Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích luận điểm của hồ chí minh “ thắng đế quốc, phong kiến tương đối dễ,thắng bần cùng và lạc hậu khó hơn nhiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.65 KB, 21 trang )

.
Bài
tập lớn: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “ Thắng đế
quốc, phong kiến tương đối dễ,thắng bần cùng và lạc hậu khó hơn
nhiều”.
LỜI MỞ ĐẦU

Nước ta đạt được những thành công như hôm nay là nhờ
những đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và tư tưởng của
chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tài sản tinh
thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh quyết
định mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam, dẫn dắt dân tộc Việt
Nam đến tương lai tươi sáng. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải
phóng con người. Và vấn đề xây dựng con người là vấn đề lớn,
được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong
toàn bộ nội dung tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trung thành với C.Mác, Lênin cho rằng: “So với những nước
tiên tiến, thì đối với nước Nga, bắt đầu cuộc đại cách mạng vô sản
là một điều dễ dàng hơn, nhưng tiếp tục cuộc cách mạng đó đến
thắng lợi cuối cùng… lại là một điều khó khăn hơn”. Như vậy,
theo Lênin, so với những nước tư bản tiên tiến, Nga làm cách
mạng vô sản dễ hơn nhưng để đi đến thắng lợi cuối cùng thì lại
khó khăn hơn. Khó đến mức mà hiện nay nước Nga xã hội chủ
nghĩa là không còn nữa.
Trung thành với Lênin, khi nghiên cứu tình hình cụ thể các
nước phương Đông, Hồ Chí Minh cho rằng với những lý do lịch sử


.
cho


phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào Châu Á, dễ
dàng hơn ở Châu Âu”

Quan điểm này của Bác hoàn toàn có căn cứ, có cơ sở khoa
học: Điểm khác biệt giữa Á với Âu, Đông và Tây là ở chỗ ảnh
hưởng của cái gọi là phương thức sản xuất Châu Á lâu dài, dai
dẳng, đã tạo nên một đặc điểm đặc trưng của phương Đông là việc
không có sở hữu tư nhân về ruộng đất. Ở phương Đông đất đai
dưới trời đâu chẳng là của vua, người trên đất đai ấy ai chẳng phải
là thần dân của vua. Sau Hồ Chí Minh, nhiều nhà nghiên cứu của
Việt Nam đã cho rằng cùng với chế độ “'lãnh hữu” chứ không phải
“sở hữu” và ruộng đất các nước phương Đông dễ tiến lên chủ
nghĩa xã hội, hơn chủ nghĩa tư bản.
Nhưng để tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội là hai việc khác nhau. Cái thứ nhất suy cho cùng
là tiền đề, cái thứ hai mới là mục đích. Hồ Chí Minh cho rằng
thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng
và lạc hậu còn khó hơn nhiều, rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa
là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất nhưng là cuộc cách mạng
gay go nhất, phức tạp, khó khăn nhất, là cuộc chiến khổng lồ
chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi. Qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
những năm qua, chúng ta càng thấm thía tư tưởng của Người.
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI


.


1.1 Chủ nghĩa Mác-lê nin về chủ nghĩa xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991)
đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ”
trong đó khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động"
Đây là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch
sử của Đảng và của cách mạng Việt Nam trong suốt quá trình cách
mạng từ khi thành lập Đảng đến nay. Đó là một quyết định có tầm
lịch sử quan trọng thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng
ta.
Hơn 70 năm qua, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tổng
kết 15 năm đổi mới ở nước ta, Đảng đã rút ra những bài học kinh
nghiệm chủ yếu, trong đó bài học hàng đầu là phải kiên trì mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn phong phú và những thành tựu to lớn đã đạt được,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh".
Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, biết vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nhiệm vụ và trách nhiệm hàng đầu của mỗi cán bộ, đoàn viên và
thanh niên Việt Nam.


.

1.1.1: Chủ nghĩa Mác-Lênin là gì?

a. C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách
mạng, khoa học và nhân đạo.
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, quần
chúng lao động luôn luôn ước mơ, mong muốn được sống trong
một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no và hạnh
phúc. Vì vậy, họ liên tục đấu tranh để thực hiện ước mơ, khát vọng
đó. Nhiều tư tưởng tiến bộ và nhân đạo đã hình thành và phát triển
để dẫn dắt cuộc đấu tranh của quần chúng.
Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột của giai cấp
tư sản phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng
dẫn. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng đòi hỏi cấp bách đó.
C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa có
phê phán những thành tựu khoa học và những giá trị tư tưởng của
nhân loại đạt được trước đó, bằng lao động khoa học và sáng tạo
hai ông đã phân tích xã hội tư bản, tổng kết thực tiễn phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. C.Mác và
Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học và
nhân đạo để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Trong học thuyết của mình, hai ông đã chứng minh sự sụp
đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một xã hội mới
không còn chế độ người bóc lột người. Đó là chủ nghĩa xã hội, giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
b. Lênin đã bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển toàn diện
lý luận của Mác-Ăngghen trong điều kiện mới.


.

Đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới đã xuất hiện những đặc điểm

mới: Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là
chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc
tạo tiền đề cho cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số
nước, thậm chí ở một nước.
Trong hoàn cảnh đó, Lênin (1870–1924) đã vận dụng sáng tạo
và phát triển toàn diện học thuyết của Mác-Ăngghen để giải quyết
những vấn đề cơ bản của cách mạng vô sản. Lênin đã ra sức bảo vệ
lý luận Mác, phê phán không khoan nhượng với mọi loại kẻ thù tư
tưởng: Xét lại, cơ hội… Đồng thời, ông chú trọng tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân thế
giới, dựa trên những kết quả mới của khoa học, bổ sung, phát triển
cơ sở lý luận của Mác-Ăngghen với tinh thần biện chứng duy vật.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa đế quốc
và thực tiễn phong trào của giai cấp công nhân Nga, Lênin đã lãnh
đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở ra thời đại
mới: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
Những cống hiến vĩ đại của Lênin cả về lý luận và thực tiễn đã
góp phần làm cho hệ thống lý luận của Mác, Ăngghen ngày càng
hoàn chỉnh. Để ghi nhận công lao và những đóng góp to lớn của
Lênin, những người cộng sản và giai cấp công nhân quốc tế trân
trọng gọi học thuyết đó là chủ nghĩa Mác-Lênin.
c. Chủ nghĩa Mác-Lênin là gì?
Có thể nói một cách ngắn gọn: Chủ nghĩa Mác-Lênin là thế
giới quan và phương pháp luận khoa học, nó cung cấp cho con


.
người
một công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới; nó chỉ ra quy

luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về sự giải phóng và phát
triển. Nó không những nêu ra mục tiêu, đối tượng, những quy luật
của sự giải phóng và phát triển, mà còn chỉ ra những lực lượng
cách mạng có khả năng thực hiện được sự giải phóng và phát triển.
Đó là giai cấp công nhân.
1.1.2 Những phát triển mới của Lênin về chủ nghĩa xã hội
và thời kỳ quá độ.
a. lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản
trước tiên ở một số nước, thậm chí ở một nước TBCN riêng lẻ.

Trong điều kiện CNTB trước độc quyền, Mác và Ph. Angghen
rút ra kết luận: cách mạng vô sản ko thể ko xảy ra trong tất cả các
nước văn minh, ít nhất cũng phải cùng xảy ra ở Anh, Pháp, Đức. .
Luận cứ cho các kết luận đó của các ông là: đại công nghiệp, do đã
tạo nên thị trường thế giới nên đã nối liền các dân tộc trên trái đất
lại với nhau, tất cả là các dân tộc văn minh, khiến cho cách mạn gở
mỗi dân tộc đều có quan hệ phụ thuộc vào tình hình cách mạng xảy
ra ở mỗi dân tộc khác. Sau nữa, đại công nghiệp đã san bằng sự
phát triển XH ở tất cả các nước văn minh, vì vậy, cuộc cách mạng
vô sản không những có tính chất dân tộc mà còn có tính chất quốc
tế và sẽ đồng thời xảy ra ở các nước văn minh. Trên cơ sở tổng kết
thực tiễn phát triển của CNTB trong giai đoạn mới là cực kì ko
đều. Quy luật phát triển không đềuvề kinh tế và chính trị của các
nước trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa đã làm cho cách mạng vô
sản phát triển ko đều, tạo ra những khâu yếu nhất trong sợi dây


.
chuyền

TBCN khiến cho giai cấp vô sản ở những nước đó có thề
chọc thủng mặt trận TBCN thế giới.

b. Lý luận về thời đại mới và khả năng quá độ đi lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới.
Những dự báo của Mác và Angghen về sự quá độ từ CNTB
lên CN cộng sản là xuất phát từ điều kiện CNTB đang ờ thời kỳ tự
do cạnh tranh, sự phát triển của CNTB tương đối ổn định. Theo
VLenin, việc xã hội hóa lao động ngày càng tăng nhanh dưới nhiều
hình thức đã biểu hiện rõ rang ở sự phát triển của đại công nghiệp
và cả ở sự phát triển ghê gớm của quy mô và thế lực TB tài chính
đã làm cho những mâu thuẫn của CNTB trở nên hết sức gay gắt.
CN đế quốc đã tạo nên những tiền đề vật chất làm cơ sở hiện thực
cho sự thay thế CNTB bằng CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Những tiền đề ấy chứng tỏ “ CNXH đến gần, đã dễ thực hiện, đã
có khả năng thực hiện, đã cần kíp rồi”. Với sự bắt đầu của thời đại
mới, mọi quốc gia dù phát triển hay kém phát triển về kinh tế đều
có khả năng khách quan để vượt qua thời đại TBCN và bước vào
thời đại XHCN.
Có thể làm cuộc cách mạng XHCN với các đều kiện sau:
- sự thống trị của giai cấp vô sản trong nước.
- sự ủng hộ kịp thời của cách mạng XHCN ở 1 nước hay một số
nước tiên tiến.
- sự liên minh giữa giai cấp vô sản đang nắm chính quyền với đại


đa. số nông dân. Trong đều kiện chưa có sự giúp đỡ kịp thời của
cách mạng vô sản thế giới thì sự liên minh giữ công dân và nông
dân càng có ý nghĩa quan trọng sống còn.
c. Lý luận về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ đi lên

chủ nghĩa xã hội:
Theo Lenin sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là do đặc điểm ra đời, phát triển phương thức sản xuất
cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định.
Quan hệ SX phong kiến và quan hệt SX TBCN đều dựa trên chế
độ tư hữu về tư liệu SX. Do vậy, quan hệ sản xuất TBCN có thể ra
đờ từ trong lòng XH phong kiến.Sự phát triển của phương thức SX
TBCN đến một trình độ nhất định sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn
của XH phong kiến, cách mạng TS sẽ bùng nổ.
Cách mạng vô sản co điểm khác biệt với cách mạng tư sản. Do
quan hệ SX TBCN dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu SX, còn quan
hệ SX XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu SX, nên chủ
nghỉa XH không thể ra đời trong lòng từ XH TB. Phương thức SX
cộng sản chủ nghĩa chỉ ra đời sau khi cách mạng vô sản thành
công.
Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ lâu dài, không thể ngay 1 lúc có thể hoàn thành dc. Để phát
triền lực lượng sản xuất , tăng năng xuất lao động, xây dựng chế độ


.
công
hữu XHCN về tư liệu SX , xây dựng kiểu XH mới, cần phải
có thời gian.Nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ quá độ đi lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, triệt để , toàn diện , từ xã hội cũ sang xã hội mới và kết thúc
khi xây dựng thành công các cơ sở của XH – XHCN về vật chất –
kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, tư tưởng.

d. lý luận về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước
CNTB chưa phát triền:
- luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên chiến
để xây dựng tiền đề kinh tế cho CNXH.
- Luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ:
+ không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường
gián tiếp chứ ko thề “quá vội vàng, thẳng tuột, ko thể chuẩn bị”
+ những bước quá độ ấy theo Lênin là CNTB nhà nước và chủ
nghĩa XH .
+ bước quá độ từ CNTB nhà nước được thể hiện trong “chính sách
kinh tế mới” mà việc trao đổi hàng hóa được coi al2 “đòn xeo chủ
yếu”.
- luận điểm về quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa XH bỏ qua giai
đoạn phát triển của TBCN. Có 2 loại tiến thẳng lên CNXH:
+ quá độ từ CNTB lên CNXH: phản ánh quy luật phát triền tuần tự
của XH loài người
+ Quá độ từ các hình thái kinh tế - xã hội trc CNTB lên CNXH:
phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của XH loài người.


.

CHƯƠNG II: Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin về cách mạng vô sảnvà chủ nghĩa xã hội lên tầm
cao mới trong điều kiện cụ thể của Việt Nam
2.1. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
2.1.1: Bằng việc đặt ra câu hỏi và trả lời câu hỏi “chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là gì?”, trên cơ sở tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin từ các
phương diện đạo đức, văn hóa, xã hội,.. tùy vào các đối tượng

người Việt Nam khác nhau, các góc độ xem xét và mục đích của
mỗi Hội nghị khác nhau, mà Hồ Chí Minh đưa ra nhiều định nghĩa
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ những quan điểm cụ thể khác nhau ấy của Người về chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, có thể khái quát những đặc trưng bản chất của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
là: Một: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ chính trị mà
ở đó mọi quyền làm chủ đều thuộc về nhân dân. Hai: Chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao,
với lực lượng sản xuất tiên tiến hiện đại và khoa học kĩ thuật tiên
tiến hiện đại, dần xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất để thực hiện chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất. Ba:
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là giai đoạn xã hội phát triển cao hơn
CNTB về văn hóa, đạo đức. Bốn: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
mới chỉ là một xã hội thực hiện công bằng hợp lý. Năm: Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân
tự xây dựng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


.
Các
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ấy chứa đựng trong đó một hệ
thống các giá trị đặc thù, mà giá trị trung tâm là con người với các
nhu cầu lợi ích của nó. Con người là mục tiêu phát triển. Chủ nghĩa
xã hội theo Hồ Chí Minh là xã hội của con người, vì con người,
chế độ xã hội đó mang bản chất dân chủ, nhân đạo trong tiến trình
vận động xã hội loài người.

2.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con đường quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

2.2.1 Nếu diễn đạt như Mác, Ăngghen và Lênin về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, thì Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Việt Nam từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa và phong kiến tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát triển tư bản chủ nghĩa.
Người khẳng định tính chất của nó là cuộc đấu tranh một mất một
còn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam.
Tư tưởng này với thực tiễn đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh không chỉ trung thành, mà đã vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện Việt Nam, làm cho lý
luận quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội theo hình thức thứ hai
của Lênin đầu tiên trở thành hiện thực.
2.2.2 Trong điều kiện giáo điều, người ta đã quên lời dạy của
Lênin “Không có chủ nghĩa xã hội giống nhau cho mọi dân tộc, chỉ
có chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng dân tộc”, bắt cả thế giới phải
tuân thủ “một mô hình chủ nghĩa xã hội”, Hồ Chí Minh quan niệm
chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý chung giống nhau, nhưng
mỗi nước có đặc điểm lịch sử cụ thể khác nhau nên phương thức,


.
biện
pháp, bước đi cách làm khác nhau. Người nhắc nhở, việc học
tập những kinh nghiệm nước ngoài là rất cần thiết. Nhưng Người
cũng nhấn mạnh: “Ta không thể không thể giống Liên Xô, vì Liên
Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”. Làm khác,
thậm chí làm trái với Liên Xô, ta vẫn là mac-xit.

Tư tưởng này và thực tiễn cách mạng Việt Nam của Người, chứng
minh sự đúng đắn, khoa học của tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và
đổi mới của Người.

2.2.3 Xuất phát từ trình độ rất thấp của Việt Nam, mà Người đã chỉ
ra tầm quan trọng to lớn của quyết tâm dân tộc khi thực hiện mục
tiêu chủ nghĩa xã hội. Người từng dạy, làm chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam “kế hoạch 10 phần, thì biện pháp phải mười lăm phần và
quyết tâm phải hai mươi phần”
2.2.4 Theo Hồ chí Minh muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam phải đảm bảo 4 nguyên tắc (Bốn nhân tố bảo đảm
cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam): Phải đảm bảo
một cách tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Phải
nâng cao trình độ, năng lực quản lý nhà nước đối với toàn xã hội;
Phải mở rộng và tăng cường hoạt động chủ động và tích cực có
hiệu quả của các tổ chức chính trị quần chúng; Phải đào tạo đủ đội
ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của lịch sử.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam trên đây, là sản phẩm của sự kết tinh những giá trị truyền
thống tốt đẹp của Việt Nam với tinh hoa văn hóa của nhân loại trên


cơ. sở nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, là sự phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin bằng trí tuệ uyên thâm về nhiều lĩnh vực của Hồ Chí
Minh trong điều kiện mới.
CHƯƠNG III: Xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc ở Trung
Quốc và bài học với thực tiễn Việt Nam
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung
Quốc đã trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực
dân. vốn là quốc gia có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên
nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và thực
dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo
nàn, lạc hậu Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường

xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đưa đất nước ngày càng phát triển.
Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong quá trình xây dựng
Chủ Nghĩa Xã Hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao
nhằm tìm ra lối thoát cho một quốc gia Xã hội chủ nghĩa trì trệ trở
thành năng động, phát triển. Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm
cho các nước phát triển đi lên hiện đại.
Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải
qua nhiều năm dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đế
quốc thực dân cùng với các cuộc chiến tranh liên miên đã làm cho
đất nước bị tàn phá nặng nề. Ngay sau khi thành lập nước chúng ta
đã kiên quyết xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội, cũng thực
hiện nhiều cải cách trong kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt
động thực tiễn của Việt Nam đã từ lâu quan tâm đến việc theo dõi
cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc, lấy đó làm kinh nghiệm cho
Việt Nam. Có người cho rằng công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt


.
Nam
rất giống với cải cách kinh tế ở Trung Quốc, thậm chí cho
rằng là “bản sao” của cuộc cải cách ấy. Tuy nhiên nếu xem xét kĩ
thì thấy rằng bên cạnh nhiều điểm tương đồng, cải cách kinh tế và
mở cửa ở Trung Quốc với đổi mới kinh tế ở Việt Nam còn có
nhiều điểm rất khác nhau. Tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt
này sẽ giúp cho ta thấy được những gì có thể tham khảo, những gì
không thể hoặc không nên tham khảo từ cuộc cải cách kinh tế của
Trung Quốc vào Việt Nam để có những đường lối chính sách phù
hợp, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế nói riêng và của toàn đất
nước nói chung.
3.1 Hoàn cảnh tiến hành đổi mới và cải cách ở Trung Quốc

và Việt Nam.
Đối với công cuộc cải cách, đổi mới thì hoàn cảnh có vai trò hết
sức quan trọng. Tuy đỏ không phải là điều kiện quyết định đối với
thành công của cuộc cải cách, đổi mới đó nhưng nó lại góp phàn
vào sự thành công và thắng lợi. Và thực tế lịch sử ở Việt Nam và
Trung Quốc đã chứng minh điều đó. Qua nghiên cứu chúng ta thấy
giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng và khác
biệt về hoàn cảnh khi tiến hành cải cách, đổi mới.
1 điểm tương đồng:
3.1.1 Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tiến hành cải cách, đổi mới
trong điều kiện điểm xuất phát thấp, nền kinh tế lạc hậu, và đều là
những nước nông nghiệp với trình độ kĩ thuật lạc hậu, còn phụ
thuộc vào “nền văn minh đòn gánh”, đời sống của nhân dân thuộc
loại thấp, những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như ăn, ở... vẫn
chưa được giải quyết đầy đủ; cơ sở công nghiệp yếu mỏng, mất
cân đối, công nghiệp lạc hậu gây khó khăn cho việc xây dựng cơ


sở. vật chất kỹ thuật, nơi sản sinh và nuôi dưỡng yếu tố bất lợi cho
việc hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong khi đó nông
nghiệp được coi là nghành chủ yếu nhưng cũng không tránh khỏi
tình trạng lạc hâu, trì trệ, công cụ canh tác còn thô sơ, lạc hậu,
năng suất thấp kém, sản lượng ít không đủ đáp ứng nhu cầu ữong
nước. Mặt khác cơ chế kinh tế khi chưa đổi mới kìm hãm nền kinh
tế, nhiệt tình lao động, năng lực sáng tạo và nguồn lực tài nguyên
chưa được khai thác, huy động đầy đủ, thậm chí còn bị xói mòn.
Cơ chế kinh tế vận động thiếu năng lực, kém hiệu quả mất cân đối,
nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống. Kinh tế xã hội tích
nén lại, tình trạng thiếu hụt kinh niên đang gia tăng nhanh trong
đời sống xã hội...

3.1.2 Cả hai nước có cùng chung ý thức hệ mong muốn thực hiện,
xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn lạc hậu,
muốn bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội. Trong thời gian dài cả hai nước đều theo đuổi mô hình kinh tế
kế hoạch hoá tập trung mà có nguồn gốc là mô hình kinh tế kế
hoạch hoá Xô Viết, mô hình đó đã lâm vào khủng hoảng nghiêm
trọng biểu hiện ở năng suất sút kém ở mọi nghành, kinh tế lạc hậu
về khoa học, kĩ thuật, đời sống nhân dân thiếu thốn, nhưng vẫn
luôn hi vọng, tin tưởng vào sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội. Cả
hai nước đều cùng chịu tác động của văn hoá, lịch sử truyền thống
tương tự nhau. Di sản nặng nề của tư tưởng phong kiến, quan liêu
vẫn phát huy và ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống xã hội ở Việt
Nam và Trung Quốc, đó chính là nguyền nhân kìm hãm hai nước
trong tình trạng trì trệ, kém phát triển lâu dài.
3.1.3 tuy hai nước bắt đầu cải cách và đổi mới không cùng thời


.
gian
nhưng bối cảnh quốc tế suốt thời kì đó không có sự thay đổi
lớn và những yếu tố tác động đến cuộc cải cách này vẫn tồn tại.
Đáng kể nhất là việc Liên Xô và các nước Đông Âu đang trong
quá trình từ bỏ mô hình Chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết và chuyển
sang nền kinh tế thị trường. Đặc biệt lúc này kinh tế Nhật Bản và
nền kinh tế công nghiệp mới NIEs trong khu vực đã đạt được
những thành tựu nổi bật và kinh nghiệm quý báu. Điều đó thúc đẩy
Việt Nam và Trung Quốc phải đổi mới để theo kịp các nước. Đây
cũng là lúc thế giới đang đi đến đòi hỏi sự hợp tác phân công lao
động của tất cả các nước, xu hướng hợp tác hoá, quốc tế hoá ngày
càng cao bất kể sự khác nhau về chính trị, văn hoá. Đồng thời

nguy cơ các thế lực Tư bản chủ nghĩa và phản động đang tìm mọi
cách phá hoại cách mạng, thực hiện âm mưu diến biến hoà bình để
thay đổi, xoá bỏ chế độ Chủ nghĩa xã hội.
3.1.4 là sự yếu kém về năng lực lãnh đạo, tổ chức và sự trì trệ
trong phát triển kinh tế xã hội đã làm giảm lòng tin của quần chúng
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vào nhà nước Xã hội
chủ nghĩa. Vì thế càn phải sáng tạo trong đường lối kinh tế và công
tác lãnh đạo phải triệt để sáng suốt.
3.2
Về bước đi và các biện pháp xây dựng CNXH ở Việt
Nam

Hồ Chí Minh nêu 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận:
3.2.1 Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính quốc tế, cần nắm vững
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế
độ mới. Phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em
nhưng không áp dụng máy móc vì nước ta có đặc điểm riêng


.

của ta. “Ta không thể giống Liên-xô...”
“Tất cả các dân tộc đểu tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải
một cách hoàn toàn giống nhau”.
3.2.2 Xác định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc
điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân
Về bước đi phải qua nhiểu bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ
theo hoàn cảnh,... chớ ham làm mau, ham rầm rộ... Đi bước nào
vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”. Bác sớm ngăn ngừa xu
hướng chủ quan, nóng vội. “Chớ thấy Liên Xô, Trung Quốc đã có

nông trường quốc doanh, tổ chức hợp tác xã thì ta cũng vội tổ
chức ngay hợp tác xã”
Bước đi nông nghiệp: từ cải cách mộng đất sau tiến lên tổ
đổi công cho tốt cho khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ
dàng,...
vể bước đi công nghiệp, “...Ta cho nông nghiệp là quan trọng
và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau
mới đến công nghiệp nặng”, “làm trái với Liên-xô cũng là mácxít”.
3.2.3 về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành: Người nêu
cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập
khuôn phải tìm tòi cách riêng cho phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam “Muốn đỡ bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm thì phải
học kinh nghiệm của các nước anh em” nhưng “áp dụng kinh
nghiệm ấy một cách sáng tạo”, “ta không thể giống Liên-xô


.

vì Liên-xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử khác...”. Ví
dụ: miển Bắc phải kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam; miền Bắc “vừa sản
xuất, vừa chiến đấu”, “vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây
dựng CNXH”; “CNXH là của dân, do dân và vì dân”. Quan
hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp “Là 2 bộ phận chính, 2
ngành cơ bản của nền kinh tế, có quan hệ khăng khít, không
thể thiếu bộ phận nào, phát triển vững chắc cả hai”.

Phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội là “làm cho người
nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu
thêm”, như vậy chủ nghĩa xã hội không đổng nhất với đói nghèo,

không bình quân, mà từng bước tiến lên cuộc sống sung túc, dổi
dào.
Cách làm, là đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân. Chính
phủ chỉ giúp đỡ kế hoạch, cổ động. Chủ nghĩa xã hội là do dân và
vì dân. Người để ra 4 chính sách: Công - tư đều lợi, chủ thợ đều
lợi, công-nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài. Chỉ tiêu 1, biện
pháp 10, chính sách 20... có như thế mới hoàn thành kế hoạch.
Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể sau:
4Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp
cải tạo với xây dựng, xây dựng làm chính.
5Kết hợp xây dựng với bảo vệ, tiến hành hai nhiệm vụ chiến
lược khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
6 Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kê hoạch, biện pháp,


.
quyết
tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch.

Hồ Chí Minh cho rằng phải huy động hết các nguồn lực vốn
có trong dân để làm lợi cho dân.
KẾT LUẬN

Trong hành trình đến với bến bờ xã hội chủ nghĩa, một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh thì con thuyền cách mạng Việt Nam
đã vượt qua nhưng cơn bão tưởng chừng như đã nhấn chìm con
thuyền nhỏ bé. Nhưng với sự lèo lái của Chủ Tịch Hồ Chí Minh thì
không có cơn bão nào mà không vượt qua. Dù Bác đã không còn
lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cũng đã lâu nhưng con
thuyền vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy Bác đã đi

xa nhưng Bác đã để lại một tài sản vô cùng quý giá cho thế hệ sau,
đó chính là “chiếc la bàn”-tư tưởng của Người- giúp định hướng
cho con thuyền cách mạng đến với bến bờ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên mặc dù chúng ta đang ở trên bến bờ xã hội chủ
nghĩa nhưng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì vẫn
đang là mục tiêu phấn đấu của Đảng và dân ta. Để Việt Nam trở
thành một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì hơn ai hết mỗi
công dân mà đặc biệt là thế hệ thanh niên Việt Nam cần nhận thức
đúng đắn bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng như con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Điều đặc biệt là đối với thế
hệ trẻ hôm nay, thì nhiệm vụ lại càng nhiều và nặng nề hơn, đỏi


hỏi. mọi người cần phải cố gắng, nổ lực hết mình, phải đồng lòng,
để góp phần cùng đất nước tiến lên. Ngày nay việc nghiên cứu tư
tưởng của Hồ Chí Minh đã giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam vận dụng
sáng tạo tư tưởng của Người vào trong thực tiễn cách mạng. Với
nền tảng là tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự năng động sáng tạo của
thế hệ trẻ, với thành tựu của thế hệ trước để lại chắc chắn việc xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là chuyện không
khó.
Từ đó mỗi người dân Việt Nam có thể vận dụng một cách
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn để đưa đất nước Việt
Nam trở thành một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đúng theo
mong muốn của Bác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1995.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

1995.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1995.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1995.


5. .Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2000.
6. Lênin, toàn tập (tiếng Việt), Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva,
1978, tập 2.
7. C.Mác-Lênin và Ph.Ăngghen, Chủ nghĩa Mác, Nxb Sự thật, Hà
Nội 1958.



×