bệnh tim mạch...
2. Dự phòng cấp II
Dự phòng cấp II là phát hiện bệnh sớm, khi bệnh mới chỉ có các dấu hiệu sinh học,
chưa có biểu hiện lâm sàng; khi phát hiện được bệnh thì tiến hành can thiệp kịp thời sẽ ngăn
chặn sự diễn biến tiếp tục của bệnh; tuỳ theo mỗi bệnh, và điều kiện y tế cho phép có thể thực
hiện các chương trình phát hiện bệnh khác nhau ở những quần thể khác nhau... sẽ làm giảm tỷ
lệ hiện mắc, giảm tỷ lệ tử vong...
3. Dự phòng cấp III

Dự phòng cấp III : là điều trị bệnh hợp lý nhằm ngăn chặn những diễn biến xấu hay
các biến chứng của bệnh, hồi phục sức khoẻ cho người bệnh. Với những bệnh truyền nhiễm,
điều trị triệt để cho người bệnh là loại bỏ nguồn truyền nhiễm quan trọng, bảo vệ sức khoẻ
cộng đồng.
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu DTH về bệnh mạch vành đã cho thấy,
nếu như giữ cho nồng độ cholestérol/máu không cao như ở Trung quốc, Nhật bản, thì ít khả
năng xuất hiện bệnh mạch vành mặc dù vẫn tồn tại các yếu tố nguy cơ quan trọng khác như
hút thuốc lá, cao huyết áp v.v.... nguyên nhân của nồng độ cao cholestérol/máu chính là tập
quán ăn các thực phẩm giàu mỡ động vật (nhiều acid béo no) ở các nước Âu Mỹ.
Có thể chia dự phòng cấp I thành 2 cấp độ: dự phòng ban đầu & dự phòng cấp I. Dự
phòng ban đầu chính là tác động vào các yếu tố thuộc về lối sống, kinh tế, văn hoá của quần
thể, các yếu tố đó được qui kết là góp phần làm tăng nguy cơ bị bệnh. Phòng chống ô nhiễm
không khí ở mức độ toàn cầu (hiệu ứng nhà kính, mưa acid, thủng tầng ôzôn...) cũng chính là
các hoạt động của dự phòng ban đầu.
Cho nên có thể chia thành 4 cấp độ dự phòng như sau (bảng 1.2):
Bảng 1.2: các cấp độ dự phòng
Cấp độ

Thời kì của bệnh

Quần thể đích
• Quần thể toàn bộ,

- Ban đầu

• Các biểu hiện thuận lợi cho sự tác động
của các yếu tố căn nguyên

- Cấp I


• Yếu tố căn nguyên đặc hiệu

- Cấp II

• Giai đoạn sớm của bệnh

• Người bệnh

- Cấp III

• Giai đoạn muộn của bệnh

• Người bệnh

nhóm đặc biệt
• Quần thể toàn bộ, nhóm đặc
biệt, người khoẻ mạnh

(điều trị, hồi phục)

8


Dự phòng cấp I

Tình trạng không bị bệnh
Yếu tố
bảo vệ
Di chứng
bất lợi


Yếu tố
nguy cơ

Mãn tính
Chết

Hồi phục

Dấu hiệu
sinh học
của bệnh

Diễn biến
tiếp tục
của bệnh

Dự phòng cấp II
(Phát hiện bệnh)

Dấu hiệu
lâm sàng
của bệnh

Điều trị
(Dự phòng cấp III)

Sơ đồ 1.4. Quá trình diễn biến tự nhiên của bệnh và các cấp độ dự phòng

ZWXY


9


CÁC TỶ LỆ THƯỜNG DÙNG TRONG DỊCH TỄ HỌC
Mục tiêu học tập
1. Trình bày được các khái niệm về tỷ lệ, tỷ suất và giá trị của nó trong DTH
2. Định nghĩa được các tỷ lệ, chỉ số thường dùng trong DTH và giá trị sử dụng của nó
trong DTH;
3. Phân loại được các hiện tượng xảy ra hàng loạt.
Một tính chất quan trọng của diễn biến hàng loạt là số các cá thể có một tính chất nào
đó trong một quần thể xác định (số người mắc một bệnh nhất định tại một địa phương xác
định chẳng hạn). Phải đánh giá tầm quan trọng của vấn đề trong quần thể.
Nhưng phải xét con số tuyệt đối đó trong mối tương quan với quần thể chứa nó; mà
quần thể thì luôn luôn có sự biến động, tăng, giảm giữa các cuộc điều tra; như vậy, mới có thể
thấy được tầm quan trọng của một vấn đề diễn biến hàng loạt mà ta đang xét đến.
Cho nên, để đo lường một vấn đề dịch tễ, một hiện tượng bị bệnh hàng loạt nào đó trong
cộng đồng, phải dùng tới các tỷ lệ, các chỉ số.
Sau đây là một số tỷ lệ, chỉ số hay được sử dụng trong dịch tễ học.
I. TỶ LỆ (Taux)
Tỷ lệ là tỷ số giữa các cá thể có một tính chất nào đó (tính chất mà ta đang quan tâm)
trong một quần thể nhất định với tổng số các cá thể có trong quần thể đó.
Tỷ lệ =

a
a+b

Lưu ý: - Tỷ lệ là một phân số, trong đó mẫu số có chứa luôn cả tử số;
- Trong tính toán, tử số và mẫu số đều xuất phát từ cùng một quần thể nhất định;
- Để tiện cho việc so sánh, nhân tỷ lệ với một con số dễ hiểu (100, 1000, 10000,... 10n )

ta sẽ có được các tỷ lệ %, phần nghìn, phần mười nghìn,...
Ví dụ: Tỷ lệ chết do viêm phế quản mãn ở đàn ông tuổi từ 45 - 54, tại một địa phương
năm 2000:
Số đàn ông tuổi 45 - 54 chết do viêm phế quản mãn năm 2000
Tổng số đàn ông tuổi 45 - 54 trong địa phương đó năm 2000
II. TỶ SUẤT (Ratio)
Tỷ suất là một tỷ số dùng để so sánh:
- Có thể so sánh một hiện tượng ở hai nhóm người khác nhau. Ví dụ: Tỷ suất về tỷ lệ
chết theo giới:
Tỷ lệ chết ở đàn ông
Tỷ lệ chết ở đàn bà

10

=

a
b


- Có thể so sánh 2 hiện tượng trong cùng một quần thể. Ví dụ: Tỷ suất giữa cao huyết áp
và huyết áp bình thường:
Số người cao huyết áp
Số người có huyết áp bình thường

=

a
b


- Có thể so sánh một hiện tượng trong một quần thể nhưng ở hai thời điểm khác nhau:
Ví dụ: Tỷ suất về tỷ lệ chết chung năm 2000 so với tỷ lệ chết chung năm 1990:
Tỷ lệ chết chung năm 2000
Tỷ lệ chết chung năm 1990

=

a
b

III. SỐ HIỆN MẮC, TỶ LỆ HIỆN MẮC
1. Số hiện mắc (prévalence)
Là tổng số các trường hợp đang mắc một hiện tượng nào đó (bị bệnh, nhiễm trùng,
nhiễm độc, ...) trong một quần thể nhất định, không phân biệt là mới mắc hay mắc cũ.
2. Tỷ lệ hiện mắc
Tỷ lệ hiện mắc =

Số hiện mắc
Tổng số quần thể có nguy cơ

× 10n

• Rút ngắn thời gian bị bệnh
• Tỷ lệ tử vong cao
• Giảm số mới mắc
• Sự tới của người khỏe
• Sự ra đi của các cas

• Kéo dài thời gian bị bệnh
• Kéo dài sự sống

• Tăng số mới mắc
• Sự tới của các cas
• Sự ra đi của người khỏe
• Sự tới của người nhạy cảm



• Sự tiến bộ của các phương
tiện chẩn đoán (tăng ghi nhận).

Tăng tỷ lệ điều trị khỏi

Hình 2.1: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ hiện mắc quan sát.
Lưu ý: Mẫu số là quần thể có nguy cơ, là số người có khả năng bị bệnh trong quần thể.
Những ai không thể bị bệnh được thì không nằm trong mẫu số. Nhưng thường khó xác định
quần thể có nguy cơ, cho nên khi không xác định được thì phải dùng tổng số quần thể nghiên
cứu. Tỷ lệ hiện mắc rất hay được sử dụng trong dịch tễ học, trong sức khỏe cộng đồng, nhất
là các bệnh mãn tính, liên quan tới sự chăm sóc của y tế, của xã hội. Để có được số hiện mắc,
tỷ lệ hiện mắc thì phải tiến hành điều tra ngang (Eïtude tranversale). Nếu điều tra trong một
thời điểm thì có được tỷ lệ hiện mắc điểm (hay sử dụng), nếu điều tra trong một thời khoảng
thì có được tỷ lệ hiện mắc kỳ (ít dùng hơn).
Trong thực tiễn, tỷ lệ hiện mắc một bệnh nào đó trong cộng đồng có thể thay đổi do bị
tác động của nhiều yếu tố; các yếu tố này có thể làm tăng, có thể làm giảm tỷ lệ hiện mắc
(hình 2.1).
11


IV. SỐ MỚI MẮC, TỶ LỆ MỚI MẮC
1. Số mới mắc (Incidence)
Là tổng số các trường hợp mắc một hiện tượng nào đó, xuất hiện trong một khoảng thời

gian nhất định, ở một quần thể xác định (không kể các trường hợp xuất hiện ngoài khoảng
thời gian nghiên cứu). Khoảng thời gian này có thể là vài ngày, vài tuần, có thể là vài tháng,
một năm,... Tùy vào tầm quan trọng của mỗi bệnh.
2. Tỷ lệ mới mắc
Số mới mắc

Tỷ lệ mới mắc =

× 10n

Tổng số quần thể có nguy cơ giữa thời kỳ nghiên cứu

Lưu ý: Nếu có đầy đủ thông tin thì mẫu số chỉ là tổng số người có nguy cơ. Với những
người không nhạy cảm, không thể bị bệnh được trong quần thể thì không tính vào. Khi không
thể biết được tổng số người có nguy cơ thì mẫu số sẽ là tổng số quần thể. Để có được số mới
mắc, tỷ lệ mới mắc thì phải tiến hành điều tra dọc (Etude longitudinale).
Để dễ hiểu cách tính các tỷ lệ nêu trên, xem hình 2.2.
Cas
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

1


2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Tháng

Hình 2.2: Diễn biến của một bệnh mãn tính: Có 10 người bị bệnh trong quần thể 1000 người:
- Vạch liên tục: Chỉ thời kỳ bị bệnh, có thể phát hiện được qua điều tra.
- Vạch chấm chấm: chỉ giai đoạn bị bệnh nhưng không thể phát hiện được qua điều tra.
- Chỉ khảo sát trong khung. Những vạch xuất phát và kết thúc vượt khung là những trường hợp
mắc bệnh trước lúc khảo sát và vẫn tiếp tục bị bệnh sau khảo sát.

- Vạch liên tục không tiếp theo vạch chấm chấm nữa: biểu thị các trường hợp đã điều trị khỏi.
Từ bảng trên, có thể thấy được các tỷ lệ sau đây:
- Tỷ lệ hiện mắc điểm, ngày 1/1: 4/1 000 (các cas: 1,7,8,10.)
- Tỷ lệ hiện mắc khoảng năm: 10/1 000 (các cas: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10).
- Tỷ lệ hiện mắc tiên phát điểm ngày 1/4: 5/1 000 (các cas 1,3,4,7,10).
- Tỷ lệ hiện mắc tái phát điểm ngày 1/10: 4/1 000 (các cas: 3,5,6,8).
- Tỷ lệ mới mắc năm: 4/1 000 (các cas 2,3,4,9).
- Tỷ lệ mới mắc tái phát năm: 7/1 000 (các cas: 3,3,5,6,8,8,10).

Có thể hiểu sự liên quan giữa số mới mắc và số hiện mắc như hình 2.3.
Khỏi
Chết

12


Số mới mắc

Số hiện mắc

Hình 2.3: Nồi hiện mắc
V. MẬT ĐỘ MỚI MẮC (Densité de l’incidence : DI )
Danh từ “Tỷ lệ” (Taux, Rate) đã nói lên tốc độ, nghĩa là số người mắc (một hiện tượng
nào đó mà ta đang khảo sát) trong một đơn vị thời gian (tỷ lệ mới mắc). Như đã nói ở trên,
mẫu số của tỷ lệ mới mắc là quần thể có nguy cơ (có phơi nhiễm, có khả năng bị bệnh).
Nhưng trong các cuộc điều tra, đôi khi không thể quan sát, theo dõi hết được toàn bộ các cá
thể có nguy cơ trong một khoảng thời gian dài, cho nên có thể đưa ra một quy ước chung:
Khái niện về “ Người - Năm quan sát ” (phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ). Một người phơi
nhiễm với yếu tố nghiên cứu trong 3 năm tương đương với 3 người - năm phơi nhiễm, hay là
3 người phơi nhiễn với yếu tố đó trong một năm.

Ví dụ: Một quần thể phụ nữ khỏe mạnh 250 000 người tuổi từ 35 - 54 được theo dõi liên
tục 3 năm. Tất cả các cas mới mắc ung thư vú đều được ghi nhận; với mỗi nhóm tuổi, mật độ
mới mắc và tỷ lệ mới mắc được tính và trình bày ở bảng 2.1.
Bảng 2.1: Bảng tính mật độ mới mắc:
Tuổi

Kích thước

Số mới mắc

Người - Năm

Mật độ mới mắc

Tỷ lệ mới mắc

(a )

(b )

(c )

(d )

(e )

c = a×3

d =b c


e=b a

0,0005

0,0015

0,0008
0,0011

0,0024
0,0033

0,0014
0,0009

0,0042
0,0027

35 − 39
40 − 44

60000
70000

90
168

180000
210000


45 − 49
50 − 54
35 − 54

65000
55000
250000

215
227
700

195000
165000
750000

Để có được mật độ mới mắc ở lớp tuổi 35 - 39, trước tiên phải tính số người - năm phơi
nhiễm (mẫu số): 60 000 x 3 = 180 000. Mật độ mới mắc là: Số mới mắc trong 3 năm (90 cas)
chia cho mẫu số trên (180 000) bằng 0,0005.

13


Cùng lớp tuổi trên, tỷ lệ mới mắc ung thư vú được tính: Số mới mắc/Tổng số được theo
dõi ở lớp tuổi đó: 90/60 000 = 0,0015. Có thể chia tỷ lệ mới mắc đó cho khoảng thời gian theo
dõi (3 năm) cũng sẽ được mật độ mới mắc, cũng chính là tỷ lệ mới mắc năm.
Một ví dụ khác: theo dõi 7 đối tượng để tính mật độ mới mắc như sau: xem hình 2.4.
Từ đó có thể tính được: 33 người - năm theo dõi;
Và mật độ mới mắc sẽ là: DI = 3/33 = 9,1% người - năm
Một số tác giả đề nghị dùng DI (mật độ mới mắc) thay cho I (Tỷ lệ mới mắc) trong các

nghiên cứu vì nó chính xác hơn.
Đối tượng nghiên cứu
1

7

2

7
2

Φ

3

7

4

3
5
2
6

5

7
1

Nàm theo doîi

Ghi
chuï:
Φ

2

3

4

5

6

7

33

Khỏe
Bị bệnh
Mất theo dõi
Chết

Hình 2. 4: Theo dõi 07 đối tượng để tính mật độ mới mắc
VI. TỶ LỆ TẤN CÔNG

Là một dạng đặc biệt của tỷ lệ mới mắc, được sử dụng trong trường hợp một quần thể
phơi nhiễm với chỉ một yếu tố nguy cơ trong một khỏang thời gian nhất định. (Ví dụ: ngộ
độc thức ăn từ cùng một nguồn, một tai nạn phóng xạ, một vụ nổ bom hạt nhân, vv...) ngoài
thời gian đó, số mới mắc là không đáng kể. Cũng có thể dùng tỷ lệ tấn công để ghi nhận số

mới mắc toàn bộ của một bệnh nghề ngiệp của các đối tượng từ 20 - 65 tuổi - là thời kỳ tối đa
có thể phơi nhiễm với yếu tố căn nguyên do nghề nghiệp.
Trong trường hợp không biết được căn nguyên, tỷ lệ tấn công ghi nhận tỷ lệ bị bệnh
trong suốt toàn bộ cuộc đời của họ.
Tỷ lệ mới mắc rất hay được dùng trong dịch tễ học, trong cả trường hợp bệnh cấp tính
và bệnh mãn tính, dùng nó để đánh giá các biện pháp kiểm soát, dự phòng đối với các hiện
tượng bệnh xảy ra hàng lọat.
Nếu như các biện pháp dự phòng là hữu hiệu cho cá thể và tập thể thì tỷ lệ mới mắc sẽ
giảm.
Với hiện tượng bệnh diễn biến hàng loạt trong cộng đồng, nếu như khoảng thời gian bị
bệnh của bệnh đó là tương đối dài, có thể biểu diễn tỷ lệ mới mắc, tỷ lệ hiện mắc trên cùng
một đồ thị như sau: hình 2.5.

14


Số
cas/
1000
(tỷ lệ)

140

Số hiện mắc

120
100
80
60


Số mới mắc

40

Sự can thiệp của
tác nhân gây bệnh

20

Thời gian
1
8

2
9

3

4

10

11

5
12

1

6

2

7
tháng

Khoảng
thời gian phơi nhiễm

Hình 2.5: Số hiện mắc và số mới mắc trong thời kỳ bùng nổ của một vụ dịch (Dữ kiện giả định)

VII. TƯƠNG QUAN GIỮA TỶ LỆ MỚI MẮC, TỶ LỆ HIỆN MẮC, VÀ THỜI GIAN
PHÁT TRIỂN TRUNG BÌNH CỦA BỆNH

Với những bệnh có thời gian phát triển tương đối ổn định (diễn biến của bệnh ung thư
chẳng hạn) thì: Số hiện mắc của một bệnh sẽ tùy thuộc vào số mới mắc và thời gian phát triển
trung bình của bệnh đó:
P = I × D;

hay

D=

P
I

Trong đó : - P : Tỷ lệ hiện mắc điểm.

- I : Tỷ lệ mới mắc.
- D : Thời gian phát triển trung bình của bệnh.
Như vậy: Trong 3 biến số trên, nếu biết được 2 biến số thì sẽ suy được biến số thứ 3.


60
là tỷ lệ mới mắc ung thư trong một năm, thời gian trung bình của bệnh
1000
120
ung thư này là 2 năm (2,0), thì tỷ lệ hiện mắc bệnh ung thư đó sẽ là
.
100.000
Ví dụ :

Hoặc một bệnh bắt buộc phải điều trị tại bệnh viện, hàng tháng có 50 trường hợp vào
viện (I) ; số người thường xuyên được điều trị là 10 (p), thì thời gian trung bình của bệnh sẽ
10
= 0,2 tháng = 6 ngày.
là:
50
Trong công tác y tế, phải làm sao giảm được tỷ lệ hiện mắc P, thì :
15


- Hoặc giảm I: là tăng cường hiệu quả của dự phòng, giảm số mới mắc.
- Họăc rút ngắn thời gian phát triển của bệnh là tăng hiệu quả của việc điều trị.
Hoặc giảm cả hai I và D .
Có những bệnh, chỉ có thể tác động được vào một yếu tố mà thôi. Ví dụ: bệnh
Dại: Bằng cách dự phòng (vaccin), giám sát (chó) để giảm số mới mắc I, còn D thì
không thể giảm được (điều trị chưa có hiệu quả khi đã lên cơn).
VIII. TỶ LỆ BỊ BỆNH, TỶ LỆ CHẾT, TỶ LỆ TỬ VONG

- Tỷ lệ bị bệnh (Morbidité ): Là tỷ lệ giữa số người bị bệnh trong quần thể so với tổng
số quần thể đó.

- Tỷ lệ chết (Mortalité): Là tỷ lệ giữa số chết của quần thể so với tổng số quần thể đó.
- Tỷ lệ tử vong (Létalité): Là tỷ lệ giữa số chết và tổng số người bị bệnh.
Ví dụ: một quần thể 1000 khỏe mạnh, được theo dõi, bị ngộ độc cấp, giả sử có 100
người bị bệnh, và 30 người chết sau một thời kỳ nhất định;
Hay: + s: Quần thể có nguy cơ được nghiên cứu (1 000 người khỏe mạnh);
+ m: Số người bị bệnh trong số những người khỏe;
+ d : Số người bị chết trong số những người bị bệnh;
Thì:

- Tỷ lệ bị bệnh

=

m 100
=
= 10%
s 1000

- Tỷ lệ chết

=

30
d
=
= 3%
s 1.000

- Tỷ lệ tử vong =


30
d
=
= 30%
m 100

IX. TƯƠNG QUAN GIỮA TỶ LỆ CHẾT, TỶ LỆ MỚI MẮC, VÀ TỶ LỆ TỬ VONG:

Với một bệnh có sự phát triển tương đối ổn định, có thể dẫn đến một tỷ lệ nhất định về
số điều trị khỏi, số mãn tính, số chết... Thì có một sự tương quan giữa tỷ lệ chết, tỷ lệ mới
mắc, và tỷ lệ tử vong:
M
M = I × L hay L =
; Trong đó : - M : Tỷ lệ chết
I
- I : Tỷ lệ mới mắc;
- L : Tỷ lệ tử vong.
Ví dụ :Tỷ lệ mới mắc hàng năm của một bệnh ung thư là 80/100 000; tỷ lệ chết do bệnh
đó là 40/100 000; thì tỷ lệ tử vong của bệnh đó là:

40 / 100000
= 0,5
80 / 100000
Hay: Bệnh ung thư này gây chết 50% số người bị bệnh.
Trong các chăm sóc y tế, cần phải làm giảm tỷ lệ chết (M) của một bệnh thì:
- Hoặc dự phòng tốt để làm giảm số mới mắc I;
- Hoặc điều trị tốt hơn để giảm tỷ lệ tử vong L;
- Hoặc đồng thời giảm cả hai, I và L.

16



X. CÁC LOẠI TỶ LỆ CHẾT

+ Tỷ lệ chết chung(thô) :

+ Tỷ lệ chết theo tuổi:

Số chết do mọi nguyên nhân trong năm
Tổng số quần thể vào giữa năm

× 100.000

Số người ở độ tuổi nhất định chết trong năm
Tổng số người ở độ tuổi đó vào giữa năm

× 100 .000

Tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi là thước đo quan trọng về mức sống, kinh tế - xã hội
của một quốc gia (bảng 2.2)
Bảng 2. 2: Tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi của một số nước(WHO 1989)
Nước
Nhật
Thụy điển
Thụy sỹ
Canađa
Pháp
Úc
Anh và xứ Galle
Hoa kì

Portugal
Cu ba
Hungarie
Balan
Chilé
Fiji
Yougoslavie
Equateur
Maroc
Bangladesh
Ethiopie
Afghanistan

Tỷ lệ chết của trẻ em dưới 1 tuổi (/1000 trẻ sinh sống)
4,8
6,1
6,8
7,3
7,8
8,7
9,0
10,1
13,1
13,3
15,8
16,2
18,5
19,8
25,1
47,7

90
124
152
189

+ Tỷ lệ chết theo nguyên nhân:

+ Tỷ lệ chết riêng phần :

Số chết do một nguyên nhân nhất định
Tổng số quần thể và giữa năm

Số chết do một nguyên nhân nhất định
Số chết do mọi nguyên nhân

× 100 .000

× 100

XI. CÁC TỶ LỆ VÀ CHỈ SỐ KHÁC

Để có thể đánh giá được tình trạng sức khỏe của một quần thể, cần phải sử dụng tới một
số tỷ lệ và chỉ số khác nữa, được cung cấp từ các nguồn khác nhau; có thể từ ngành y tế (của
các chuyên khoa khác), và các ngành khác. Có thể kể vài tỷ lệ, chỉ số sau đây:
- Tỷ lệ sinh, tỷ lệ khả năng sinh đẻ, tuổi thọ của một lớp tuổi, tháp tuổi ... được cung
cấp bởi ngành Dân số học.
- Chỉ số nghỉ việc (vắng mặt), được cung cấp của các ngành kinh tế.
17



- Tỷ lệ chết liên quan tới mang thai và sinh đẻ, tỷ lệ sinh thiếu tháng, tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng, cân nặng trung bình lúc sinh... cung cấp bởi Nhi khoa, Sản khoa...
- Chỉ số C.A.O. của Nha khoa.
- Hy vọng sống: là số năm trung bình có thể sống tiếp của một người đã sống tới một
tuổi nào đó; với điều kiện là chấp nhận tỷ lệ chết ổn định. Đây là chỉ số tổng hợp dùng đo
lường tình trạng sức khỏe chung của một quần thể. xem ví dụ ở bảng 2. 3.
Bảng 2.3: Hy vọng sống ở vài độ tuổi của một số nước (WHO 1989)

Tuổi

Maurice

Bulgarie

Hoa kỳ

Nhật

Khi sinh

65,0

68,3

71,6

75,8

45 tuổi


25,3

27,3

30,4

32,9

65 tuổi

11,7

12,6

15,0

16,2

XII. PHÂN LỌAI CÁC HIỆN TƯỢNG XẢY RA HÀNG LỌAT

Sự tập trung các trường hợp mắc bệnh trong một khoảng thời gian nhất định, ở một
không gian nhất định được biểu hiện dưới ba hình thức :
1. Dịch (Épidémie)

Gọi là dịch khi xuất hiện nhiều trường hợp bị bệnh có cùng tính chất và nguyên nhân, trong
một khoảng thời gian tương đối ngắn, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn bình thường ở địa phương đó.
Như vậy, cần phải biết tỷ lệ bị bệnh lúc bình thường, nghĩa là phải có số liệu về tỷ lệ bị
bệnh ở địa phương đó trong một khoảng thời gian đủ dài. Bằng phương pháp thống kê chính
xác, hoặc bằng phương pháp lý luận chặt chẽ để nêu lên sự bất thường của một vấn đề dịch tễ.
Ví dụ: Một trường hợp sốt rét xuất hiện trong một địa phương mà từ trước bệnh này không có

ở địa phương đó, thì đây là một sự bất thường, một tình trạng khẩn cấp của dịch tễ. Trái lại, có
một sự gia tăng (không nhiều lắm) tỷ lệ bị bệnh trong một vùng mà bệnh đó đang trong thời
kỳ dịch địa phương, thì sự gia tăng này không mang tính khẩn cấp của dịch tễ.
Với những bệnh không truyền nhiễm và mãn tính, việc phân tích thống kê là điều kiện
cần thiết để xác định nên tính chất dịch của bệnh.

Sự
đáp
ứng

Thời gian
Hình 2.6: Kiểu “nguyên thủy” của đáp ứng sinh học

Cũng có thể nói: Dịch là một hiện tượng xảy ra hàng loạt, được giới hạn trong thời gian
và trong không gian, nhiều trường hợp bị bệnh xuất hiện ở một địa phương và biến mất sau
một khoảng thời gian nhất định.
18


Khảo sát diễn biến của một vụ dịch, thường thấy một sự tăng nhanh các trường hợp mới
mắc lúc đầu, và sau đó có sự giảm dần, chậm hơn. Đây là kiểu đáp ứng sinh học của cơ thể và
của quần thể (đáp ứng “nguyên thủy” khi chưa có sự can thiệp trước các tác nhân gây bệnh
trong điều kiện nhất định của môi trường) - hình 2.6.
2. Đại dịch: (Pandémie)

Là hiện tượng xảy ra hàng loạt (tập trung các trường hợp bị bệnh) được giới hạn bởi
thời gian nhưng không được giới hạn bởi không gian.
Ví dụ: Đại dịch cúm: Bùng nổ nhanh chóng và lan tràn rộng khắp tới nhiều quốc gia,
châu lục vv... và biến mất sau vài tháng.
Thường thì: Đại dịch của những bệnh lây theo đường hô hấp (như cúm) thì bùng nổ và

kéo dài trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Đại dịch của những bệnh lây theo đường tiêu
hóa (như tả) thì thời gian kéo dài hơn.
3. Dịch địa phương (Endémie)

Là hiện tượng xảy ra hàng loạt được giới hạn bởi không gian, nhưng không được giới
hạn bởi thời gian.Thời gian không giới hạn ở đây nói lên, tại một địa phương nhất định,
thường xuyên có nhiều trường hợp mắc bệnh, tình trạng này kéo dài nhiều năm, nhiều chục
năm, vv... ảnh hưởng tới nhiều thế hệ kế tiếp nhau.
Ví dụ : - Các bệnh thiếu dinh dưỡng, sốt rét, mắt hột là dịch địa phương ở các nước
chậm phát triển .
- Các bệnh tim mạch, béo phì, sâu răng xuất hiện dưới dạng dịch địa phương ở các nước
phát triển.
Tùy theo điều kiện lây truyền của bệnh, cùng một bệnh nhưng có thể biểu hiện bằng các
hình thức khác nhau: bệnh tả là dịch địa phương ở Đông Nam Á, nhưng có thể là đại dịch ở
nơi khác; bệnh cúm có khi là dịch, có khi là đại dịch.
Có thể tóm tắt 3 hình thức của diễn biến hàng loạt bằng bảng dưới đây:
Thời gian

Không gian

Dịch

Giới hạn

Giới hạn

Đại dịch

Giới hạn


Không giới hạn

Dịch địa phương

Không giới hạn

Giới hạn

ZWXY

19


PHƯƠNG PHÁP PHÁT HIỆN BỆNH TRONG CỘNG ĐỒNG
Mục tiêu học tập
1. Trình bày được mục đích của phát hiện bệnh trong cộng đồng, tiêu chuẩn về bệnh để
có thể thực hiện phát hiện bệnh;
2. Trình bày được giá trị của một test phát hiện bệnh;
3. Nêu ra được các tiêu chuẩn cần thiết để tiến hành một chương trình phát hiện bệnh.

I. ĐẠI CƯƠNG
1. Mục đích của phát hiện bệnh trong cộng đồng
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Bằng cách sử dụng các test, các thử
nghiệm hoặc các phương pháp phát hiện nhanh, vv... để có thể biết được những người bị một
bệnh nào đó, hoặc một sự bất thường mà cho tới lúc đó (lúc tiến hành phát hiện, lúc làm test)
vẫn chưa có ai biết. Các kỹ thuật phát hiện bệnh trong cộng đồng phải phân chia quần thể
thành 2 nhóm: Nhóm những người hình như là khỏe mạnh nhưng có thể bị bệnh, và nhóm
người không bị bệnh đó. Mục đích của phát hiện bệnh không đặt ra cơ sở cho chẩn đoán, mà
những người có kết quả dương tính sẽ được gửi tới thầy thuốc của họ để chẩn đoán xác định
và nếu cần thiết thì điều trị.

Để tiến hành một chương trình phát hiện bệnh trong cộng đồng thì phải xác định được:
- Bệnh nào cần phát hiện.
- Bệnh hay xảy ra ở nhóm người nào.
- Dùng kỹ thuật nào để tiến hành phát hiện bệnh.
Phương pháp phát hiện bệnh thường được sử dụng trong các cuộc điều tra DTH, tìm tỷ
lệ hiện mắc (Taux de prévalence) một bệnh nào đó trong quần thể, trong các cuộc khảo sát có
hệ thống để đánh giá tình trạng sức khỏe và bệnh tật của toàn bộ cộng đồng, là cơ sở cho một
chương trình can thiệp. Người ta có thể tiến hành phát hiện bệnh trong cộng đồng bằng các
cách khác nhau:
- Đơn giản: Chỉ dùng một test để phát hiện một bệnh.
- Đa dạng: dùng một test phát hiện hơn một bệnh.
- Nhiều giai đoạn: Dùng hơn một test để phát hiện một bệnh, hoặc tiến hành nhiều giai
đoạn.
- Bất kỳ (cơ hội): Thực hiện ở các cơ sở y tế mỗi khi có người tới khám. (Ví dụ: Phát
hiện bệnh ung thư cổ tử cung ở khoa phụ sản).
- Có hệ thống: thực hiện trên toàn bộ quần thể.
- Chọn lọc: Tiến hành trên nhóm có nguy cơ cao.
- Phát hiện sớm: Ở giai đoạn bệnh chưa có biểu hiện lâm sàng.
- Phát hiện muộn: Những trường hợp bị bỏ quên trong cộng đồng.
- Nhiều lần và liên tục: Nằm trong công tác giám sát dịch tễ từng bệnh.
2. Tiêu chuẩn về bệnh để tiến hành phát hiện bệnh
WHO quy định:
20


- Là căn bệnh có mối đe dọa thực sự cho sức khỏe cộng đồng (tỷ lệ bị bệnh cao chưa
chắc là đe dọa lắm - vấn đề ưu tiên).
- Bệnh có khả năng điều trị được, điều trị theo phác đồ, có hiệu quả rõ rệt.
- Phải có đầy đủ các điều kiện cần thiết để xác lập các phương tiện chẩn đóan và điều trị
hữu hiệu (nhất là các nước chậm phát triển).

- Phương pháp phát hiện bệnh có hiệu quả không? thuận lợi không, nhanh không ?, rẻ
không... Nhằm chọn phương pháp có hiệu quả cao, đỡ tốn kém.

II. GIÁ TRỊ CỦA PHƯƠNG PHÁP PHÁT HIỆN BỆNH
- Giá trị cúa một phương pháp chẩn đoán luôn luôn liên quan tới phương pháp đối chiếu
(thường là phương pháp tốt nhất hiện có dùng để chẩn đoán xác định).
- Chất lượng của phương pháp phát hiện bệnh không hoàn toàn cố định mà có sự thay
đổi, tùy thuộc vào tỷ lệ hiện mắc bệnh của quần thể; nó còn thay đổi, tùy thuộc vào sự phối
hợp của các test khác nhau.
- Các nhà nghiên cứu ngày càng tìm ra các phương pháp mới có giá trị chẩn đoán tốt
hơn. Chúng ta phải biết rõ giá trị của mỗi phương pháp chẩn đoán, giá thành của nó và khả
năng áp dụng của nó trong chẩn đoán cộng đồng.
1. Giá trị của phương pháp chẩn đoán tùy thuộc vào phương pháp đối chiếu
- Trong lâm sàng cũng như trong sức khỏe cộng đồng, cần phải hài lòng chấp nhận
những phương pháp chẩn đoán được thực hiện bằng các phương tiện đang có. Các phương
pháp này có thể là kém hiệu quả hơn so với các test đối chiếu, ví dụ như các chẩn đoán tổ
chức học, tế bào học, sinh thiết, mổ thăm dò,vv...
- Trong một quần thể, ở những người khỏe mạnh cũng như ở những người bị bệnh, một
phương pháp chẩn đoán có thể đưa lại kết quả thật, kết quả giả, các kết quả này được kiểm tra
lại bằng các phương pháp đối chiếu.
+ Khái niệm về độ nhạy, độ đặc hiệu, và các giá trị tiên đoán:
Dùng một thử nghiệm định tính để phát hiện một bệnh trong quần thể, khi đối chiếu với
kết quả của một test tốt nhất hiện có, sẽ cho kết quả như sau:
TEST ĐỐI CHIẾU
Có bệnh

Không bệnh

Tổng


TEST

(+)

a (thật)

b (giả)

a+b

NGHIÊN CỨU

(-)

c (giả)

d (thật)

c+d

Tổng

a+c

b+ d

a+b+c+d

1.1. Độ nhạy (Sensibilité)
Độ nhạy của một thử nghiệm là tỷ lệ giữa các kết quả dương tính thật so với tổng số

người bị bệnh thật sự, hay chính là khả năng phát hiện bệnh của thử nghiệm đó.
1.2. Độ đặc hiệu (Spécifilité)
Độ đặc hiệu của một thử nghiệm là tỷ lệ giữa các kết quả âm tính thật so với tổng số
người lành thật sự hay chính là khả năng nói lên sự không có bệnh của thử nghiệm đó.
1.3. Giá trị tiên đoán của kết quả dương tính (Valeur prédictive du résultat positif)

21


Giá trị tiên đoán của kết quả dương tính là tỷ lệ giữa các kết quả dương tính thật so với
tổng số các kết quả dương tính, hay chính là xác suất bị bệnh của một cá thể có kết quả dương
tính qua thử nghiệm.
1.4. Giá trị tiên đóan của kết quả âm tính (Valeur prédictive du résultat négatif)
Giá trị tiên đoán của kết quả âm tính là tỷ lệ giữa các kết quả âm tính thật so với tổng số
các kết quả âm tính, hay chính là xác suất không bị bệnh của một cá thể có kết quả âm tính
qua thử nghiệm.
1.5. Giá trị tổng quát (Valeur globale)
Giá trị tổng quát của một thử nghiệm là tỷ lệ giữa các kết quả thật so với toàn bộ các
kết quả của thử nghiệm đã được thực hiện.
Tất cả các chỉ số nói trên đều được biểu thị dưới dạng %.
Dựa vào các định nghĩa trên ta có các công thức:
- Độ nhạy:

Se =

a
× 100
a+c
Sp =


- Độ đặc hiệu:

d
× 100;
d +b

- Giá trị tiên đoán của kết quả dương tính:

Vp =

Vn =

- Giá trị tiên đoán của kết quả âm tính:

Vg =

- Giá trị tổng quát:

a
× 100;
a+b
d
× 100;
d +c

a+d
× 100;
a+b+c+d

Ví dụ A


Ví dụ B

Thiếu
máu

Bình
thường

Tổng

Thiếu
máu

Bình
thường

Tổng

Test

(+)

19

10

29

Test


(+)

15

5

20

Hb ≤ 12g%

(−)

1

70

71

Hb ≤ 10g%

(−)

2

78

80

20


80

100

17

83

100

= (15/17) × 100 = 88%
= (78/83) × 100 = 94%
= (15/20) × 100 = 75%
= (78/80) × 100 = 98%
= [(15+78)/(15+5+2+78)] × 100 = 93%

Se = (19/20) × 100 = 95%
Sp = (70/80) × 100 = 88%
Vp = (19/29) × 100 = 66%
Vn = (70/71) × 100 = 99%
Vg = [(19+70)/ (19+10+1+70)] × 100 = 89%

Phương pháp lý tưởng thì phải có độ nhạy, độ đặc hiệu, và các giá trị tiên đoán cao gần
100%; nhưng đó chỉ là một sự chấp nhận về nguyên tắc, còn trên thực tế thì khó được như
vậy. Cho nên, khi áp dụng trong thực tiễn cần phải lựa chọn và phải phối hợp các thử nghiệm
trong các chương trình phát hiện bệnh.
2. Biến số liên tục - cơ sở của việc chẩn đoán
Vấn đề quan trọng nhất trong việc chẩn đoán của một thử nghiệm là chọn lựa ngưỡng
ranh giới giữa người bình thường và người bị bệnh. Nếu như các biến số liên tục phân phối

22


PHÂN PHỐI “HAI ĐỈNH”
Bình thường

A

Ranh giới

B

Mắc bệnh

E

PHÂN PHỐI “MỘT ĐỈNH”
Bình thường

Ranh giới
Mắc bệnh

C
D

Biểu đồ 3.1. Phân phối của một biến số trong quần thể

Kiểu một đỉnh thì người bị bệnh sẽ nằm phía này hoặc phía kia của đường biểu diễn
bình thường. Ví dụ: huyết áp động mạch, cholestérol máu, đường máu, áp lực nhãn cầu,vv...
Nếu như các biến số liên tục phân phối kiểu 2 đỉnh thì nhóm các trường hợp nghi ngờ bị bệnh

hoặc không bị bệnh (nhóm ranh giới) sẽ cùng nằm trong một khoảng: xem biểu đồ 3.1.
- Vạch ranh giới A và C chỉ ra một thử nghiệm có độ nhạy cao hơn độ đặc hiệu.
- Vạch ranh giới B và D chỉ ra một thử nghệm có độ đặc hiệu cao hơn độ nhạy.
- Vạch E đồng thời đưa tới những kết quả dương tính giả và âm tính giả.
Ví dụ: Huyết áp động mạch tâm trương (trong phát hiện cao huyết áp): vạch ranh giới
càng thấp thì test đó càng nhạy nhưng kém đặc hiệu, vạch ranh giới càng cao thì test càng đặc

23


hiệu nhưng kém nhạy; hay Hb máu (trong thiếu máu): vạch ranh giới càng cao thì càng nhạy
nhưng vạch ranh giới càng thấp thì càng đặc hiệu.
3. Giá trị của phương pháp chẩn đoán tùy thuộc tỷ lệ hiện mắc của bệnh nghiên cứu
Giá trị tiên đoán của một test không hoàn toàn hằng định, mà có sự thay đổi, bị ảnh
hưởng bởi tỷ lệ hiện mắc của bệnh. Nếu như một bệnh có tỷ lệ hiện mắc (p) nhỏ, thì ngay cả
một test rất đặc hiệu cũng sẽ đem lại nhiều kết quả dương tính sai.
Hay: p càng nhỏ thì Vp càng thấp và Vn càng cao, và ngược lại: p càng lớn thì Vp càng
cao và Vn càng thấp.
4. Giá trị của phương pháp tùy thuộc vào sự phối hợp của các nghiệm pháp khác nhau
Đôi khi phải sử dụng cùng một lúc 2 nghiệm pháp để phát hiện một bệnh để làm tăng độ
nhạy và độ đặc hiệu của viêc phát hiện bệnh.
Ví dụ: Để phát hiện bệnh giang mai:
Tổng số người được kiểm tra qua thử nghiệm:
Giai đoạn 1: Test có độ nhạy cao _________
Giai đoạn II: Test có độ đặc hiệu cao

RPR

(-)
(+)

____________

Các cas (+) sai ở giai đoạn I

(-)

FTA - ABS
(+)

III. LỰA CHỌN THỬ NGHIỆM TRONG PHÁT HIỆN BỆNH
Về nguyên tắc thì vạch ranh giới không cố định . Một test có độ nhạy, độ đặc hiệu
<80% là không tốt. Nếu để phát hiện một bệnh nặng có thể chết, phải được điều trị bằng mọi
giá, người ta phải nghiên cứu một test có độ nhạy thật cao (nhằm tránh bỏ sót). Các quyết
định liên quan tới việc áp dụng các test trong chẩn đoán tùy thuộc vào bệnh nghiên cứu và các
điều kiện thực tiễn trong cộng đồng. Theo Galem và Gambino: Sự lựa chọn một test trong
thực tiễn như sau:
1. Một test có độ nhạy cao phải được ưu tiên
- Một bệnh nặng, không thể không biết
- Bệnh có thể điều trị được.
- Khi kết quả dương tính sai không gây nên thương tổn về tâm lý hoặc kinh tế cho người
được khám nghiệm.
Ví dụ: Bệnh Phéocromocytome chết nếu không biết, kiểm soát được 100% (nếu được
can thiệp), bệnh Phénylcétonurie, bệnh hoa liễu, các bệnh nhiễm trùng khác có thể điều trị
được .
2. Phải sử dụng test có độ đặc hiệu cao
- Một bệnh nặng nhưng khó điều trị hay nan y .
- Khi cho họ biết họ không có bệnh thì có ý nghĩa quan trọng về tâm lý và sức khỏe.

24



- Kết quả dương tính sai gây thương tổn tâm lý và kinh tế cho người được khám
nghiệm. Ví dụ: bệnh xơ cứng rải rác (Sclérose en Plaques).
3. Phải dùng tới test có giá trị tiên đoán của kết quả (+) cao
Khi điều trị cho người dương tính sai sẽ gây ảnh hưởng nặng nề. Ví dụ: phóng xạ liệu
pháp hoặc cắt phần phổi là xấu cho những người được chẩn đoán sai là ung thư phổi.
4. Giá trị tổng quát cao của test dùng cho
- Bệng nặng nhưng có thể chăm sóc tốt.
- Khi kết quả dương tính sai, âm tính sai đều gây các thương tổn nặng nề.
Ví dụ: Nhồi máu cơ tim, có thể chết nếu không được điều trị, nhưng cũng gây thương
tổn nặng nề khi kết quả dương tính sai; hay vài dạng Leucémie, Lymphome, Đái đường.

IV. LỰA CHỌN CHƯƠNG TRÌNH PHÁT HIỆN BỆNH
Để tiến hành thực hiện một chương trình phát hiện bệnh trong một quần thể nào đó, cần
phải dựa vào 3 tiêu chuẩn sau:
1. Bệnh

- Một hiện tượng bệnh lý liên quan tới nhiều người, ảnh hưởng trầm trọng đến
sức khỏe cộng đồng.
- Người bị bệnh được phân biệt rõ ràng với người bình thường; quá trình phát triển tự
nhiên của bệnh đã được hiểu biết đầy đủ và đã được mô tả một cách tường tận, giai đoạn tiền
lâm sàng phải được phân biệt rõ ràng với giai đoạn lâm sàng.
- Điều trị ở thời kỳ tiền lâm sàng có tác dụng làm giảm tính nặng của bệnh, làm giảm tỷ
lệ chết của bệnh so với điều trị ở giai đoạn lâm sàng.
- Dĩ nhiên, bệnh phải điều trị được và giám sát được trên mức độ cộng đồng.
- Với các trường hợp đã được chẩn đoán là bị bệnh thì phải đủ điều kiện, phương tiện để
điều trị.
- Chương trình phát hiện bệnh chỉ được tiến hành sau khi đã có sự kiểm tra các chương
trình y tế ưu tiên khác (nhằm cân nhắc vấn đề tài chính).
Ngoài các tiêu chuẩn trên, vấn đề chọn lựa bệnh còn tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế

địa phương và tính chất bệnh tật của xã hội.
2. Test:

Trước khi đưa một test phát hiện bệnh vào sử dụng trong cộng đồng, sự hiểu
biết của chúng ta về giá trị của test đó vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ. Hơn nữa, test này
sử dụng tốt cho quần thể này nhưng chưa chắc đã tốt cho quần thể khác. Trong thực tế,
sử dụng nghiệm pháp phát hiện bệnh, là một sự hướng dẫn cần thiết cho chẩn đoán sau
đó.
Thử nghiệm phát hiện bệnh và thử nghiệm chẩn đoán khác nhau cơ bản như sau:
Test chẩn đoán

Test phát hiện bệnh

- Áp dụng cho người có một sự rối loạn nhất định;

- Áp dụng cho người có vẻ ngoài khỏe mạnh;

-Thực hiện trên từng cá nhân;

- Thực hiện trên từng nhóm ;

-Tốn kém hơn.- Chính xác hơn;

- Ít chính xác, ít tốn kém;

-Là cơ sở của điều trị;

- Chưa phải là cơ sở cho điều trị;

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×