Tải bản đầy đủ (.doc) (200 trang)

Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học kỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.96 KB, 200 trang )

B QUC PHềNG
HC VIN CHNH TR


NG TRNG MINH

ĐàO TạO, BồI DƯỡNG NGUồN NHÂN LựC
CHấT LƯợNG CAO Về KHOA HọC Kỹ THUậT TRONG
QUÂN Đội nhân dân việt nam HIệN NAY
Chuyờn ngnh : Ch ngha duy vt bin chng
v duy vt lch s
Mó s :

62 22 03 02

LUN N TIN S TRIT HC

NGI HNG DN KHOA HC:
1. GS, TS Nguyn Vn Ti
2. PGS, TS Nguyn Trng Tun

H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu,
trích dẫn trong luận án là trung thực, có
xuất xứ rõ ràng và không trùng lặp với
những công trình đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN



Đặng Trường Minh


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Chương 1
1.1.
1.2.
Chương 2

2.1.
2.2.
Chương 3

3.1.
3.2.
3.3

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VỀ KHOA HỌC
KỸ THUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Quan niệm nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học kỹ thuật trong
Quân đội nhân dân Việt Nam

Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học kỹ
thuật trong Quân đội nhân dân Việt Nam - Quan niệm và bản chất
THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY
LUẬT CỦA ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VỀ KHOA HỌC KỸ
THUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về
khoa học kỹ thuật trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Những vấn đề có tính quy luật của đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực chất lượng cao về khoa học kỹ thuật trong Quân đội nhân dân
Việt Nam
GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VỀ KHOA
HỌC KỸ THUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
Nâng cao năng lực, trách nhiệm của chủ thể, đồng thời phát huy
vai trò chủ quan của đối tượng đào tạo, bồi dưỡng
Tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình gắn với đổi mới
phương thức đào tạo, bồi dưỡng
Đổi mới hệ thống chính sách, đồng thời xây dựng môi trường đào tạo,
bồi dưỡng thuận lợi

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Tran
g


3
5
10
35
35
47

68
68
101

124
124
132
144
158
160
161
175


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11

Chữ viết đầy đủ
Quân đội nhân dân Việt Nam
Nhà xuất bản
Giáo sư
Phó Giáo sư
Tiến sĩ
Khoa học kỹ thuật
Vũ khí trang bị kỹ thuật
Học viện kỹ thuật quân sự
Trang
Chính trị quốc gia
Hà Nội

Chữ viết tắt
QĐNDVN
Nxb
GS
PGS
TS
KHKT
VKTBKT
HVKTQS
tr
CTQG

H.


5

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học
kỹ thuật trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được tiếp cận dưới góc
độ chuyên ngành CNDVBC&DVLS. Đây là vấn đề tác giả luận án quan tâm
nghiên cứu nhiều năm, xuất phát từ kinh nghiệm trong giảng dạy và quản lý đơn
vị. Luận án có kết cấu gồm phần mở đầu; 3 chương (7 tiết); danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục. Với kết cấu trên, đề tài bảo đảm triển khai nghiên cứu
được những vấn đề lý luận và thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất
lượng cao về khoa học kỹ thuật trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Từ
đó, đề xuất ba giải pháp cơ bản, đồng bộ, hệ thống và khả thi nhằm nâng cao
hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học kỹ thuật
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Những nội dung đặt ra và giải
quyết trong luận án là kết quả nhận thức, nỗ lực giải quyết bước đầu của tác giả
và còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Tác giả luận án rất mong
nhận được sự quan tâm, góp ý của các nhà khoa học, đồng nghiệp để nâng cao
hơn nữa chất lượng đề tài luận án.
2. Lý do chọn đề tài
Lý luận và thực tiễn xây dựng QĐNDVN đã khẳng định vai trò rất quan
trọng của nguồn lực con người nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao về
KHKT nói riêng. Đây là động lực chủ yếu của quá trình xây dựng QĐNDVN.
Nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN là tổng hoà
các yếu tố số lượng, chất lượng và cơ cấu của những cán bộ kỹ thuật trong
quân đội, có trình độ học vấn từ kỹ sư trở lên, có phẩm chất tiêu biểu và năng
lực chuyên môn giỏi, kỹ năng thành thạo, sáng tạo và nhạy bén; đang và sẽ tạo

ra sức mạnh luôn thực hiện tốt nhiệm vụ, là động lực chủ yếu của ngành kỹ
thuật quân đội và đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng QĐNDVN.


6

Đây là nguồn lực đang thực hiện khá tốt nhiệm vụ công tác kỹ thuật, tiến tới
luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, đặc biệt là nhiệm vụ thiết kế, chế tạo các loại
VKTBKT mới, hiện đại của Việt Nam đảm bảo yếu tố bí mật, chủ động trong
tác chiến. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, trực tiếp nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức chiến đấu của quân đội ta. Mặt khác, nhiệm vụ xây dựng QĐNDVN
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó ưu tiên hiện đại
hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng bảo đảm số lượng hợp lý, có sức
chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc. Nhiệm vụ đó đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối
với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN hiện
nay; trong đó, đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực này là hạt nhân.
Hơn nữa, “ trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn
biến rất phức tạp…tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng,
diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh
chấp lãnh thổ, tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố,
chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng…liên tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực ”
[29, tr.70-71]. Trong tình hình đó, nếu xảy ra chiến tranh thì Việt Nam sẽ phải
đương đầu với cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí thế hệ mới, công nghệ cao và
hiện đại của đối phương trong không gian rộng, cường độ cao. Điều đó đòi hỏi
Việt Nam phải có nguồn lực tương xứng về khoa học kỹ thuật quân sự nhưng
quan trọng nhất là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao
về KHKT. Trong khi đó, trình độ khoa học kỹ thuật quân sự của Việt Nam và chất
lượng nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN hiện nay trong
so sánh với các nước trong khu vực và thế giới còn ở trình độ thấp hơn và không

đồng đều. Như vậy, giữa yêu cầu của tình hình hiện nay và dự báo yêu cầu tác
chiến trong tương lai với thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực này còn có bất
cập đã và đang ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình xây dựng QĐNDVN hiện nay.


7

Do đó, nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về
KHKT trong QĐNDVN hiện nay là một vấn đề cấp thiết. Tuy nhiên, đến nay vấn
đề này chưa được nghiên cứu, luận chứng dưới góc độ nghiên cứu của khoa học
triết học.
Từ những lý do trên, nghiên cứu đề tài “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực chất lượng cao về khoa học kỹ thuật trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay" dưới góc độ triết học thực sự là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt
lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Luận chứng những vấn đề lý luận và thực tiễn
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN.
Đề xuất các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận chứng làm rõ bản chất của đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất
lượng cao về KHKT trong QĐNDVN.
- Đánh giá thực tiễn, luận chứng một số vấn đề có tính quy luật của đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu: Bản chất và tính quy luật của đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN.

* Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu quá trình đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN tại Học viện Kỹ
thuật quân sự; Trường Sỹ quan Kỹ thuật quân sự; Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng, Viện Khoa học Công nghệ quân sự; Quân chủng


8

Phòng không - Không quân; Quân khu I và Quân khu II. Thời gian điều tra,
khảo sát, sử dụng tài liệu chủ yếu từ năm 2005 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người;
vai trò của giáo dục và đào tạo; về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, về khoa
học kỹ thuật trong quân đội. Luận án còn dựa trên các kết quả nghiên cứu về lý
luận của các công trình khoa học liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu.
* Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất
lượng cao về KHKT trong QĐNDVN hiện nay. Số liệu điều tra, khảo sát tại các
học viện, nhà trường, cơ quan và đơn vị kỹ thuật của tác giả luận án; một số nghị
quyết và báo cáo của các học viện và cơ quan, đơn vị kỹ thuật trong quân đội;
kết quả nghiên cứu về đội ngũ cán bộ kỹ thuật trong quân đội được công bố từ
2005 đến 2015.
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể: liên ngành; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; hệ
thống và cấu trúc; lịch sử và lôgíc; trừu tượng hoá và khái quát hoá; điều tra xã
hội học; tổng kết thực tiễn và phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ bản chất của đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN.

- Luận chứng những vấn đề có tính quy luật của đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực chất lượng cao về KHKT trong QĐNDVN.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản, hệ thống, có tính khả thi nâng cao hiệu
quả đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong
QĐNDVN hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án


9

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong
QĐNDVN. Kết quả đó góp phần làm phong phú thêm vào lý luận xây dựng quân
đội nói chung và phát triển nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật trong quân đội nói
riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận án làm cơ sở cho việc điều chỉnh, hoàn thiện
cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về KHKT trong
QĐNDVN hiện nay. Kết quả nghiên cứu còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu khoa học ở các học viện, nhà trường kỹ thuật trong quân đội và
những người quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận án
Mở đầu; tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài; 3
chương (7 tiết); kết luận; danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công
bố có liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VỀ

KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN
NAY

1. Các công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về nguồn nhân lực
chất lượng cao và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
1.1. Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực chất lượng cao
Hiện nay, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá và hội nhập là xu thế chung.
Trong xu thế đó, để phát triển nhanh và bền vững, các quốc gia trong đó có
Việt Nam đã và đang quan tâm đặc biệt đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao. Đến nay đã có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu
về vấn đề này. Trong các nghiên cứu, cùng với khái niệm nguồn nhân lực chất
lượng cao, các tác giả còn sử dụng những thuật ngữ như nhân tài, đội ngũ lãnh
đạo, nhà khoa học, tầng lớp sáng tạo, công nhân tri thức, công nhân trí tuệ như
một cách diễn đạt khác về nguồn nhân lực chất lượng cao. Có thể khái quát một
số công trình tiêu biểu sau.
* Các công trình nghiên cứu của nước ngoài.
Hai tác giả Thẩm Vinh Hoa – Ngô Quốc Diệu (chủ biên) (2008) với công
trình “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất
nước” [51]. Đây là công trình nghiên cứu khá sâu sắc và toàn diện tư tưởng về
nhân tài của Đặng Tiểu Bình. Các tác giả khẳng định, tư tưởng của Đặng Tiểu
Bình về nhân tài là sự kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác – Lênin, Mao Trạch
Đông. Tư tưởng này là bộ phận cấu thành quan trọng trong lý luận của Trung
Quốc về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc, xã hội hài hoà. Đây là kim
chỉ nam cho việc xây dựng và thực hiện chiến lược nhân tài của Trung Quốc hiện
nay. Công trình đã hệ thống tư tưởng của Đặng Tiểu Bình về những vấn đề cơ bản
như: nhân tài là then chốt của phát triển; đường lối tổ chức và việc xây dựng đội
ngũ cán bộ; tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng và giáo dục nhân tài; về tuyển chọn
nhân tài ưu tú; về sử dụng và bố trí nhân tài; về tạo môi trường cho nhân tài phát



11

triển; về cải cách chế độ nhân sự trong việc sử dụng nhân tài. Các tác giả nhấn
mạnh Trung Quốc luôn coi giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, công tác nhân tài là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, coi đó là kế lớn
trăm năm để chấn hưng đất nước.
Tác giả Lương Dụ Giai (2006) với công trình “Quản lý nhân tài” [164].
Đây là công trình bàn một cách có hệ thống và chuyên sâu về công tác quản lý
nhân tài của Trung Quốc. Tác giả đề cập một số vấn đề về quan niệm, đặc điểm
và vai trò của nhân tài đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Từ đó đi sâu luận
giải sự cần thiết phải có cơ chế, chính sách đặc biệt để quản lý nhân tài nhằm
phát huy tài năng của họ. Tác giả cũng đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ
bản nhằm quản lý tốt nhất nhân tài. Tác giả nhấn mạnh chính phủ cần có cơ chế,
chính sách phù hợp để vừa góp phần quản lý, vừa thể hiện sự trọng dụng và phát
huy tài năng của nhân tài trong thực tế.
Các tác giả Okuhina Yasuhiro, Michitoshi Takahata, Shigenobu Kishimoto
với công trình “Chính trị và kinh tế Nhật Bản” (1994) (Đàm Ngọc Cảnh dịch)
[99]. Các tác giả đã nêu rõ những vấn đề cơ bản về nhân tài; chính sách trong
công tác cán bộ, phát triển nhân tài; phân tích những kinh nghiệm trong việc đánh
giá và luân chuyển cán bộ, phát huy người tài trên cơ sở đặc điểm xã hội Nhật
Bản; nhấn mạnh việc cố gắng bảo tồn và phát huy yếu tố truyền thống dân tộc;
thực hiện chế độ đào tạo, quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan công
quyền, chú trọng xây dựng các phẩm chất, đặc biệt là phẩm chất trung thành của
cán bộ; bảo đảm chế độ chính sách và tiền lương cho cán bộ yên tâm cống hiến.
Công trình “Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang Diệu” (1994) (Lê
Tư Vinh, Nguyễn Huy Quý dịch) [158], đã khẳng định rõ những tư tưởng của
Lý Quang Diệu về trọng dụng nhân tài đất nước, về tầm quan trọng của nhân tài,
vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân
tài; nhấn mạnh "chế độ Singapore thực hành là chế độ trọng dụng nhân tài", coi
việc biết đào tạo và dùng nhân tài là bí quyết thành công của Singapore.



12

Tác giả Dave Ulrich với công trình “ The Talent Trifecta” (2007) [169].
Trong công trình này, chuyên gia hàng đầu về nhân lực của thế giới đã đưa ra
định nghĩa mới về nhân tài với phương trình 3C (Talent = Competence*
Commitment*Contribution). Theo tác giả nhân tài = Năng lực*Cam kết*Cống
hiến. Đó không phải là sự cộng lại đơn thuần mà là cấp số nhân. Tác giả đã nêu
lên quan niệm cũng như cách tiếp cận về nhân tài với đầy đủ những tiêu chí của
nó. Theo đó, nhân tài vừa phải có năng lực tốt, vừa phải có cam kết làm việc hết
mình và có sự cống hiến với công việc, với công ty mình làm việc. Nếu thiếu đi
một trong ba yếu tố đó thì chưa thể gọi là nhân tài với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Năng lực của nhân tài là có khả năng làm tốt những công việc hiện nay và đặc
biệt là trong tương lai. Tác giả cũng đưa ra những giải pháp phát hiện những
“người giỏi”, có khả năng và bồi dưỡng, vun đắp họ thành “nhân tài”, mang lại
giá trị cao cho tổ chức, xã hội. Các công trình trên đã đưa ra những quan niệm,
đặc điểm, vị trí và những tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao.
* Các công trình nghiên cứu trong nước.
Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2010) trong công trình “Phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam” [38] đã
trình bày quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao. Tác giả đã phân tích về
nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển nguồn lực
này. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong tương lai. Những giải
pháp đó góp phần tìm ra con đường và cách thức hiệu quả để phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao thực sự trở thành lực lượng tiên phong trong quá trình
thực hiện nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Tác giả Vũ Thị Phương Mai (2013) trong công trình “Nguồn nhân lực
chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện

nay” [84]. Dưới góc độ tiếp cận chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, tác


13

giả đã trình bày quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời chỉ ra
vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Từ đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập về số lượng,
chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực chất lượng cao, tác giả đã đưa ra các
giải pháp về nhận thức, về văn hoá và đổi mới chính sách sử dụng, đãi ngộ
nguồn nhân lực chất lượng cao. Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Phương
Mai là những gợi mở có ý nghĩa với tác giả luận án trong việc hoàn thiện quan
niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao và việc định hướng những giải pháp.
Tác giả Lê Quang Hùng (2011) trong công trình “Phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung” [56]. Tác giả đã tiếp
cận vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao dưới góc độ kinh tế chính
trị. Tác giả đã nêu bật tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; đánh giá thực trạng và
nguyên nhân; chỉ ra một số yêu cầu, giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở vùng kinh tế trọng điểm ở miền Trung, đặc biệt nhấn mạnh đến
giải pháp về giáo dục - đào tạo.
Tác giả Nguyễn Thị Giáng Hương (2013) trong công trình “Vấn đề phát
triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” [59]. Tác giả đã
làm nổi bật vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực nữ chất lượng cao; những
điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan cơ bản tác động đến phát triển nguồn
nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đã phân tích, đánh giá
thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra trong phát triển phát triển
nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đã đề xuất một
số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay.

Tác giả Nguyễn Thị Thu Phương (2009) trong công trình “Phát triển
nhân lực, nhân tài – lựa chọn của Trung Quốc trong chiến lược phát triển bền


14

vững” [105]. Tác giả khẳng định Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc thực
hiện hàng loạt chính sách đào tạo và sử dụng nhân lực nhằm xây dựng toàn diện nguồn
nhân lực và tạo thế mạnh cạnh tranh về lượng nhân tài. Tác giả đánh giá những thành
công và hạn chế của chính sách này và khẳng định Trung Quốc đã thực hiện chiến
lược thông qua giáo dục, coi đó là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững nguồn
lực con người. Trung Quốc đã ưu tiên phát triển nhân tài ở các bậc đại học và các viện
nghiên cứu, chú trọng đào tạo nhân tài khoa học kỹ thuật và chuyên ngành thông qua
hệ thống trường phổ thông trung học trọng điểm, trường đại học chất lượng cao. Trung
Quốc còn tích cực đào tạo nguồn nhân tài cao cấp tại các nước phát triển đồng thời
thiết lập hệ thống sử dụng nguồn nhân lực, nhân tài hiệu quả, hợp lý. Từ đó tác giả đã
rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho Việt Nam trong việc phát triển nguồn
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Tác giả Nguyễn Ngọc Phú (Chủ nhiệm) (2010) với công trình “Nguồn
nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt
Nam trong tiến trình đổi mới” [102]. Công trình đã luận chứng những cơ sở
khoa học của nguồn nhân lực, nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội ở Việt Nam. Công trình đưa ra quan niệm về nhân tài, làm rõ
những nhu cầu về nguồn nhân lực, nhân tài (cơ cấu, số lượng, chất lượng) cho
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội Việt Nam đến năm 2020. Công
trình đã phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực, nhân tài cho phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta; đưa ra những dự báo phát triển
nguồn nhân lực, nhân tài ở nước ta cho đến năm 2020. Công trình đã đề xuất 4
quan điểm, 4 chiến lược, 5 giải pháp, 9 cơ chế, chính sách cho phát triển nguồn
nhân lực, nhân tài đáp ứng yêu cầu cho phát triển xã hội và quản lý phát triển

xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới hiện nay. Những kết quả nghiên cứu
của đề tài đặc biệt là quan niệm về nhân tài với những thuộc tính nhân cách cơ
bản của họ, là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả luận án trong việc
hoàn thiện đề tài.


15

Các công trình trên đã đưa ra quan niệm, đặc điểm, vị trí và những tiêu
chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao. Về phẩm chất của nguồn nhân lực
chất lượng cao, các tác giả cho rằng đó là năng lực sáng tạo, lòng trung thành,
niềm say mê trong công việc, thể lực tốt. Về phương hướng và giải pháp phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, các công trình khẳng định phải đổi mới
nhận thức về vị trí nguồn nhân lực chất lượng cao; đổi mới nội dung, phương
thức phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng chiến lược về nguồn
nhân lực chất lượng cao và nhân tài, phải có chính sách riêng đối với nguồn
nhân lực chất lượng cao. Một số công trình nhấn mạnh vấn đề tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước về giáo dục - đào tạo., nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên; tăng ngân sách cho giáo dục - đào tạo; thực hiện xã
hội hoá giáo dục - đào tạo.
1.2. Các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực
Tác giả Trần Khánh Đức (2004) trong công trình “Giáo dục và phát triển
nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI” [41]. Tác giả nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan
trọng của giáo dục và đào tạo trong phát triển con người nói chung và nguồn
nhân lực nói riêng. Tác giả đã trình bày hệ thống về nhiều vấn đề trong đó có
quá trình phát triển các chính sách quốc gia về giáo dục và phát triển nguồn nhân
lực. Tác giả đã đưa ra những khái niệm và những tiêu chí đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực trên thế giới. Tác giả đã đưa ra hệ thống tiếp cận mới, hiện đại
và độc đáo về nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng khoa học

và công nghệ. Đồng thời tác giả cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết,
trong đó đổi mới giáo dục - đào tạo phải là khâu đột phá để phát triển nguồn
nhân lực của đất nước trong đó có vấn đề xây dựng, phát huy nhân tố con người
trong QĐNDVN.
Tác giả Nguyễn Công Giáp (Chủ nhiệm) (2003) với công trình “Nghiên
cứu các giải pháp chiến lược đào tạo và bồi dưỡng nhân tài trong hệ thống


16

giáo dục - đào tạo” [44]. Công trình đã luận giải các vấn đề lý luận về đào tạo
và bồi dưỡng nhân tài; các khái niệm liên quan đến nhân tài, các cấp độ của
nhân tài, vai trò của nhân tài và những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển
nhân tài. Công trình đã khảo sát thực trạng đào tạo và bồi dưỡng nhân tài của
các quốc gia phát triển trên thế giới và ở Việt Nam. Từ đó, công trình đưa ra
hai định hướng chiến lược và tám giải pháp nhằm đào tạo và bồi dưỡng nhân
tài ở Việt Nam hiện nay. Công trình đã đánh giá khái quát thực trạng đào tạo và
bồi dưỡng nhân tài ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng nhân
tài của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới để tác giả luận án kế thừa và phát
triển hướng nghiên cứu của mình. Công trình này chưa đưa ra khái niệm đào
tạo và bồi dưỡng nhân tài và các yếu tố tạo thành nhân tài trong đó có giáo dục
- đào tạo được đề cập riêng lẻ và chưa tạo thành một chỉnh thể trong việc đào
tạo và bồi dưỡng nhân tài hiện nay.
Tác giả Lê Thị Ái Lâm (2003) trong công trình “Phát triển nguồn nhân
lực thông qua giáo dục và đào tạo. Kinh nghiệm Đông Á” [67]. Dưới góc độ tiếp
cận kinh tế, tác giả đã luận giải lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực thông qua
giáo dục và đào tạo. Tác giả đã nghiên cứu thực tiễn phát triển nguồn nhân lực
thông qua giáo dục và đào tạo ở Đông Á. Từ đó, tác giả chỉ ra vai trò phát triển
nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo ở Đông Á, chiến lược công
nghiệp hoá và sự phù hợp lẫn nhau với phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo

dục và đào tạo ở Đông Á, vấn đề điều chỉnh phát triển nguồn nhân lực thông qua
giáo dục và đào tạo ở Đông Á và vấn đề và giải pháp hiện này của phát triển
nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo ở Đông Á. Tác giả cũng chỉ ra
những kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo ở
Đông Á và một số lưu ý đối với Việt Nam.
Tác giả Ngô Thành Can trong công trình “Những giải pháp đào tạo, bồi
dưỡng công chức hành chính trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất


17

nước” [15]. Tiếp cận vấn đề dưới góc độ giáo dục học, tác giả nghiên cứu quá
trình đào tạo, bồi dưỡng này theo bốn bước cơ bản: Xác định nhu cầu đào tạo, lập
kế hoạch đào tạo, thực hiện kế hoạch đào tạo và đánh giá đào tạo. Tác giả quan
niệm đào tạo và bồi dưỡng là hai khái niệm rất gần nhau và đồng ý với quan niệm
đào tạo, bồi dưỡng: Đào tạo cán bộ, công chức được xác định như là một quá trình
có kế hoạch nhằm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học
tập, rèn luyện để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các
hoạt động nào đó. Mục đích của nó xét theo tình hình công tác ở cơ quan, là phát
triển nâng cao năng lực cá nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai
của cơ quan” [18, tr.31]. Tác giả đã đưa ra sáu giải pháp nhằm nâng cao năng lực
của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu công vụ trong tình hình mới.
Tác giả Nguyễn Thanh (2001) với công trình“Phát triển nguồn nhân lực và
vai trò của giáo dục đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay” [121]. Tác giả phân tích và làm
sáng tỏ vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Từ làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay và
một số định hướng chủ yếu cần giải quyết, tác giả tập trung làm rõ vai trò của giáo
dục - đào tạo với vị trí là “điều kiện tiên quyết”, “quốc sách hàng đầu”, là yếu tố
trực tiếp, quyết định trong chiến lược phát triển con người, phát triển nguồn nhân

lực có chất lượng. Tác giả đưa ra hệ thống các giải pháp để đổi mới giáo dục – đào
tạo, đó là: Kiên quyết và nhanh chóng tăng nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa cho
giáo dục – đào tạo, thực hiện xã hội hoá giáo dục – đào tạo. Tiến hành đào tạo ban
đầu đồng thời với đào tạo lại và đào tạo thường xuyên, mở rộng quy mô và tăng
nhanh tốc độ đào tạo, đào tạo có địa chỉ và theo nhu cầu của xã hội. Tiếp tục cải
cách nội dung và phương pháp đào tạo, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản
lý của nhà nước đối với giáo dục – đào tạo.


18

Tác giả Trịnh Ngọc Thạch (2008) với công trình “Hoàn thiện mô hình
quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học Việt
Nam” [118]. Dưới góc độ tiếp cận của giáo dục, tác giả đã tiến hành khảo sát,
phân tích mô hình quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số
trường đại học trọng điểm của Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu về mô
hình tại Đại học quốc gia Hà Nội. Tác giả trình bày những nét đặc trưng của mô
hình quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học ở
nước ta, những ưu điểm, hạn chế và khả năng áp dụng. Tác giả đề xuất một số
giải pháp cơ bản để hoàn thiện mô hình quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao trong các trường đại học Việt Nam.
Tác giả Lương Công Lý (2014) với công trình “Giáo dục – đào tạo với
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” [77].
Trong công trình này, dưới góc độ tiếp cận triết học, tác giả đã luận giải, làm
sáng tỏ những cơ sở lý luận cơ bản về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
và vai trò của giáo dục - đào tạo với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay. Tác giả đã làm rõ thực trạng phát huy vai trò của giáo dục đào tạo đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện
nay, chỉ ra nguyên nhân của những thành công và hạn chế. Trên cơ sở đó, tác
giả đã nêu lên một số mâu thuẫn cần phải giải quyết trong phát huy vai trò của
giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt

Nam hiện nay. Tác giả đề xuất một số phương hướng và năm giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của tác giả dừng lại ở
vai trò của giáo dục - đào tạo với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay và giải pháp cũng hướng đến khách thể nghiên cứu chủ yếu
là giảng viên và sinh viên ở một số trường đại học của Việt Nam.
Hai tác giả Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002) với công trình
“Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài” [157]. Các tác giả đã trình bày khái quát


19

về lịch sử giáo dục Việt Nam và những vấn đề đặt ra, nhiệm vụ của giáo dục Việt
Nam trong thế kỷ thử XXI. Các tác giả cũng đề cập nhiều nội dung quan trọng về
phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ nhân tài. Từ thực tiễn công tác
đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài của Việt Nam, các tác giả khẳng định phải
coi đào tạo nhân tài là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của các cơ sở đào
tạo, nghiên cứu khoa học, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đồng thời các tác giả cho
rằng, để xây dựng lực lượng trí thức, nhân tài đáp ứng yêu cầu của đất nước thì
Đảng, Nhà nước cần quan tâm tạo điều kiện để phát triển nhân tài, trong đó, phải có
chính sách trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với nhân tài. Bên cạnh đó, phải
xây dựng hệ thống giáo dục mang tính toàn diện.
Tác giả Trần Văn Tùng (2005) với công trình “Đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng nguồn nhân lực tài năng” [146]. Tác giả đã trình bày những kinh nghiệm của
một số nước châu Âu (Anh, Pháp, Đức), châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc và một số quốc gia khác) về việc phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng khoa
học – công nghệ sản xuất kinh doanh và quản lý, từ đó vận dụng vào thực tiễn ở
Việt Nam. Tác giả nhấn mạnh Việt Nam cần đổi mới các chính sách đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng nguồn tài năng hiện có. Đây là công trình có giá trị thực tiễn
không chỉ trong đào tạo, bồi dưỡng tài năng khoa học – công nghệ mà cả trong đào

tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Trịnh Quang Từ (2009) với bài báo “Đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [134]. Tiếp cận
vấn đề dưới góc độ tâm lý – giáo dục, tác giả đã đưa ra quan niệm về nguồn
nhân lực chất lượng cao: “nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những người
lao động được đào tạo kỹ lưỡng cả về trí lực, thể lực và kỹ năng lao động, có đạo
đức và tình cảm cách mạng trong sáng, ý thức pháp luật cao. Đó là những con
người phát triển toàn diện, có năng lực trí tuệ, có khả năng nắm bắt và tích cực
áp dụng những thành tựu của khoa học tiên tiến trong nền sản xuất công nghiệp
hiện đại, nhạy bén với cái mới, có khả năng thích ứng với những thay đổi của


20

công nghệ sản xuất”. Từ đánh giá thực trạng của hai nhân tố cơ bản là người học
và người dạy, tác giả chỉ ra thực trạng yếu kém của đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao hiện nay và nguyên nhân. Tác giả đã đưa ra một hệ các giải pháp về
quản lý nhà nước đối với việc thành lập các trường đại học, về quản lý chất
lượng đào tạo, chất lượng giảng viên của các trường đại học nhằm cải thiện chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong thời gian tới.
Các công trình trên đã trình bày quan niệm về đào tạo nguồn nhân lực, quan
niệm về bồi dưỡng nguồn nhân lực và các yếu tố của các quá trình này. Có tác giả
nghiên cứu về vai trò của giáo dục - đào tạo với phát triển nguồn nhân lực. Nhìn
chung, quan niệm về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực với tính cách là một quá trình
chưa được nghiên cứu. Đồng thời, giải pháp tổng thể về đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực được trình bày rải rác trong các công trình, chưa hệ thống và toàn diện.
2. Các công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về nguồn nhân lực
chất lượng cao về quân sự và nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật quân sự
2.1. Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực chất
lượng cao về quân sự

Hiện nay, trong chiến lược quốc phòng của các quốc gia trên thế giới đặc
biệt là các cường quốc, không chỉ quan tâm phát triển VKTBKT hiện đại mà
còn dành sự quan tâm lớn đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quân sự nói
chung và nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao. Vấn đề nguồn nhân lực chất
lượng cao về quân sự những năm gần đây cũng đã và đang thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các tác giả trong nước. Qua nghiên cứu, hiện số lượng các công
trình khoa học đề cập một cách trực tiếp, chuyên sâu về nguồn nhân lực chất
lượng cao về quân sự cả trong và ngoài nước là khá khiêm tốn. Nhưng những
đánh giá, luận giải ở các khía cạnh khác nhau trong các công trình nghiên cứu về
nguồn nhân lực quân sự phần nào đó đã nêu lên vai trò, tính cấp thiết và phương
hướng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về quân sự. Có thể hệ thống
một số công trình tiêu biểu sau đây:


21

* Các công trình nghiên cứu của nước ngoài.
Tác giả Donald.H.Rumsfeld (2002) với công trình “Transforming the
military” [162]. Tác giả đã đề cập đến sự chuyển hoá nhằm nâng cao sức mạnh và
duy trì ưu thế của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ trong chiến lược quốc phòng
mới theo hướng ưu tiên cho con người cùng với việc đầu tư mạnh mẽ phát triển
VKTBKT công nghệ cao, hiện đại. Tác giả cho rằng, người lính là nền tảng của
lực lượng vũ trang và người lính có tố chất tốt sẽ là nhân tố quyết định chiến thắng
trong chiến tranh tương lai. Những phẩm chất cần có của các lực lượng vũ trang
Hoa Kỳ là sự khéo léo, can đảm, sáng tạo, khả năng thích ứng nhanh chóng với sự
thay đổi linh hoạt của chiến trường, với những thách thức mới trong những hoàn
cảnh bất ngờ; khả năng phối hợp giữa các lực lượng trong thực tiễn chiến đấu. Tác
giả cũng đặc biệt nhấn mạnh quá trình đào tạo người lính phải được thiết kế giống
như những yêu cầu khi chiến đấu. Điều đó đảm bảo người lính có thể chiến đấu
đạt hiệu quả cao như khi được đào tạo.

Tác giả Frederick W. Kagan với công trình “The U.S. Military's
Manpower Crisis”(2006) [167]. Tác giả đã chỉ ra nguồn gốc cuộc khủng hoảng về
nhân lực trong quân đội Mỹ hiện nay xuất phát từ chính sách phát triển quân đội
Mỹ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Chính sách đó ít quan tâm đến
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là chuyên gia và những người hoạch định
chính sách. Tác giả đã chỉ ra nguồn gốc của chính sách đó do quan niệm sai lầm
về bản chất của chiến tranh và việc vận dụng những nguyên tắc của kinh doanh
vào việc phát triển quân đội. Phương hướng giải quyết là vừa phát triển VKTBKT
cao đồng thời tăng đầu tư cho việc phát triển nguồn nhân lực. Quá trình đào tạo
người lính phải được thiết kế đủ về thời gian, chú trọng đổi mới công nghệ đào tạo
và phương tiện hỗ trợ, dự kiến được những yêu cầu mới trong tương lai; chú trọng
đào tạo khả năng thích ứng với văn hoá và ngôn ngữ của địa phương. Đây là
những gợi ý quan trọng về phương pháp và nội dung đào tạo, bồi dưỡng nguồn


22

nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực quân sự nói chung và nguồn nhân lực chất
lượng cao về KHKT trong quân đội nói riêng.
Tác giả Steve M.Kosiak với công trình“Military manpower for The
LongHaul”(2008) [168]. Tác giả khẳng định nguồn nhân lực chất lượng cao
trong lĩnh vực quân sự có vị tí rất quan trọng, đặc biệt là trong chiến lược dài hạn
của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Nguồn lực này phải đủ về số lượng, được
đào tạo bài bản, có kinh nghiệm và kỹ năng tác chiến thành thạo. Tác giả cho
rằng chất lượng nguồn nhân lực quân sự là yếu tố đóng góp nhiều nhất vào sức
mạnh của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ những năm vừa qua. Tác giả đưa ra dự
báo những yêu cầu mới cho nguồn nhân lực này trong tương lai. Các khuyến
nghị tập trung vào cải thiện chế độ đãi ngộ cho việc thu hút và giữ chân nguồn
nhân lực chất lượng cao, tinh gọn lực lượng vũ trang và phát triển việc tư vấn,
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quân sự.

Nhóm tác giả Arkady N. Barsukow; Nicolay P. Zubo; Nicolay O. Kobelkow
với công trình "Công nghệ mô phỏng ở Học viện Không quân Gagarin
(Nga)”(2003) [163]. Các tác giả khẳng định để thực hiện Học thuyết quân sự mới,
Nga đã tiến hành cải cách quân đội một cách toàn diện trong đó tập trung vào việc
hiện đại hoá các học viện, trường đại học quân sự. Trong đó, Học viện Không quân
Gagarin được phát triển thành một trung tâm hiện đại, liên hoàn, với công nghệ mô
phỏng toàn bộ quá trình tác chiến. Học viên được huấn luyện trong một môi trường
được mô phỏng giống với những yêu cầu của tác chiến thật, với những yêu cầu cao
về trình độ, kỹ năng, thể lực, tâm, sinh lý và khả năng linh hoạt cao. Do đổi mới
phương thức đào tạo theo hướng đó, học viên ra trường có thể đáp ứng ngay những
yêu cầu trong thực hiện các nhiệm vụ khẩn cấp, tác chiến chống khủng bố và cụ thể
là cuộc xung đột ở Grudia đạt hiệu quả cao.
Nhìn chung, các công trình trên khẳng định, cùng với vũ khí công nghệ
cao, nguồn nhân lực chất lượng cao về quân sự có vai trò rất quan trọng. Các đặc
trưng của nguồn lực này là: đào tạo kỹ lưỡng, có năng lực sáng tạo, khéo léo, có
kinh nghiệm tác chiến, linh hoạt và phối hợp tốt giữa các lực lượng; có hiểu biết


23

về văn hoá và ngôn ngữ bản địa. Về phương thức đào tạo, các công trình cho rằng
cần đào tạo thông qua các trung tâm mô phỏng, chú trọng đổi mới công nghệ đào
tạo. Phải bổ sung các nội dung đáp ứng yêu cầu tác chiến trong tương lai. Một số
công trình đề cập giải pháp là tập trung cải thiện chế độ đãi ngộ nguồn lực này.
* Các công trình nghiên cứu trong nước.
Tác giả Phạm Đức Nhuấn (2002) với bài báo “Tăng cường chất lượng
nguồn nhân lực cho nhu cầu quân sự những thập niên đầu thế kỉ XXI” [92]. Tác
giả đã phân tích vai trò của chất lượng nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội và yêu cầu bức thiết phải tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao
cho quân sự trong những thập niên đầu của thế kỉ XXI. Đó là cơ sở để

QĐNDVN đủ khả năng làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch và giành chiến thắng trong chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ
cao. Tác giả đã đề cập những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế bất cập
trong phát triển nguồn nhân lực đồng thời hiện thực hoá chủ trương của Đảng về
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu quân sự
trong thời kì mới.
Tác giả Trần Nam Chuân (2012) với công trình “Quy hoạch và đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực trình độ cao cho quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay” [16]. Trên cơ sở quan điểm của Đại hội XI về
công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ mới, tác giả đi sâu phân tích,
làm rõ những ưu điểm và hạn chế trong công tác quy hoạch và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ các cấp trong quân đội thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Tác giả khẳng định, nhiệm vụ cách mạng mới đã và đang đặt ra cho công
tác cán bộ của Đảng và Nhà nước nói chung, công tác đào tạo nguồn nhân lực
trình độ cao trong quân đội nói riêng một trách nhiệm hết sức nặng nề. Tác giả
đề xuất giải pháp: đổi mới công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ các cấp trong quân đội; tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách trong


24

phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Tác giả Hoàng Đình Tỉnh (2012) với công trình “Nâng cao chất lượng
nguồn lực sĩ quan trẻ trong xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”
[129]. Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống về vấn đề nguồn nhân lực quân
sự với một đối tượng cụ thể là sĩ quan trẻ trong QĐNDVN. Tác giả đã làm rõ
một số vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ trong
xây dựng QĐNDVN: quan niệm, vai trò, những vấn đề có tính quy luật và thực
chất nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ. Tác giả đã phân tích thực trạng,

ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của nó; đồng thời dự báo xu hướng vận động
của nâng cao chất lượng nguồn lực này trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, tác giả
đề xuất các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ trong xây
dựng QĐNDVN hiện nay.
Tác giả Đặng Nam Điền (2013) với công trình “Xây dựng nguồn nhân
lực chất lượng cao trong Quân đội - Mấy vấn đề đặt ra”[24]. Tác giả khẳng
định xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong quân đội có ý nghĩa quyết
định, đảm bảo quân đội hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới. Từ đánh giá thực trạng nguồn lực và nguyên nhân, tác
giả đề xuất các biện pháp cơ bản, tập trung vào các nội dung sau: tạo được sự
thống nhất nhận thức của các cấp các ngành, nhất là cấp ủy, cán bộ chủ trì về
xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong Quân đội; có quy hoạch, kế
hoạch xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao bảo đảm nhu cầu trước mắt và
lâu dài; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng toàn diện công tác giáo dục - đào
tạo, huấn luyện bộ đội; quan tâm chăm lo thực hiện các chế độ, chính sách nhằm
thu hút, trọng dụng nhân tài, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong
Quân đội.


25

Nghiên cứu trực tiếp về nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao có công
trình của tác giả Đỗ Văn Dạo (2013) “Phát triển nguồn nhân lực quân sự chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá quân đội nhân dân Việt Nam” [21]. Đây
là công trình tiếp cận và luận giải vấn đề dưới góc độ kinh tế chính trị. Tác giả đã
làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá quân đội nhân dân Việt Nam. Tác giả quan niệm:
“NNL quân sự CLC là bộ phận của NNL quân sự và NNL có CLC của đất nước,
được phân công, đảm nhận các nhiệm vụ khác nhau. Là những người được đào
tạo ở trình độ cao, có sức khoẻ tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có kĩ năng nghề

nghiệp và trình độ chuyên môn cao, tinh thông nghiệp vụ, sẵn sàng đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong các lĩnh vực hoạt động quân sự” [21, tr.26]. Tác giả chỉ ra vai
trò của nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao đối với yêu cầu hiện đại hoá quân
đội; quan niệm, nội dung, các tiêu chí cơ bản đánh giá phát triển nguồn nhân lực
quân sự chất lượng cao; những yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực
quân sự chất lượng cao; kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực quân sự chất
lượng cao ở một số nước trên thế giới và trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tác giả
tập trung phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng phát triển nguồn nhân lực quân
sự chất lượng cao, trong đó chỉ rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và một số
vấn đề đặt ra cần giải quyết trong phát triển nguồn nhân lực quân sự chất lượng
cao. Trên cơ sở dự báo xu hướng phát triển nguồn nhân lực quân sự chất lượng
cao, tác giả đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát triển
nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá QĐNDVN.
Nghiên cứu trực tiếp về nhân tài quân sự có công trình của tác giả Nguyễn
Văn Động (Chủ biên) (2014)“Nghiên cứu giải pháp thu hút tài năng phục vụ
quân đội trong tình hình mới” [40]. Đây là một công trình nghiên cứu chuyên
sâu về tài năng và vấn đề thu hút tài năng phục vụ quân đội hiện nay. Công trình
đã tiếp cận, đưa ra quan niệm về tài năng phục vụ quân đội, đặc điểm và vai trò


×