Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế và thực tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.29 KB, 23 trang )

Kinh tế phát triển
=============================================================

Lời mở đầu
Từ lâu chúng ta đã nhận thấy rằng con người có vai trò rất quan trọng đối
với tăng trưởng kinh tế, và giáo dục chính là cách thức cơ bản để tích luỹ vốn con
người. Nhiều công trình nghiên cứu đã khám phá mối quan hệ giữa giáo dục và
tăng trưởng GDP, và kết luận rằng giáo dục là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.
Tác động của con người đối với tăng trưởng kinh tế đã trở thành mối quan
tâm đặc biệt trong bối cảnh Việt nam bước vào thế kỷ 21 kỷ nguyên của nền kinh
tế tri thức.
Mô hình tăng trưởng kinh tế là 1 cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về
sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối quan hệ giữa chúng .
Ngay từ đầu thế kỷ 20 các mô hình tăng trưởng kinh tế đã trở thành công cụ hữu
ích để các nhà kinh mô tả và lượng hoá tăng trưởng kinh tế 1 cách rõ ràng hơn và
hiệu quả hơn. Cho đến nay, trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch sử kinh
tế học, các mô hình tăng trưởng đã chiếm 1 vị trí quan trọng trong nghiên cứu lý
luận cũng như trong thực tiễn về tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia. Chính vị vậy,
mục tiêu chính của đề tài này là phân tích quá trình thay đổi trong quan niệm về
vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện
nay (thông qua các mô hình tăng trưởng kinh tế)
Nội dung bài gồm có 3 phần
I. Lý luận chung về quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân
lực trong tăng trưởng kinh tế
II. Tăng trưởng kinh tế và quan niệm về vai trò của yếu tố nguồn nhân lực trong
tăng trưởng kinh tế ở Việt nam những năm qua
III. Quan điểm phát huy vai trò nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế và giải
pháp nhằm nâng cao vai trò nguồn nhân lực Việt nam trong phát triển kinh tế
===================================================
1


=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================

I. Lý luận chung về quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn
nhân lực trong tăng trưởng kinh tế
Mô hình kinh tế là cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sự tăng trưởng
kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa chúng. Theo thứ tự thời
gian, các lý thuyết và mô hình tăng trưởng được sắp xếp thành:


Lý thuyết tăng trưởng cổ điển (thế kỷ XVIII)



Lý thuyết tăng trưởng của Karl Marx (thế kỷ XIV)



Mô hình tăng trưởng trường phái Keynes (đầu thế kỷ XX)



Mô hình tăng trưởng tân cổ điển (giữa thế kỷ XX)




Mô hình tăng trưởng nội sinh (cuối thế kỷ XX)
Quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế thay đổi
như sau:

1. Theo Lý thuyết tăng trưởng cổ điển
Trong số các nhà kinh tế cổ điển, ba người có đóng góp lớn nhất đối với lý
thuyết tăng trưởng là Adam Smith, David Ricardo và Karl Marx.
1.1. Theo Lý thuyết của Adam Smith
Theo Adam Smith, chính lao động được sử dụng trong những công việc
hữu ích và hiệu quả là nguồn gốc tạo ra giá trị cho xã hội. Adam Smith coi sự gia
tăng tư bản đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao năng suất lao động, thông
qua thúc đẩy phân công lao động. Để có thể tiến hành phân công lao động, một
nhà tư bản phải có đủ tiền mua công xưởng, dụng cụ, nguyên liệu… và quỹ lương
dành cho người lao động, tổng số tiền đó là tư bản. Khi lượng tư bản của nhà tư
bản tăng lên thì sự phân công lao động càng được thúc đẩy vì nhà tư bản có thêm
tiền thuê các lao động ở những công đoạn sản xuất riêng biệt hơn. Cùng với
lượng tư bản, quy mô thị trường là yếu tố quan trọng thúc đẩy phân công lao
động. “Sự phân công lao động nảy sinh từ một khuynh hướng vốn có trong bản
chất con người: khuynh hướng trao đổi thứ này để lấy một thứ khác” (Smith,
1776), nên việc tạo ra một thị trường tự do và rộng lớn thông qua việc loại bỏ
những luật lệ thương mại khắc nghiệt sẽ là điều kiện đủ để thúc đẩy phân công
lao động, đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của quốc gia.
===================================================
2
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”



Kinh tế phát triển
=============================================================
1.2.

Theo Lý thuyết của David Ricardo
Lý thuyết tăng trưởng của Ricardo cho rằng sự tích lũy tư bản trong các
ngành công nghiệp hiện đại chính là động lực dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Tư bản
là một quỹ tiền, được xác định bằng tổng tiền lương phải trả cho người lao động
trước khi bán hàng hóa mà người lao động sản xuất ra, cộng với phần tiền bỏ ra
mua máy móc, thiết bị… phục vụ cho sản xuất. Do vậy, cầu lao động tăng tỷ lệ
thuận với sự gia tăng của quỹ tiền lương. Mặt khác, cung lao động xác định bằng
số người lao động sẵn sàng làm việc đủ thời gian, bất kể mức lương bao nhiêu.
Điều này hàm ý cung lao động là cố định trong ngắn hạn (khoảng thời gian mà
dân số không thay đổi). Vì thế, khi đầu tư mới bổ sung vào quỹ tiền lương, làm
tăng mức tiền lương thì cầu lao động tăng dọc theo đường cung không co dãn
trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu mức lương vượt quá mức lương tối thiểu, thì dân
số bắt đầu tăng, khiến lực lượng tăng lên trong thời kỳ sau đó. Do vậy, cung lao
động được xét là hoàn toàn co dãn trong dài hạn (khoảng thời gian đủ dài để dân
số thay đổi). Khi đó, tiền lương luôn có xu hướng bị đẩy về mức tối thiểu. Như
vậy, trong dài hạn, chi phí tiền lương trong công nghiệp không tăng, lợi nhuận vẫn
tăng theo tỷ lệ tăng của tư bản.
Tuy nhiên, tiền lương tối thiểu cho công nhân phụ thuộc vào giá lương thực
thực phẩm tiêu dùng. Nếu giá cả tiêu dùng tăng lên, tiền lương danh nghĩa nhà tư
bản phải trả cho công nhân tăng để đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ. Khi chi
phí tăng thì lợi nhuận không thể tiếp tục tăng theo tốc độ tăng của tư bản nữa. Khi
cầu về lương thực thực phẩm tiếp tục tăng theo sự gia tăng tích lũy tư bản và
tăng dân số lao động thì cuối cùng, giá cả lương thực đạt tới mức mà ở đó tỷ suất
lợi nhuận quá thấp, đến mức nhà tư bản không còn động cơ đầu tư thêm, tăng
trưởng kinh tế dừng lại ở đó.
2. Theo Lý thuyết tăng trưởng của Karl Marx

Lý thuyết của Karl Marx có vai trò vô cùng đặc biệt trong lịch sử về lý thuyết
tăng trưởng và rất khác biệt so với lý thuyết cổ điển.
Đối với các nhà kinh tế cổ điển, tư bản chỉ là một quỹ tiền lương, Marx thấy
được tư bản cố định bao hàm trong nó “khoa học và công nghệ”. Dự báo của
Marx về sự tăng trưởng trì trệ trong dài hạn (do tích luỹ tư bản ngừng lại) cũng
===================================================
3
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
dựa trên những lập luận phân phối, đặc biệt là sự suy giảm của tỷ suất lợi tức trên
vốn.
Điểm giống nhau cơ bản giữa mô hình của Marx và mô hình của Ricardo là
ở chỗ: cung lao động trong khu công nghiệp hiện đại hoàn toàn co dãn tại mức
lương được xác định tối thiểu, đây cũng là cơ sở cho việc tích luỹ tư bản nhanh
chóng. Tuy nhiên, Marx không thừa nhận quy luật dân số của Malthus trong khi
Ricardo coi đó là cơ chế tạo ra đường cung lao động hoàn toàn co dãn. Thay vào
đó, Marx giải thích dựa trên sự tồn tại của lực lượng lao động “thặng dư” bên
cạnh số lao động đã được thuê trong khu vực sản xuất công nghiệp. Marx gọi lực
lượng thặng dư này là “đội quân hậu bị công nghiệp”, bao gồm những người vô
sản thấp kém- những người kiếm ăn bằng nhiều nghề khác nhau trong đó có một
công việc chính thức trong khu vực công nghiệp. Theo đó, họ sẵn sàng chấp nhận
mức lương tối thiểu mà các chủ tư bản đưa ra. Nếu đội quân hậu bị này còn tồn
tại thì mức lương tối thiểu trong khu công nghiệp vẫn luôn duy trì ở mức đủ sống.
Theo quan điểm của Marx, tư bản bao gồm “tư bản khả biến” (là quỹ tiền
lương trả cho người lao động) và “tư bản bất biến” (quỹ tiền mua hàng hoá tư bản

và các sản phẩm trung gian), việc sử dụng tư bản bất biến không tạo ra “giá trị
thặng dư” của nhà tư bản bởi nhà tư bản mua máy móc, nguyên vật liệu với giá
bằng giá trị mà tư bản bất biến đó sẽ tạo ra. Mặt khác, nhà tư bản có thể áp đặt
mức tiền lương thấp hơn giá trị mà người lao động làm ra. Do đó, chỉ có tư bản
khả biến mới đem lại giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
hay lao động tạo ra giá trị. Marx cho rằng quy luật phát triển của tư bản chủ nghĩa
là tỷ lệ tư bản bất biến trên tư bản khả biến tăng lên, do đó, tỷ lệ giá trị thặng dư
(lợi nhuận) trên tổng giá trị tư bản sẽ giảm xuống. Tỷ suất lợi nhuận giảm dần làm
giảm tích luỹ vốn và cuối cùng dẫn đến trạng thái ngừng tăng trưởng kinh tế nên
sẽ khuyến khích các nhà tư bản tiếp tục giảm tiền lương công nhân và do đó đẩy
cuộc sống người lao động lâm vào cảnh khốn khó hơn.
Quá trình phát triển tư bản theo Marx nhất thiết phải đi đôi với bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập. Những người công nhân luôn chịu sự đe doạ bị sa thải
bởi sự thay thế của đội quân hậu bị. Thậm chí, thu nhập của người lao động ngày
càng giảm so với nhà tư bản do hiệu ứng tiết kiệm lao động của công nghệ hiện
đại.
3. Theo trường phái Keynes- Mô hình Harrod- Domar
===================================================
4
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
Mô hình tăng trưởng Harrod – Domar là tổng hợp kết quả của hai công trình
nghiên cứu độc lập mang tính nối tiếp của nhà kinh tế hoạc người Anh Roy Harrod
với “Tổng quan về lý thuyết động” năm 1939 và nhà kinh tế học người Hoa Kỳ gốc
Ba Lan Evsey với “Mở rộng tư bản, tỷ lệ tăng trưởng và công ăn việc làm” năm

1946.
Mô hình tăng trưởng Harrod – Domar đã dựa trên một logic xuất phát điểm:
tiết kiệm S là nguồn gốc đầu tư I, đầu tư ngày hôm nay chính là cơ sở tạo vốn sản
xuất gia tăng của ngày mai K và mức vốn sản xuất gia tăng đóng vai trò trực tiếp
làm gia tăng quy mô thu nhập của nền kinh tế.
Hàm sản xuất: Y = F(K,L,R); trong đó lao động (L) được xem là một trong
hai yếu tố nguồn lực, sẽ được huy động vào hoạt động trên cơ sở khả năng tạo ra
vốn sản xuất gia tăng (K).
Với xuất phát điểm là tỷ lệ kết hợp vốn và lao động là cố định (c=K/I), dân số
hay lực lượng lao động và tiến bộ công nghệ tiết kiệm lao động gia tăng với một
tốc độ cố định, mô hình Harrod – Domar coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế
nào hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Bằng việc
mô tả dưới dạng công thức, phương trình Harrod – Domar đã xây dựng mối liên
kết chắc chắn giữa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế với hai biến số cơ bản: khả
năng tiết kiệm của nền kinh tế và hệ số gia tăng vốn sản lượng như sau: g t+1 =
Kt+1/k x Yt = st/kt+1 trong đó:
Y: thu nhập của nền kinh tế
g: tốc độ tăng trưởng thu nhập
k: hệ số gia tăng vốn - sản lượng (ICOR)
Như vậy, tốc độ tăng trưởng sản lượng đảm bảo duy trì toàn dụng lực lượng
lao động chủ yếu trực tiếp từ hàm sản xuất cùng với giả định tốc độ tăng trưởng
lực lượng lao động được cho trước là ngoại sinh.
4. Theo Mô hình tăng trưởng tân cổ điển- Mô hình tăng trưởng Solow
Mô hình tăng trưởng Solow đã đưa thêm nhân tố lao động và tiến bộ công
nghệ vào hàm sản xuất, hoạt động sản xuất trong nền kinh tế là sự kết hợp của
các yếu tố vốn (K), lao động (L) và yếu tố kỹ thuật công nghệ (T).
Hàm sản xuất tổng quát có dạng: Y = F(K,L,T)
Theo Solow, yếu tố T tạo nên hiệu quả của lao động (E), hiệu quả lao động
phản ánh trình độ công nghệ của xã hội. E và L luôn đi đôi với nhau, và LxE được
===================================================

5
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
gọi là số lao động hiệu quả. Như vậy, hàm sản xuất còn có thể viết dưới dạng: Y(t)
= F(K,ExL)
Giả sử dân số và lực lượng lao động tăng với tốc độ nhất định là n, tăng số
công nhân sẽ khiến mức vốn bình quân trên một công nhân giảm xuống:
- Sự thay đổi vốn bình quân lao động:
Δk = i – (δ + n)k
- Tại k*: Δk*=0 thì y =kα không đổi nhưng Y = y.L tăng là (n).
Như vậy, trong dài hạn, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ tăng dân số còn thu
nhập bình quân đầu người không thay đổi, tác động của gia tăng dân số thể hiện
qua đồ thị sau:

===================================================
6
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================

§Çu t

(δ+n)k

i = skα

k*

k

Hình 1.1: Tác động của gia tăng dân số
Theo Solow, vai trò của tiến bộ công nghệ với tăng trưởng xác định theo
hàm sản xuất có yếu tố công nghệ như sau:
Y = Kα (L.E)1-α
Như vậy, E là biến mới gọi là hiệu quả lao động
===================================================
7
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
Nếu E tăng với tốc độ g, L tăng với tốc độ n thì biến LxE tăng với tốc độ là (g+n)
Chia cả 2 vế cho (L.E) ta vẫn có: y = kα
Sự thay đổi của của mức vốn trên mỗi công nhân hiệu quả: Δk = i – (δ + n + g)k
Theo dõi sơ đồ:

§Çu t
(δ+n+g)k
i=


k*

sk

α

k

Hình 1.2: Tiến bộ công nghệ trong mô hình Solow
Tại k* thoả mãn: Δk = 0 điều này có nghĩa là: ở trạng thái ốn định mức vốn trên 1
đơn vị công nhân hiệu qủa không đổi (Y/(L.E) không đổi)
===================================================
8
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
Y trên một đơn vị công nhân (Y/L) tăng với tốc độ g; Y tăng với tốc độ là g + n.
Nếu tiến bộ công nghệ tăng lên, GDP và GDP/người đều tăng lên với tốc độ
tương ứng.
Như vậy, nguồn biến động tăng tốc độ sản lượng bình quân lao động (hay
thu nhập bình quân đầu người) duy nhất trong dài hạn là tốc độ tăng hiệu quả lao
động, lực lượng thúc đẩy tăng trưởng dài hạn được xác định ngoại sinh.
5. Theo mô hình tăng trưởng nội sinh
Với mô hình tăng trưởng tân cổ điển, vốn con người không được nhắc đến
trong quá trình sản xuất. Trong các mô hình tăng trưởng nội sinh, vốn con người

đóng vai trò trung tâm.
Một trong hai xuất phát điểm trong phân tích, làm cơ sở cho những kết luận
mới về vai trò của yếu tố tăng trưởng là việc phân chia vốn làm 2 loại vốn hữu
hình (vốn vật chất, bao gồm Kvà L) và vốn nhân lực (hay vốn con người). Lao
động L nằm trong phạm vi vốn vật chất bao gồm quy mô, số lượng, cơ cấu lực
lượng lao động xã hội. Vốn con người là thuật ngữ dùng để chỉ khả năng, kỹ
năng, kiến thức, sự khéo léo, linh hoạt có được của mỗi con người và sử dụng
trong các hoạt động kinh tế. Vốn nhân lực hình thành trong quá trình tích luỹ kiến
thức của người lao động thông qua giáo dục, đào tạo, học nghề hoặc tích luỹ từ
kinh nghiệm thực tế. Việc đầu tư vào vốn nhân lực đã làm cho đầu tư dẫn tới tăng
trưởng vĩnh viễn.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh đã cố gắng mô hình hoá yếu tố tiến bộ
công nghệ bằng cách đưa nguồn vốn con người vào hàm sản xuất và giải thích
quá trình tích luỹ kiến thức trực tiếp thông qua tích luỹ nguồn vốn con người, hay
gián tiếp thông qua nghiên cứu và phát triển (R&D) và vai trò của Chính phủ trong
quá trình phát triển nguồn nhân lực như thế nào.
Hàm sản xuất của mô hình tăng trưởng nội sinh bao gồm 3 yếu tố: vốn (K),
lao động (L) gọi là yếu tố vật chất tác động đến tăng trưởng, yếu tố thứ ba chính
là vốn nhân lực hay là yếu tố phi vật chất bao gồm kiến thức, kỹ năng của người
lao động tạo nên hiệu quả lao động hay năng suất tổng hợp (E): Y = F(K,L,E)
Mô hình nội sinh chia nền kinh tế thành 2 khu vực là sản xuất hàng hoá (khu
vực các doanh nghiệp) và khu vực sản xuất trí thức (khu vực các trường đại học),
cho nên hàm sản xuất cũng được xác định cụ thể theo hai khu vực.
===================================================
9
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”



Kinh tế phát triển
=============================================================
5.1. Mô hình AK- vai trò của vốn nhân lực
Xuất phát với một hàm sản xuất đơn giản: Y = AK
Theo quan điểm truyền thống, K chỉ bao gồm số máy móc thiết bị… gọi
chung là vốn sản xuất vật chất của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo mô hình tăng
trưởng nội sinh, K bao gồm cả kiến thức, kỹ năng… mà người lao động có thông
qua giáo dục, đào tạo. Như vậy, kiến thức, kỹ năng của người lao động là một đầu
vào quan trọng trong sản xuất của nền kinh tế và không có lý do gì buộc loại vốn
này tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần nên mô hình này có thể loại
bỏ giả định năng suất cận biên của vốn giảm dần. Thậm chí, trên thực tế, những
tiến bộ khoa học công nghệ cho phép nhà kinh tế đặt giả định rằng vốn con người
có năng suất cận biên tăng dần. Nếu chấp nhận quan điểm rằng kiến thức, kỹ
năng của người lao động cũng là một loại vốn thì giả định năng suất cận biên của
vốn không đổi trở nên hợp lý hơn trong mô hình tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Xét hàm sản xuất đơn giản: Y = AK
A là hằng số đo sản lượng sản xuất trên một đơn vị vốn (không bị chi phối
bởi quy luật lợi tức giảm dần)
ΔK = sY – бK
g= ΔY/Y = gA + gK trong đó gA= ΔA/A và gK = ΔK/K
Nếu không có tiến bộ công nghệ: gA = 0
g = ΔY/Y = g K = ΔK/K = (sY – бK)/K = (sAK – бK)/K = sA – б
Khi sA> б thì g luôn >0 (có tăng trưởng vĩnh viễn cho dù không có tiến bộ
công nghệ) thì tiết kiệm và đầu tư dẫn đến tăng trưởng vĩnh viễn, là do coi A là
hằng số (không đổi) bởi vì K bao gồm cả vốn nhân lực – không theo quy luật lợi
tức giảm dần, thậm chí còn có thể tăng lên.
5.2. Mô hình Lucas giản đơn - một mô hình tăng trưởng hai khu vực
Trong các mô hình chuẩn hoá đề cao vai trò trung tâm của vốn con người
với tăng trưởng thì mô hình của Lucas có tầm ảnh hưởng lớn nhất. Trong mô hình
này, mức sản lượng là một hàm của của mức vốn con người.

Nền kinh tế được chia làm hai khu vực: Khu vực sản xuất hàng hoá, bao
gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và được sử dụng trong tiêu dùng cá
nhân và đầu tư vào vốn sản xuất; và khu vực giáo dục, bao gồm các trường đại
học sản xuất kiến thức sử dụng cho cả hai khu vực. Nền kinh tế được mô tả bằng
=================================================== 10
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
2 hàm sản xuất: của khu vực sản xuất và khu vực các trường đại học và phương
trình tích luỹ vốn.
Gọi: u là tỷ lệ lao động của khu vực giáo dục
1-u là tỷ lệ lao động khu vực sản xuất.
E là lượng kiến thức (quyết định hiệu quả lao động)
K là vốn tích luỹ của khu vực sản xuất
(1 – u)LE là hiệu qủa tích luỹ của khu vực giáo dục thể hiện ở số lao động
hiệu quả của khu vực sản xuất
g(u) là tốc độ tăng trưởng lao động khu vực giáo dục
s là tỷ lệ tiết kiệm và б là tỷ lệ khấu hao
Từ logic trên, có các phương trình liên quan đến tăng trưởng:
Y = Kα[(1 –u)EL]1-α
Hàm sản xuất của các doanh nghiệp

-

ΔE = g(u)E
Hàm sản xuất của các trường đại học

ΔK = sY - бK
Phương trình tích luỹ vốn
Theo các hàm sản xuất trên:
Đầu tư quyết định vốn vật chất ở trạng thái ổn định
Tỷ lệ lao động trong trường đại học quyết định tốc độ tăng trưởng kiến thức
Cả s và u đều quyết định tới tăng thu nhập ở trạng thái ổn định
Đầu tư dẫn đến tăng trưởng vĩnh viễn

-

Những hạn chế về khả năng rượt đuổi của các nước đang phát triển bởi sự

hạn chế về khả năng phát triển vốn con người:
Sự tích luỹ vốn trong một giai đoạn nào đó, bất kể dưới hình thức nào, đều
được xác định sự chênh lệch giữa việc sản xuất ra lượng vốn mới và khấu hao
lượng vốn trước đó. Sự tích luỹ của vốn con người và vốn vật chất có những điểm
chung nhưng sự tích luỹ vốn con người mang những khía cạnh xã hội mà vốn vật
chất không có. Vốn con người được phát triển và tích luỹ thông qua sự giao tiếp
giữa các cá nhân và và trao đổi ý tưởng, qua đó biến hoạt động tích luỹ vốn con
người thành một hoạt động xã hội. Vì thế, vốn con người mang hiệu ứng ngoại
sinh và lan toả.
Theo quan điểm của Lucas, vốn con người đóng góp vào tăng trưởng kinh
tế theo hai cách thức. Thứ nhất, vốn con người bao hàm trong mỗi cá thể sẽ làm
tăng năng suất cá nhân, dẫn đến tăng năng suất chung và tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, vốn con người bao hàm trong mỗi cá thể cũng ảnh hưởng tới năng suất
=================================================== 11
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”



Kinh tế phát triển
=============================================================
các nhân tố sản xuất khác. Hai cách thức này được gọi là các hiệu ứng “nội sinh”
và “ngoại sinh” của vốn con người.
Kết luận: Có thể thấy, những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây
đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực. Vốn
nhân lực là:
- Các lao động có kỹ năng sản xuất
- Lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp
- Những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế.

II. Tăng trưởng kinh tế và quan niệm về vai trò của yếu tố nguồn nhân lực
trong tăng trưởng kinh tế ở Việt nam những năm qua.
1. Thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt nam
Kể từ khi thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, Việt Nam
(VN) đã đạt được những thành tựu lớn lao về kinh tế. Giai đoạn 1991-1995 tốc độ
TTKT đạt trung bình 8,2%/năm; 1996-2000: 6,7%; 2001-05: 7,5%; năm 2006:
8,17%; 2007: 8,48%; 2008: 6,23%; dự kiến 2009 là 6,5%. Đây là những tốc độ
tăng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực và thế giới trong cùng khoảng
thời gian. Năm 2008, tốc độ TTKT của VN thấp hơn so với các năm trước, nhưng
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tếtài chính thì đây lại là mức tăng trưởng cao.
Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2008 (%)
Năm

1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

GDP

8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48 6,23


NLTS

4,33 3,53 5,53 4,63 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3

3,0

0,68

CNXD 12,62 8,33 7,68 10,07 10,39 9,48 10,48 10,22 10,69 10,37 10,4 2,65
DV

7,14 5,08 2,25 5,32 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5

2,9

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê năm 2008.

=================================================== 12
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
(Chú thích: NLTS: Viết tắt của nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản - gọi chung là nông
nghiệp;CNXD: Viết tắt của công nghiệp, xây dựng - gọi chung là công nghiệp; DV: Viết tắt của dịch
vụ.)


Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2009 VN có đủ cơ sở để đạt
tốc độ tăng trưởng 6,5% trong bối cảnh tốc độ chung của thế giới là 0,5%.
Có được tốc độ tăng tưởng kinh tế cao như vậy là nhờ VN đã huy động
được lượng vốn đầu tư khá lớn. Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP liên tục gia tăng,
năm 1990 đạt 17,3%, hiện nay khoảng 40-45%. Đóng góp của vốn vào tăng
trưởng GDP tuy giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn ở vị trí chủ đạo.
Cùng với nhân tố vốn, lao động cũng có những đóng góp không nhỏ vào
việc thúc đẩy TTKT của VN. Với kết cấu dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào
(khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động), hàng năm bổ sung thêm 1,2-1,5
triệu người, lao động đã đóng góp 19,07% vào tăng trưởng của VN.
Đóng góp của các yếu tố vào GDP (%)

1993 - 97

1998 – 02

2003 – nay

Đóng góp của L

16,02

20,00

19,07

Đóng góp của K

68,98


57,42

52,73

Đóng góp của TFP

15,00

22,58

28,20

Tỷ lệ GDP

100

100

100

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên, về thực chất mô hình TTKT của VN thời gian qua chủ yếu vẫn
theo chiều rộng, mặc dù đóng góp của nhân tố TFP có tăng dần qua các năm
nhưng không đáng kể. Tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn và lao động cao gấp hơn
3 lần so với của TFP. Nguyên nhân là do:
Thứ nhất, trình độ công nghệ hiện đang sử dụng ở VN thấp tương đối so
với các nước trong khu vực.
Thứ hai, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta trong giai đoạn đầu mở
cửa khá cao, nhưng đang có chiều hướng giảm thấp vào những năm gần đây. Hệ

=================================================== 13
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
số ICOR năm 2005 là 4,6, năm 2006: 5,01. Hiện nay dao động trong khoảng 4,5
đến 5,3, cao hơn so với các nước trong khu vực (Philippines: 2,3; Indonesia: 2,8;
Thái Lan: 3,6). Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng
điểm; tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn nhà nước vẫn còn xảy ra;
công tác cải cách hành chính được thúc đẩy nhưng còn nhiều bất cập.
Thứ ba, lao động VN còn bộc lộ khá nhiều nhược điểm. Lực lượng lao
động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo.
Hiện tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề mới chỉ chiếm khoảng 25%.
2. Phân tích vai trò yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở Việt nam
2.1. Sự đóng góp của các yếu tố đầu vào trong TTKT
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng
góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư (K), sự đóng góp của số lượng lao động (L)
và sự đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Vận dụng hàm
sản xuất Cobb – Douglas thì tốc độ tăng trưởng GDP (g) được xác định
g = αK + βL+ TFP
Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng
57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%.
Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của
yếu tố số lượng vốn đầu tư.Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay
đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006
đạt 41%, năm 2007đạt 40,2%, năm 2008 là 42%.

Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng
vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt,
do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người
mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông
thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng
góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư
tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
=================================================== 14
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng
trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ
trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Như vậy nền
kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển
sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa
chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được
thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số
phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia
thường dùng hệ số ICOR. Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo
cách tính đơn giản mà các chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho
tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và
ngược lại.

Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như
sau:
Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao
hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn
Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995),
4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời
kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 19811995). Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp.
Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Năm 2007 mới đạt 25.886
đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có
9.607 nghìn đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất
cũng mới đạt 55.072 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159
nghìn đồng/người. Nếu quy ra USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động của
toàn nền kinh tế cũng mới đạt khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm
nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 0,6 nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng
đạt khoảng 3.438 USD, của nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD. Các con
số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (khoảng trên
14,6 nghìn USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng
=================================================== 15
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
6,5 nghìn USD/người). Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn
đang rất nhỏ nhoi.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư
thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng
suất lao động thấp,... nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao,

tạo sức ép làm tăng lạm phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới
trong khi đồng Việt Nam được neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so
với các đồng tiền mà Việt Nam có quan hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sức
ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.
II.2. Bốn giai đoạn phát triển kinh tế tại các nước đang phát triển là những yêu cầu
về nguồn nhân lực.
Giai đoạn cuối thế kỷ XX chứng kiến sự phát triển đáng kinh ngạc của một
nhóm các nước đang phát triển ở Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và
sau đó là các nước như Thái Lan, Ma-lai-xia. Quá trình phát triển của các nền
kinh tế này được biết tới như là quá trình tích lũy năng lực kỹ thuật. Đề trở thành
một nước công nghiệp tiên tiến, các nước đang phát triển cần trải qua bốn giai
đoạn, đó là tiền công nghiệp hóa (pre-industrialization) (hay còn gọi là khởi
động- start-up), thẩm thấu (assimilation), tích lũy (accumulation) và đổi mới
(innovation)1 (mô hình đã điều chỉnh dựa vào Hobday 1995, Kim and Lee 2002,
Xie and Wu 2003, Kim 2004). Thời kỳ khởi động, cũng giống như Việt Nam hiện
tại, là quá trình chuyển dịch nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp
hóa. Các nhân tố kinh tế dần được hình thành và các công ty nước ngoài bắt đầu
đầu tư vào nền kinh tế. Thời kỳ thẩm thấu có đặc trưng là quá trình mở rộng
nhanh chóng của các công ty và các ngành công

Bảng 1. Bốn giai đoạn phát triển kinh tế và yêu cầu đối với nguồn nhân lực
tại các nước đang phát triển

Bước Giai đoạn

Yêu cầu về nguồn nhân lực

1

Các kỹ năng sản xuất tại phân Phát triển hệ thống trường dạy


Khởi động

xưởng

Phát triển nguồn nhân lực

nghề để đào tạo nông dân trở

=================================================== 16
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
thành công nhân trong nhà máy
2

Thẩm thấu

Lao động tại phân xưởng với

Hoàn thiện hệ thống đào tạo nghề

kỹ năng tốt, lao động quả lý
và kỹ sư tại phân xưởng
3


4

Tích lũy

Đổi mới

Lao động với năng lực tìm

Phát triển hệ thống các trường đại

kiếm và hoàn thiện kỹ thuật

học (cả kỹ thuật và quản lý) cũng

(và quản lý)

như hệ thống các viện nghiên cứu

Lao động với năng lực đổi

Hoàn thiện hệ thống trường đại
hoc và việ nghiên cứu

mới (cả kỹ thuật và quản lý)

2.3. Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của yếu tố nguồn nhân lực trong
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Trong thời đại hiện nay sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào
nguồn lực trí tuệ và tay nghề cảu con người trong đó nguồn nhân lực là chủ yếu,
thay vì dựa vào nguồn tài nguyên, vốn vật chất như trước đây do đó con người

được coi là nhân tố trung tâm của phát triển. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF), lao động là nhân tố có trọng số lớn nhẩt trong các yếu tố xác định năng
lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế và gia tăng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP). Đây cũng là yếu tố cơ bản quy định việc nâng cao mức sống của nhân
dân.
Mặc dù tốc độ tăng năng suất lao động nước ta không thấp, song trình độ
năng suất so với các nước trong khu vực đang có khoảng cách quá xa. Theo số
liệu Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) công bố năm 2004, năng suất lao động
bình quân năm 2003 của Việt Nam đạt 527 USD, bằng 37% Philipin, 16% Thái
Lan, 2% của Đài Loan và 1% so với Xingapo. Điều này cho thấy, khả năng tăng
năng suất để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế là khá cao.
Dân số trong độ tuổi lao động nước ta khoảng 51,6 triệu (năm 2005); vào
năm 2020 dự báo sẽ lên 62,2 triệu. Với nguồn lao động này, Việt Nam có thể tránh
được tình trạng thiếu lao động của những nước đã phát triển. Mặt khác, với lợi thế
cơ bản của lực lượng lao động trẻ (trên 50%), trình độ học vấn không thấp (bình
quân có từ 9,5 đến 9,7 năm đi học); nếu có chiến lược xây dựng, nuôi dưỡng và
=================================================== 17
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
khai thác hợp lý, thế hệ lao động trẻ có thể phát triển nhanh. Đây là tiềm năng to
lớn có thể khai thác để thúc đẩy tăng trưởng, thông qua nâng cao năng suất lao
động và tăng tỷ trọng lao động ở các ngành nghề đem lại giá trị gia tăng cao.
Chính vì vậyViệt Nam coi vai trò nhân tố con người trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đã được Đảng ta hết sức coi trọng. “Thắng lợi của Việt Nam…là
thiên anh hùng ca bất diệt về con người Việt Nam” (1; tr.30), và con người Việt

Nam đã trở thành mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế –xã hội của đất
nước.
III. Quan điểm phát huy vai trò nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế và
giải pháp nhằm nâng cao vai trò nguồn nhân lực Việt nam trong phát triển
kinh tế
1. Quan điểm phát huy vai trò nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội và nó cũng quyết định đến quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước nhằm nhanh chóng hoà nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và
quốc tế. Suy cho cùng chính con người mới là yếu tố cơ bản nhất và quan trọng
của toàn bộ lực lượng sản xuất. Nhưng trong một thời gian dài vừa qua, vấn đề
đào tạo nguồn nhân lực nhìn chung chưa được quan tâm đúng mức và cũng chưa
có các bước đi thích hợp. Đặc biệt là tại khu vực sản xuất kinh doanh, nơi trực
tiếp tạo ra sản phẩm và các hoạt động dịch vụ cho toàn xã hội lại càng chưa được
quan tâm một cách thích đáng, chưa xem đấy là động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển. Nhất là trong bối cảnh thế giới ngày nay đang có sự tiến bộ vượt bậc của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nhờ đó mà trình độ kỹ thuật, quy trình công
nghệ ngày càng được đổi mới một cách hết sức mau lẹ, thì vấn đề quan tâm đến
đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế để tương thích với sự thay đổi nhanh
chóng của máy móc thiết bị được đặt ra như một nhu cầu bức xúc.
Hiện nay trên phạm vi cả nước có hơn 40 triệu lao động (chiếm gần một
nửa dân số), trong đó theo Tổng Cục Thống kê thì có tới gần 80% lao động chưa
có trình độ chuyên môn kỹ thuật, như vậy nền kinh tế nước ta về cơ bản vẫn dựa
trên nền tảng lao động thủ công là chủ yếu. Chính vì lẽ đó mà năng suất nhân tố
tổng hợp của ta (TFP: Total Factor Productivity) chỉ chiếm 28,2% trong tăng
=================================================== 18
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”



Kinh tế phát triển
=============================================================
trưởng kinh tế, trong khi đó con số này ở các nước trong khu vực là 40%, điều
này nó cũng phản ánh rằng hàm lượng chất xám trong giá thành sản phẩm của ta
còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, và dĩ nhiên nó cũng kéo theo
sự yếu kém khả năng cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế.
Để gia tăng tỷ trọng TFP trong tăng trưởng kinh tế, Nhà nước cũng đã đề
ra mục tiêu là phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo là 40% nhưng
thực ra với mức phấn đấu đó thì quả là một con số còn khá khiêm tốn khi mà
chúng ta đang từng bước tiếp cận với kinh tế tri thức. Thiết tưởng các con số trên
cần được điều chỉnh lại theo hướng gia tăng hơn nữa để phù hợp với các bước
phát triển mới của nền kinh tế- nền kinh tế hội nhập. Vì rằng đó sẽ là con đường
ngắn nhất để gắn liền tri tri thức khoa học với thực tiễn sản xuất, và đó cũng là
biện pháp hữu hiệu nhất để tăng năng suất lao động xã hội, yếu tố quyết định đến
đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
Hiện tại trong các doanh nghiệp của ta mức đầu tư bình quân cho công tác
đào tạo và nghiên cứu còn rất thấp, chưa tới 0,5% doanh thu, trong khi đó sở các
nước phát triển con số này là từ 5-6% doanh thu, lớn hơn gấp 10 lần so với Việt
Nam, đó cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu
kém của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực chất chính là tăng cường
đầu tư cho giáo dục - đào tạo coi đây là nhân tố chính quyết định tốc độ và chất
lượng của TTKT.
Tóm lại chỉ khi chúng ta huy động được nguồn lực của dân, của doanh
nghiệp cũng như nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển đào tạo thì chúng ta
mới hy vọng tạo ra bước đột biến trong hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam
và đáp ứng được nhu cầu phá triển của nền kinh tế trong thời gian tới.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo. Giáo

dục và đào tạo được coi là khâu then chốt, quyết định chất lượng nguồn nhân lực.
Đảng ta xác định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
=================================================== 19
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
Giáo dục - đào tạo là cơ sở phát triển nguồn nhân lực, là con đường cơ
bản để phát huy nguồn lực con người. Quan điểm giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu được khẳng định từ nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong quá
trình phát triển đất nước, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội. Giáo dục đại học và kỹ thuật nghề nghiệp là bộ phận chủ yếu tạo ra
nguồn nhân lực trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Giáo dục đại học và kỹ thuật nghề nghiệp tập trung trước
hết vào phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy, xây dựng, củng cố và mở rộng cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị cho các trường học, hoàn thiện hệ thống quản lý, tạo
điều kiện cho các trường tăng quy mô và đảm bảo chất lượng đào tạo.
Con người được giáo dục và biết tự giáo dục đựơc coi là nhân tố quan
trọng nhất, “vừa là động lực, vừa là mục tiêu” của sự phát triển bền vững của xã
hội. Giáo dục đang trở thành một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là
tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, quốc phòng và an ninh. Con người được giáo dục tốt mới có khả năng giải
quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả tất cả những vấn đề do sự phát triển xã
hội đặt ra.
Tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục thể hiện ở vai trò là động lực phát

triển kinh tế - xã hội. Một nền kinh tế - xã hội muốn có sức mạnh để phát triển cần
phải tạo ra được trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và nguồn chất xám cũng như
nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
phát triển các hoạt động dịch vụ, nâng cao các hoạt động văn hoá, tinh thần,
điều này phụ thuộc vào giáo dục, đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của nền
kinh tế.
Thứ hai, cải thiện và nâng cao thể lực cho con người nói chung và lực
lượng lao động nói riêng. Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hoá và chuyên
môn thì nâng cao thể lực cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo
nền tảng cho việc phát triển trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực. Đây là vấn đề có
ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Vì vậy, cần phải đảm bảo mức dinh dưỡng cần thiết
cho con người ở mọi lứa tuổi, khuyến khích đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể
dục thể thao trong nhân dân… Chú trọng phát triển công nghiệp dược đủ khả
năng đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Đẩy mạnh nghiên cứu dự báo về y tế,
các chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em, phòng chống dịch bệnh,
=================================================== 20
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”


Kinh tế phát triển
=============================================================
đặc biệt là các bệnh có khả năng lây lan nhanh. Thực hiện có hiệu quả công tác
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao tuổi thọ… góp phần phát
triển nguồn nhân lực có chiều sâu.
Thứ ba, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực. Nhà nước cần nghiên
cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng cơ cấu nhân lực ở từng giai
đoạn, làm rõ các nguồn nhân lực thừa và nhân lực thiếu, xác định nguyên nhân
của tình trạng trên; từ đó, áp dụng các chính sách và công cụ đòn bẩy phù hợp

nhằm khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực. Đẩy mạnh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng trong đào tạo, hướng nghiệp cho học sinh,
qua đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, phù hợp với
nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, cần
có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm thu hút nguồn nhân lực từ nơi thừa sang
nơi thiếu; từ thành phố, đồng bằng lên vùng sâu, vùng xa. Trước mắt, cần có kế
hoạch sử dụng triệt để và hiệu quả lực lượng lao động đã qua đào tạo, tránh tình
trạng lãng phí như hiện nay (không bố trí được công ăn việc làm, sử dụng trái
ngành nghề đào tạo,…).
Thứ tư, tăng cường công tác dự báo nguồn nhân lực. Cần nghiên cứu
đánh giá thực trạng cơ cấu nhân lực hiện có cũng như dự báo về nhu cầu nhân
lực ở các ngành, lĩnh vực khác nhau nhằm chủ động tránh tình trạng thừa và thiếu
nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển nguồn nhân lực trên phạm vi
vùng, ngành và quốc gia đảm bảo sự phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Nhiệm vụ này cần được tiến hành thường
xuyên để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của thực tiễn cuộc
sống.
Thứ năm, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý. Chính sách tiền lương
hợp lý là một trong những động lực quan trọng kích thích người lao động nâng
cao trình độ của mình để đáp ứng được nhu cầu của công việc, đảm bảo tăng thu
nhập và ổn định đời sống. Lợi ích là khâu nhạy cảm nhất vì mọi hoạt động của
con người đều nhằm đạt mục tiêu là lợi ích. Nó là yếu tố quan trọng đối với việc
thúc đẩy tính tích cực, sáng tạo của con người. Có nhiều loại lợi ích khác nhau,
trong đó lợi ích kinh tế là lợi ích cơ bản, hàng đầu. Vì vậy, chính sách tiền lương,
tiền công phải đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội, tránh tình trạng giải quyết
lợi ích theo kiểu bình quân chủ nghĩa.
=================================================== 21
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”



Kinh tế phát triển
=============================================================

KẾT LUẬN
Cùng với khoa học kỹ thuật, công nghệ vốn đầu tư, nguồn nhân lực quyết
định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện nền kinh tế- xã hội ở
nước ta. Giáo dục đào tạo là cơ sở phát triển nguồn nhân lực là con đường cơ
bản để phát huy nguồn nhân lực
Như đã phân tích ở trên, tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố
đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư (K), sự đóng góp
của số lượng lao động (L) và sự đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP). Hiện tại chúng ta đang phát triển kinh tế theo chiều rộng, để chuyển
dần sang mô hình phát triển kinh tế theo chiều sâu, đuổi kịp các nước đang phát
triển, thì chúng ta phải biết đi tắt đón đầu, tận dụng sự phát triển của khoa học
công nghệ và điều quan trọng nhất là phải có 1 sự đầu tư quan tâm chính đáng
đến giáo dục đào tạo nguồn nhân lực

Tài liệu tham khảo
-

Giáo trình kinh tế phát triển
/>%9Fng_kinh_t%E1%BA%BF
/> /> /> />
=================================================== 22
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”



Kinh tế phát triển
=============================================================

-

/>name=News&file=article&sid=28&theme=Printer

=================================================== 23
=
Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của nguồn nhân lực trong tăng trưởng
kinh tế và thực tế ở Việt Nam hiện nay”



×