Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng đảng cộng sản việt nam trong sạch, vững mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.86 KB, 41 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh

A, Mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí
tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại di sản vô giá
là hệ thống quan điểm, tư tưởng trong sáng, mẫu mực, kết tinh những truyền thống của dân
tộc,của nhân loại và thời đại. Hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người đã soi sáng những con
đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và cả dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đời
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh khơng ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một
Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của
dân tộc, Đảng xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân ta. Nhờ vậy
Đảng Cộng sản Việt Nam của ta ngày càng khẳng định được sự đúng đắn trong đường lối cũng
như trong hành động trên con đường cách mạng cũng như trên con đường xây dựng, bảo vệ Nhà
nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa.

B, Nội dung
I, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
1. Sơ lược về sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
a. Hoàn cảnh ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam

Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào nhân dân Châu Âu. Trong
nước ta lúc này, với sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản thành lập và ba tổ chức cộng sản đều
tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều
tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng
cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và khơng tránh
khỏi cơng kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia rẽ trong phong trào công
nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng. Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất
các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27-10-1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư,


trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cực
xúc tiến việc hợp nhất thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế

Page 1


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những đại diện của
mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không thành.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của
Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng
Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất. Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại
biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thơng qua Chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt(8). Trong các văn kiện
chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là “đội tiền phong của giai cấp vô sản”
chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản". Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc
lập dân tộc, thành lập chính phủ cơng nơng binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến
chia cho nơng dân nghèo, quốc hữu hố các sản nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền
tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ ... Sau Hội nghị hợp
nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng
sản Việt Nam. Như vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hồn
tất.
b. Quan niệm của Hồ CHí Minh về Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Khi đề cập tới các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản, Lênin đã nêu lên hai yếu tố là sự
kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Tuy nhiên với Đảng Cộng Sản Việt Nam,

bên cạnh hai yếu tố đó Hồ Chí Minh cịn kể tới yếu tố thứ ba , đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ cái vai trị của chủ nghĩa Mác–Lênin đối với cách mạng Việt Nam và đối với quá
trình hình thành Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời Người cũng đánh giá cao vị trí, vai trị
lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sắp xếp lực lượng cách mạng. Số lượng công
nhân Việt Nam tuy ít nhưng theo Hồ Chí minh vai trị lãnh đạo của giai cấp công nhân không
phải do số lượng của lực lượng đó quyết định. Hơn nữa đặc điểm của công nhân Việt Nam là:
kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Đây là giai cấp tiên phong trong sản xuất,
gánh trách nhiệm đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc để xây dựng một xã hội mới và giai cấp
cơng nhân có thể thấm nhuần tư tưởng cách mạng tốt nhất, đó là tư tưởng Mác – Lênin. Bên cạnh
đó tinh thần đấu tranh của họ sẽ ảnh hưởng và giáo dục tới các tầng lớp khác. Trên nền tảng đấu
tranh giai cấp công nhân xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mac – Lênin. Đảng đã đề ra chủ trương,
đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông nhân và tiểu tư sản vào đấu tranh bồi
dưỡng họ thành phần tử tiên tiến. Nhưng yếu tố phong trào yêu nước là yếu tố thứ ba kết hợp dẫn
đến việc hình thành Đảng Cộng Sản Việt Nam. Bởi vì, một là phong trào u nước có vị trí, vai
trị cực kỳ to lớn trong phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần
trường tồn trong lịch sử dân tộc ta. Nó có trước phong trào cơng nhân và liên tục, bền bỉ trong
hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước để trở thành chủ nghĩa yêu nước và là văn hóa tốt đẹp nhất
Page 2


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
của dân tộc Việt Nam. Hai là, phong trào công nhân kết hợp với phong trào u nước bởi vì hai
phong trào đó có mục tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam hoàn
toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa chính bản thân phong trào cơng nhân
cũng mang tính chất của phong trào u nước, vì phong trào đấu tranh công nhân không chỉ
chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại ách áp bức dân tộc. Ba là phong trào công nhân
kết hợp với phong trào nơng dân vì nói tới phong trào u nước là phải có nơng dân, nơng dân
chiếm hơn 90% dân số và là đồng minh chính của cơng nhân. Do đó hai giai cấp có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau và hợp thành quân chủ lực của cách mạng. Bốn là, phong trào yêu nước của

tri thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Tuy số lượng tri thức không nhiều nhưng lại là “ ngòi nổ ” cho các phong
trào yêu nước bùng phát chống thực dân Pháp và bọn tay sai, cũng như sự thúc đẩy cách tân và
chấn hưng đất nước.
2. Xây dựng Đảng – Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh xây dựng
Đảng như một nhiệm vụ tất yếu, thường xun để Đảng hồn thành vai trị chiến sĩ tiên phong
trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Xây dựng Đảng là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. Khi
cách mạng gặp khó khăn, Đảng giúp cán bộ, đảng viên củng cố lập trường quan điểm, bình tĩnh,
sáng suốt, không tỏ ra bị động lúng túng hay bi quan. Ngay cả khi thắng lợi xây dựng Đảng để
xây dựng những quan điểm, tư tưởng, ngăn ngừa chủ quan, tự mãn và rơi vào căn bệnh “ kiêu
ngạo cộng sản ” – theo cách nói của Lênin.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được Hồ Chí Minh lí giải hết
sức thuyết phục theo căn cứ sau đây:
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo. sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá
trình bao gồm nhiều thời kỳ và giai đoạn, mỗi giai đoạn có những yêu cầu riêng và
nhiệm vụ cụ thể vì thế Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng
trách. Đảng ta lớn lên, trưởng thành gắn liền với sự phát triển của đất nước và dân
tộc, Đảng thực sự là một cơ thể sống luôn tự hồn thiện và vượt lên.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng là một bộ phận hợp thành xã hội vì thế mỗi cán bộ, đảng
viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của cái xấu và cái tốt. Do đó mỗi cán bộ, đảng
viên phải thường xuyên rèn luyện; Đảng phải thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn
Đảng. Đặc biệt trong thời kỳ quá đọ lên chủ nghĩa xã hội như việt nam hiên nay thì
việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải được chú ý, quan tâm đặc biệt.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ đảng viên tự rèn luyện, giáo dục
và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Xây dựng chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán
bộ đảng viên hiểu rõ, hiểu đúng và thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng. đặc biệt là giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng tiêu biểu.

Page 3


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
-

Trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng chỉnh đốn Đảng lại
được Hồ Chí Minh coi là cơng việc phải được tiến hành thường xuyên hơn của Đảng.
Bởi lẽ sự nhạy bén về chính trị Người đã nhìn thấy và nhận diện rõ tính hai mặt vốn
có của quyền lực, một mặt có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội nếu sử dụng đúng,
mặt khác sẽ bị phá hoại nếu người cầm quyền bị biến chất chạy theo quyền lực, lạm
dụng, lộng quyền,… Vì vậy Đảng phải ln cẩn trọng, luôn quan tâm để chỉnh đốn và
đổi mới, ngăn chặn, tẩy trừ mọi tệ nạn do thối hóa trong khi Đảng lãnh đạo chính
quyền nhà nước.
Nhìn một cách tổng quát, theo Hồ Chí Minh xây dựng và chính đốn Đảng mang tính
quy luật và là nhu cầu tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng
nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những
yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới, chỉnh
đốn Đảng sẽ làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về hành động, đủ sức lái
con thuyền cách mạng Việt Nam tiến về phía trước vượt qua những khúc quanh đầy thử
thách và chông gai.
3. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam
a. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: để đạt được mục tiêu cách mạng thì phải dựa vào lí luận cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác-LêNin. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững mạnh thì phải
có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải tn theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có kim chỉ nam”.
“Chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác-LêNin.

Chủ nghĩa Mác-LêNin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho đường lối của Đảng. Trong việc
tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh lưu ý:
- Một là, việc học tập nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-LêNin phải luôn phù
hợp với từng đối tượng.
- Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác-LêNin phải luôn phù hợp với từng hoàn cảnh,
tránh giáo điều, đồng thời chống việc xa rowifcacs nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác-LêNin.
Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh
nghiệm tốt của đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của
mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác-LêNin. Chủ nghĩa Mác-LêNin là học thuyết nêu
lên vấn đề cơ bản nhất nên mỗi đảng cần vận dụng vào điều kiện riêng của mình.
- Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác-LêNin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác-LêNin, chống lại
những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-LêNin.

Page 4


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh

b , Xây dựng Đảng về chính trị
+ Xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị,xây dựng và bảo vệ nghị quyết, xây dựng và
bảo vệ hệ tư tưởng chính trị,củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị….
+ Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo của mình chủ yếu bằng việc ra cương lĩnh, đường lối chiến
lược, phương hướng phát triển kinh tế-sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã
hội theo hướng lâu dài cũng như của từng giai đoạn.
+ Đường lối chính trị phải dựa trên cương lĩnh chính trị của Mác-Lênin, vận dụng nó vào hồn
cảnh cụ thể của nước ta ở từng thời kỳ.
+ Giáo dục đường lối ,chính sách của Đảng, thong tin cho cán bộ, đảng viên để họ luôn kiên

định lập trường, giữ vững bản lĩnh trong mọi hoàn cảnh.Người cảnh báo nguy cơ sai lầm về
đường lối chính trị gây hậu họa nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc,sinh mệnh chính trị
của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu người dân lao động
c , Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ
Một là, tránh nguy cơ tha hoá, biến chất khi trở thành Đảng cầm quyền.
Hồ Chí Minh cho rằng, khi có chính quyền, vấn đề quan trọng nhất đặt ra trong công tác xây
dựng Đảng là phải tránh nguy cơ tha hố, biến chất trong Đảng, trong đó Người đặc biệt nhấn
mạnh phải chống sự hủ hoá, kiêu ngạo, cửa quyền của cán bộ, đảng viên. Ngay sau khi Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trong
“Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà” (17-9-1945), Người đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “đề
phịng hủ hố”, “lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ cơng dinh
tư”
Tiếp đó, trong “Thư gửi uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” (10-1945), Người đã chỉ
rõ: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu nước
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”; bởi thế
cán bộ phải tránh thói cậy thế, cửa quyền, ức hiếp dân. Người cảnh báo cán bộ, đảng viên phải
tránh “ngày càng xa xỉ”. Trong bài “Công việc khẩn cấp bây giờ” (5-11-1946), Người tiếp tục chỉ
rõ “cần phải rửa sạch những thói hẹp hịi, phu diễn (phơ trương, hình thức - BT), tự đại, ỷ lại,
lười biếng, nhút nhát, hủ hố”. Trong “Thư gửi các đồng chí Bắc bộ” (1947), người tiếp tục nhấn
mạnh: cán bộ, đảng viên phải chống thói ích kỷ, hủ hố, tự cao tự đại, tính kêu ngạo, tự mãn.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải có thái độ khiêm tốn, “càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn,
phải có lịng cầu tiến bộ”.
Theo Hồ Chí Minh, tư cách một đảng cách mạng chân chính là “Đảng không phải là một tổ chức
để làm quan phát tài. Nó phải làm trọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng”. Để Đảng trong sạch, vững mạnh, “Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những
phần tử hủ hố ra ngồi”

Page 5



Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
Người luôn nhắc cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. Theo Người, “do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ơ, hủ hố,
lãng phí, xa hoa... do chủ nghĩa cá nhân mà mất đồn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém
tinh thần trách nhiệm…, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”; đồng thời, cũng do
chủ nghĩa cá nhân mà dẫn đến hàng loạt “bệnh” nguy hiểm đối với sự tồn tại và phát triển của
Đảng, như: bệnh chủ quan, bệnh kiêu ngạo, bệnh hẹp hịi, óc địa phương, bè phái, bệnh phơ
trương, hình thức “hữu danh, vơ thực”, bệnh sách vở, thói ba hoa, tham lam, lười biếng, tị nạnh,
bệnh xu nịnh, a dua, xa rời quần chúng v.v... Chính vì vậy, Người cảnh báo: “Một dân tộc, một
đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người u mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là một loại bệnh rất dễ mắc phải, nhất là sau khi đảng đã
giành được chính quyền, nhưng lại là căn bệnh khơng dễ chữa trị. Để có thể chữa được căn bệnh
này, cán bộ, đảng viên phải tích cực học tập, rèn luyện, nêu cao tính đảng, thấm nhuần và thực
hành đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Hai là, nêu cao tính tiên phong của Đảng và sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đây là một u cầu có tính ngun tắc, một mong mỏi lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng và
mọi cán bộ, đảng viên của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong
lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Đảng lãnh đạo
cách mạng bằng chủ trương, đường lối, bằng công tác tư tưởng, lý luận, đồng thời qua hành động
tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Người cho rằng, “Nói lãnh đạo mà khơng gương mẫu thì lãnh đạo làm sao được?”. Để xứng
đáng với vai trò tiền phong lãnh đạo, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải không ngừng học
tập, rèn luyện, nâng cao trình độ trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức. Đảng phải thật sự tiền
phong cả về tư tưởng, nhận thức, đạo đức và hành động, phải đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo,
đội ngũ cán bộ, đảng viên phải hăng hái đi trước, nêu gương cho quần chúng noi theo.
Trước hết phải là tiên phong về trí tuệ, tư tưởng lý luận. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh”(1927), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải

mạnh, “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có
bàn chỉ nam”. Trong cuốn “Thường thức chính trị”(1954), Hồ Chí Minh trích lời của V.I.Lênin:
“Chỉ có lý luận tiên tiến, Đảng mới có thể thực hiện vai trò chiến sĩ tiên tiến”; đồng thời, Người
nhấn mạnh: Đối với công việc kháng chiến và kiến quốc, lý luận là rất quan trọng. Không hiểu lý
luận thì như người mù đi đêm. Lý luận làm cho quần chúng giác ngộ, bày cho quần chúng tổ
chức, động viên quần chúng để đấu tranh cho đúng. Nhờ lý luận mà quần chúng hiểu rõ nguyên
nhân vì sao mà cực khổ, thấy rõ đường lối đấu tranh để giải phóng mình, hiểu rõ phương pháp
đấu tranh. “Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát hiện được
tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình".
Theo Hồ Chí Minh, lý luận tiền phong của Đảng chính là Chủ nghĩa Mác - Lênin. Người tổng
kết “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trong bài “Chủ nghĩa Lênin và cơng cuộc giải phóng
các dân tộc bị áp bức” (4-1955), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lênin đã để lại cho chúng tôi một
kho tàng quý báu vô ngần: học thuyết của Người về cơ sở tư tưởng, về những nguyên tắc tổ
Page 6


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
chức, về lý luận và sách lược của đảng cách mạng. Chủ nghĩa Lênin là lực lượng tư tưởng hùng
mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tơi có thể trở thành hình thức tổ chức cao
nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng
tơi”.
Hồ Chí Minh cịn địi hỏi Đảng phải tiên phong trong hành động thực tiễn. Người yêu cầu “Đảng
kết hợp lý luận với kinh nghiệm và thực hành của cách mạng Việt Nam. Đảng áp dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp Mác- Lênin mà giải quyết các vấn đề thực tế của cách mạng
Việt Nam… không phải chỉ học thuộc lòng vài bộ sách của Mác-Lênin mà làm được như vậy.
Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải

quyết tâm phấn đấu cho giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào lực lượng và sáng kiến của
quần chúng, phải gom góp tư tưởng, kinh nghiệm, sáng kiến và ý chí của quần chúng, sắp xếp nó
thành hệ thống, rồi lại áp dụng vào trong quần chúng”.
Để nâng cao tính tiên phong của Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải nêu cao
tính tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động, cả nhận thức, trí tuệ, đạo đức và hành động
thực tiễn. Có thể nói đây là một trong những nội dung, yêu cầu đặc biệt quan trọng trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xuất hiện trong rất nhiều bài nói, bài viết của Người.
Theo Hồ Chí Minh, yêu cầu này xuất phát từ chính vị trí, vai trị lãnh đạo và bản chất cách mạng
của Đảng. Người chỉ rõ: Đảng Lao động Việt Nam “gồm những cơng nhân, nơng dân và lao
động trí óc u nước nhất, hăng hái nhất, cách mệnh nhất. Nó sẽ gồm những người kiên quyết
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự lao động, những người chí cơng vô tư, làm
gương mẫu trong công cuộc kháng chiến kiến quốc”. Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho
Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng
hiểu rõ và vui lòng thi hành. Muốn cho quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng viên ắt phải
xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo.
Hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân
dân. Vì vậy, trách nhiệm, lương tâm và đạo đức của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức
nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần
chúng, “Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải miệng nói tay làm, phải xung phong gương mẫu”.
Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng; phải ngăn ngừa
và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, đồng thời phải “Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin
và đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ, khơng ngừng nâng
cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực cơng tác của mình”.
Hồ Chí Minh cịn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, dù ở địa vị cao hay thấp và ở đâu cũng phải làm
gương mẫu cho quần chúng. Người nói “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo
phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải khơng ngừng nâng
cao chí khí cách mạng trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”
Để nâng cao tính tiên phong của Đảng, Người còn nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên ta phải là một
chiến sĩ tích cực gương mẫu, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và của nhân dân. Mỗi chi bộ

ta phải là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước
nhà. Mỗi cấp uỷ Đảng phải là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy phong trào cách mạng sôi nổi tiến lên".
Ba là, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
1- Dân chủ tập trung. Hồ Chí Minh cho rằng, đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, là một
nguyên tắc bất di bất dịch, nhưng lại được thể hiện một cách sinh động trong tổ chức và hoạt
Page 7


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
động của Đảng. Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung, nghĩa là: Đảng “có đảng
chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng
đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục
tùng Trung ương. Trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới, đảng viên cũ hoặc đảng viên mới,
đều nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp vơ sản”.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau, là hai mặt
của một vấn đề. Dân chủ không đối lập với tập trung, mà chỉ đối lập với tình trạng độc đốn,
chun quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ, mà chỉ đối lập với tình trạng tản mát, tự do
tùy tiện, vô tổ chức. Dân chủ là “cơ sở của tập trung”, để đi đến tập trung, dưới sự chỉ đạo của
tập trung. Tập trung phải trên “nền tảng dân chủ”, sự tập trung đích thực chỉ có thể đạt được trên
cơ sở phát huy dân chủ thật sự trong Đảng. Để bảo đảm tính dân chủ và tính tập trung đích thực
trong nhận thức và hành động, Hồ Chí Minh yêu cầu tư tưởng phải được tự do. Người cho rằng,
đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một
quyền lợi mà cũng chính là nghĩa vụ của mọi người. “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Như vậy, chân
lý, sự đúng đắn, hợp quy luật trong các quyết sách của Đảng chính là sự kết tinh của dân chủ,
đồng thời việc thực hiện thắng lợi những quyết sách đó cũng là biểu hiện cao nhất của tập trung.
2-Tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, đồng thời là quy
luật phát triển của Đảng. Người chỉ rõ: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một
Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà

có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa
khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Bởi vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng và chỉnh đốn Đảng, phải thực hiện tự phê bình
và phê bình nghiêm túc. Tự phê bình và phê bình là thang thuốc quý để chữa các căn bệnh trong
Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Người thường nói, khuyết điểm cũng như chứng bệnh, phê bình
cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh mà giấu bệnh, khơng dám uống thuốc. Nếu
nể nang khơng phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác
nào cứ thấy đồng chí mình ốm mà khơng chữa cho họ. Khơng dám tự phê bình, để cho khuyết
điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình bỏ thuốc độc cho mình.
Khơng những chỉ rõ mục đích, nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình
trong Đảng mà Hồ Chí Minh cịn nêu rõ phương châm, phương pháp phê bình và tự phê bình sao
cho đúng đắn. Người nói: “Phê bình là cốt để giúp nhau tiến bộ. Cho nên phê bình phải có thái
độ thành khẩn, tính chất xây dựng. Khơng nên phê bình ẩu, phê bình sng. Khi phê bình cần
phải xét nguyên nhân của khuyết điểm, phải cân nhắc đến ưu điểm, phải đề ra cách sửa chữa”.
Người cũng yêu cầu: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đồn kết, thống nhất của Đảng.
Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
3- Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Hồ Chí Minh cho rằng, “Sức mạnh vơ địch của Đảng là ở
tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên”. Người khẳng
định, nhờ có kỷ luật mà Đảng ta đồn kết, nhất trí, mạnh mẽ, lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Kỷ
luật trong Đảng là kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác.
Đảng ta gồm những người ưu tú, tiên tiến, tự nguyện, có cùng mục đích. Nhưng Đảng cũng ở
trong xã hội mà ra, vì vậy khó tránh khỏi những tập tục, những thói hư, tật xấu của xã hội bên
ngồi có nguy cơ lây lan vào trong Đảng. Do vậy, trong quá trình giáo dục, rèn luyện Đảng ta,
Page 8


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
Người ln địi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải luôn “giữ vững kỷ luật của Đảng, phải phục tùng

sự lãnh đạo và chấp hành những nghị quyết của Đảng”. Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi
chi bộ, mỗi cấp ủy dù ở cấp nào, cũng đều phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của Đảng, biến kỷ
luật thành ý thức và hành động tự giác. Có kỷ luật thống nhất mới có sự thống nhất ý chí, thống
nhất hành động và Đảng ta mới có sức mạnh.
4- Giữ gìn và củng cố sự đồn kết thống nhất trong Đảng. Theo Hồ Chí Minh, đây là một
nguyên tắc đặc biệt quan trọng trong hoạt động lãnh đạo và hoạt động xây dựng nội bộ của
Đảng. Người khẳng định: “Với sự đoàn kết nhất trí và lịng cương quyết quật cường của Đảng,
của Chính phủ và của toàn dân, chúng ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn để đi đến hồn
tồn thắng lợi”. Trong bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương (11-5-1952), Người chỉ
rõ “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu. Tồn Đảng phải tư
tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đồn kết nhất trí mới làm trọn nhiệm vụ của Đảng”.
Hồ Chí Minh thấm nhuần ngun lý đồn kết thống nhất của Đảng cộng sản bằng cả lý trí và tình
cảm. Người đã vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và làm phong phú thêm nội dung của nguyên lý
đoàn kết thống nhất trong Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta. Trong Di chúc
thiêng liêng để lại cho tồn Đảng, tồn dân ta, Người cịn căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Bốn là, chỉnh đốn tác phong lãnh đạo, lề lối làm việc, tăng cường công tác kiểm tra.
Theo Hồ Chí Minh chỉnh đốn tác phong, lề lối làm việc là một u cầu có tính cấp bách đối với
hoạt động lãnh đạo của một đảng cầm quyền ra đời ở một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa,
nửa phong kiến như Đảng ta. Bởi vậy, trong suốt q trình lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên các cấp của Đảng, Chính phủ và đồn thể phải chỉnh đốn
tác phong cơng tác và lề lối làm việc. Trong bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương,
Người đã nhấn mạnh: “Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan
trọng. Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm
việc của các đồng chí”.
Người yêu cầu cán bộ phụ trách ở trung ương "cần phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết
công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít ...", "Phải sửa
đổi lề lối làm việc cho thiết thực, để giải quyết công việc cho tốt, cho nhanh"; làm việc gì cũng
phải có tổ chức tốt, lãnh đạo phải sâu sát thực tế; lề lối làm việc phải dân chủ, cấp trên phải

thường xuyên kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phải phê bình cấp trên.
Để sửa đổi lề lối làm việc, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi việc bất kỳ to, nhỏ, phải có kế hoạch, phải
bàn bạc kỹ, phải giải thích cho dân hiểu rõ, sao cho dân vui vẻ thi đua làm, hết sức tránh bệnh
quan liêu, mệnh lệnh. Người chỉ rõ: “Cần phải gắn chặt công việc với tư tưởng và lề lối làm việc,
vì mỗi cơng việc thành hay bại đều do tư tưởng và lề lối làm việc đúng hay sai.
Để đổi mới phong cách lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu: lãnh đạo phải toàn diện, cụ
thể, sâu sát thực tế, cán bộ lãnh đạo các cấp phải khắc phục hiện tượng đại khái, chung chung,
tuỳ tiện, phiến diện, vô nguyên tắc, thiếu dân chủ, tác phong quan liêu mệnh lệnh, chủ quan, thoả
mãn, phải biết nghe ngóng ý kiến của cấp dưới và nhân dân. Các cấp uỷ đảng cần khuyến khích,
thu góp, bổ sung và phổ biến rộng rãi những sáng kiến hay, những kinh nghiệm tốt của quần
chúng. Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng phải dùng cách “từ trong quần chúng
ra, trở lại nơi quần chúng”, nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân
tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống, rồi đem nó ra tuyên truyền,
Page 9


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
giải thích cho quần chúng, và làm cho nó trở thành ý kiến của quần chúng, làm cho quần chúng
giữ vững và thực hành những ý kiến đó.
Trong q trình quần chúng thực hiện thì tổ chức đảng xem xét lại, rút kinh nghiệm, phát huy ưu
điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém. Trong công việc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, cũng như trong mọi công việc khác, phải thực hành cách liên hợp sự lãnh đạo với quần
chúng và liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng, phá bỏ cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu,
chủ quan, bàn giấy.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh yêu cầu các
cấp uỷ đảng phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, theo dõi việc thực hiện. Đảng phải luôn luôn
xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu khơng vậy thì
những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hố ra lời nói sng mà cịn hại đến lòng tin cậy của nhân dân
đối với Đảng. Trong bài nói tại Hội nghị tổng kết cơng tác kiểm tra của Đảng (29-7-1964),

Người chỉ rõ, công việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. “Muốn hoàn thành tốt mọi việc,
thì tồn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng.
Và muốn như vậy, thì các cấp uỷ đảng phải tăng cường cơng tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác
dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà
nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng,
về tổ chức”.
Người thường nhắc các cấp uỷ đảng phải “có tinh thần phụ trách, theo dõi, kiểm tra, giúp đỡ cán
bộ”, lãnh đạo phải theo dõi thật sát, kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm. Người phê bình một số
cấp uỷ đảng chỉ mải mê cơng việc hành chính, sự vụ, “không chịu theo dõi việc làm hàng ngày
của cán bộ, đảng viên”; hoặc “Cán bộ chỉ lo viết cho nhiều chỉ thị, thông tư... Nhưng không lo
việc làm phải ăn khớp với lời nói, chỉ thị phải có thể thực hành. Cán bộ nhầm tưởng rằng cứ gửi
nhiều thông tư, chỉ thị, là xong việc; mà không theo dõi, đôn đốc giúp đỡ địa phương, không
kiểm tra công việc thực tế”.
Năm là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ là “việc gốc” của Đảng.
Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Hồ Chí
Minh dành nhiều thời gian và tâm huyết nhất. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, ở đâu và
lúc nào, Hồ Chí Minh cũng ln quan tâm đến vấn đề cán bộ và cơng tác cán bộ. Theo Hồ Chí
Minh, cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. “Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, trình độ và
năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu ra nhiều biện pháp cụ thể,
thiết thực:
1- Tăng cường huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng, “Phải ra sức bồi
dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, cũng như trình độ
chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác”.
Người đã nhiều lần nhấn mạnh, huấn luyện cán bộ là việc rất quan trọng, nhưng không phải là
một việc đơn giản, phải thiết thực, chu đáo, muốn làm được thì phải hiểu cho thấu. Nội dung
huấn luyện phải thiết thực, bao gồm những nội dung cơ bản là: Huấn luyện nghề nghiệp, “phải
thực hành khẩu hiệu, làm việc gì, học việc ấy”; Huấn luyện chính trị, cán bộ nào cũng phải học,

nhưng tuỳ theo chuyên môn của cán bộ mà định nhiều hay ít; Huấn luyện văn hố, trước hết phải
dạy cho cán bộ những thường thức về lịch sử, địa lý, khoa học tự nhiên, xã hội; Huấn luyện lý
Page 10


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
luận, có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho
đúng, làm cho đúng. Hồ Chí Minh cũng nêu rõ cách huấn luyện cán bộ phải thiết thực, chu đáo,
không tham nhiều, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”; huấn luyện từ dưới lên trên; phải gắn liền lý
luận với công tác thực tế; huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu; huấn luyện phải chú trọng việc
cải tạo tư tưởng, v.v...
2- Biết dùng cán bộ. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh đã nêu những quan điểm rất sâu
sắc về cách dùng cán bộ. Người cho rằng: Phải biết khéo dùng cán bộ, dùng cán bộ cũng như
“dụng mộc”, tuỳ tài, tuỳ việc mà dùng người, tránh ham dùng người bà con, anh em quen biết,
bầu bạn, những kẻ khéo nịnh hót mình, chán ghét những người chính trực.
Theo Hồ Chí Minh, cái tài trong dùng cán bộ là phải khiến cho họ yên tâm, vui thú, hăng say làm
việc. Muốn như thế, phải thực hành những điểm quan trọng là: phải khiến cho cán bộ cả gan nói,
cả gan đề ra ý kiến; có gan phụ trách, có gan làm việc; phải tin cán bộ, không nên tự tôn, tự đại;
phải biết phân phối cán bộ cho đúng, phải dùng người đúng chỗ, đúng việc.
3- Lựa chọn, cất nhắc đúng cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng, lựa chọn cán bộ, dùng cán bộ cho
đúng đó mới là “tinh cán”, hai việc đó phải đi đôi với nhau. Để dùng được đúng cán bộ, thì phải
biết rõ cán bộ. Người cho rằng, nếu Đảng “chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ, đó là
một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy
những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hố cũng lịi ra”.
Theo Hồ Chí Minh, trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét rõ ràng. Chẳng những xem xét cơng
tác của họ, mà cịn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của
họ, mà cịn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng
những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào. Ta
nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không. Phải biết ưu điểm của họ,

mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ xem công việc của họ trong một lúc, mà
phải xem cả công việc của họ từ trước đến nay. Biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ
một cách đúng mực.
4- Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện pháp có quan hệ mật
thiết đối với nhiều khâu trong công tác cán bộ và có tác dụng lâu dài trong xây dựng đội ngũ cán
bộ của Đảng. Biện pháp này có nhiều nội dung như: phải có gan cất nhắc cán bộ; phải quan tâm,
yêu thương cán bộ; phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi và cán bộ nữ
vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động thích hợp.
d, Xây dựng Đảng về đạo đức
Đại hội IX của Đảng ta đã đưa ra một mệnh đề cấu thành định nghĩa rất chuẩn xác về tư
tưởng Hồ Chí Minh, rằng "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cần
được nghiên cứu khơng phải dưới góc độ những ý kiến, những suy nghĩ riêng lẻ, cụ thể, mà trong
sự tổng hợp có tính hệ thống, tức là nghiên cứu dưới góc độ một học thuyết chính trị - cách
mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Nói
cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa, và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lại là một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu, một mẫu mực tuyệt vời về đạo đức,
không chỉ đạo đức của con người xã hội mà còn là đạo đức của một lãnh tụ cách mạng, suốt đời
hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xã hội, vì hạnh phúc
Page 11


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
của nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh khơng chỉ là nghiên cứu
những phẩm chất cao quý thể hiện trong cuộc sống của Người, mà còn là nghiên cứu những quan
điểm của Người về đạo đức, những quan điểm đó đã, đang và sẽ cịn chỉ đạo dài lâu cho sự
nghiệp của Đảng ta xây dựng văn hóa dân tộc nói chung và xây dựng văn hóa trong Đảng nói
riêng.

Xuyên suốt các tác phẩm của Người, từ "Đường Cách mệnh" (1927), "Sửa đổi lối làm việc"
(1947), "Cần, kiệm, liêm, chính" (1949) cho đến "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân" (1969) và bản Di chúc của Người (1969), ta thấy toát lên tinh thần và những nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Khái niệm đạo đức, được Hồ Chí Minh tập trung đề cập trong các tác phẩm của Người là
đạo đức của xã hội mới, cao hơn nữa là đạo đức cách mạng, đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Những phẩm chất đạo đức cao quý chung nhất, cơ bản nhất mà Người nêu lên đối với cán bộ
cách mạng:
Một là: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng. Không phải một lần mà rất nhiều lần, không phải đối với một số đối tượng
nhất định mà đối với rất nhiều đối tượng khác nhau, Người luôn luôn nhắc nhở rằng, điều chủ
chốt nhất của đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, là
tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, là trung với nước, hiếu với dân.
Hai là: Nhân, nghĩa, trí, dũng. Nhân là thật thà u thương, giúp đỡ đồng chí và đồng bào.
Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế
mà sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà khơng ham
giàu sang, khơng ngại cực khổ, không sợ uy quyền. Nghĩa là ngay thẳng, khơng có tà tâm, khơng
làm việc bậy, khơng có việc gì phải giấu Đảng. Trí là đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý
luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, xét việc,... Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc
phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa; cực khổ khó khăn có gan chịu đựng; có gan
chống lại vinh hoa phú q khơng chính đáng; nếu cần, có gan hy sinh cả tính mạng mình...
Ba là: Cần, kiệm, liêm, chính. Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch,
sáng tạo, có năng suất cao; không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; thấy rõ lao động là
nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta... Kiệm là tiết kiệm sức lao
động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình, khơng xa
xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi; khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan chè chén lu
bù... Liêm là ln ln tơn trọng, gìn giữ của công và của dân; phải trong sạch, không tham lam;
không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, khơng ham người tâng bốc
mình... Chính "nghĩa là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình thì khơng tự cao, tự đại,

ln ln chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa chữa
điều dở... Đối với người thì khơng nịnh hót cấp trên, khơng xem khinh người dưới; ln ln giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết, thật thà, khơng dối trá, lừa lọc. Đối với việc thì để việc
công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà... Cần, kiệm, liêm, chính ln ln đi liền với chí cơng,
vơ tư, tức là hết lịng chăm lo cơng việc chung, khơng tơ hào, tư lợi.
Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư đều là những
khái niệm vốn có từ Nho học và đạo đức từ lâu đời của ông cha ta, song đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh đổi mới và phát triển, thậm chí có những khái niệm đổi mới hẳn về nội dung, như xưa
kia là trung với vua, hiếu với cha mẹ, nay là trung với nước, hiếu với dân. Do đó, những phẩm
chất đạo đức được Người nêu lên chính là những phẩm chất của đạo đức mới, của con người mới
Page 12


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
và nền văn hóa mới. Nó là sự kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại.
Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cịn có tầm
sâu rộng hơn, vượt qua khuôn khổ quốc gia để tạo nên sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, xem "bốn phương vô sản đều là anh em"...
II, Sự vận dụng của Đảng ta
1, Bối cảnh thế giới và trong nước(Lam)
a , Bối cảnh thế giới.
b, Bối cảnh trong nước.
2, Những thách thức và cơ hội đặt ra cho Đảng trong công cuộc đổi mới và xây dựng ĐCSVN
vững mạnh.
a , Đảng quyết định đổi mới đất nước
Việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng đã đạt kết quả rất quan trọng, là nhân tố quyết định để công cuộc
đổi mới trên đất nước ta giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện; kinh tế tăng trưởng khá

nhanh; đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị ổn định; quốc phịng, an ninh được
giữ vững, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh trên đất nước ta trong nhiều năm tới đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tự đổi mới mạnh mẽ và
nhiều hơn nữa, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng và lòng mong muốn của nhân dân.
b, Thách thức và thuận lợi
- Thách thức:
+ Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng
với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác tài nguyên; các cân
đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển chậm, gia cơng, lắp ráp cịn
chiếm tỉ trọng lớn. Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực
nhưng cịn chậm. Cơ cấu trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động xã
hội thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải
thiện. Đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất thốt, lãng
phí, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu
đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng nhiều cơng trình xây
dựng cơ bản còn thấp. Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn
Page 13


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
lãng phí. Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn cịn xảy ra ở nhiều
nơi, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời. Trình độ phát triển giữa các vùng
cách biệt lớn và có xu hướng mở rộng. Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể,
các nông, lâm trường quốc doanh chậm, lúng túng. Chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch,

kế hoạch phát triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai, tài ngun khống
sản cịn yếu, gây lãng phí, thất thốt lớn.
+ Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Nhận thức về quốc
phịng tồn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa
đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch và
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực cịn
có những thiếu sót; xử lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi cịn bị động, tội phạm
hình sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội ở một số địa bàn cịn diễn biến
phức tạp. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an
ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo cịn chưa chặt chẽ. Cơng nghiệp quốc phịng,
an ninh chưa đáp ứng yêu cầu trang bị cho các lực lượng vũ trang. Công tác nghiên cứu, dự báo
chiến lược về đối ngoại có mặt cịn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao
Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa
thật đồng bộ.
+ Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Quyền làm chủ
của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn
mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây
rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn
dân tộc, về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ thành
pháp luật; hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc; công tác kiểm tra, đôn
đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực hiện còn cách biệt. Việc tuyên truyền,
vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và
quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn
yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm;
chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách
hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính cịn gây phiền hà cho tổ chức và công dân.

Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp
mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm sốt; trật tự, kỷ cương xã hội khơng nghiêm. Cải cách tư pháp
cịn chậm, chưa đồng bộ. Cơng tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp
chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa cịn nhiều. Cơng tác phịng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm
trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Page 14


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
+ Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục. Công tác nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của cơng tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hồ bình”. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những
tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng
với sự phân hoá giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất
nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi
vào chiều sâu, ở một số nơi cịn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu
cầu. Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự tinh
gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ cịn
chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát
hiện và sử dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục. Cơng tác cán bộ thiếu tầm
nhìn xa. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ
chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ;

chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với công việc. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng cịn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa
chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình
yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi cịn chậm, vai trị của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của
một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội. Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có
vấn đề lịch sử chính trị cịn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét, giải quyết những vấn đề
chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan
tâm chỉ đạo đúng mức công tác này. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi
trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều
lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết
điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm,
cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp
uỷ chưa tốt. Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đồn thể nhân dân chưa quan tâm
đúng mức cơng tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng vẫn nặng tính
hành chính. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng
đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong
cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ cịn bị vi
phạm, ảnh hưởng đến sự đồn kết
+ Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hố, xã hội, mơi trường cịn nhiều
hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội. Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu
Page 15


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn cịn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang

đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với
nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và
học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo;
chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục cịn lúng túng. Xu hướng thương mại hố và sa
sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của
xã hội.
+ Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết chặt chẽ với mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học, cơng nghệ cịn sơ khai, chưa tạo
sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh. Đầu tư cho khoa học,
cơng nghệ cịn thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Trình độ cơng nghệ nhìn chung cịn lạc hậu, đổi mới
chậm.
+ Tình trạng thiếu việc làm cịn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được cán
bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm với cơng việc. Đời sống của một bộ phận dân cư,
nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn. Xố đói, giảm nghèo chưa bền vững,
tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng dỗng ra.
Chất lượng cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cịn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y
tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng
bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát
chặt chẽ.
+ Văn hoá phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hố, văn nghệ, báo
chí, xuất bản cịn thiếu chặt chẽ. Mơi trường văn hố bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái
với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ
độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại.
+ Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ mơi trường cịn chậm, thực hiện chưa nghiêm,
hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức
báo động. Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả
của thiên tai cịn nặng nề.
+ Cơng tác xã hội hố chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nhiều nguồn lực ngoài ngân
sách nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ, văn hố, giải quyết các vấn

đề xã hội, môi trường.
- Thuận lợi:
+ Đảng lãnh đạo xây dựng và khơng ngừng hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân. Lãnh đạo q trình cụ thể hóa, thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối của
Page 16


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà
nước và chính quyền các cấp, bố trí cán bộ trong bộ máy chính quyền Nhà nước, kiểm tra, giám
sát hoạt động của Nhà nước bảo đảm cho Nhà nước phát huy cao độ hiệu lực, hiệu quả quản lí,
thực hiện đúng đắn đường lối của Đảng, lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước khơng
ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để quản lí tốt nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt các chính sách xã hội, an sinh xã hội, chăm lo đời sống của nhân
dân, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại. Quốc hội không
ngừng đổi mới để thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề to lớn của đất
nước và giám sát tối cao. Đẩy mạnh cải cách hành chính để Chính phủ và chính quyền các cấp
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lí hành chính nhà nước. Cải cách thể chế hành chính, tổ
chức bộ máy, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ công chức, cải cách tài chính cơng
là những vấn đề bức thiết hiện nay. Đẩy mạnh cải cách tư pháp. Nắm vững quan điểm: Quyền
lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan làm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện;
chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hố thành luật pháp, cơ chế, chính
sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố
thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có
bước phát triển mạnh.
+ Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Thế
trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an
ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công tác giáo
dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng,
an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được
củng cố, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là
lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trị tham mưu, góp phần chủ động
phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các
loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội phạm có yếu
tố nước ngồi, tội phạm lợi dụng cơng nghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành
cơng vụ; tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt
động cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục thiên tai. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và
ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với
các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng.

Page 17


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc được củng cố. Đảng
và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ,
bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Công tác dân vận của hệ thống
chính trị có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các cấp uỷ đảng, chính quyền lắng nghe,
tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ
trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân
được phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật được coi trọng.

+ Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ
sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều
phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.
+ Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả
hoạt động được nâng lên.Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào
những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, dự tốn ngân sách nhà nước, các dự án, cơng trình trọng điểm quốc gia có
chất lượng và thực chất hơn. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh,
giảm đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lý, điều hành của
Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề
lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp
thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc thực hiện các thủ tục tố
tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội
phạm. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng
từng bước được kiềm chế.
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường. Công tác lý luận đã chủ động nghiên
cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế
giới; giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cơng tác
tun truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân,chủ động hơn trong đấu tranh chống “diễn biến hồ bình”,
bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Các hoạt động
thơng tin, báo chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng ngăn ngừa, khắc phục
những lệch lạc, nhất là biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích. Cơng tác thơng tin đối ngoại được đẩy

mạnh. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công
cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước.
3, Sự vận dụng xây dựng và phát triển Đảng ta.

Page 18


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
a,Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra các chủ
chương, giải pháp phù hợp cho từng giai đoạn
Tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu được đưa ra trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc chống
thực dân Pháp, trước cách mạng tháng 8 và một số được đúc kết sau này trong suốt quá trình
chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, xây dựng Đảng Cộng sản và chính quyền cộng sản. Theo
nhận định, đây là sự kết hợp của các luồng tư tưởng và văn hóa của Việt Nam, cách mạng Pháp,
tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Marx Lenin, tư tưởng văn hóa phương Đơng.
Hiến pháp 1992 và Điều lệ của Đảng Cộng Sản Việt Nam đều lấy Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng
với chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng định hướng cho sự phát triển của Việt Nam và Đảng.
3.1, Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù
hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của tồn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán
bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối
đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vơ ngun tắc.
- Khẩn trương triển khai cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại
hội XI về Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011
- 2020, phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015 và Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung); gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội (đây là điểm mới so với Đại hội X).
3.2- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận

- Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới
nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên
cứu lý luận. Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ
động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống
yêu nước, cách mạng. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động "diễn biến
hồ bình" của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên (đây là điểm mới so với Đại hội
X).
3.3- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
- Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường
xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân (đây
là điểm mới so với Đại hội X). Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải
gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân.
- Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân,
hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng
Page 19


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của
đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng.
- Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất

lượng cơng tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức
của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất
đạo đức, lối sống.
3.4- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
- Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mơ hình tổ chức của các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để có chủ
trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công
tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược (đây là điểm mới so với Đại hội X).
- Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới mơ hình tổ chức,
phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là của đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung
chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở
nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng.
- Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến
sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, độc đốn, vi phạm dân chủ, dân chủ
hình thức.
3.5- Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
- Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo
chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng
trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
- Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo
yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ
năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới;
phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện
nhiệm vụ được giao.
- Tổng kết, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân. Thực hiện thí điểm
việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng (đây là nội dung
mới so với Đại hội X).

3.6- Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém
trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát
hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao
chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt
công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên
các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên
cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hồn thiện, lấy hiệu quả cơng tác thực tế và
sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài,
Page 20


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý.
- Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy
tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương (đây là điềm mới so với Đại hội X).
- Nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn
đề về lịch sử chính trị. Chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.
3.7- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
- Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát theo Điều lệ Đảng.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống uỷ ban kiểm tra các cấp. Hoàn
thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ
pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
3.8- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
- Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế,
quy định, quy trình cơng tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt

động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh
đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân,
tơn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến
địa phương, cơ sở.
- Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng
kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc
phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở;
nói đi đơi với làm.
Những nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo:
Căn cứ vào tình hình thực tế, yêu cầu phát triển đất nước trong 5 năm tới, Nghị quyết chỉ rõ:
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong
thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau :
(1) Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
(2) Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng u cầu của cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước.
(4) Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông, yếu tố đang
gây ách tắc, cản trở sự phát triển kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân.
(5) Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, cơng chức, viên
chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân
phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
(6) Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội,
trật tự, kỷ cương xã hội).
(7) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự
ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
Page 21



Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ: Đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn và
đang vững bước đi lên. Tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, tạo cho nước ta nhiều thời cơ
nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đại hội XI của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân ta tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, phát
triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
b, Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt ở
tất cả các cấp, các nghành
– Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thối hóa, biến chất của tổ chức Đảng, làm cho
vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất ổn định chính trị – xã hội là một nguy cơ
lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên
quyết để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
– Tồn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tính chất
then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các điểm sau:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thu hút và
phát huy tiềm năng trí tuệ của tồn dân tộc.
Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây dựng xã hội mới là
cơng việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu
chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng
lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” .
Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài,
đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ dám làm,… không chỉ
là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà cịn để phát huy sức mạnh của tồn

dán tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.
Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những
tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm
trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự
tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức
Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về
nhiệm vụ xây dựng Đảng, để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta
thực sự “là đạo đức, là văn minh”.

Page 22


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
c, Giải quyết tốt mối quan hệ với dân
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu nước vào sự nghiệp
cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân có ý nghĩa lớn về lý luận và thực
tiễn trong công tác xây dựng Đảng, cần được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở tất cả các cấp,
các ngành.
– Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành vấn đề cấp
thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay gắt của nhân dân ở
một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các
“điểm nóng” liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh,…
liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự khơng bình thường trong mối quan hệ máu
thịt này.
d, Tổ chức tốt đại hội Đảng bộ các cấp theo quy định của điều lệ Đảng
Một, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác –Lênin “làm cốt”, tức làm cơ sở lý luận, làm nền tảng tư
tưởng, làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Hồ Chí Minh nhẫn mạnh: “Đảng muốn vững
mạnh thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa

ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tầu khơng có bàn chỉ nam”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Lấy chủ nghĩa đó “làm cốt”, suốt q
trình lãnh đạo Đảng ta, Hồ Chí Minh ln kiên định lập trường xây dựng Đảng theo chủ nghĩa
Mác – Lênin và Người vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Đảng
ta, của cách mạng nước ta.

Hai, Đảng phải theo, phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng là tập trung
dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm, tự giác;
đồn kết, thống nhất trong Đảng.
Về tập trung dân chủ, Hồ Chí Minh chỉ rõ đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong học thuyết
về Đảng cộng sản. Trong nguyên tắc này, tập trung và dân chủ thống nhất biện chứng với nhau
“Tập trung trên nền tảng dân chủ”, “dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”. Theo Hồ Chí Minh, thực
hiện tập trung trong Đảng là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương
phục tùng Trung ương, tất cả mọi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của tổ chức
Đảng. Về tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh chỉ rõ đây là nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng. Theo Hồ Chí Minh: “Lãnh đạo độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách khơng
do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vơ chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc”. Về tự
phê bình và phê bình, Hồ Chí Minh coi đó là quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén làm
cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm
của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những
Page 23


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiểm mọi
cách để sửa chữa khuyết điểm đó, như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân
chính”. Về kỷ luật nghiêm, tự giác, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc làm cho Đảng thực sự là
một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, có sức mạnh và Người địi hỏi “mỗi đảng viên cần phải làm kiểu

mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đồn thể nhân dân
và của cơ quan chính quyền cách mạng”. Về đoàn kết thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh chỉ
rõ đây là nguyên tắc xây dựng Đảng, là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và Người chỉ ra
cơ sở của Đoàn kết thống nhất trong Đảng là đường lối, quan điểm và Điều lệ Đảng, xa rời cơ sở
này thì chỉ có thể là sự đồn kết thống nhất hình thức, giả hiệu, tạm thời, chứa đựng nguy cơ phá
hoại đoàn kết từ trong. Nhấn mạnh nguyên tắc này, Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ
Trung ương đến chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”.

Ba, Đảng phải quan tâm xây dựng về mặt đạo đức, phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện tư
cách đạo đức cho cán bộ, đảng viên xây dựng Đảng về mặt đạo đức cách mạng là một nội dung
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản việt Nam, là bước phát triển sáng tạo của
Hồ Chí Minh đối với học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Để Đảng ta
thực sự “là đạo đức, là văn minh”, Hồ Chí Minh chỉ rõ Đảng phải rèn luyện đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên và Người yêu cầu cán bộ, đảng viên: Về phẩm chất, tư cách phải suốt đời
phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng; tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp của
Đảng; đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết, lên trước hết; có đời tư trong sáng, là
một tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân dân tin và noi theo. Về năng lực phải có trí tuệ
minh mẫn, sáng suốt, có trình độ chun mơn và nghiệp vụ giỏi, có năng lực lãnh đạo, tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đồn thể nhân dân; phải
có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; phải luôn luôn học tập với động cơ “học để làm việc, làm
người, làm cán bộ”, “học để phụng sự đoàn thể, giải cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”,
phải có phong cách tốt, sâu sát, tỉ mỉ, trước hết phải có tinh thần trách nhiệm cao khi thực hiện
nhiệm vụ.

Bốn, Đảng phải tăng cường mối quan hệ với dân. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải thường
xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kiên quyết khắc
phục bệnh quan liêu trong tổ chức Đảng và trong đảng viên; Đảng phải vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối
với dân; Đảng phải tổ chức và vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng.


Page 24


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
Năm, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Chỉ rõ thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn bản thân Đảng là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh, trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới càng cần quan tam công
tác xây dựng Đảng, việc “cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”. Hồ Chí Minh chỉ ra
Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn trên những nội dung: Tăng cường cơng tác xây dựng Đảng cả
về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phương thức lãnh đạo, đạo đức, lối sống; ln ln chú ý đề
phịng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực, thối hóa, biến chất; thường xuyên giáo dục, rèn
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ
nhân dân; vươn lên kịp thời đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự biến đổi của
tình hình trong nước và tình hình quốc tế.
e,Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư tưởng nhất quán
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam định hướng cho tồn bộ q trình tổ chức, xây dựng
và hoạt động của Nhà nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân là bước phát triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê nin
kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông và
phương Tây
Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo Hồ Chí Minh là Nhà nước thực hiện quyền lực của
nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Nhân dân theo quan
niệm của Hồ Chí Minh là tồn dân, là tất cả đàn ông, đàn bà, người già người trẻ , không phân
biệt giai cấp, dân tộc, đảng phái, tơn giáo,
sNgười cho rằng “ trong bầu trời khơng có
gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo,

ngay từ Điều 1 đã khẳng định: "Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam,
khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp". Xuất phát từ lòng tin sâu sắc vào
truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, cho dù trong hồn cảnh cực kỳ khó khăn sau khi cách
mạng mới thành cơng - giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm đang hoành hành; Người đề nghị
Chính phủ lâm thời "tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu...", “Tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức
để gánh vác công việc Nước nhà . Trong cuộc tổng tuyển cử hễ là những người muốn lo việc
nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là cơng dân thì đều có quyền đi bầu cử…Do bầu cử mà toàn
dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ, Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn
dân” . Tức là Người đã thực hiện ngay dân chủ trực tiếp, điều mà nền dân chủ tư sản phải trải
qua mấy trăm năm mới đạt được, mà khơng đợi đến lúc có đủ những điều kiện về kinh tế - xã hội
cho phép. Sự thành lập bộ máy nhà nước do dân cử bằng phổ thông đầu phiếu là sự kiện đầu tiên
trong lịch sử nhà nước của Việt Nam. Một Chính phủ như vậy nhất định thể hiện được truyền
thống đoàn kết dân tộc, thể hiện ý chí thống nhất cao của tồn dân; Người nói: “Tơi có thể tun
bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú
Page 25


×