Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tổng quan về nguồn vốn ODA. Bình luận quan điểm ODA hôm nay nợ nần mai sau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.36 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
LỜỜI MỜỞ ĐẦỜU ....................................................................................... 2
PhầỜn I: TổỞn g quan vềỜ nguổỜn vổốn ODA ................................................... 3

1


LỜI MỞ ĐẦU
Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định cho quá trình sản xuất kinh
doanh và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đặc biệt là để đạt tăng trưởng kinh tế cao,
vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng nó một cách có hiệu quả càng trở nên cần thiết đối với
tất cả các quốc gia muốn trở thành nước công nghiệp hoá với thời gian ngắn nhất.
Công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam đã qua một chặng đường hơn 10 năm. Nền
kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ tăng trưởng nhanh, lạm phát
ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về
vốn đầu tư là rất lớn. Trong khi đó nền kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm thấp, nghèo
nàn, lạc hậu nên nguồn vốn trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về vốn đầu tư đó.
Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) nói riêng là rất quan trọng.
Nguồn vốn ODA đã góp phần đáng kể vào việc đạt được những thành tựu kinh tế xã
hội của đất nước. Để có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn ODA trong phát triển
kinh tế - xã hội cần có những biện pháp cụ thể và toàn diện.

2


Phần I: Tổng quan về nguồn vốn ODA

1. Khái niệm và đặc điểm của nguồn vốn ODA
1.1. Khái niệm
ODA là tên viết tắt của Official Development Assistance - Hỗ trợ phát triển chính


thức hay Viện trợ phát triển chính thức .
(Hỗ trợ phát triển chính thức là một hình thức đầu tư nước ngoài . Gọi là hỗ trợ bởi vì
các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với
thời gian vay dài . Đôi khi còn gọi là khoản viện trợ. Gọi là phát triển vì mục tiêu danh
nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được
đầu tư. Gọi là chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay).
ODA bao gồm các khoản vốn viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín
dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ,
các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc (United NationsUN), các tổ chức tài chính
quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.
1.2. Đặc điểm
Thứ nhất: Vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng
hạn, vốn ODA của WB (Ngân hàng Thế giới), ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á),
JBIC (Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản) có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian
ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại (cho không), đây cũng
chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không được
xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức
lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm
phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm
phát triển có thể nhận được ODA là:
+ Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội( GDP) bình quân đầu người thấp.
Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn
lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
+ Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với
chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên
nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên
riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật

và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi
theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các
nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
3


Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những
điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của
dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA.
Thứ hai: Vốn ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận
về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc
khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy
định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành
được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu
khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới
65%. Nhìn chung 22% viện trợ của ODA phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ
của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song
song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước
đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân các
nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát
triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn
với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế,
chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được
kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như
sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, phòng chống dịch

bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng
đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị
thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ
chính trị: xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA.
Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng
ODA như một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại
lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập
kỷ 90, khi phải đối phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết
định trợ giúp tài chính rất lớn cho các nước Đông nam á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối
lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu
cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho
mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng
đồng Yên và gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia.
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà
còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các
nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát
triển cho phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân
4


nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh
mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có
lợi.
Thứ ba: ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ
thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự
tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả
năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất,
nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó,

trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng
cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.

2. Phân loại nguồn vốn ODA
2.1.

Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại.

- Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không
phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thỏa thuận trước
giữa các bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật
- Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vay vốn một khoản tiền (tùy theo
quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tùy thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20-30 năm)
+ Có thời gian ân hạn (từ 10-12 năm)
- ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại
và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức Hợp tác kinh tế và phát
triển.
2.2.

Phân theo nguồn cung cấp: ODA có 2 loại:

- ODA song phương: là các khoản viện trợ trục tiếp từ nước này đến nước kia thông
qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
- ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB,…)

hay tổ chức khu vực (ADB, EU,…) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho
Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa
5


phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (Quỹ nhi đồng
Liên hiệp quốc),…có thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
2.3.

Phân loại theo mục tiêu sử dụng: ODA có 4 loại

Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của
Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp cho nước
nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hóa).
Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hóa nhưng có kèm theo điều
kiện ràng buộc.
Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện trợ kế
hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác khoản viện
trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều kiện
được nhận viện trợ dự án là “ phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng
ODA”.

3. Ưu điểm và nhược điểm của nguồn vốn ODA
3.1.


Ưu điểm của vốn ODA

- Lãi suất thấp (thường dưới 3%/năm, trung bình từ 1-2%/năm)
- Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn vay dài (thường từ 25-40 năm mới
phải hoàn trả và thời gian ân hạn vay 8-10 năm)
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là
25% của tổng số vốn ODA.
- ODA là nguồn vốn rất quan trọng cho các nước chậm và đang phát triển.

6


ODA là nguồn vốn quan trọng cho các nước nghèo
3.2.

Nhược điểm của vốn ODA

Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở
rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh quốc phòng
hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị… Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số
lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với
tình hình phát triển kinh tế – chính trị – xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới). Ví
dụ: Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ
các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ.
Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những
danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng
sinh lời cao.
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn
với việc mua trang thiết bị hoặc trả phí dịch vụ từ các nước này mà đôi khi không phù

hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví dụ: Các dự án ODA trong
lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài
thường chiếm đến hơn 90% nguồn vốn (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương
cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên
gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối
đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp
nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
7


Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường,
các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù
không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà
thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Cho vay ODA có thể hiểu là bỏ vốn ra đầu tư ở nước nhận
ODA. Nước viện trợ ODA vừa được tiếng là nước viện trợ, vừa thu được rất nhiều lợi ích
cả trước mắt và lâu dài (như đem lại việc làm, lợi ích rất lớn cho lao động và các doanh
nghiệp nước viện trợ; đồng thời vẫn bảo toàn được vốn cho vay, lại có rất nhiều quyền ưu
tiên cả về kinh tế, chính trị và các lợi ích phi vật chất khác...). Chính vì vậy, các nước
giàu luôn chọn lựa rất kỹ xem sẽ cho vay ODA (gọi đúng tính chất là đầu tư ODA) ở
nước nào, vào lĩnh vực gì...
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái sẽ làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên
rất cao (ODA tính bằng ngoại tệ mạnh, nhưng đồng tiền nước nhận viện trợ thường mất
giá rất lớn, vì vậy đến khi trả nợ, giá trị phải trả cũng sẽ rất lớn).
Ngoài ra, tình trạng tham nhũng, thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch
thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu
kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… là nguy hại vô
cùng lớn cho các nước nghèo.

Nhà ga T2 - Nội Bài vay vốn ODA Nhật Bản

Tính hai mặt, con dao hai lưỡi ODA luôn được các nhà kinh tế-chính trị thế giới cảnh
báo: Rõ ràng quốc gia có nghèo mới phải vay ODA với không ít ràng buộc rất bất lợi về
8


lâu dài. Vốn ODA sẽ là cứu cánh cho các quốc gia nghèo nếu sử dụng hiệu quả, nhưng sẽ
vô cùng tai hại nếu sử dụng không hiệu quả, hoặc để tình trạng tham nhũng, lãng phí xảy
ra. Vì vậy các quốc gia phải nỗ lực để tránh rơi vào cái vòng lẩn quẩn: Người dân đã
nghèo còn phải vay tiền về cho một nhóm người thiếu trách nhiệm sử dụng vốn yếu kém
hoặc tiêu xài, lãng phí, rồi chính những người dân nghèo đó, các đời con cháu họ phải lao
lực để trả nợ.
Phần II. Phân tích quan điểm “ODA hôm nay, nợ nần ngày mai”. Liên hệ thực tiễn
Việt Nam.
1. Lợi ích của ODA ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như: Hàn Quốc, Malaixia và từ
tình hình thực tế trong nước, trong những năm gần đây Việt Nam đã và đang thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế với xu hướng mở rộng và đa dạng hoá các mối quan hệ kinh
tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính trong chiến lược này là thu hút ODA cho
phát triển kinh tế. Vai trò của ODA được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng vốn đầu
tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do đó, ODA trở
thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển.
Trải qua hai cuộc chiến tranh những cơ sở hạ tầng kỹ thuật của chúng ta vốn đã lạc hậu
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề hầu như không còn gì, nhưng cho đến nay hệ thống kết
cấu hạ tầng đã được phát triển tương đối hiện đại với mạng lưới điện, bưu chính viễn
thông được phủ khắp tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhiều tuyến đường giao
thông được làm mới, nâng cấp, nhiều cảng biển, cụm cảng hàng không cũng được xây
mới, mở rộng và đặc biệt là sự ra đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao đã tạo ra một môi trường hết sức thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh

nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh
tế kỹ thuật một lượng lớn vốn ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành
giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp …
Thứ hai, ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và
phát triển nguồn nhân lực.
Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất
nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học
tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án ODA các nhà tài trợ có những hoạt
động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn
nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia
của những chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức
các chương trình tham quan học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp
chuyên gia sang Việt Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây
chuyền công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này
các nhà tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và
9


phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối
với chúng ta.
Thứ ba, ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế .
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển
cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó còn có
một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ
cấu kinh tế ở Việt Nam.
Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư
phát triển.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước hết họ

quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một cơ sở hạ tầng yếu
kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn
và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà
đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao.
Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những
chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ
cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở hạ
tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư
trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn và nếu
chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành được do đó ODA sẽ là nguồn
vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được
cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư
cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư
vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
2. Những ảnh hưởng của việc sử dụng nguồn vốn ODA không hiệu quả.
Hiện có 25 nhà tài trợ song phương, 19 tổ chức tài trợ đa phương và hơn 300 tổ chức
phi chính phủ đang hoạt động tại Việt Nam. Đứng đầu trong các tổ chức trên là Nhật
Bản, Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) - chiếm trên 80%
tổng số vốn ODA đã cam kết. Số vốn ODA đã cam kết qua các năm khá lớn. Qua 11 hội
nghị các nhà tài trợ, tính từ năm 1993 đến nay số vốn cam kết đã lên đến 25.235 triệu
USD; nếu cộng với số tiền hỗ trợ cải cách kinh tế của năm 1998 là 500 triệu USD và của
năm 1999 là 700 triệu USD, thì tổng số vốn thuộc nguồn ODA lên đến 26.435 triệu USD.
Số vốn ODA đã giải ngân trong thời gian tính đến nay cũng đã đạt trên 14 tỉ USD. Giải
ngân đạt khoảng 53% tổng số vốn cam kết. Nguồn vốn ODA đã được tập trung cho các
ngành giao thông, năng lượng điện, nông, lâm nghiệp - thủy sản, y tế, giáo dục - đào tạo,
khoa học, công nghệ - môi trường, cấp thoát nước, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cải cách
kinh tế. Đạt được kết quả trên do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân quan trọng là Việt
10



Nam đã đạt được sự tin tưởng của các nhà tài trợ - bắt nguồn từ sự ổn định chính trị - xã
hội, từ sự thành công về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo... Môi
trường pháp lý có liên quan đến ODA cũng được cải thiện. Việc chỉ đạo thực hiện kịp
thời, cụ thể, nhất là bảo đảm vốn đối ứng, thuế VAT; việc theo dõi, đánh giá dự án ODA
có tiến bộ...
Tuy nhiên, nguồn vốn ODA chủ yếu mới từ khu vực châu Á, châu Âu, châu Đại
Dương, trong khi nguồn vốn này từ châu Mỹ còn hạn chế so với tiềm năng lớn của khu
vực này; mức và tỷ lệ giải ngân còn thấp và thường không đạt kế hoạch; hiệu quả đầu tư
và chất lượng một số công trình chưa cao... Có nguyên nhân thuộc về quy hoạch, năng
lực điều phối, quản lý. Có nguyên nhân do tình trạng thiếu vốn đối ứng cho một số dự án
và tâm lý dựa vào vốn đối ứng từ ngân sách vẫn còn nặng. Có nguyên nhân về đền bù,
giải phóng mặt bằng vừa tốn, vừa chậm. Để thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
ODA, trước hết cần làm cho mọi người hiểu rằng ODA là nguồn vốn quý, nhưng phần
lớn trong số này là vốn vay, mà đã đi vay thì phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi, nếu không thì
nợ nần ngay từ bây giờ đã phải trả và gây ra gánh nặng nợ nần cho đời sau. Muốn tiếp thu
phải có vốn đối ứng, mà vốn đối ứng phải được huy động từ nhiều nguồn, chứ không chỉ
trông vào nguồn ngân sách. Cần tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa nguồn vốn ODA,
như xây dựng quy hoạch vận động và sử dụng ODA thể hiện được mối quan hệ giữa các
ngành, các vùng; công tác điều phối phải gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng nhằm
thực hiện đúng mục tiêu phát triển và công bằng xã hội, phải vừa chủ động tranh thủ các
nhà tài trợ, nhưng phải bảo đảm tính tự chủ của quốc gia trên cơ sở làm hài hòa thủ tục
giữa Việt Nam và các nhà tài trợ; cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục phiền hà;
tăng cường trách nhiệm của các ngành, các cấp; đẩy nhanh giải phóng mặt bằng, tiến độ
và nâng cao chất lượng thi công; đào tạo và nâng cao năng lực quản lý ODA; thiết kế
ngay lộ trình trả nợ nước ngoài để chủ động và bảo đảm tính ổn định và bền vững của
quá trình phát triển đất nước.
3. Ví dụ việc nhập viện trợ ODA không hiệu quả ở Việt Nam
Thời gian qua, sự lãng phí của hệ thống công nghệ vệ tinh Movimar cũng được dư
luận đặc biệt quan tâm.

Hệ thống công nghệ vệ tinh Movimar được triển khai theo quyết định số 453/QĐBNN-TCTS ngày 14/03/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đây là hệ
thống quan sát tàu cá, vùng đánh bắt và nguồn lợi thủy sản bằng công nghệ vệ tinh với
quy mô lớn được hợp tác ký kết bằng nguồn vốn ODA của Chính phủ Pháp, khoảng 40
triệu USD.
Mục đích của dự án nhằm giúp ngư dân nắm bắt thông tin cần thiết cho mỗi chuyến
vươn khơi dài ngày trên biển, như: Định hướng cho tàu thuyền trở về bờ hoặc vào nơi
tránh bão an toàn gần nhất; xác định chính xác ngư trường có nhiều thủy, hải sản; tin dự
báo thời tiết biển, cảnh báo bão, áp thấp nhiệt đới; giúp các cơ quan quản lý nghề cá cũng
như cơ quan phòng, chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn có giải pháp xử lý nhanh, chính
xác các tai nạn, sự cố kỹ thuật đối với tàu cá trên biển. Theo đó, 3.000 tàu cá được lựa
chọn lắp đặt miễn phí.
11


Tuy nhiên, sau vài năm triển khai, hệ thống thiết bị này đã bị ngư dân từ chối vì hoạt
động không hiệu quả.
Chi phí cho một bộ thiết bị khá đắt khi có đơn giá gần 100 triệu đồng, nhưng chỉ có
tác dụng duy nhất là định vị được con tàu mang thiết bị đang ở tọa độ nào trên biển một
cách khá chính xác. Với tàu cá của Việt Nam, trong phạm vi đặc quyền kinh tế 200 hải lý
vẫn có thể sử dụng được những phương pháp khác tiện lợi hơn, ít tốn kém hơn rất nhiều
lần.Trong khi thực tế, ngư dân Việt Nam có nhiều người còn không biết chữ. Việc sử
dụng những thiết bị hiện đại như thế này chưa phù hợp với họ.
100 triệu nhân với 3.000 tàu cá, hàng trăm tỉ đồng tiền ngân sách đã trôi theo sóng
biển...
Còn rất, rất nhiều những dự án hàng trăm tỷ cũng đã được “vẽ” ra, gây lãng phí không
ít cho Ngân sách Nhà nước. Nhiều người băn khoăn vì sao trong khi hàng loạt dự án
không hiệu quả, không phù hợp với thực tế nhưng nhiều đề xuất, dự án trên mây, xa vời
thực tế khác vẫn đang được vẽ ra và có thể vẫn tiếp tục thực hiện (!?).
Những dự án như thế được đánh giá là có tác hại hơn nhiều lần tham nhũng, vì tham
nhũng chỉ làm thất thoát công quỹ 40 hay 50% là tối đa, còn một dự án vẽ vời sai lầm có

thể biến trăm phần trăm của cải nhà nước, tiền đóng thuế của nhân dân thành tro bụi.
4. Kết luận
ODA có thật sự cao thượng như định nghĩa trên?
Thứ nhất ODA là vũ khí kinh tế làm giàu cho các nước tài trợ như kiểu lùi một bước
tiến nhiều bước hợp dồng tài trợ ODA luôn đi kèm một loạt các yêu cầu ví dụ như là
dùng các máy móc thiết kế tư vấn giám sát các nước tài trợ đầu tư vào các nghành công
nghiệp của các nước tài trợ yêu cầu thậm chí các nước tài trợ ODA còn có thể tạo ra yêu
cầu viện trợ giả tạo ra lợi nhuận trong nước
Thứ hai ODA làm cho các nước viện trợ ngày càng trở nên phụ thuộc vào các nước
cho vay, không nghĩ thoát khỏi nghèo đói trên đôi chân của chính mình. Việc phụ thuộc
cũng như là một sự ru ngủ của các lãnh đạo của các nước nghèo tạo tiền đề cho tham
nhũng cho lợi ích của nhóm thực tế những nước nhận viện trợ nhiều nhất từ những quỹ
tiền tệ quốc tế AMF ngân hàng thế giới của châu phi như là Siea Leone, Liberia và
Somalia đã bị gọi là những quốc gia thất bại . Trong khi ngay tại Châu Phi , các quốc gia
có cơ sở hạ tầng tốt và có kinh tế phát triển tốt là các quốc gia nhận được rất ít hoặc
không có viện trợ nhận, ví dụ như Namibia. Namibia được ghi nhận là có quản trị quốc
gia và cơ sở hạ tầng rất tốt, và đặc biệt là tham nhũng thì cực kì thấp.
Thứ ba càng vay nhiều ODA thì càng khó đoán về tương lai kinh tế và chính trị của
đất nước. Dù sao cũng phải nên nhớ rằng, ODA không phải là cho không và là một khoản
vay và đã vay là phải trả. Vay hôm nay thì mai sau con cháu phải trả.
Angus Deaton, người đạt giải Noben kinh tế học năm 2015 đã từng nói rằng ( ai đưa
cho chúng ta trách nhiệm này?). Tức là tại sao các nước giàu cứ thích can thiệp vào việc
các nước khác ? không ai nợ bạn cuộc sống. Và bạn phải chịu trách nhiệm về sự nghèo
12


đói của mình. Giáo sư Angus Deaton cho rằng các nước giàu cần phải suy nghĩ lại về
cách thức giúp đỡ người nghèo bằng cách đưa tiền cho chính phủ của họ, bởi vì đưa tiền
nuôi sống bộ máy quản lý yếu kém giống như tiếp nước cho người bệnh mãn tính mà
không tiêm thuốc chỉ kéo dài căn bệnh ngày càng nặng hơn. Lối suy nghĩ này giống như

kiểu siêu nhân vậy –nhào vào và cứu tất cả những con người đau khổ trên thế giới, nhưng
bất đồng và thiếu suy nghĩ. Thật ra nó cũng hơi giống với ý tưởng của chủ nghĩ thực dân.
Gọi là cứu giúp người khác, mang nền văn ninh nhân loại đến những nơi tối tăm của thế
giới, nhưng thực ra họ cũng không hề nghĩ xem việc mình giúp đã đúng chưa, và giúp thế
nào là đủ. Trong kinh tế thì nó giống như cung và cầu của các gói hỗ trợ phát triển vậy.
Chúng ta chỉ biết một điều là thế giới gần như vẫn chưa tìm ra điểm cân bằng. Thế nên là
nếu dạo qua truyền thông về tin tức của những gói ODA mới, hay thành tựu trong việc
nhận vốn ODA của việt nam, hãy thử dừng lại xem và nghĩ liệu ODA có hoàn toàn là quà
từ những mạnh thường quân như bạn nghĩ.

13


Danh sách thành viên nhóm 11:
1. Đặng Ngọc Diễm My
2. Nguyễn Thùy Linh
3. Nguyễn Lê Thanh Thùy

14



×