Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

BÀI lớn Tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.81 KB, 9 trang )

I.

II.

MỞ ĐẦU
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ( ĐCGQVADS ) là một trong những quyết định quan trọng của Tòa án
trong việc giải quyết vụ án dân sự (VADS) và sẽ dẫn tới những hậu quả pháp lý nhất định, có ảnh hưởng
tới quyền lợi của các bên đương sự trong VADS. Do đó, việc đình chỉ giải quyết một VADS đúng đắn sẽ
sớm chấm dứt được việc giải quyết vụ án, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc của các đương sự và Nhà
nước. Tuy nhiên, nếu giải quyết không đúng sẽ không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự. Vì vậy, việc xác định rõ được các căn cứ và hậu quả của ĐCGQVADS có tầm quan trọng đặc
biệt. Trong thực tiễn xây dựng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự (TTDS) của nước ta, vấn đề
ĐCGQVADS đã được đề cập song các quy định này vẫn còn tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến
việc áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án. Trong giới hạn của bài viết này, em xin được đi sâu tìm
hiểu vấn đề : “Vấn đề ĐCGQVADS ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực hiện”.
NỘI DUNG
Khái quát chung về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Khái niệm.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu có căn cứ do pháp luật quy định để ngừng việc giải quyết vụ án
dân sự thì tòa án sẽ quyết định ngừng giải quyết vụ án dân sự hay còn gọi là quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự.
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc tòa án quyết định ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có
những căn cứ do pháp luật quy định. Như vậy, ĐCGQVADS là việc tòa án cho ngừng hẳn mọi hoạt động
tố tụng. Sau khi có quyết định ĐCGQVADS thì mọi hoạt động tố tụng giải quyết VADS phải được
ngừng lại.Tòa án ra quyết định ĐCGQVADS xóa tên vụ án dân sự trong sổ thụ lý.
Đặc điểm.
Thứ nhất, ĐCGQVADS là ngừng hẳn các hoạt động tố tụng để giải quyết một VADS cụ thể. Lúc này
sẽ kết thúc cả về mặt thủ tục tố tụng lẫn giải quyết nội dung vụ án dân sự, không được khôi phục lại trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thứ hai, căn cứ để ĐCGQVADS là những căn cứ do pháp luật quy định. Căn cứ để ĐCGQVADS
bao gồm cả nguyên nhân chủ quan, khách quan và ở mỗi giai đoạn xét xử, ở từng loại đình chỉ thì các


căn cứ này không giống nhau.
Thứ ba, quyết định ĐCGQVADS tuy cũng làm chấm dứt việc giải quyết VADS ở một giai đoạn tố
tụng nào đó nhưng nó không phải là một quyết định giải quyết về nội dung của vụ án dân sự mà chỉ đơn
thuần là một quyết định về tố tụng làm chấm dứt việc giải quyết VADS mà Tòa đã thụ lý.
Thứ tư, việc ĐCGQVADS phải do Tòa án áp dụng và có thể được tiến hành ở tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm
Tính chất của loại ĐCGQVADS này là chấm dứt hoạt động tố tụng. ĐCGQVADS trong thủ tục sơ
thẩm là một phương thức giải quyếtVADS. Bởi vì, một VADS sẽ được giải quyết qua một trong ba
phương thức là hòa giải thành công, đình chỉ giải quyết vụ án và mở phiên tòa xét xử.
 Về các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án: được quy định cụ thể tại Điều 192 BLTTDS bao gồm: (1)
Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; (2) Cơ quan,
1


tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; (3) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án
chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; (4) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện
trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án; (5)
Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án; (6) Nguyên đơn đã
được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; (7) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên
quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;(8) Thời hiệu khởi kiện đã hết; (9) Các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 168 mà Tòa án đã thụ lý; (10) Các trường hợp khác mà pháp luật
có quy định.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 192 BLTTDS còn viện dẫn các căn cứ đình chỉ được quy định tại khoản 1
Điều 168 BLTTDS về những trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Cụ thể, trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ
lý vụ án mà phát hiện những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTDS thì Tòa án phải trả lại đơn
khởi kiện, tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó mà Tòa án đã thụ lý rồi mới phát hiện những căn cứ đó thì
phải đình chỉ giải quyết vụ án. Những căn cứ được quy định tại Điều 168 bao gồm: (1) Người khởi kiện

không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; (2) Sự việc đã được giải
quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi
con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi
nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện;
(3) Hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp hoặc không
đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng; (4) Chưa có đủ điều kiện khởi
kiện; (5) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Cụ thể hóa những căn cứ nêu trên trong BLTTDS, Tòa án nhân dân tối cao đã có nghị quyết hướng
dẫn cụ thể về nội dung của từng căn cứ. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đối với một số căn cứ sau:
Thứ nhất, đối với căn cứ “ vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” thì không phải
trong mọi trường hợp sau khi thụ lý vụ án nếu phát hiện không thuộc thẩm quyền thì Tòa án cấp sơ thẩm
sẽ đình chỉ giải quyết vụ án, mà tùy từng trường hợp không thuộc thẩm quyền, Tòa án có thể chuyển vụ
án cho Tòa án khác giải quyết, vẫn tiến tục giải quyết vụ án nhưng phải ghi ký hiệu loại án cho phù hợp
hoặc đình chỉ giải quyết vụ án.
Thứ hai, đối với căn cứ “hết thời hạn được thông báo để nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện
không nộp hoặc không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng” thì về
mặt từ ngữ, không thể áp dụng là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án, bởi vì lúc này Tòa án chưa thụ lý vụ
án. Mà căn cứ này cần phải được hiểu là, nếu đương sự không nộp tiền tạm ứng án phí mà không thuộc
trường hợp không phải nộp hoặc được miễn án phí nhưng Tòa án đã thụ lý giải quyết thì sau đó phải
ĐCGQVADS.
Sau một thời gian dài thi hành BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung 2011 thì mới đây Quốc hội đã
ban hành BLTTDS 2015 thay thế cho bộ luật cũ và trong thời gian tới, BLTTDS 2015 sẽ có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/7/2016 ( trừ 1 số trường hợp). Bộ luật mới ra đời rõ ràng đã có rất nhiều những quy định
mới nhằm thay thế cho những quy định của bộ luật cũ đã không còn phù hợp, ngoài ra một số quy định
cũng được bổ sung thêm các trường hợp còn thiếu và sửa đổi các quy định nhằm cho rõ ràng hơn để việc
2


thực hiện pháp luật được hiệu quả. Có thể thấy, vấn ĐCGQVADS theo bộ luật cũ còn nhiều bất cập,

vướng mắc như đã phân tích ở trên vì thế mà trong BLTTDS 2015 thì nội dung này đã được điều chỉnh
khá chi tiết và phân chia ra các trường hợp khá rõ ràng. Cụ thể là trong Điều 217 của BLTTDS 2015 đã
làm rõ một số trường hợp Tòa án ra quyết định ĐCGQVADS. Như tại điểm đ của khoản 1quy định căn
cứ để ĐCGQVADS là “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng
khác theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác
theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;” So với bộ luật cũ chỉ quy định một bên nguyên đơn
không nộp án phí thì bộ luật mới này đã quy định việc đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn,
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu họ không nộp án phí, để đảm bảo sự
công bằng giữa quyền lợi của các đương sự trong vụ án, tránh việc chỉ vì nguyên đơn không nộp án phí
mà cả vụ án bị đình chỉ giải quyết. Ngoài ra, điều luật còn bổ sung quy định để giải quyết trong trường
hợp các đương sự rút toàn bộ yều cầu của mình hoặc chỉ có một trong số các đương sự rút yêu cầu còn
đương sự khác vẫn giữ nguyên yêu cầu thì khi đó địa vị tố tụng của họ sẽ thay đổi. Trước đây, quy định
này chỉ có trong nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán nhưng trong BLTTDS 2015 đã quy định
các trường hợp đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự rất rõ ràng, cụ thể và bảo đảm công bằng, bình
đẳng cho các đương sự. Ngoài ra, BLTTDS 2015 còn bổ sung thêm một số quy định như về thời hạn tòa
án phải gửi quyết định ĐCGQVADS là 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định ĐCGQVADS; và
trong trường hợp vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái
thẩm mà Tòa án quyết định ĐCGQVADS thì Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành
án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có); trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu
tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc ĐCGQVADS phải có sự đồng ý của bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bởi vụ án không chỉ có yêu cầu của nguyên đơn mà còn có yêu cầu phản tố
của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có liên quan nên cần thiết phải có sự đồng ý của họ, hơn nữa
một khi có sự chấp nhận của bị đơn và người có liên quan thì Tòa án ra quyết định đình chỉ và nguyên
đơn có quyền khởi kiện lại vụ án.

Về thời điểm áp dụng: ĐCGQVADS trong thủ tục sơ thẩm được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng từ
sau khi Tòa án sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án đến trước khi ra bản án, quyết định sơ thẩm. Nói cách
khác, Tòa án cấp sơ thẩm có thể ĐCGQVADS trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa sơ

thẩm. Tuy nhiên, trong BLTTDS không có một quy định cụ thể nào về thời điểm áp dụng đình chỉ giải
quyết vụ án mà khẳng định này được suy ra từ các điều luật tương ứng. Đó là Điều 192 BLTTDS trong
phần “chuẩn bị xét xử sơ thẩm” quy định về đình chỉ giải quyết vụ án là “sau khi thụ lý vụ án.”, và Điều
210 trong phần “Phiên tòa sơ thẩm” quy định “đình chỉ giải quyết vụ án được thông qua tại phòng nghị
án”.
Về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ: Tương ứng với thời điểm ra quyết định đình chỉ thì người
có quyền ra quyết định ĐCGQVADS trước phiên tòa xét xử sơ thẩm là Thẩm phán được Chánh án phân
công giải quyết vụ án theo Điều 194 và tại phiên tòa sơ thẩm là hội đồng xét xử theo Điều 210 BLTTDS.
3


Về hậu quả pháp lý: quyết định ĐCGQVADS trong thủ tục sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị,
quyết định ĐCGQVADS có hiệu lực pháp luật và làm chấm dứt tố tụng. Theo đó Điều 193 BLTTDS quy
định khi có quyết định ĐCGQVADS thì đương sự không có quyền khởi kiện lại yêu cầu Tòa án giải
quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác vụ án trước đó trừ các trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 168, các điểm c,e,g Điều 192 và trường hợp khác theo quy định pháp luật.
Nhận xét và đánh mang tính khách quan, thì quy định của BLTTDS về các trường hợp đương sự có
quyền khởi kiện lại như trên là chưa hợp lý. Cụ thể, đối với trường hợp người khởi kiện có quyền khởi
kiện (điểm a khoản 3 Điều 168) thì trường hợp này là đương sự lúc trước chưa có quyền khởi kiện nhưng
sau này đã có quyền khởi kiện. Nếu tại thời điểm khởi kiện đó họ không có quyền khởi kiện và bị đình
chỉ nhưng sau đó họ lại có quyền khởi kiện vì đã hội đủ những điều kiện nhất định thì đây là trường hợp
người khởi kiện “chưa có đủ điều kiện khởi kiện” đã được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168
BLTTDS. Tuy nhiên, BLTTDS đã không quy định trường hợp này được quyền khởi kiện lại. Tương tự
như vậy, đối với trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì BLTTDS trao quyền cho họ được khởi
kiện lại, nhưng đối với trường hợp cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp nguyên đơn
yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án thì không được BLTTDS quy định quyền khởi kiện lại của
nguyên đơn. Vì vậy, BLTTDS cần phải quy định bổ sung những trường hợp này.
Theo tinh thần này thì BLTTDS 2015 tại khoản 3 Điều 192 đã quy định các trường hợp đương sự
được quyền nộp đơn khởi kiện lại, trong đó đã bỏ trường hợp “ người khởi kiện có quyền khởi kiện” của

bộ luật cũ, như vậy có thể thấy rằng bộ luật mới đã bãi bỏ quy định chưa hợp lý ở bộ luật cũ sau một thời
gian thi hành và để cho các quy định được thống nhất chặt chẽ với nhau hơn. Ngoài ra các trường hợp
còn lại không thay đổi mà chỉ thay cụm từ “ xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, xin thay đổi người quản lý
tài sản” thành cụm từ “yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, yêu cầu thay đổi người quản lý tài
sản” nhằm khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân theo tinh thần Hiến pháp 2013.
Hình thức của việc ĐCGQVADS trong thủ tục sơ thẩm là Quyết định ĐCGQVADS. Nội dung, mẫu
quyết định này đã được quy định cụ thể tại NQ 05/2012/NQ-HĐTP.
III. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp phúc thẩm.
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp phúc thẩm.
Khác với ĐCGQVADS trong thủ tục sơ thẩm, ĐCGQVADS trong thủ tục phúc thẩm phải giải quyết
hai vấn đề là ĐCGQVADS, tức là nội dung vụ việc và hoạt động tố tụng; và số phận pháp lý của bản án,
quyết định sơ thẩm. Về tính chất, ĐCGQVA trong thủ tục phúc thẩm cũng làm chấm dứt các hoạt động
tố tụng. Nhưng không chỉ vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm còn phải hủy bản án, quyết
định sơ thẩm vì căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm xuất hiện cũng có nghĩa là
bản án, quyết định sơ thẩm không có cơ sở. Ví dụ trong trường hợp một vụ tranh chấp dân sự đã hết thời
hiệu khởi kiện, đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện trước khi thụ lý hoặc phải
ĐCGQVADS thì lại đưa vụ án đó ra xét xử. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bỏ
bản án sơ thẩm đó và đình chỉ giải quyết vụ án.
Về căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án: trong thủ tục phúc thẩm thì những căn cứ này được quy
định tại Điều 278 BLTTDS, đó cũng chính là những căn cứ ĐCGQVADS trong thủ tục sơ thẩm được
quy định tại Điều 192 ( Điều 278 quy định viện dẫn đến Điều 192). Vấn đề cần lưu ý là những căn cứ
này đã phải xuất hiện và tồn tại khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án. Theo quy định thì Tòa án cấp
sơ thẩm đáng lẽ phải đình chỉ giải quyết vụ án khi có những căn cứ này, nhưng vì một lý do nào đó mà
Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ĐCGQVADS. Tuy nhiên, đối với căn cứ
4


nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại thủ tục phúc thẩm ( bao gồm trước và tại phiên tòa phúc thẩm) thì áp
dụng những quy định riêng biệt tại Điều 269 BLTTDS được hướng dẫn chi tiết trong NQ 06/2012/NQHĐTP. Đối với trường hợp này, Tòa án cần phải hỏi ý kiến của bị đơn có đồng ý để nguyên đơn rút đơn
khởi kiện hay không. Nếu bị đơn đồng ý thì mới đình chỉ giải quyết vụ án, còn nếu bị đơn không đồng ý

thì Tòa án vẫn xét xử vụ án. Quy định này không nhằm mục đích hạn chế quyền tự quyết định của
nguyên đơn mà là nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị đơn nếu xảy ra trường hợp bị đơn có thể bị nguyên đơn
khởi kiện lại nếu chấp thuận cho nguyên đơn rút đơn khởi kiện. Bởi vì nếu bị đơn phản đối việc rút đơn
khởi kiện của nguyên đơn tức là đồng ý với phán quyết trong bản án, quyết định sơ thẩm và các đương
sự phải thi hành bản án, quyết định đó; và trường hợp này nguyên đơn không thể khởi kiện lại vì đã có
bản án, quyết định giải quyết vụ việc đó.
Về thời điểm áp dụng: quy định này trong thủ tục phúc thẩm khác với thủ tục sơ thẩm. Nếu như
ĐCGQVADS trong thủ tục sơ thẩm có thể áp dụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tức là trước
phiên tòa hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, thì ĐCGQVADS trong thủ tục phúc thẩm chỉ được áp dụng trong
phiên tòa phúc thẩm. Quy định này xuất phát từ tính chất của việc ĐCGQVADS trong thủ tục phúc thẩm
là quyết định đến số phận pháp lý của bản án sơ thẩm, nên nó phải được quyết định ở phiên tòa phúc
thẩm. Như vậy, thẩm quyền ĐCGQVADS trong thủ tục phúc thẩm chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc
thẩm (Điều 269, 278 BLTTDS). Thẩm phán cấp phúc thẩm được phân công giải quyết vụ án không có
thẩm quyền này.
Về hình thức văn bản: Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể ra quyết định ĐCGQVADS hoặc bản án
phúc thẩm. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm và được
bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ
án (khoản 1 Điều 269 BLTTDS). Đối với những căn cứ khác, Hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm để
hủy bản án sơ thẩm và ĐCGQVADS (Điều 278 BLTTDS). Theo nguyên tắc chung, quyết định hay bản
án phúc thẩm ĐCGQVADS cũng như những bản án, quyết định phúc thẩm khác sẽ có hiệu lực pháp luật
ngay.
2.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Đình chỉ xét xử phúc thẩm khác biệt với ĐCGQVADS trong thủ tục phúc thẩm. Tính chất của đình
chỉ xét xử phúc thẩm không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về mặt nội dung mà chỉ chấm dứt thủ
tục tố tụng phúc thẩm. Nói cách khác, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động xét xử phúc
thẩm nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm, theo đó
những quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi
hành.
Căn cứ của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 192, 260 BLTTDS, bao gồm: (1)

Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; (2) Cơ quan,
tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; (2) Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm
sát rút toàn bộ kháng nghị; (4) Những trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Như vậy, theo quy
định của BLTTDS thì hai căn cứ trên vừa là căn cứ ĐCGQVA tại thủ tục phúc thẩm vừa là căn cứ đình
chỉ xét xử phúc thẩm. Quy định này đã gây ra một khó khăn trong thực tiễn áp dụng là khi nào Tòa án
cấp phúc thẩm sẽ ĐCGQVA và khi nào sẽ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP
cũng không có quy định nào hướng dẫn về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy luận rằng nếu như
sự kiện nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá
5


sản mà không có người thừa kế tham gia tố tụng xuất hiện và tồn tại trước và trong khi giải quyết vụ án
tại Tòa án cấp sơ thẩm mà Tòa án cấp sơ thẩm vẫn cứ giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra bản án
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và ĐCGQVADS. Nếu những sự kiện đó xuất hiện và tồn tại trong quá
trình Tòa phúc thẩm giải quyết vụ án thì Tòa phúc thẩm chỉ đình chỉ xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp
này bản án, quyết định sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật vì thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết
định là hoàn toàn có căn cứ, cơ sở.
Thời điểm đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể trước phiên tòa tức là giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc
thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Hình thức văn bản được áp dụng chung là Quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm. Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm do Thẩm phán được phân công phụ trách vụ án thực hiện, còn tại phiên tòa phúc thẩm do Hội
đồng xét xử phúc thẩm quyết định. Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
Như vậy, hậu quả pháp lý của quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm sẽ dẫn đến hậu quả là bản án,
quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, BLTTDS đã không quy định thời điểm chung phát
sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm. Trong đó, BLTTDS chỉ quy định trường hợp đình
chỉ vì lý do người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị thì bản án,
quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
(khoản 2 Điều 260 BLTTDS). Vậy những trường hợp đình chỉ xét xử phúc thẩm còn lại thì hiệu lực pháp
luật của bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được xác định như thế nào. Từ ngày Tòa án ra quyết định đình chỉ

xét xử phúc thẩm hay từ ngày phát sinh sự kiện làm căn cứ cho việc đình chỉ xét xử phúc thẩm, do vậy
BLTTDS cần quy định cụ thể trường hợp này.
Trong BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm quy định mới về đình chỉ xét xử phúc thẩm quy định tại Điều
312, theo đó Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm khi
thuộc một trong các trường hợp: (1) người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ
kháng nghị sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; (2) Người kháng
cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà không có mặt trừ trường hợp vụ án có người khác kháng cáo,
Viện kiểm sát kháng nghị.
IV.Thực tiễn thực hiện và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
1.

Thực tiễn thực hiện.
Về ưu điểm, nhìn chung các thẩm phán đã áp dụng chính xác các quy định về ĐCGQVADS trong
mọi trường hợp. Mặt hạn chế là không đưa người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn vào tham
gia tố tụng. Các tòa án còn lung túng với việc xác định tư cách của đương sự là tổ chức đã sáp nhập, hợp
nhất,chuyển đổi không bàn giao khoản nợ có tranh chấp sang tổ chức mới, không xác minh được chính
xác việc đương sự đã nhận được giấy triệu tập hay chưa. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên một mặt là
do số lượng các vụ án dân sự cần phải đình chỉ mà ngành Tòa án phải thụ lý giải quyết ngày càng tăng
tính chất phức tạp trong khi một số quy định của pháp luật vẫn còn bất cập mà chưa được sửa đổi, bổ
sung hoặc hướng dẫn, nên đương sự lợi dụng được những bất cập này để lách luật hay trốn tránh nghĩa
vụ khi bị khởi kiện. Mặt khác, thẩm phán thường xuyên bị đe dọa, gây sức ép thậm chí là bị hành hung
ảnh hưởng tới tính khách quan khi quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Và cũng có một số nguyên nhân
chủ quan như do trình độ, năng lực còn hạn chế và việc thiếu trách nhiệm cá nhân của đội ngũ cán bộ
ngành tòa án nhất là thẩm phán ở các tòa án địa phương.
6


Trên thực tế thì tình hình giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy trong số các vụ án dân sự mà Tòa án
thụ lý thì số các vụ án mà Tòa án phải ra quyết định đình chỉ cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Mặc dù

các quy định của BLTTDS là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc vận dụng đình chỉ giải quyết các vụ việc
dân sự trên thực tiễn nhưng quá trình áp dụng các quy định này cũng nảy sinh nhiều bất cập, cụ thể như
sau:
- Thứ nhất, về vận dụng căn cứ tại điểm a khoản 1 điều 192 dễ dẫn tới cách hiểu và vận dụng để ra
quyết định ĐCGQVA trong trường hợp nguyên đơn có tài sản đang tranh chấp chết nhưng không có
người thừa kế về tài sản. Việc vận dụng như trên là không đúng với tinh thần quy định của điều luật.
- Thứ hai, về căn cứ ĐCGQVA do thụ lý không đúng ( điểm i, khoản 1 điều 192 BLTTDS sửa đổi,
bổ sung). Sau khi đã thụ lý đơn của người khởi kiện mới xác định được các yếu tố thuộc trường hợp Tòa
án phải trả lại đơn khởi kiện được quy định tại khoản 1 điều 168 thì Tòa có thể áp dụng khoản 2 điều 192
để giải quyết. Theo điều 193 thì hậu quả pháp lý của việc đình chỉ trong trường hợp này là các đương sự
không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại VADS.
- Thứ ba, theo điểm c – khoản 1 – điều 192, Tòa án ra quyết định ĐCGQVADS khi: “Người khởi
kiện rút đơn yêu cầu và được Tòa án chấp nhận”. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn trong trường
hợp nào người khởi kiện rút đơn thì được Tòa án chấp nhận, trường hợp nào thì không. Tất nhiên, các
Thẩm phán vẫn dựa trên nguyên tắc chung là: “ Việc rút đơn phải hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp
luật và đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, vì chưa có sự hướng dẫn cụ thể nên các Thẩm phán, HĐXX thường
có nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất.
Do đó, để khắc phục những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong quá trình áp dụng các quy định về
ĐCGQVADS, yêu cầu đặt ra trong thời gian tới là hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế xã hội, đồng thời, chú trọng việc thực hiện đúng các quy định này.
2.
Kiến nghị.
 Đối với ĐCGQVADS ở Tòa án cấp sơ thẩm:
Một là, với những căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 điều 192 BLTTDS “ Nguyên đơn hoặc bị
đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế” nên hướng dẫn thêm như
sau:“ Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được
hưởng quyền di sản, từ chối nhận di sản thì đại diện của cơ quan nhà nước nhận tài sản của bị đơn sẽ
phải tiếp tục tham gia tố tụng thay bị đơn để giải quyết tranh chấp với nguyên đơn ”. Việc này đại diện
của cơ quan nhà nước có thể thuê luật sư hoặc sử dụng luật sư công thay mặt nhà nước TGTT. Khi trả
xong món nợ của bị đơn đối với nguyên đơn, thì nhà nước mới nhận được tài sản của bị đơn. Đó cũng là

cách tốt nhất để bảo đảm quyền lợi của nguyên đơn, của Nhà nước, đồng thời thống nhất với quy định tại
điều 644 BLDS.
Hai là, đối với trường hợp ĐCGQVADS do người khởi kiện rút đơn và được Tòa án chấp nhận hoặc
người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo điểm c khoản 1 điều 192 cũng cần có hướng dẫn của cơ
quan có thẩm quyền để việc áp dụng được chính xác. Khi người khởi kiện là người đại diện theo ủy
quyền, Tòa án không đương nhiên ra quyết định ĐCGQVADS mà phải xem xét phạm vi hợp đồng ủy
quyền giữa nguyên đơn và người được ủy quyền. Khi việc rút đơn khởi kiện nằm trong phạm vi ủy
quyền, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nguyên đơn thì Tòa án mới được ĐCGQVADS.
7


Ba là, đối với quy định tại điểm d – khoản 1 - điều 192 thì: cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện
rồi nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án nữa thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án là
hợp lý. Nhưng nếu có quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi bị xâm phạm cho người khác, sau đó
rút đơn khởi kiện thì việc Tòa án đương nhiên ra quyết định đình chỉ mà không hỏi ý kiến của nguyên
đơn thì chưa chắc đã hợp lý. Bởi, nếu việc rút đơn khởi kiện này được Tòa án được chấp nhận, hoạt động
giải quyết vụ án bị đình chỉ nhưng nguyên đơn hoặc người đại diện hợp pháp của họ tiếp tục khởi kiện
thì Toà án lại phải thụ lý để giải quyết vụ án. Như vậy, rất tốn kém về thời gian. Do đó, căn cứ này cần
được quy định lại cho hợp lý: bỏ cụm từ “ trong trường hợp không có nguyên đơn” và sửa lại thành “ Cơ
quan, tổ chức khởi kiện thay nguyên đơn rút văn bản khởi kiện và nguyên đơn có đơn yêu cầu không tiếp
tục giải quyết vụ án”.
Bốn là, theo quy định tại điểm đ – khoản 1 – điều 192, như đã phân tích ở trên, sau khi tự thỏa
thuận, đương sự phải có trách nhiệm thông báo kết quả cho Tòa án biết và yêu cầu Tòa án không tiếp tục
giải quyết vụ án. Nếu đương sự không có thông báo, vụ án vẫn sẽ được tiến hành xét xử. Do đó, quy
định này cần được sửa đổi như sau: “ Các đương sự đã tự mình thỏa thuận và có đơn yêu cầu Tòa án
không tiếp tục giải quyết vụ án .
Năm là, BLTTDS cũng nên quy định lại việc giải quyết án phí đối với trường hợp ĐCGQVA do
nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Các nguyên đơn khác, bị đơn có
yêu cầu phản tố, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng phải phải nộp tiền tạm
ứng phí. Nếu chỉ vì một nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt mà sung toàn bộ

tiền tạm ứng phí này vào công quỹ nhà nước thì sẽ rất thiệt cho các đương sự có mặt. Vì vậy, chỉ nên
sung quỹ số tiền tạm ứng phí của nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà không đến.
 Đối với ĐCGQVADS ở Tòa án cấp phúc thẩm :
Trường hợp HĐXX phúc thẩm căn cứ Điều 269 BLTTDS ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và
ĐCGQVA như đã phân tích, Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa giải quyết vụ án theo thủ tục chung nếu
bị đơn đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, không phân biệt trong thời hạn kháng cáo, kháng
nghị có đương sự nào kháng cáo hoặc VKS kháng nghị hay không là không hợp lý. Có ý kiến cho rằng,
trong trường hợp này, sau khi có bản án, quyết định sơ thẩm, nếu vẫn trong thời hạn kháng cáo mà
nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Tòa án sơ thẩm hướng dẫn cho đương sự kháng cáo toàn bộ bản án,
quyết định sơ thẩm cùng để Tòa án có căn cứ mở phiên tòa phúc thẩm. Lúc này, tùy thuộc vào việc bị
đơn có đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn hay không mà Tòa án giải quyết theo Điều 269.
Nếu sau khi có bản án, quyết định sơ thẩm mà hết thời hạn kháng cáo, nguyên đơn mới rút đơn khởi kiện
và cũng không có kháng nghị, kháng cáo khác thì về nguyên tắc, bản án hay quyết định đó đã phát sinh
hiệu lực. Do đó, pháp luật nên quy định trường hợp này Tòa án phúc thẩm không chấp nhận việc rút đơn,
không hủy bản án sơ thẩm và ĐCGQVA theo Điều 269 BLTTDS.
KẾT LUẬN
Tóm lại, ĐCGQVADS là một trong những vấn đề khá cơ bản trong pháp luật TTDS. Qua thực tiễn
thi hành BLTTDS trong những năm qua cho thấy, một số quy định của BLTTDS đã bộc lộ những hạn
chế, bất cập, mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, chưa phù hợp, chưa đầy đủ, thiếu rõ
ràng và còn có những cách hiểu khác nhau, chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, chưa
8


đáp ứng các yêu cầu cam kết quốc tế đa phương và song phương. Vì vậy, BLTTDS 2015 ra đời đã khắc
phục được nhiều thiếu sót của bộ luật cũ, đồng thời đảm bảo được tính khả thi và có sự thống nhất cao
với hệ thống pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND 2014.
Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2011.
Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 ( hiệu lực từ 1/7/2016)
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “ Thủ
tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa

5.

đổi bổ sung một số điều của BLTTDS.
Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “ Thủ
tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo luật
sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS.

6.

TS Nguyễn Triều Dương, “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”, Tạp chí luật học, Đặc san
về BLTTDS, 2005, tr. 27 - 33.

7.

Ths Tống Công Cường- Đại học Luật TP HCM, Quy định về “đình chỉ” trong BLTTDS, Tạp chí

8.

pháp luật khoa học, số 4/2007.
/>
9




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×