Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Vì sao nói học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết kinh tế cơ bản của chủ nghĩa mác lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.95 KB, 19 trang )

Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

LỜI NÓI ĐẦU
Khi nghiên cứu toàn bộ học thuyết của Các Mác, chúng ta đã
thấy rõ công lao to lớn của ông trong việc khắc phục những hạn
chế của các học thuyết trước đó . Trên cơ sở kế thừa những cái đã
có và tìm ra những hạn chế của các học thuyết đó để bổ sung, hoàn
thiện, sáng tạo và phát triển. Như Lê Nin đã nói: “ Tất cả thiên tài
của Các Mác chính là ở chỗ giải đáp được những vấn đề mà tư
tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Các Mác đã kế thừa tất cả
những cái gì tốt đẹp nhất mà loài người tạo ra trong thế kỉ XIX”.
Toàn bộ học thuyết của Các Mác được trình bày trong bộ tư bản,
đây được coi là một tác phẩm lớn, trình bày một cách khoa học, có
hệ thống các học thuyết kinh về: giá trị, giá trị thặng dư, tiền công,
tích lũy tư bản, tuần hoàn, chu chuyển tư bản, tái sản xuất tư bản…
Trong đó học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai học thuyết
vĩ đại nhất của Các Mác, đây cũng là học thuyết kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa Mác Lê Nin.
Trên cơ sở học thuyết kinh tế về phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư, “ Mác hoàn toàn
dựa vào và chỉ dựa vào những quy luật kinh tế của sự vận động của
xã hội hiện đại mà kết luận rằng xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định
sẽ biến thành xã hội xã hội chủ nghĩa. Việc xã hội hóa lao động
ngày càng tiến nhanh thêm dưới muôn vàn hình thức, đã biểu hiện
rõ ràng ở sự phát triển của đại công nghiệp,…đấy là cơ sở vật chất
chủ yếu cho sự ra đời không thể tránh khỏi của chủ nghĩa xã hội.
Hình thành một cách đồng thời với chủ nghĩa xã hội là sự ra đời
của nhà nước xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng, chức năng và
nhiệm vụ nhất định .

1




Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Đề tài :
Câu 1 : Vì sao nói học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết kinh
tế cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin ?
Câu 2 : Đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội
chủ nghĩa , liên hệ với nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam ?
Tuy đã rất cố gắng song bài viết không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo và bạn học lớp Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
Lê Nin 30 . Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày 10 tháng 4
năm 2012
Bài làm
Câu 1 :
Trả lời :
I, Hoàn cảnh ra đời học thuyết giá trị thăng dư của chủ nghĩa
Mác.
Học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác ra đời trong bối cảnh
lịch sử Tây Âu của những năm 40 thế kỷ XIX:
- Về thực tiễn kinh tế: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất dựa trên thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn
thành. Chính nó đã tạo ra cơ sở vật chất để các phạm trù kinh tế
với tư cách là bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc
lộ khá rõ nét.
- Về thực tiễn chính trị xã hội: Là thời kỳ có nhiều biến đổi
về chính trị và xã hội đã và đang diễn ra (Cách mạng phản phong
kến của Pháp, Công xã Pari và phong trào công nhân Pháp, Phong

trào hiến chương, Cuộc cách mạng tư sản 1848 mang tính toàn
châu Âu). Đó là những chất liệu quý giá cho sự hình thành các học
thuyết của Các Mác.
- Về tiền đề lý luận: Các Mác đã dựa vào kinh tế chính trị tư
sản cổ điển Anh ( W. Petty, A.Smith, D.Ricardo), chủ nghĩa xã hội
không tưởng của Pháp, Triết học cổ điển Đức (Hêghen và
Phoiơbắc).

2


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Với bối cảnh ra đời trên, học thuyết giá trị thặng dư của
C.Mác được trình bày từ phần IV đến phần V trong quyển 1 và từ
phần I đến phần III trong quyển 3 của Bộ "Tư bản"
II, Nội dung cơ bản học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa
Mác.
Học thuyết giá trị thặng dư nghiên cứu trực tiếp sự tồn tại và
phát triển của quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật
giá trị thặng dư với tư cách là quy luật kinh tế tuyệt đối (hay quy
luật kinh tế cơ bản) của xã hội Tư bản, nghiên cứu hình thức biểu
hiện của giá trị thặng dư mà trước tiên là lợi nhuận và lợi nhuận
bình quân.
Nội dung cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư của Mác thể
hiện cụ thể như sau:
- Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản.
- Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối.
- Mối quan hệ và sự khác biệt giữa sản xuất ra giá trị thặng

dư tương đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Quy luật giá trị thặng dư.
1, Chuyển hóa tiền tệ thành tư bản.
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền
nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ
biến thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột lao động của người
khác.
Nếu tiền được dùng để mua hàng hoá thì chúng là phương
tiện giản đơn của lưu thông hàng hoá và vận động theo công thức:
Hàng- Tiền- Hàng (H-T-H), nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá
thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại chuyển hoá thành hàng. Còn tiền với tư
cách là tư bản thì vận động theo công thức: Tiền- Hàng- Tiền (TH-T), tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng và sự chuyển hoá
ngoặc lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công
thức T-H-T đều được chuyển hoá thành tư bản.
Do mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử
dụng nên vòng lưu thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những
người trao đổi đã có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến.
3


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Còn mục đích lưu thông của tiền tệ với tư cách là tư bản không
phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì
vậy nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở
nên không có giá trị gì. Do vậy số tiền thu phải lớn hơn số tiền đã
ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’,
trong đó T’=T+ T. T là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C.
Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá
thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục

đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư, nên sự
vận động T-H-T’ là không có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là
không có giới hạn.
Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông
theo công thức T-H-T’, do đó công thức này được gọi là công thức
chung của tư bản.
Tiền ứng trước, tức là tiền đưa vào lưu thông, khi trở về tay
người chủ của nó thì thêm một lượng nhất định (T). Vậy có phải do
bản chất của lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm, và do đó mà
hình thành giá trị thặng dư hay không?
Thật vậy trong lưu thông nếu hàng hoá được trao đổi ngang
giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, còn tổng số giá trị,
cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi là không đổi. Về
mặt giá trị sử dụng trong trao đổi của hai bên là không có lợi gì.
Như vậy, không ai có thể thu được từ lưu thông một lượng lớn hơn
lượng giá trị đã bỏ ra (Tức là chưa tìm thấy T).
C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản không có bất kỳ một nhà
tư bản nào chỉ đóng vai trò là người bán sản phẩm mà lại không
phải là người mua các yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng
hoá cao hơn giá trị vốn có của nó, thì khi mua các yếu tố sản xuất ở
đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy
cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. (Cuối cùng
vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh ra T)
Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người
đó sẽ được lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó
sẽ mất đi khi là người bán. Như vậy việc sinh ra T không thể là kết
quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó.
4



Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Vậy trong lưu thông không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng
dư vì vậy không thể là nguồn gốc sinh ra T
Ở ngoài lưu thông Mác xem xét cả hai yếu tố là hàng hoá và
tiền tệ:
Đối với hàng hoá ngoài lưu thông: Tức là đem sản phẩm
tiêu dùng hay sử dụng và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì
thấy cả giá trị sử dụng và giá trị của sản phẩm đều biến mất theo
thời gian.
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngoài lưu thông là tiền tệ
nằm im một chỗ. Vì vậy không có khẳ năng lớn lên để sinh ra T.
Vậy ngoài lưu thông không thể xuất hiện từ lưu thông và
cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện
trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông. Đó là
mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
Khi Mác trở lại lưu thông lần thứ hai và lần này Mác đã phát
hiện ra rằng: ở trong lưu thông người có tiền là nhà tư bản phải gặp
được một người có một thứ hàng hoá đặc biệt đem bán. Mà thứ
hàng hoá đó khi đem đi tiêu dùng hay sử dụng nó có bản tính sinh
ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, hàng hoá
đặc biệt đó chính là sức lao động.
Theo C.Mác: "Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ
những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong mọi cơ thể, trong
mọi con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi
khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó"
Sức lao động chỉ có trở thành hang hóa trong những điều
kiện lịch sử nhất định sau đây:
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể,
làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động

của mình như một hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư
liệu sản xuất, để tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của
mình để sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao
động thành hàng hóa.
2, Sự sản xuất ra giá trị thặng dư.
5


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

A,Bản chất giá trị thặng dư:
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá
trị sử dụng được sản xuất chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao
đổi, nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra
một hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất
và giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là
muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa
quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư. C.Mác viết: “ Với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá
trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là
một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa
quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản
xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản
chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu

dùng sức lao động có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà
tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản
sử dụng sao cho có hiêụ quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ
không phải của người công nhân
C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối
tượng nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên
cứu, Mác đã sử dụng phương pháp giả định khoa học thông qua giả
thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu: Không xét đến ngoại
thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất
đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ
nghiên cứu trong nền kinh tế tái sản xuất giản đơn.
Từ các giả định đó, Mác đưa ra một loạt các giả thiết để
nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1 đôla; hao
mòn thiết bị máy móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla;
6


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

tiền thuê sức lao động 1 ngày là 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động
của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 giờ người công nhân kéo
được 5 kg bông thành 5 kg sợi.
Từ đó, có bảng quyết toán như sau:
Tư bản ứng trước

Giá trị của sản phẩm mới
Lao động cụ thể của công

Giá 10 kg bông
10
nhân bảo tồn và chuyển
10
đôla
giá trị 10 kg bông vào 10 đôla
kg sợi.
Hao mòn máy móc
2 đôla Khấu hao tài sản cố định 2
đôla
Tiền thuê sức lao
4 4 đôla Giá trị mới do 8 giờ lao
8
động trong một ngày
động của người công
đôla
nhân tạo ra
Tổng chi phí sản
xuất

16
đôla

Tổng doanh thu

20
đôla

Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20
đôla) với tổng chi phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla)

nhà tư bản nhận thấy tiền ứng ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này
được gọi là giá trị thặng dư.
Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng
ta nhận thấy mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được
giải quyết. Việc chuyển hoá tiền thành tư bản diến ra trong lĩnh
vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có
trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc
biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng
hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất
giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến
thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg
sợi), chúng ta thấy có hai phần:
7


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người
công nhân mà được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm
mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá
trình lao động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá
trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị
thặng dư.
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản
được chia thành hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian
này người công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với

giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho
mình (4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư: Trong
thời gian lao động thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng
giá trị lớn hơn giá trị sức lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả
cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 đôla) và bộ phận này thuộc về
nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt).
Từ đó, Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm
đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra
giá trị vượt khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân
đã tạo ra một lượng giá trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động
hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho họ. Thực chất của sản
xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại
điểm đó giá trị sức lao động được trả ngang giá.
B- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách
kéo dài tuyệt đối thời gian lao động trong ngày của người công
nhân trong điều kiện thời gian lao động cần thiết (hay mức tiền
công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao
động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình
8


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả định ngày lao động được

kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi
thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế
giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%
(m’ = 200%)
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi
cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem
lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư
bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó lại
tồn tại trong cơ thể sống của con người.
Vì vậy, ngoài thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản
trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để
ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác,
sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất
người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu
sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu
dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư
sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp
bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư
tương đối.
C- Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách
rút ngắn thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài
tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài của
ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao
động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc
lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại giả thiết rằng, công nhân chỉ cần
2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá trị sức lao
động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời

gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường
hợp đó cũng thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ,
thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư
bản lúc này là 300%
(m’ = 300%).
9


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư
bản phải tìm mọi biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và
công nghệ vào trong quá trình sản xuất để nâng cao năng suất lao
động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị trường của
sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong
những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để
nuôi sống người công nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao
động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà
kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm vị trí
chủ yếu. Hai phương pháp trên được các nhà tư bản sử dụng kết
hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê
trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
3, Quy luật giá trị thặng dư.
Quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là
quy luật giá trị thặng dư.
+Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản bởi vì nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản.

Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản.
Theo C. Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.ở đâu có sản xuất giá
trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ
nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chính vì vậy,
Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của
chủ nghĩa tư bản.
+Nội dung của quy luật này là sản xuất nhiều và ngày càng
nhiều hơn giá trị thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột công nhân
làm thuê.
+Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục
đích, là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của
chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ
10


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ
nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của
xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản và giai cấp công nhân
+Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản
chủ nghĩa. Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị
thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để
có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư
cao hơn.
+Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư

bản ra sức áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ
đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất
có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
ngày càng gay gắt.
Kết Luận:
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất
ra giá trị sử dụng, mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị
lên. Theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục
đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như
của toàn bộ xã hội tư sản. Sản xuất ra giá trị thặng dư quả thực là
động lực vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
C.Mác viết: “ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu,
là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia
và tạo ra giá trị thặng dư”.
Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản tăng cường
bóc lột công nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh
tế (roi vọt), mà bằng cưỡng bức kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên
cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật để tăng năng suất lao
động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
Vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa tư bản. C.Mác viết: “ Việc tạo ra giá trị thặng dư, đó là
quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó”. Nội dung chủ yếu
của quy luật này là để thu được giá trị thặng dư một cách tối đa,
11


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm thuê và tìm mọi thủ đoạn

để bóc lột họ.
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ
thuật hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng
suất lao động, làm giảm giá trị hàng hoá. Đồng thời thu hút một
đội ngũ các kỹ sư, quản lý, mà chức năng của họ suy cho cùng là
bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả các nhân tố của sản xuất
mà trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng giá trị thặng dư.
Học thuyết giá trị thặng dư đã trở thành nền tảng cho các học
thuyết kinh tế của Mác . Hầu hết học thuyết kinh tế của Mác đều
được xây dựng dựa trên tính đúng đắn của học thuyết giá trị thặng
dư vì vậy có thể nói học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết kinh
tế cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin.
Cấu 2:
Trả lời :
I, Đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ
nghĩa :
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, đảng của
giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với
toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng
dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đo là một nhà nước
kiểu mới, thay thế nhà nước tư bản nhờ kết quả của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được
thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khác với các
hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Đó là kiểu nhà nước có những
đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, nhà nước nước xã hội là công cụ cơ bản để thực hiện
quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chuyên chính giai

cấp, nhưng vì lợi ích của tất cả những người lao dộng tức là tuyệt
đại đa số nhân dân; thực hiện sự trấn áp đối với những lực lượng
chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủn nghĩa.
12


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê Nin vẫn xem mặt tổ chức,
xây dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của
chuyên chính vô sản. V.I.Lê Nin cho rằng, chuyên chính vô sản
không phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức,
xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản cảu nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lê Nin, con đường vận động, phát
triển của nó ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện của nhân
dân, ,mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc
biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nàh nước”. Sau
khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi
thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “tự tiêu vong”. Đây cũng
là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.
Những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước xã hội chủ nghĩa biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã
hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả
bằng tổ chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện xã hội mới,

cả bằng việc sử dụng những công cụ bạo lực để đập tan sự phản
kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, do đó bạo lực,
trấn áp cũng là cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đều cho rằng,
với bản chất của nhà nước vô sản, thì việc tổ chức, xây dựng mang
tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Khi xác định những nấc thang, những giai đoạn phát triển của
một cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm
đi tới giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và phát
13


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

triển tàn diện con người, C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng,
việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà nước mới chỉ là
giai đoạn đầu tiên. Trong giai đoạn tiếp theo, phải sử dụng quyền
lực nhà nước "để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản
xuất". Như vậy, rõ ràng chức năng tổ chức và xây dựng phải là
chức năng chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề này,
V.I.Lênin khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản,
sáng tạo ra một xã hội mới, đó là chức năng quan trọng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, quan trong hơn cả việc đập tan sự phản
kháng của giai cấp tư sản.
Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những

nhiệm vụ chính là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế,
cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,
quản lý văn hóa- xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa,
thực hiện giáo dục- đào tạo con người phát triển toàn diện, chăm
sóc sức khỏe nhân dân... Ngoài ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn
có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác
hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ
xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.
Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga Xôviết, V.I.Lênin
đã làm rõ nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên hai lĩnh
vực kinh tế và xã hội.
Đối với lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
nhà nước vô sản là phải nhanh chóng phát triển mạnh số lượng sản
phẩm, củng cố ký luật lao động mới và nâng cao năng suất lao
động.
Đối với lĩnh vực xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải xây
dựng được quan hệ xã hội mới, hình thành những tổ chức lao động
mới, tập hợp được đông đảo những người lao động có khả năng
vận dụng những thành tựu khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, thực
hiện từng bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hóa thông
qua những tổ chức thích hợp.
II, Liên hệ với Việt Nam

14


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước đặc
biệt với những đặc trưng cơ bản sau đây:

1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước phải
có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng
cao thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với hiện thực
khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, trong đó Hiến pháp
và các đạo luật phải giữ vị trí tối cao. Các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà nước và
mọi thành viên trong xã hội phải tôn trọng và nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật.
2. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân
dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức
dân chủ đại diện (qua cơ quan nhà nước do mình bầu ra)
và hình thức dân chủ trực tiếp.
3. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực hiện được
quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường được pháp chế
trong xã hội, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật,
bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của công dân, chịu trách nhiệm
trước công dân về mọi hoạt động của mình.
4. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước tổ
chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giưã các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại
tới lợi ích hợp pháp của công dân từ phía Nhà nước.
5. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn
trọng và thực hiện đầy đủ các điều ư ớc quốc tế mà Nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia.

6. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do
Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo. Đây là đặc điểm đặc
trưng, cơ bản, rất quan trọng mang tính lý luận và đã
15


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

được kiểm chứng bằng thực tế lịch sử của cách mạng
Việt Nam.
7. Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền của
chế độ ta thể hiện những tư tưởng quan điểm tích cực,
tiến bộ, phản ánh ước mơ và khát vọng của nhân dân đối
với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai
cấp.
Những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng của nhà nước xã
hội chủ nghĩaViệt Nam là:
+) Quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.
+) Tổ chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện xã hội
mới, cả bằng việc sử dụng những công cụ bạo lực để đập tan sự
phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã
hội.
+) Cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa .
+) Chức năng giai cấp và chức năng xã hội:
Chức năng giai cấp : Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là công cụ chuyên chính của giai cấp nhất định .
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định
đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận

hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao
lợi ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện
về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.
Chức năng xã hội : Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự
tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số công việc chung
của toàn xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam muốn thực
hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt chức
năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho
nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo
đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt
chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã
16


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội về mặt
chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của
các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là,
chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện
chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia.
Từ các chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những
nhiệm vụ chính là:
+) Không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân. Chế độ xã
hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà nước
của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện để cho nhân dân tham
gia một cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội. Trong mọi hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có

mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân,
đồng thời đấu tranh không khoan nhượng, trừng trị kịp thời mọi
hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ
thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý
kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của
nhân dân
+) Tổ chức và quản lý kinh tế, Nước ta xây dựng chủ nghĩa
xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế chậm phát triển, còn phổ biến là
sản xuất nhỏ, nên nhiệm vụ tổ chức, quản lý kinh tế của nhà nước
là hết sức khó khăn, phức tạp, chính vì thế mà nhiệm vụ phát triển
kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt và là một nhiệm vụ khá mới mẻ.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ của lực
lượng sản xuất còn thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện
nhiệm vụ giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội,
vừa phải bảo đảm ổn định và cải thiện không ngừng đời sống nhân
dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây dựng của Nhà nước ta càng
trở nên nặng nề.
+) Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục. Xã hội
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân giàu,
17


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại

và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”. Để có thể xây dựng thành
công một xã hội như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đương nhiên
phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, phát triển khoa
học và công nghệ – đó được coi là “quốc sách hàng đầu” để phát
huy nhân tố con người. Thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xây
dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới, nền khoa học
và công nghệ hiện đại – đó cũng chính là những động lực quan
trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Như vậy, xét một cách tổng thể, nhiệm vụ sáng tạo và xây dựng
xã hội mới là nhiệm vụ quan trọng nhất trong chức năng xã hội của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở lý luận và phương pháp
luận duy vật biện chứng, xét đến cùng, có thể nói, nhiệm vụ cơ bản
và quyết định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức
và quản lý kinh tế, bởi một xã hội chỉ có thể ổn định, vận động và
phát triển được khi có một cơ sở kinh tế – xã hội phù hợp. Yếu tố
kinh tế, nhất là lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là yếu tố quyết
định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xem
xét vấn đề này ở góc độ kiến trúc thượng tầng của xã hội – xây
dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì nhiệm
vụ bảo vệ các quyền tự do và không ngừng mở rộng dân chủ cho
nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi việc thực hiện nhiệm vụ
này là sự thể hiện trực tiếp nhất bản chất của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
MỤC LỤC:
Lời nói đầu …………………………………………………………
Trang 1
Câu 1 : Vì sao nói học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết kinh tế

cơ bản
của chủ nghĩa Mác Lê
Nin ?..............................................................Trang 2
18


Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê Nin

Câu 2 : Đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, liên hệ với nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ?..................................Trang 10

19



×