Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

CÂU hỏi và đáp án môn TRIẾT học dự THI CAO học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.19 KB, 46 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT
ÔN THI NĂM 2013
------------

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
1. Triết học: là một hệ thống các tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
2. Vai trò của triết học:
- Vai trò thế giới quan và phương pháp luận
- Vai trò đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận
3. Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng trong
những lĩnh vực nhất định.
4. Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không chỉ trong một
lĩnh vực của hiện thực mà là toàn bộ giới hiện thực bao gồm cả tự nhiên, xã hội và
tư duy.
5. Định nghĩa vật chất của Lê nin: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem đến cho con người trong cảm giác và
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lạ, và phản ánh không lệ thuộc vào
cảm giác”
6. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích
cực, chủ động và sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ não con người thông
qua hoạt động thực tiễn
7. Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn
nhau, sự phụ thuộc và chuyển hóa lẫn nhau lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng
trong thế giới hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong của một sự
vật hiện tượng.
8. Mối liên hệ phổ biến là khái niện nói nên rằng mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới dù đa dạng phong phú nhưng đều nằm trong mối liên hệ giữa các sự
vật hiện tượng khác đều chịu sự tác động từ các sự vật hiện tượng khác.


9. Khái niệm phát triển: Là một khái niệm triết học dùng để chỉ quá trình vận
động theo xu hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của tự nhiên, xã hội và tư duy.


10. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những đặc điểm, những
thuộc tính giống nhau của các sự vật hiện tượng khác nhau. Ví dụ: màu xanh của
lá cây trong một rừng cây.
11. Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ hay một hệ thống các sự vật tạo thành một chỉnh thể
tương đối độc lập với cái riêng khác. Ví dụ: một ngôi nhà, một cái bàn, một cái
ghế
12. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những đặc điểm, những
thuộc tính chỉ có ở một sự vật hoặc một nhóm các sự vật hiện tượng hay quá trình
riêng lẻ mà không lặp lại ở một sự vật, một hiện tượng hay một quá trình riêng lẻ
nào khác. Ví dụ: cái đơn nhât của loài người là có ý thức.
13. Mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những nhân tố
những thuộc tính, những bộ phận có khuynh hướng vận động hoặc có những đặc
điểm trái ngược nhau, cùng tồn tại nhưng trong sự vận động.
14. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến bởi vì mâu thuẫn của
sự vật hiện tượng bắt nguồn từ chính sự tác động qua lại với nhau của các yếu tố
trong sự vật hiện tượng đó chứ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người, đồng thời mâu thuẫn xẩy ra ở mọi sự vật, hiện tượng khác.
15. Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau cua hai
mặt đối lập. Ví dụ: sự tác động qua lại giữa tư sản và vô sản tạo ra mâu thuẫn
16. Lượng là một phạm trù triết học dùng để tính quy định vốn có của các sự
vật hiện tượng là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, các yếu tố đặc điểm cấu
thành nên sự vật đó làm cho sự vật là nó và phân biệt nó với các sự vật hiện tượng
khác.
17. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có

của một sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất giữa các thuộc tính, làm cho nó là nó
và phân biệt với cái khác.
18. Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động và phát triển.
19. Phủ định biện chứng là quá trình sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời do
mâu thuẫn nội tại của sự vật quy định. Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự
thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu, là điều kiện cơ bản của sự phát triển,
là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
20. Thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất
cảm tính có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên và xã hội.
21. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động theo một phương thức sản xuất nhất định trong
quá trình sản xuất vật chất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
2


22. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất,
thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý
và trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm.
23. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định
24. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ quan điểm tư tưởng liên quan đến các
vấn đề chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo, pháp luật cùng với một thiết chế xã
hội tương ứng được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định
25. Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định với mọt kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
và với một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan

hệ sản xuất đó
26. Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ đời sống vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
27. Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm tư tưởng,
quan điểm, lý luận cùng với tình cảm, tâm trạng, truyền thống, thói quen, phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
28. Khái niệm phép biện chứng: Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên,
xã hội và tư duy con người
29. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, để

chỉ một xã hội cụ thể tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, với những quan
hệ sản xuất đặc trưng, dựa trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và
một kiến trúc thượng tầng dựa trên những quan hệ sản xuất đó.

3


ĐỀ CƯƠNG THEO TỪNG VẤN ĐỀ
Câu 1: Định nghĩa vật chất của Lênin. Ý nghĩa phương pháp luận.
TRẢ LỜI
1. Quan niệm vật chất của triết học trước Mác
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã có lịch sử rất lâu. Ngay từ lúc mới ra
đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là
một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là "ý chí của thượng đế", là "ý niệm tuyệt đối",...
Các nhà triết học duy vật thời cổ đại đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ
thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Talet coi
thực thể thế giới là nước, Hêcralit coi thực thể thế giới là lửa, Đêmôcrit coi thực thể thế giới

là nguyên tử,…
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc thế kỷ XVII, XVIII quan niệm về vật chất trên cơ
sở phân chia thế giới thành từng lĩnh vực để nghiên cứu, từ đó đồng nhất vật chất với từng
lĩnh vực riêng biệt đó.
Mác – Ăngghen đã kế thừa những giá trị tích cực và vạch ra những hạn chế trong quan
niệm về vật chất của các nhà duy vật trước đó, đồng thời các ông đã tổng kết những thành tựu
khoa học hiện đại, khái quát thành một quan niệm khoa học về vật chất. Mác – Ăngghen đã
nêu quan niệm về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về tính thống nhất vật chất của thế giới,
về những dạng tồn tại cụ thể của nó; về tính vô hạn, vô tận, tính không thể sáng tạo và không
thể tiêu diệt được của vật chất và các hình thức tồn tại của nó. Tuy nhiên các ông chưa đưa ra
một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất.
2. Định nghĩa vật chất của Lênin
Kế thừa tư tưởng của Mác - Ăngghen; tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, trong
tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.Lênin đã định nghĩa:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác".
Phân tích định nghĩa:
* Vật chất là một phạm trù triết học:
+ Đó là sự xác định "góc độ" của việc xem xét để tránh nhầm lẫn giữa quan niệm của
triết học về bản chất của vật chất với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu trúc và
những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau.
+ Với tư cách là một phạm trù triết học, phạm trù vật chất phải thể hiện thế giới quan và
hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, đó là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
+ Vật chất là một phạm trù rộng nhất nên không thể định nghĩa bằng cách thông thường
trong lôgíc học: đem quy khái niệm cần định nghĩa về khái niệm rộng hơn. Vật chất chỉ có
thể định nghĩa được bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với ý thức, xem cái nào có trước,
cái nào quyết định cái nào.
4



* Thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức
con người”.
+ Vật chất là vô cùng vô tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng và phong
phú mà khoa học ngày càng phát triển thì cũng chỉ tìm ra, phát hiện thêm những thuộc tính
mới của nó.
Trong tất cả các thuộc tính của vật chất thì thuộc tính "thực tại khách quan", tức là sự tồn
tại bên ngoài và độc lập với ý thức và con người là thuộc tính chung, vĩnh hằng với mọi dạng,
mọi đối tượng khác nhau của vật chất. Chính vì vậy, Lênin xem "thực tại khách quan" là
thuộc tính duy nhất của vật chất.
+ Thuộc tính "tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức" chính là tiêu chuẩn để
phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất cả trong tự nhiên lẫn đời sống xã
hội. Tất cả những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều là những dạng
khác nhau của vật chất. Chẳng hạn, những quan hệ kinh tế - xã hội, những quan hệ sản xuất
của xã hội..., tuy không tồn tại dưới dạng các vật thể, cũng không mang các thuộc tính khối
lượng, năng lượng, cũng không có cấu trúc nguyên tử, phân tử, nhưng chúng tồn tại khách
quan, có trước ý thức và quyết định ý thức. Bởi vậy, chúng chính là vật chất dưới dạng xã
hội.
Thuộc tính trên cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất có tồn tại thực sự, tồn
tại do chính nó hay không. Bởi vậy, thuộc tính đó là khoa học để đấu tranh chống lại chủ
nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức của nó.
* Vật chất "được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh".
+ Vật chất tồn tại khách quan nhưng không phải tồn tại trừu tượng mà là sự tồn tại hiện
thực, cụ thể, cảm tính. Khi vật chất tác động đến các giác quan của con người thì gây ra cảm
giác ở con người, đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó. Như vậy, khả năng nhận
thức của con người đối với vật chất chính là xuất phát từ thuộc tính tồn tại cảm tính, tồn tại có
thể nhận thức được của bản thân vật chất.
Bởi vậy, về nguyên tắc, đối với thế giới vật chất chỉ có cái con người chưa nhận thức

được, chứ không thể có cái con người không thể nhận thức được. Đó chính là cơ sở khoa học
đấu tranh chống "thuyết không thể biết".
+ Vật chất "được đem lại cho con người trong cảm giác", nó là nguồn gốc, nguyên nhân
của cảm giác, của ý thức, nó có trước ý thức và tạo nên nội dung của ý thức. Còn cảm giác
hay ý thức chỉ là sự "chép lại, chụp lại, phản ánh", nó có sau so với vật chất. Rõ ràng vật chất
là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được quan điểm siêu hình, máy móc, trực
quan trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, do đó làm cho chủ nghĩa duy vật
phát triển lên một trình độ mới, trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, tạo cơ sở khoa học
cho quan niệm duy vật trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời cũng
tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất trong chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
- Định nghĩa này chính là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm - cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một
cách có hiệu quả để đảm bảo sự đứng vững của chủ nghĩa duy vật trước sự phát triển mới của
khoa học tự nhiên.
5


- Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên cả hai khía
cạnh, từ đó bác bỏ thuyết "bất khả tri".
- Trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học đi sâu
nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra ngày càng nhiều những thuộc tính mới của vật chất,
không ngừng làm phong phú tri thức của con người về thế giới.
- Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của
Lênin cho phép chúng ta xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đây là điều mà các
nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới. Định nghĩa giúp các nhà khoa học tìm ra cơ sở lý luận để
giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc sự
vận động của phương thức sản xuất; trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra các phương án tối

ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.
Định nghĩa vật chất của Lênin hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị. Định nghĩa này là tiêu
chuẩn căn bản nhất để phân biệt thế giới quan duy vật và và thế giới quan duy tâm./.

6


Câu 2: Nguồn gốc, bản chất của ý thức.
TRẢ LỜI
1. Một số quan niệm về ý thức trong lịch sử
- Người xưa cho hoạt động tinh thần của con người không phải do chính con người mà
của linh hồn bất tử nhập vào con người và rời bỏ con người khi con người chết.
- Chủ nghĩa duy tâm quan niệm ý thức như một thực thể độc lập, là thực tại duy nhất, là
cái có trước từ đó sinh ra vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng vật chất, coi ý thức là sự phản
ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII, XVIII coi ý thức là một biến tướng của vật
chất do con người sinh ra giống như gan tiết ra mật. Ưu điểm của quan điểm này là chống lại
quan điểm duy tâm tôn giáo, nhược điểm là không phân biệt đâu là vật chất, đâu là ý thức,
không thấy được vai trò ý thức.
2. Nguồn gốc ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: ý thức của con người là sản phẩm của quá
trình phát triển tự nhiên và lịch sử - xã hội. Vì vậy, để hiểu đúng nguồn gốc và bản chất của ý
thức cần phải xem xét nguồn gốc của ý thức trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội.
- Tự nhiên:
+ Ý thức là đặc tính riêng của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ não người. Bộ
não người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người,
trên cơ sở các quá trình sinh lý - thần kinh của não. Do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt
động của ý thức sẽ không bình thường.
Nhưng tại sao bộ óc người lại có thể sinh ra ý thức? Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải

nghiên cứu mối liên hệ vật chất giữa bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật
chất ấy hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những
đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua
lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật, đó là vật tác động và vật
nhận tác động. Trong quá trình ấy, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác
động.
+ Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng riêng có của con người, được phát triển từ
thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật
chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa
chúng.
+ Các tổ chức, các hệ thống vật chất tiến hoá, thuộc tính phản ánh của chúng cũng phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phản ánh ý thức của con người là hình thức
phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.
Như vậy, ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não người. Bộ não người (cơ quan phản ánh thế giới vật chất xung quanh) và sự tác động
của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
- Xã hội:
7


+ Sự ra đời của bộ não người cũng như sự hình thành con người và xã hội loài người nhờ
hoạt động lao động và giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ.
+ Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người và xã hội loài người
khác hoàn toàn với các loài động vật khác.
+ Trong quá trình lao động, con người đã biết chế tạo các công cụ để sản xuất ra của cải
vật chất. Công cụ ngày càng phát triển làm tăng khả năng con người tác động vào tự nhiên,
khám phá và tìm hiểu tự nhiên, bắt tự nhiên bộc lộ những thuộc tính của mình.
+ Lao động của con người là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan
làm biến đổi, cải tạo thế giới khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Quá trình

đó cũng làm biến đổi chính bản thân con người, làm cho con người ngày càng nhận thức sâu
hơn thế giới khách quan.
+ Chính nhờ có quá trình lao động, bộ não người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm
cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển. Hoạt động lao
động của con người đã đưa lại cho bộ não người năng lực phản ánh sáng tạo về thế giới.
+ Hoạt động lao động của con người đồng thời cũng là phương thức hình thành, phát
triển ý thức.
+ Lao động sản xuất là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. Trong lao động,
con người tất yếu có những quan hệ với nhau và nhu cầu trao đổi kinh nghiệm. Từ đó ngôn
ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái "vỏ vật chất" của tư duy, là phương tiện
để con người giao tiếp với nhau, phản ánh một cách khái quát sự vật. Nhờ có ngôn ngữ, con
người tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, trao đổi thông tin cho nhau, trao đổi tri thức từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
+ Ngôn ngữ là phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự phản ánh khái quát hơn,
trừu tượng hoá, tức là của quá trình hình thành ý thức. Lao động và ngôn ngữ là "hai sức kích
thích chủ yếu" biến bộ não con vật thành bộ não người, phản ánh tâm lý động vật thành phản
ánh ý thức.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và phát
triển của ý thức.
Nguồn gốc tự nhiên và xã hội là điều kiện cần và đủ để hình thành nên ý thức của con
người.
3. Bản chất ý thức
- Ý thức là sự phản ánh của thế giới bên ngoài. Suy cho cùng là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan. Chủ quan theo nghĩa, ý thức là hình ảnh của sự vật được thực hiện trong
bộ não con người, là sự phản ánh thế giới khách quan thông qua "lăng kính chủ quan của
mỗi người"; gắn liền với hoạt động khái quát hoá, trừu tượng hoá, có định hướng, có lựa
chọn nhằm tạo ra những tri thức và sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Ý thức là hình
ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý. Ý thức lấy cái khách
quan làm tiền đề. Nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định.

- Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh một cách tích cực, chủ động, năng động, sáng
tạo, tức không phản ánh một cách nguyên xi, máy móc.
- Ý thức là sự phản ánh mang tính xã hội, vì ý thức không phải là một hiện tượng tự
nhiên thuần tuý và ngay từ đầu nó đã là một sản phẩm của xã hội, bắt nguồn từ thực tiễn lịch
sự xã hội và phản ánh những quan hệ xã hội.

8


Từ sự phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định: Ý thức là sự phản ánh mang tính sáng tạo thế giới vật chất vào bộ não người thông qua
hoạt động thực tiễn. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
4. Ý nghĩa
- Chống lại chủ nghĩa duy tâm giải thích sai lệch, xuyên tạc về nguồn gốc, bản chất của ý
thức.
- Chống lại chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy vật trước Mác không thấy
được vai trò của ý thức và con người nói chung, xem ý thức chỉ là bản sao chép giản đơn thế
giới bên ngoài.
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò con người trong việc cải
tạo thế giới. Đồng thời khắc phục bệnh trì trệ, bảo thủ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi
chờ trong quá trình đổi mới con người Việt Nam.
- Sức mạnh của ý thức không phải ở chỗ nó tách rời hiện tượng vật chất, hiện tượng
khách quan mà phải dựa vào những tiền đề vật chất nhất định, phản ánh đúng hiện thực, từ đó
chủ động cải tạo thế giới bên ngoài.
- Con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan bao nhiêu thì càng cải
tạo nó có hiệu quả bấy nhiêu./.

9



Câu 3: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất - ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận
TRẢ LỜI
1. Khái niệm
- Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Thực tại khách quan là sự tồn tại có thật, không phải do ý muốn của thần linh, thượng đế
hoặc do ý thức chức quan của con người sản sinh ra, mà đó là sự tồn tại, vận động, chuyển
hóa và phát triển theo những quy luật vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, dù con
người có muốn, có biết hay chưa biết về sự tồn tại đó thì chúng vẫn tồn tại.
- Ý thức là sự phản ánh mang tính sáng tạo thế giới vật chất vào bộ não người thông qua
hoạt động thực tiễn. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức không phải là một hiện tượng thần bí, tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của
một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt là bộ não của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện
tượng của thế giới bên ngoài vào bộ não của con người trên nền tảng của hoạt động lao động
sáng tạo và được hiện thực hóa bằng ngôn ngữ. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất - ý thức
a. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
- Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là
nguồn gốc sinh ra ý thức. Bởi não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh
để hình thành ý thức. ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá
trình phản ánh thế giới khách quan.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức. Vì ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
não người, là hình ảnh của thế giới khách quan.
b. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất
- Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính năng động, sáng tạo nên có thể
tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
+ Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn

của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.
+ Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ở mức độ nhất định, có thể kìm
hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con
người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.
- Vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo thế
giới hiện thực được phát triển đến mức độ nào đi chăng nữa vẫn phải dựa trên sự phản ánh
thế giới khách quan và các điều kiện khách quan.
10


3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ sự phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức chúng ta rút ra được
quan điểm khách quan. Quan điểm khách quan đòi hỏi:
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ hiện thực
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không
lấy ý chí áp đặt cho thực tế. Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức,
phát huy tính sáng tạo của nhân tố chủ quan, nhân tố con người.
- Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, phải có động cơ trong
sáng, không vụ lợi, có thái độ thật sự khách quan, khoa học, tránh thái độ chủ quan, duy ý
chí, nóng vội, định kiến, không trung thực, thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ.
- Khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí:
+ Chủ quan, duy ý chí là một căn bệnh khá phổ biến ở nước ta và nhiều nước XHCN
trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
+ Bệnh chủ quan, duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của nhân tố chủ quan,
của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy sự nhiệt tình thay
cho sự yếu kém về tri thức khoa học.
+ Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội,

chạy theo nguyện vọng chủ quan. Nó biểu hiện rõ trong khi định ra chủ trương và chính sách
xa rời hiện thực khách quan.
+ Bệnh chủ quan, duy ý chí có nguồn gốc từ sự nhận thức, sự yếu kém về tri thức khoa
học, tri thức lý luận, không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Bệnh chủ quan, duy ý chí còn
do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan
liêu, bao cấp cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí.
+ Để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước
hết, phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng. Trong
hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống
bảo thủ, trì trệ, quan liêu./.

11


Câu 4: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến? Ý nghĩa phương pháp luận.
TRẢ LỜI
1. Khái niệm
Thế giới được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng, những quá trình khác nhau. Vậy
giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập,
tách rời nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố nào quy định sự liên hệ
đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật và
hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng không có sự
phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ rời rạc bên ngoài,
mang tính ngẫu nhiên.
Ngược lại, những người theo quan điểm biện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể
thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt với
nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
Khi trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm tìm cơ sở của sự liên hệ,

sự tác động qua lại giữa các sự vật và hiện tượng ở các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức, ở
cảm tính của con người. Béccơdi coi cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng
là cảm giác, Heghen cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng ở ý
niệm tuyệt đối.
Những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì khẳng định rằng cơ sở của sự liên hệ
qua lại giữa các sự vật và hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm
này, các sự vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa
thì cũng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: Mối liên hệ là một khái niệm của
triết học dùng để chỉ sự phụ thuộc, ràng buộc, quyết định lẫn nhau, đồng thời là sự tác động
qua lại giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Mối liên hệ dùng để chỉ sự phụ thuộc, ràng buộc, quyết định lẫn nhau, nghĩa là các sự
vật, hiện tượng luôn luôn tồn tại trong sự nương tựa lẫn nhau, làm điều kiện tiền đề tồn tại
cho nhau.
Mối liên hệ dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ
phạn trong mỗi sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Chính sự tác động
này đã làm cho sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi không ngừng.
2. Nội dung nguyên lý
- Tính phổ biến: Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan dù khác nhau đến thế
nào thì chúng cũng không tồn tại cô lập, tách rời nhau mà tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ,
gắn bó nhau. Không những các sự vật, hiện tượng có liên hệ với nhau mà cả những yếu tố,
những bộ phận khác nhau trong sự vật, hiện tượng cũng có mối liên hệ với nhau. Không
những các giai đoạn, các quá trình trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng cũng
có liên hệ với nhau mà cả quá khứ, hiện tại, tương lai cũng kế thừa và chuyển tiếp lẫn nhau,
12


không chỉ trong tự nhiên, trong xã hội mà cả trong tư duy cũng có liên hệ với nhau. Đây là
những mối liên hệ mang tính phổ biến.
- Tính khách quan: Do tính thống nhất vật chất của thế giới, từ sự tồn tại và phát triển

của chính các sự vật, hiện tượng, mà do vậy, mối liên hệ là khách quan, là vốn có của các sự
vật, hiện tượng. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ:
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất rất đa dạng, phong phú, nên mối liên hệ
giữa chúng cũng rất đa dạng, phong phú, như: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên
ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, cơ bản và không cơ bản, tất nhiên và ngẫu nhiên, trực
tiếp và gián tiếp,… và bản thân các mối liên hệ còn có sự chuyển hoá lẫn nhau.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của các
sự vật và hiện tượng:
+ Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, các mặt khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận
động và phát triển của sự vật.
+ Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau, nói chung
nó không có ý nghĩa quyết định. Hơn nữa, nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong
mà phát huy tác dụng đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Song, mối liên hệ bên
ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi có thể giữ vai trò quyết định.
+ Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ tất
yếu và ngẫu nhiên,… cũng có tính chất tương tự như đã nêu ở trên, ngoài ra, chúng còn
những nét đặc thù. Chẳng hạn, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này, lại là tất
nhiên, khi xem xét trong mối quan hệ khác.
Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tương
đối trong sự phân loại đó, các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển
hoá như vậy có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét, hoặc do kết quả
vận động khách quan của chính sự vật và hiện tượng.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã
hội và trong tư duy con người, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những loại liên
hệ chung, mang tính phổ biến.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Qua nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng chúng ta
cần rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật và hiện tượng cũng

như trong hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật, hiện
tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi:
Một là, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, mối liên hệ vốn có
của nó.
Sự vật, hiện tượng được hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua mối liên hệ giữa chúng
với các sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy để nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng không chỉ
xem xét bản thân nó mà còn phải xem xét mối liên hệ giữa nó với các sự vật, hiện tượng
khác. Lê nin viết “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất
cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó”.
Chẳng hạn, kinh tế và chính trị tồn tại trong mối liên hệ biện chứng với nhau. Nên khi
xem xét vấn đề chính trị mà không tính đến các vấn đề kinh tế hoặc ngược lại sẽ dẫn đến
những sai lầm cực đoan.
13


Hai là, xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật đòi hỏi phải đánh giá đúng vị trí, vai
trò của chúng, tránh xem xét một cách dàn trải, bình quân.
Sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trò của các mối liên hệ không
ngang bằng nhau. Vì vậy, có xác định được vị trí, vai trò của các mối liên hê mới nhận thức
được bản chất của sự vật, mới thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó.
Ba là, phải nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể của nó, trong tính nhiều mặt và sự tác
động qua lại, quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau của chúng.
Sự vật trong thực tế tồn tại với tư cách như một chỉnh thể, nó không phải là “tổng số giản
đơn” các mối liên hệ mà là tổng số các mối liên hệ hữu cơ, có sự tác động qua lại, quy định,
chi phối lẫn nhau. Chỉ có nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể thì mới nhận thức được sự vật,
nhận thức được bản chất của sự vật.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần
xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với mỗi người, mỗi
thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được

một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là
tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.
Vận dụng quan điểm toàn diện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có ý nghĩa to
lớn nhiều mặt, đó là khắc phục bệnh phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
- Bệnh phiến diện là chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này mà không thấy mặt khác, mối liên
hệ khác; xem xét giải quyết công việc một cách dàn đều, bình quân, không thấy được vị trí,
vai trò khác nhau của các mối liên hệ, không xác định được trọng tâm, trọng điểm trong hoạt
động.
- Chủ nghĩa chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những cái hết sức
khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật.
- Thuật ngụy biện là đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trò các mối liên hệ nhằm
biện hộ sai hiện thực, xuyên tạc một sự thật nào đó.
Vận dụng quan điểm này, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra chủ
trương đổi mới toàn diện trên các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, xác định
đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị là khâu đột phá, đổi mới kinh tế là trọng tâm. Thực
tiễn những năm đổi mới ở nước ta đã mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của
những quan điểm nêu trên. Đại hội VIII Đảng ta đã nhận định “Đảng ta đã đúng khi tập trung
trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh
tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời
sống xã hội”./.

14


Câu 5: Nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp luận.
TRẢ LỜI
1. Khái niệm
- Quan điểm siêu hình thừa nhận quá trình phát triển, nhưng không chỉ ra được nguồn
gốc của sự vận động, không chỉ ra được cách thức của quá trình vận động, phát triển cũng

như không chỉ ra được khuynh hướng của sự vận động, phát triển.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì phát triển là một khái niệm triết học
dùng để chỉ quá trình vận động theo xu hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo quan điểm đó, phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động, là sự vận động
theo khuynh hướng đi lên. Trong quá trình vận động theo khuynh hướng đó sẽ làm nảy sinh
những tính quy định mới cao hơn về chất. Nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật
và của sự liên hệ làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng
chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
2. Nội dung nguyên lý
- Tính khách quan: Phép biện chứng duy vật không những có quan điểm khoa học về
phạm trù phát triển mà còn khẳng định tính khách quan của sự phát triển. Khi đề cập tới
nguồn gốc của sự phát triển, những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc đó
ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức con người.
Còn theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản
thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Phát triển là quá trình tự thân của sự vật, hiện
tượng. Hay nói cách khác, phát triển là một quá trình khách quan, độc lập với ý thức của con
người.
- Tính phổ biến: Phát triển không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến.
Tính phổ biến của sự phát triển với nghĩa nó là khuynh hướng chung, phổ biến và diễn ra ở
tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên đến xã hội và tư duy.
Quan điểm siêu hình coi sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục không có
bước quanh co, phức tạp. Quan điểm về quá trình phát triển đơn giản như vậy, không phản
ánh được sự phát triển đa dạng và phong phú trên thế giới.
Quan điểm duy vật biện chứng về quá trình phát triển thừa nhận tính phức tạp, tính
quanh co của bản thân quá trình đó, sự phát triển trong hiện thực cũng như trong tư duy diễn
ra bằng con đường quanh co, phức tạp trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Mỗi
sự vật, hiện tượng đều có quá trình ra đời, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời. Sự mất đi của cái cũ lại tạo điều kiện tiền đề cho cái mới ra đời. Phép biện

chứng duy vật đã chỉ rõ nguồn gốc, nguyên nhân của mọi sự vận động, phát triển đó là sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ở bên trong mỗi sự vật, hiện tượng. Phát triển là
cái vốn có, là tự thân của mỗi sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật cũng đã chỉ rõ
cách thức của sự vận động, phát triển đó là đi từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về
15


chất thông qua những bước nhảy vọt. Và cũng chỉ rõ xu hướng của sự vận động, phát triển đó
là theo đường xoáy ốc đi lên thông qua sự phủ định biện chứng, dường như quay trở lại cái
cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Trong hiện thực khách quan, tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất,
sự phát triển sẽ được thực hiện hết sức đa dạng. Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng
lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải
phóng con người. Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu
sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực tự nhiên và xã hội.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Khi nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển cho phép chúng ta rút ra quan điểm phát triển.
Yêu cầu của quan điểm phát triển là:
- Một là, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phát triển và phải
phát hiện ra xu hướng phát triển của nó.
Các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy luôn tồn tại trong quá trình vận
động và phát triển không ngừng, bản chất khách quan của quá trình đó đòi hỏi chúng ta muốn
phản ánh đúng hiện thực, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển của
nó. Hơn nữa sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng diễn ra rất phức tạp theo những xu
hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau nhưng trong đó phát triển là xu hướng phổ biến.
Vả lại đó là xu hướng mà con người quan tâm. Chính vì vậy nhận thức một cách tích cực sự
vật đòi hỏi phải phát hiện được xu hướng phát triển của nó.
- Hai là, phải thấy được tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển. Trong quá trình
phát triển sự vật, hiện tượng thường đồng thời có những biến đổi tiến lên và có cả những biến đổi
thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được khi bằng tư duy khoa học chủ thể

khái quát để làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả biến đổi khác nhau đó. Hơn nữa, sự phát
triển của các sự vật, hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng. Phương thức của sự phát
triển là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất. Còn nguồn gốc, động lực của sự
phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Khuynh hướng của sự phát triển là dường như
quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn thông qua sự phủ định biện chứng.
Quá trình biện chứng của sự phát triển đó là một quá trình quanh co, phức tạp. Nếu không
có quan điểm khoa học như vậy, người ta rất dễ bi quan, dao động khi tiến trình cách mạng nói
chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội, cũng như của các cá nhân tạm thời gặp khó khăn,
trắc trở. Vả lại, có thấy hết tính phức tạp của quá trình phát triển thì mới tránh được tình trạng
chủ quan, giản đơn khi đề ra con đường, biện pháp thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
- Ba là, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng tư duy phải “mềm dẻo”, phải luôn luôn
được sửa đổi, bổ sung và phát triển cho phù hợp với sự biến đổi của bản thân sự vật, hiện tượng
cũng như sự phát triển tư duy của nhân loại. Bởi vì sự vật, hiện tượng trong thế giới biến đổi và
phát triển không ngừng, vả lại nhận thức của con người bao giờ cũng có giới hạn về mặt lịch sử.
Vì vậy, tư duy nhận thức cũng phải luôn luôn được sửa đổi, bổ sung và phát triển.
Nhận thức là quá trình biện chứng, hơn nữa là một quá trình vô tận. Do đó, bảo thủ, giáo
điều coi nhận thức đã có là bất di, bất dịch là đối lập với nhận thức khoa học. Bảo thủ, giáo
điều nhìn bề ngoài tưởng chừng như là “bảo vệ, trung thành” với tư tưởng nào đó nhưng thực
chất là làm mất đi sức sống của nó.
Ngày nay, mặc dù CNXH trên thế giới đang đứng trước những thử thách, khó khăn và
phức tạp, song từ những thành công và chưa thành công của quá trình cải cách, đổi mới,
Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết, đưa quá trình cải cách, đổi
mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của xã hội và đang đạt những chuyển
16


biến tích cực. Những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 25 năm đổi mới làm cho thế và
lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Điều này cho thấy rằng, thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con
đường thẳng tắp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có phát triển, có thoái trào,

quanh co, khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định “Theo quy luật tiến
hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”./.
Câu 6: Phạm trù cái chung – cái riêng và ý nghĩa?
TRẢ LỜI
1. Khái niệm
Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ tồn tại với tư cách là một chỉnh thể trong mối quan hệ độc lập tương đối với những
cái khác.
Chẳng hạn, một con người, một dòng sông hay một quốc gia dân tộ được xem là cái
riêng nếu nó được nhìn nhận như một chỉnh thể khác biệt với những cái khác xung quanh nó.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính được lặp
lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác nhau.
Cái chung bao giờ cũng đặt trong quan hệ với cái riêng, vì vậy cái chung là cái chung
của những cái riêng, không có cái chung nằm ngoài cái riêng, độc lập với cái riêng. Cái
chung có thể phân chia thành:
- Cái chung mang tính phổ biến, là cái chung của rất nhiều sự vật, hiện tượng có một đặc
điểm, thuộc tính giống nhau.
- Cái chung mang tính đặc thù, là cái chung của một số các sự vật, hiện tượng có đặc
điểm, thuộc tính giống nhau.
- Cái chung căn bản, là cái chung phản ánh bản chất của sự vật, nó chi phối sự vận động,
phát triển của sự vật.
- Cái chung không căn bản, là những đặc điểm chung của những sự vật, hiện tượng
giống nhau nhưng không quyết định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ, đối lập với cái chung là cái đơn nhất. Cái đơn
nhất là phạm trù dùng để chỉ những yếu tố, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự
vật, hiện tượng hay quá trình nhất định chứ không lặp lại trong bất cứ sự vật, hiện tượng hay
quá trình nào khác.
2. Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung
Trong lịch sử triết học đã có những quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa cái

riêng và cái chung, đó là quan niệm của phái duy thực và phái duy danh. Song, cả hai quan
niệm đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng, phủ
nhận cái chung hoặc ngược lại, họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng
khít giữa chúng.
Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách
quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn
tại của mình. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại, nhưng lại chỉ tồn tại trong “cái
riêng” chứ không tồn tại biệt lập, lơ lửng ở đâu đó bên cạnh cái riêng.
- Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, nghĩa là không có cái
riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Chẳng hạn, mỗi con người
17


là một cái riêng nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên.
Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội. Đó
là những cái chung trong mỗi con người.
- Thứ ba, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là cái toàn
bộ, phong phú hơn cái chung.
Cái chung nằm trong cái riêng nên chỉ là một bộ phận của cái riêng, nhưng không bao
quát hết cái riêng. Còn cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài cái chung còn những cái
đơn nhất, cái đặc thù.
Chẳng hạn như người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các
nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp,... còn có đặc điểm riêng là chịu
ảnh hưởng của văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, điều kiện tự nhiên của
đất nước.
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên
hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại và nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với
bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
- Thứ tư, cái riêng và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của

sự vật. Sự chuyển hóa này không diễn ra dưới hình thức chuyển hóa cả cái này thành cái khác
mà nó diễn ra dưới hai hình thức, đó là có những cái nếu xét trong mối quan hệ này là cái
chung, nhưng nếu xét trong mối quan hệ khác lại là cái riêng; hay đó là sự chuyển hóa giữa
cái đơn nhất thành cái chung, cái phổ biến và ngược lại. Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái
mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về
sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến.
Ngược lại, cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau họ không phù hợp với điều
kiện mới mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy, sự chuyển háo từ cái đơn nhất thành
cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại, sự chuyển hoá
từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của
mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện
tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng.
- Cái chung là cái sâu sắc, cái căn bản chi phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm tìm ra
cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong
hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung, sẽ không tránh khỏi rơi vào
tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng. Vì vậy, sự nghiệp đổi mới đất nước đòi
hỏi trước hết phải đổi mới tư duy lý luận. Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái
riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tùy theo từng cái riêng cụ thể mà vận dụng cho thích
hợp.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có
thể biến thành cái chung và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất
lợi trở thành cái đơn nhất.
- Thông qua mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng giúp chúng ta có tư duy biện chứng,
tư duy khoa học để giải thích đúng mối quan hệ trong từng cái riêng với nhiều sự vật, hiện
tượng khác trong hệ thống. Một sự vật, sự tồn tại một cách độc lập chỉ là mang tính tương
đối, mà khi xem xét nó phải đặt nó trong mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhiều sự
vật, hiện tượng khác.

18


Trong thời đại ngày nay, thời đại toàn cầu hóa, đối với Việt Nam vấn đề học tập cái
chung của thế giới là hết sức cần thiết. Song mặt khác, chúng ta cũng cần thấy rõ cái riêng
bao giờ cũng phong phú hơn cái chung nên phải luôn chú ý khai thác nguồn sức mạnh của
dân tộc, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, từng tập thể và từng con người
Việt Nam trong quá trình phát triển xã hội. Đảng ta đã khẳng định để đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta phải phát huy nội lực, kế thừa những truyền
thống quý báu của dân tộc, nhưng đồng thời phải mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại, đa dạng
hóa, đa phương hóa với các nước trên thế giới nhằm tiếp thu những thành tựu chung mà loài
người đã đạt được trong các thời đại khác nhau./.
Câu 7: Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật
mâu thuẫn). Ý nghĩa phương pháp luận.
TRẢ LỜI
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng
duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của mọi sự vận động phát triển.
1. Khái niệm
Mặt đối lập là những yếu tố, bộ phận, những thuộc tính, có những đặc điểm hoặc
khuynh hướng vận động trái ngược nhau, tồn tại trong cùng một sự vật, tác động qua lại lẫn
nhau tạo nên sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện
chứng. Hay nói cách khác, mâu thuẫn là do chính các mặt đối lập nằm trong một chỉnh thể
có liên hệ khăng khít với nhau, tác động lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho
mình đã tạo nên mối quan hệ biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và
tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là
nguồn gốc phát triển của nhận thức.
2. Nội dung quy luật
a. Sự thống nhất của các mặt đối lập

- Theo nghĩa chung nhất, sự thống nhất của các mặt đối lập là sự kết hợp, sự nương tựa
lẫn nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau, bổ sung cho nhau.
Không có sự thống nhất thì không tạo thành sự vật. Sự thống nhất này bị phá hủy, sự vật
không tồn tại nữa. Sự thống nhất này là sự thống nhất từ bên trong, do nhu cầu tồn tại, nhu
cầu vận động và phát triển của chính bản thân các mặt đối lập.
- Theo nghĩa hẹp, thống nhất là sự đồng nhất, sự phù hợp, sự tác động ngang nhau.
Thống nhất trong trường hợp này được hiểu như là một trạng thái mà những yếu tố chung
của hai mặt đối lập giữ vai trò chi phối. Đó là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn.
b. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
Các mặt đối lập vừa thống nhất nhau lại vừa đấu tranh với nhau.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ, phủ định lẫn nhau, hoặc là sự triển khai
của các mặt đối lập.
Tất nhiên, "đấu tranh" giữa các mặt đối lập có nhiều hình thức. Nó phụ thuộc vào bản
chất của mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn và hoàn cảnh lịch sử cụ thể khi giải
quyết mâu thuẫn. Đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành các chất vô cơ khác hẳn cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập của các cơ thể sống. Đấu tranh trong lĩnh vực tự nhiên hoàn toàn
khác với đấu tranh trong xã hội. Đấu tranh trong thời kỳ dã man khác với đấu tranh trong thời
đại văn minh.
- Đấu tranh là động lực của sự phát triển:
19


Thực chất của phát triển là quá trình phá bỏ cái cũ để hình thành cái mới, cái tiến bộ hơn.
Nhưng cái cũ, cái lỗi thời bao giờ cũng có tính bảo thủ cao. Còn cái mới nhiều khi còn non
nớt. Vì vậy, nếu không có đấu tranh thì không thể có sự phát triển.
Chẳng hạn, lịch sử phát triển của xã hội loài người từ thời cổ đại đến nay bao giờ cũng là
kết quả của cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt giữa người bị bóc lột chống kẻ bóc lột, người bị
áp bức chống kẻ áp bức, như cuộc đấu tranh của nô lệ chống lại chủ nô, của nông dân chống
lại địa chủ, phong kiến. Bản thân sự phát triển xã hội hiện đại cũng là sản phẩm của cuộc đấu
tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.

Triết học mác xít cũng khẳng định đấu tranh là tuyệt đối, còn thống nhất chỉ là tương đối.
Bởi vì, sự phù hợp cũng chỉ là sự phù hợp của các mặt đối lập, thành thử không có sự phù
hợp tuyệt đối, đồng nhất tuyệt đối. Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác biệt và trong sự
"đồng nhất", "phù hợp", "tác động ngang nhau', nó vẫn làm nảy nở những nhân tố của một
cuộc đấu tranh mới buộc nó triển khai cuộc đấu tranh dưới một hình thức khác.
- Các mặt đối lập không chỉ thống nhất và đấu tranh với nhau mà chúng còn chuyển hoá
lẫn nhau. Đó là quá trình thẩm thấu những nhân tố, những thuộc tính của nhau. Sự chuyển
hoá này là kết quả của những tác động qua lại thường xuyên giữa các mặt đối lập, là do sự
thống nhất và đấu tranh giữa chúng. Sự chuyển hoá có thể diễn ra dưới hai hình thức: chuyển
hoá từng phần và chuyển hoá toàn bộ.
Nói chung, các mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau và sự tác động qua lại
giữa chúng tạo thành mâu thuẫn của sự vật. Triết học Mác - Lênin cho rằng, sự vật nào cũng
là sự tổng hợp của những mâu thuẫn, vị trí của các mâu thuẫn không giống nhau. Mọi mâu
thuẫn đều có quá trình phát sinh, phát triển và tiến hoá. Chính vì vậy, phân tích cụ thể mâu
thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng,
nó chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển, là cơ sở chủ yếu để giải thích
các quy luật khác và mối quan hệ giữa các phạm trù của phép biện chứng duy vật. Đồng thời,
đây là quy luật hết sức phổ biến, nó liên quan đến toàn bộ hoạt động con người, là cơ sở đề ra
đường lối, chiến lược, cũng như chính sách trong các giai đoạn cách mạng khác nhau.
c. Phân loại mâu thuẫn
- Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu thuẫn
thành mâu thuẫn bên trong, ngoài.
+ Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập
của cùng một sự vật.
+ Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan
hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Từ đó, mâu thuẫn bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với sự vận động,
phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng
tác động qua lại lẫn nhau. Mâu thuẫn bên ngoài có thể phát triển thành mâu thuẫn bên trong

hoặc tìm kiếm mâu thuẫn bên trong. Thực tiễn nước ta cho thấy việc giải quyết những mâu
thuẫn nước ta không tách rời việc giải quyết những mâu thuẫn giữa nước ta với các nước
khác.
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được
chia thành mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản.
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển
của tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu
thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
20


+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của
sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết
không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một
giai đoạn nhất định:
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
+ Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó
của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải
quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội
thành mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn phát triển có
lợi ích cơ bản đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn trong những lực lượng xã hội có lợi ích cơ
bản thống nhất nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng hạn,
mâu thuẫn trong lao động trí óc và lao động chân tay.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt

đối lập như sau: Mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược
chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn.
Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hoá lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
3. Ý nghĩa, phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương
pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Quy luật này cho ta thấy vị trí của việc nhận thức mâu thuẫn trong thế giới khách quan,
làm cho chúng ta có thể nhìn nhận thế giới một cách sâu sắc, tránh được lối phiến diện, giản
đơn.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu
thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá
trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa
chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau trong chúng chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu
thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu
thuẫn.
- Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách phù hợp để giải quyết mâu thuẫn,
không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình
độ phát triển của mâu thuẫn, phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết
mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, phải chống
thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm
cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có
phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách
linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
Ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại nhiều mâu thuẫn khác nhau, ngoài những mâu thuẫn cơ
bản trên thế giới thì ở Việt Nam cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong quá trình phát triển
kinh tế nhiều thành phần, trong việc mở cửa hội nhập. Để giải quyết những mâu thuẫn này,
21



về nguyên tắc phải đấu tranh. Tuy nhiên, các hình thức đấu tranh phải hết sức mềm dẻo, linh
hoạt, tránh tả khuynh và hữu khuynh./.

Câu 8: Quy luật lượng - chất và ý nghĩa phương pháp luận?
TRẢ LỜI
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại là
một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng. Quy luật này nói lên cách thức của sự vận
động, phát triển của sự vật.
1. Khái niệm chất và lượng
- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của một sự vật,
hiện tượng, là sự thống nhất giữa các thuộc tính, làm cho nó là nó và phân biệt với cái khác.
"Chất" là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời thường và là một phạm trù cơ bản
của triết học. Khái niệm "chất" trong đời thường không phải lúc nào cũng trùng hợp với khái
niệm "chất" trong triết học, nhất là khi nói về các vấn đề trong xã hội.
Chất không phải chỉ được tạo nên từ các nhân tố cấu thành sự vật mà còn được tạo nên
từ cách sắp xếp các nhân tố ấy. Kim cương và than chì là hai chất khác nhau. Chúng đều
được tạo ra từ nguyên tố các bon (C) nhưng do cách sắp xếp khác nhau mà ta thấy hai chất
hoàn toàn khác biệt. Vì thế, sự phong phú về chất không phải chỉ do sự phong phú của các
nhân tố mà trong nhiều trường hợp lại do sự phong phú của phương thức kết hợp.
Mỗi sự vật bao giờ cũng thống nhất những thuộc tính cơ bản của sự vật. Sự vật có nhiều
mối liên hệ khác nhau và có rất nhiều thuộc tính. Cho nên, trong mối liên hệ này thì sự vật có
thể là chất A, nhưng chuyển sang mối liên hệ khác thì sự vật lại là chất khác. Vì thế, muốn
xác định chất của một sự vật nào đó là gì chúng ta phải xem xét nó trong một mối liên hệ cụ
thể. Ngoài ra, mỗi vật không phải chỉ có một chất mà nó có thể có nhiều chất, chẳng hạn như
đồng (Cu) vừa có thuộc tính dẫn điện, vừa có thuộc tính dẫn nhiệt.
- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật nhưng đó chỉ
là những thuộc tính về độ lớn, về quy mô, về trình độ phát triển và tốc độ vận động.
Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho sự vật là nó, chưa làm cho nó
khác với những cái khác. Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật và cũng có tính khách quan
như chất của sự vật.

2. Nội dung quy luật
Chất và lượng luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Bất kỳ chất nào cũng có một lượng nhất
định (có giới hạn về mặt không gian, có trình độ phát triển, có tốc độ vận động...). Bất kỳ
lượng nào cũng là lượng của chất. Mối quan hệ giữa lượng và chất là mối quan hệ bản chất
của mọi sự vật, hiện tượng. Vì vậy, mối quan hệ này là một trong những quy luật vận động
cơ bản của tự nhiên, xã hội và của tư duy.
* Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Ở đây có hai trường hợp xảy ra:
- Sự biến đổi về lượng đưa ngay đến sự biến đổi về chất. Chẳng hạn như trong nguyên
tử, chỉ cần mất đi một điện tử, lập tức nguyên tử biến thành ion. Một nguyên tử khí, nếu thêm
22


một nguyên tử nữa nó thành phân tử... ở tất cả các phóng xạ, mọi sự bắn ra của hạt α hay β
đều tạo thành những chất mới.
- Sự biến đổi về lượng đến một giới hạn nhất định nào đó mới xảy ra sự biến đổi về chất.
Không phải bất kỳ một sự vật nào cứ thay đổi về lượng cũng ngay lập tức thay đổi về
chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm
thay đổi căn bản về chất của sự vật đó. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là
nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Chẳng hạn, nước lỏng từ 0oC đến 100oC dưới áp suất
1atm, dù nhiệt độ có tăng hay giảm vẫn không làm cho nước lỏng biến thành hơi.
Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về của sự vật, được gọi
là độ. Độ là khoảng giới hạn mà ở đó sự biến đổi về lượng chưa tạo ra sự biến đổi căn bản về
chất. Ở đây, cần hiểu rằng, không phải sự biến đổi của lượng không tạo ra sự biến đổi về chất
trong "độ" của nó. Thực ra ở đó đang có sự biến đổi nhỏ nhất, khó nhìn thấy, chưa căn bản.
Những điểm giới hạn mà ở đó sự biến đổi về lượng gây nên sự biến đổi về chất gọi là
điểm nút. Điểm nút là điểm ở hai đầu của độ. Chảng hạn điểm nút của nước lỏng là 0 oC và
100oC.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự chuyển biến
từ chất cũ sang chất mới được gọi bước nhảy. Bước nhảy là quá trình thay đổi về chất của sự

vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
Việc nhận thức được bước nhảy trong quá trình phát triển là một bước tiến quan trọng
trong nhận thức thế giới. Quan điểm biện chứng đặc biệt chú ý đến bước nhảy. Lênin xem
bước nhảy là sự gián đoạn của tính tiệm tiến và "tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt,
thì không giải thích được gì cả". Và nếu không có "bước nhảy" thì trong sự vận động chỉ có
sự biến đổi dần dần, từ từ, không có sự phá vỡ chất cũ và hình thành chất mới, không có sự
thay đổi đáng kể ngày càng lớn trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Không có "bước nhảy" cũng tức là không có sự thay đổi về chất và như vậy thế giới chỉ
duy nhất những cái đã có và ngày hôm nay khác ngày hôm qua chỉ là về lượng, thậm chí vật
này khác vật khác cũng lại chỉ là sự khác biệt về lượng.
Cần thấy tính phong phú của các bước nhảy, có bước nhảy đột biến và có bước nhảy dần
dần, bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Như vậy là các bước nhảy có thể diễn ra trong
những khoảng thời gian khác nhau (nhanh, chậm), ở các quy mô khác nhau (lớn, nhỏ) thông
qua bước nhảy luôn cho sự vật thay đổi về chất.
* Ngược lại, đến lượt nó, chất mới ra đời tác động thúc đẩy lượng biến đổi với quy mô
và tốc độ mới.
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể hiện:
chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật. Như vậy, không chỉ không thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi
về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại như sau: Mọi sự vật đều là sự thống nhất
giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự
thay đổi của lượng. Lượng mới thay đổi lại dẫn đến có chất mới thay đổi nhưng cao hơn.
Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm các sự vật không ngừng biến đổi. Quy luật này
cũng đã chỉ ra phương thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
23



Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất
chúng ta sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
- Để có nhận thức đầy đủ về sự vật thì đòi hỏi chúng ta phải nhận thức cả mặt chất và
mặt lượng.
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm thay đổi
về chất theo quy luật, không chủ quan duy ý chí khi đề ra mục tiêu phát triển.
- Khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời
chuyển những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất, từ những thay đổi mang
tính chất tiến hoá sang những thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục
được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, "hữu khuynh" thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển
chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
- Trong hoạt động con người phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy.
Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và
những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, tùy điều kiện cụ thể trong quan hệ
cụ thể.
Đối với Việt Nam, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay, cần phải thực hiện các giải pháp nhằm tích lũy dần tiềm lực về khoa học công
nghệ, về kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và chuyển biến quy trình sản xuất từ nền sản xuất
lao động thủ công sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất cao
theo những bước đi phù hợp với quy luật phát triển, chúng ta cần phải biết phát huy những lợi
thế của đất nước, tạo điều kiện và phát huy tối đa nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của
người Việt Nam, chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,... để làm
nền tảng, động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có
những bước nhảy vọt, đột phá. Nhân tố chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo
sự đột phá về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước là sự vận dụng đúng đắn quy luật tác động của chất và lượng để tạo sự đột phá trong
bước nhảy, thực hiện thắng lợi mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo
định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra./.

24


Câu 9: Quy luật phủ định của phủ định, ý nghĩa?
TRẢ LỜI
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bàn của phép biện chứng.
Quy luật này nói lên khuynh hướng của sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
1. Khái niệm
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh, phát triển và
diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là phủ định. Phủ
định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Trong lịch sử triết học, tùy thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và các
trường phái triết học có quan niệm khác nhau về phủ định. Có quan điểm cho rằng, sự vật
mới ra đời thay thế sự vật cũ hầu như lặp lại toàn bộ quá trình của sự vật cũ, có quan điểm coi
sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát
triển của sự vật.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu
thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự thay thế diễn ra
liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Đó là phủ định biện
chứng.
Phủ định biện chứng là quá trình sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời do mâu thuẫn nội
tại của sự vật quy định. Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân

phát triển, là mắt khâu, là điều kiện cơ bản của sự phát triển, là nhân tố liên hệ giữa cái cũ
và cái mới.
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản, thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều
kiện của sự phát triển; thứ hai, nó mang tính kế thừa, là nhân tố liên hệ giữa cái mới và cái cũ.
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản thân sự
vật quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định của sự vật cũng không tùy thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người. Phủ định biện chứng mang tính kế thừa, nhưng là sự kế thừa có
chọn lọc, cải tạo, "lọc bỏ" chứ không phải phủ định sạch trơn hoặc kế thừa nguyên si, máy
móc.
2. Nội dung quy luật
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đều tuân theo quy luật chung là quy luật
phủ định của phủ định. Theo đó, sự phát triển sự vật, hiện tượng không đi theo đường thẳng
một cách đơn giản mà nó tuân theo một quá trình phủ định và thay thế lẫn nhau. Sự vật này
mất đi tạo ra sự vật mới ra đời, cho nên sự vận động, phát triển của giới tự nhiên và xã hội là
phức tạp.
- Sự phát triển trải qua những bước phủ định, ít nhất qua hai lần phủ định kế tiếp nhau sẽ
tạo ra được chu kỳ của sự phát triển (vòng khâu của sự phát triển).
25


×