Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ KHOAN DUNG TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC GIÁO DỤC TINH THẦN KHOAN DUNG NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT QUA GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.41 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài
VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ KHOAN DUNG TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC GIÁO DỤC TINH THẦN KHOAN DUNG
NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT QUA GIẢNG
DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN

Giảng viên hướng dẫn

: T.S Dương Anh Hoàng

Sinh viên thực hiện

: Trần Thị Phương Dung

Lớp

: 09SGC

Đà Nẵng, tháng 05/2013


LỜI CẢM ƠN
***
Sau bốn năm học tập, việc thực hiện khố luận tốt nghiệp là khâu quan
trọng đặc biệt. Có được kết quả như ngày hơm nay, ngồi sự cố gắng nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ nhiều phía.


Trước hết tơi xin ghi lại đây lòng tri ân sâu sắc, chân thành đối với
thầy giáo T.S Dương Anh Hoàng - người đã khuyến khích, động viên và tận
tình giúp đỡ, hướng dẫn tơi hồn thành khố luận này.
Đồng thời, tơi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo trong khoa
Giáo Dục Chính Trị, trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, cảm ơn
những người bạn đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
Trần Thị Phương Dung - Lớp 09SGC


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng lỗi lạc, Người là lãnh tụ của cách mạng
và dân tộc Việt Nam. Người được nhân loại tơn vinh là anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Trong con người ấy, trong nhân cách ấy, cái sâu
thẳm nhất và cũng tinh túy nhất là ở chỗ, Người là hiện thân của những giá trị
truyền thống đạo đức dân tộc rực rỡ nhất, đẹp đẽ nhất, kết tinh từ những tinh hoa
văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Nhân cách đạo đức của nhà chính trị Hồ Chí Minh vơ cùng đa dạng, được
biểu hiện một cách nhất quán trong tư tưởng và hành động, lý trí và tình cảm, trong
suy nghĩ nội tâm và những hành vi ứng xử với cộng đồng... Trong nhân cách ấy,
khoan dung là một giá trị. Giá trị này không chỉ tồn tại như một yếu tố của cấu trúc
đạo đức cá nhân mà còn thẩm thấu trong mọi phương diện trong con người của Hồ
Chủ tịch.Vì vậy nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung là
một việc làm rất cần thiết trong bất kì hồn cảnh nào.

Một trong những vấn đề đáng lo ngại hiện nay là khi chúng ta thực hiện nền
kinh tế mở cửa có rất nhiều luồng văn hóa mới du nhập vào, thêm vào đó là mặt
trái của cơ chế thị trường đã có nhiều tác động tiêu cực đối với việc xây dựng đời
sống đạo đức của xã hội. Điều đáng buồn ở đây là đạo đức ở lứa tuổi học sinh trung
học phổ thông ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Con người ngày càng chật vật
với cuộc sống cơm áo gạo tiền mà quên đi sự giáo dục đạo đức lối sống cho thế hệ
trẻ hiện nay, để rồi những hành vi vi phạm pháp luật của các em ngày càng gia tăng
do những mâu thuẫn khơng kịp thời giải quyết, tình trạng bạo lực học đường ngày
càng xảy ra phổ biến, quan hệ giữa thầy trò, cha mẹ và con cái cũng ngày càng mờ
nhạt đi do sự bất đồng về quan điểm, suy nghĩ mà thiếu đi sự lắng nge và cảm
thông…
Những điều này đã thật sự gióng lên hồi chng cảnh báo về lối sống, đạo đức
của giới trẻ ngày nay. Trong khi đó yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn
mới đang đặt thế hệ trẻ, học sinh phổ thơng vào vị trí xung kích. Xã hội đặt rất
nhiều kỳ vọng vào sự đóng góp của thế hệ này đối với sự nghiệp của nước nhà.


Vì vậy, đánh giá đúng thực trạng và có biện pháp đúng đắn nhằm giáo dục
cho thế hệ trẻ là một cơng việc cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn. Với ý nghĩa đó,
việc tìm hiểu: “Vận dụng quan niệm về khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh
vào việc giáo dục tinh thần khoan dung nhằm nâng cao đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông qua giảng dạy mơn Giáo Dục Cơng Dân” khơng những có ý nghĩa
về mặt lý luận mà cả trong đời sống thực tiễn của nước ta. Đó chính là lý do để em
chọn làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về khoan dung là một yếu tố rất cần thiết
để hoàn thiện đạo đức, nhân cách của con người và đáp ứng được u cầu của tình
hình mới. Có thể kể đến một số tác phẩm, bài viết khái quát đề cập đến khoan dung
trong tư tưởng Hồ Chí Minh như:
- Dương Tùng (2003): “Hồ Chí Minh - một con người- một nhân cách”, Tạp

chí Cộng sản, số 31.
- Hồ Trọng Hoài (2005): “Khoan dung - một giá trị đạo đức trong nhân cách
văn hóa Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 17.
- Nguyễn Văn Phúc (2009): “Đọc Di Chúc Hồ Chí Minh nghĩ về tình cảm của
Người và về giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay”, Triết học, số 10.
- Đỗ Hòa Hới (1988): “Tìm hiểu một vài đặc điểm Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh”, Triết học, số 4.
- Nguyễn Gia Nùng (2007): “Khoan dung và hướng thiện trong tư tưởng Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Hồn Việt, số 1.
- Nguyễn Văn Khoan (2008): “Bao dung Hồ Chí Minh”, Đi tới mùa xuân tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.
- Cao Thu Hằng (2004) : “Gía trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo
đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Triết học, số 7.
Nhìn chung những cơng trình nghiên cứu của các tác giả đã và đang được sự
quan tâm của toàn xã hội nhất là trong tình hình xã hội hiện nay, khi đất nước đang
đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa,

6


hiện đại hóa đất nước với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và văn
minh, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập quốc tế.
Những cơng trình nghiên cứu của các tác giả trên cũng đã đề cập nội dung cơ
bản về vấn đề khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Song cũng đặt ra một yêu
cầu là phải nhìn nhận một cách có hệ thống, phải đi sâu tìm hiểu, phân tích cụ thể
hơn để thấy rõ được quan niệm về khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh và đáp
ứng với yêu cầu giảng dạy, học tập tinh thần khoan dung nhằm nâng cao đạo đức
cho học sinh trong tư tưởng của Người ở các trường Trung học Phổ thơng hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài là đi sâu nghiên cứu một cách khái quát và có hệ thống

quan niệm về khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó vận dụng quan niệm
của Người vào việc giáo dục tinh thần khoan dung nhằm nâng cao đạo đức cho học
sinh phổ thông qua giảng dạy môn Giáo Dục Cơng Dân.
- Với mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành quan niệm về khoan
dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Làm rõ chiều sâu quan niệm về khoan dung trong tư tưởng của Người.
+ Nêu bật lên tầm quan trọng của việc giáo dục tinh thần khoan dung trong tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như vai trị của nhà trường và bộ mơn Giáo dục Cơng
dân đối với việc giáo dục tinh thần khoan dung nhằm nâng cao đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông.
+ Thực trạng và giải pháp cùng với những ý kiến đề xuất việc vận dụng quan
niệm về khoan dung trong tư tưởng của Người vào việc giáo dục tinh thần khoan
dung nhằm nâng cao đạo đức cho học sinh trung học phổ thông qua giảng dạy môn
Giáo dục Công dân.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở của đề tài là dựa trên nền tảng Chủ Nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng.

7


- Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp:
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
+ Phương pháp lịch sử cụ thể
+ Phương pháp lơgic
+ Phương pháp khái qt hóa
+ Phương pháp điều tra, thống kê xã hội học
5. Nét mới của đề tài
Trên cơ sở những cơng trình nghiên cứu của các tác giả, người viết khóa luận

hệ thống, phân tích sâu sắc hơn nội dung quan niệm về khoan dung trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đặc biệt bước đầu đưa ra một số giải pháp vận dụng quan niệm của
Hồ Chủ Tịch về khoan dung vào việc giáo dục tinh thần khoan dung nhằm nâng
cao đạo đức cho học sinh trung học phổ thông qua giảng dạy môn Giáo dục Công
dân.
6. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người viết làm quen dần với phương pháp nghiên
cứu khoa học, rèn luyện tư duy khoa học trong việc tiếp nhận và nghiên cứu vấn
đề. Thông qua tư tưởng cũng như tấm gương đạo đức của Bác khơng ngừng phấn
đấu, rèn luyện và hồn thiện bản thân hơn. Từ đó mở rộng tầm hiểu biết và trưởng
thành hơn trong cuộc sống.
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai trực tiếp giảng dạy bộ
môn Giáo dục Cơng dân.
7. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận gồm: Phần mở đầu, phần nội dung (với 2 chương 6 tiết ), phần kết
luận, phụ lục và tài liệu tham khảo.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NỘI DUNG QUAN NIỆM VỀ KHOAN DUNG
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
8


1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành quan niệm về khoan dung
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.1. Truyền thống dân tộc, quê hương và gia đình.
Quan niệm về khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ
trong thực tiễn, xuất phát từ những điều kiện lịch sử, xã hội của dân tộc, trong từng
điều kiện cụ thể và cùng với quá trình hoạt động cách mạng tìm đường cứu nước
của Người. Đây chính là yếu tố cơ bản, chi phối đến nội dung quan niệm về khoan

dung trong tư tưởng của Người.
Khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thể hiện tồn bộ những suy
nghĩ, tình cảm của Người đối với tồn thể nhân loại, với mọi kiếp người, không kể
đến họ là ai và nó ln chi phối suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, một
cuộc đời luôn đấu tranh khơng mệt mỏi vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc
của nhân dân và đấu tranh không ngừng với cái ác để bảo vệ lợi ích cho những
người lương thiện.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm về khoan dung được hình thành từ
thực tế hồn cảnh sống và sự chiến đấu của bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự
kế thừa một cách sáng tạo của truyền thống dân tộc, quê hương và gia đình.
Truyền thống khoan dung của dân tộc.
Tinh thần khoan dung thấm đẫm trong truyền thống dân tộc Việt Nam được
xây dựng và đúc kết trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, được hình thành từ
quá trình dựng nước và giữ nước, luôn luôn phải đương đầu với thiên tai, lũ lụt, bão
táp đến hạn hán, rồi sâu bệnh, gió mùa... nên phải thương yêu, đoàn kết với nhau để
chống thiên tai. Từ buổi đầu lập quốc, dân tộc ta đã phải liên tục đứng lên, kiên
cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc trước sự
tàn bạo của kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Sức mạnh của dân tộc ta
khơng chỉ là tinh thần đồn kết mạnh mẽ, lịng yêu nước sâu sắc và mãnh liệt, ý chí
chiến đấu kiên cường, bất khuất, quyết chiến, quyết thắng với tinh thần tha thiết với
nền độc lập, hịa bình mà cịn ở tinh thần nhân ái, khoan dung với đồng loại.
Truyền thống khoan dung của dân tộc là tình thương yêu vô hạn đối với con
người: những cụ già cô đơn, trẻ em cơ nhỡ và tật nguyền, những số phận không

9


may mắn, những cảnh đời oan nghiệt... Con người Việt Nam từ tuổi ấu thơ đã thấm
nhuần tinh thần khoan dung qua lời ru của những bà mẹ. Lớn lên, họ được sống
trong tình chan hịa trong tình tương thân, tương ái của xóm làng. Và để giữ lấy hịa

hiếu, một nền hịa bình lâu dài, người Việt Nam có truyền thống đề cao đức hiếu
sinh, tấm lòng bao dung, độ lượng, không chỉ với những kẻ đã một thời lầm lỗi mà
cả với kẻ thù nghịch, chống đối. Đối với nhân dân: "Khoan thư sức dân để làm kế
sâu rễ, bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước" (Trần Hưng Đạo). Đối với kẻ thù đã
quy hàng: "Lấy khoan hồng để bụng hiếu sinh", (Nguyễn Trãi).
Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh giải phóng ách áp bức bóc lột, chống giặc
ngoại xâm rồi đến quá trình dựng xây đất nước, tinh thần khoan dung đã được thử
thách, phát huy tác dụng trong đời sống xã hội và làm giàu thêm những giá trị
truyền thống của Việt Nam. Bước sang thời đại Hồ Chí Minh - thế kỷ XX, dù xã
hội đã có nhiều biến chuyển nhưng truyền thống ấy vẫn đóng vai trị quan trọng và
được gìn giữ bền vững.
Khoan dung đã trở thành đạo nghĩa của dân tộc ta trong quan hệ với chính
mình và với các dân tộc khác. Trong mọi lĩnh vực của đời sống chúng ta đều có thể
tìm thấy sự thể hiện đạo nghĩa khoan dung này như trong cách sinh hoạt cộng đồng
thì “thương người như thể thương thân” , “lá lành đùm lá rách” hay “bầu ơi
thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” , “ một điều nhịn,
chín điều lành”, và cịn nhiều câu ca dao khác nữa... Với tấm lòng rộng mở, người
Việt Nam sẵn sàng giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn, vì họ quan niệm “miếng ăn
khi đói bằng một gói khi no”. Sự đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau được người Việt
Nam coi là “làm phúc”, và quan niệm “làm phúc như làm giàu”, “làm phúc không
cần được phúc” ...
Truyền thống khoan dung của dân tộc ta còn được thể hiện trong lĩnh vực tôn
giáo, khoan dung không chỉ thể hiện ở sự tơn trọng nhu cầu tâm linh, mà đã có sự
nhận thức rằng, các tơn giáo lớn đều có một điểm chung là dạy con người làm điều
thiện, tránh điều dữ, hướng con người đến cội nguồn chung của loài người, hướng
đến Chân - Thiện - Mỹ.

10



Bên cạnh đó, tính chất khoan dung cịn thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa
con người với nhau không kể dân tộc, đẳng cấp, chủng tộc, tôn giáo,… Đó là mối
quan hệ cao quý nhất của cuộc sống và nó cũng làm nên giá trị nhân văn của truyền
thống dân tộc. Chính vì vậy, khi tình thế bắt buộc phải dùng vũ lực để bảo vệ đất
nước, đến khi chiến thắng, dù căm thù quân xâm lược bao nhiêu chăng nữa, kể cả
từng có khi “căm giặc nước thề không cùng sống”, nhưng khi đất nước đã được
yên bình, độc lập thì thái độ ứng xử của dân tộc Việt vẫn là khoan dung đối với kẻ
thù bại trận để : “thể lòng trời tỏ lượng hiếu sinh”. Điều này thể hiện rõ nhất hành
động mang tính chất khoan dung của dân tộc ta và được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế
thừa, phát huy với hình ảnh trọn vẹn và sinh động nhất.
Nội dung cơ bản của truyền thống khoan dung dân tộc Việt nam là: Tiếp nhận
và thâu hóa những giá trị tích cực, phù hợp, đồng thời có sự tơn trọng, khơng kỳ
thị, bài bác những yếu tố khác biệt với mình để cùng nhau chung sống, đoàn kết,
bảo vệ và xây dựng đất nước. Với truyền thống khoan dung của dân tộc, khoan
dung Hồ Chí Minh là sự thăng hoa của truyền thống tốt đẹp ấy và nâng nó lên một
tầm cao mới, mang ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Khoan dung không chỉ thể hiện tính cách của người Việt Nam, đã được thử
thách qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước mà được nâng lên thành giá trị
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, truyền thống khoan dung, văn
hóa khoan dung. Gía trị truyền thống ấy được hình thành trong hệ thống ứng xử, tổ
chức đời sống xã hội, đường lối chính trị, xử lý văn hóa và ngày càng trở nên giá trị
phổ biến.
Truyền thống khoan dung của dân tộc, đó như là một giá trị cơ bản trong cuộc
sống tinh thần của mỗi con người. Và Hồ Chí Minh là một biểu hiện của sự khoan
dung, cao hơn là sự mẫu mực về tinh thần khoan dung. Khoan dung ở Hồ Chí Minh
cũng được biểu hiện rất đa dạng, chân thực. Đây là một giá trị đạo đức mà ý nghĩa
và tầm ảnh hưởng của nó khơng giới hạn ở lĩnh vực luân lý thuần túy. Ngược lại,
nó được lan tỏa, trải rộng trong mọi biểu hiện ở nhân cách Hồ Chí Minh mà tập
trung nhất là trong lĩnh vực chính trị, trong lối ứng xử với mọi người, với các dân


11


tộc, các nền văn hóa trên thế giới với tầm trí tuệ lỗi lạc, tâm hồn vị tha, đạo đức
trong sáng của một vĩ nhân đồng thời vừa phản ánh cốt cách của dân tộc.
Truyền thống quê hương và gia đình
Q hương và gia đình cũng là nhân tố góp phần hình thành nên những tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt phải kể đến quan niệm về khoan dung trong tư tưởng
của Người.
Chính trên mảnh đất, con người của quê hương, xứ xở đã cho Nguyễn Ái
Quốc thấu hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc nhất về tình cảnh khốn khổ, lầm than
của người dân mất nước.
Vùng đất Lam Hồng - nơi sinh của Nguyễn Sinh Cung, vùng đất nổi tiếng là
“địa linh nhân kiệt”, giàu truyền thống văn hóa và ý chí đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Một vùng đã sản sinh ra nhiều nhà Nho yêu nước, nơi khởi sướng của
nhiều phong trào cách mạng sôi nổi, có truyền thống văn hóa bác học tiêu biểu của
dân tộc. Nguyễn Sinh Cung từ lúc lọt lòng đến khi lớn lên đã phải chứng kiến tận
mắt nỗi cùng cực, lầm than của đồng bào mình với chế độ áp bức bóc lột dã man
của bọn thực dân. Những người thân trong gia đình Hồ Chí Minh đều tham gia hoạt
động cách mạng chống Pháp cùng với những tấm gương anh dũng hy sinh chống
giặc ngoại xâm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những hình ảnh đó ln ln xâm
chiếm trong tâm trí, thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc mình.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một nhà Nho yêu nước sống gần gũi với
nhân dân. Những đức tính tốt đẹp, quý báo của thân phụ - Nguyễn Sinh Sắc, một
nhà Nho cấp tiến với tư tưởng thương dân, lấy dân làm gốc với một lòng yêu nước
sâu sắc cùng với phụ mẫu - Hoàng Thị Loan, một người vợ, người mẹ đảm đang,
rất mực yêu chồng, thương con… Với sự ảnh hưởng từ mơi trường gia đình, đầu
tiên đó là ở người cha, người mẹ của Người đã tạo nên một Nguyễn Sinh Cung với
một tâm hồn và nhân cách cao đẹp.
Ngay từ thuở nhỏ, Người đã được cha của mình dạy dỗ tư tưởng “Đại đồng”

của học thuyết Khổng Tử. Lớn lên, Người đã chứng kiến cuộc sống thực của cha,

12


của anh chị và họ hàng thân thuộc, về những tấm gương hy sinh vì nước, vì dân đã
để lại trong tâm trí Người những ấn tượng đầy sự cảm phục và quý mến.
Sinh thời Bác Hồ của chúng ta luôn thấu hiểu và trăn trở trước cảnh lầm than,
nghèo khổ của đất nước, của sự áp bức, bị bóc lột đến tận xương tủy của đồng bào
ngay trên mảnh đất, quê hương mình. Xuất phát từ nổi trăn trở, thương xót của một
trái tim cao cả, vĩ đại đã thơi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Với
tri thức bách khoa về con người và thực tiễn tuyệt vời của cuộc sống đã dần dần
hình thành giá trị quan niệm về khoan dung trong tư tưởng của Người.
Như vậy, với nổi thấu hiểu cảnh cùng cực của người dân mất nước, nô lệ, của
những người cùng khổ, tình yêu thương con người của Người rộng mở đối với tất
cả mọi người với một lòng khoan dung độ lượng rộng lớn, sâu sắc. Chính vì vậy
đã thơi thúc Người đi đến hành động để giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh
phúc cho nhân dân, cho những người lương thiện khi bị cái ác chà đạp.
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
* Tinh hoa văn hóa phương Đơng
- Nho giáo:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta dễ dàng nhận thấy những yếu tố nhân
bản, nhân đạo của Nho giáo và trong quan niệm về khoan dung của Người đó là sự
kế thừa từ chữ “Nhân ” trong tư tưởng của Khổng Tử.
Chữ “Nhân” trong tư tưởng của Khổng Tử đó là “trung thứ” với nội dung là:
Cái để suy ta ra người, được xem như một biểu hiện gần gũi nhất của nhân, không
chấp nhặt quá khứ bất hảo của người khác. Đó là sự cung kính, khoan dung, thành
tín, cần mẫn và có ân huệ. Cung kính thì khơng khinh nhờn; khoan dung thì được
lịng mọi người; thành tín thì được người tín nhiệm; cần mẫn thì nên cơng; có ân
huệ thì dễ sai khiến người. Như vậy, khoan dung vừa là phương pháp, vừa là

phương tiện để thực hiện mục đích huệ dân, khơng ngừng làm lợi cho dân, gia ơn
cho dân thì dân sẽ tin theo và dễ sai khiến dân.
Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng ấy và đã xây dựng nên quan niệm về khoan
dung trong tư tưởng của Người dựa trên chữ “Nhân” nhưng theo cách hiểu mới, đó
là: “Thật thà u thương, hết lịng giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Vì vậy mà kiên
13


quyết chống lại những người, những việc có hại đến lợi ích của Đảng, của nhân
dân” [14, 251-252]. Cũng vì lẽ đó mà Người sẵn sàng chịu khổ cực trước mọi
người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ, không ham giàu sang, phú quý, không ngại
gian khổ để chống lại cái ác đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh còn kế thừa ở Khổng Tử tư tưởng : Đề cao vai trò của quần
chúng nhân dân, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (tức lợi ích của dân là
trên hết, sau đó là lợi ích của nhà nước cịn lợi ích của vua thì khơng đáng kể);
phương châm rèn luyện tu dưỡng đạo đức ở mỗi con người; “khắc kỷ phục lễ vi
nhân” (tức nghiêm khắc với chính mình thực hiện giáo để hồn thiện nhân cách),
kế thừa sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám, thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ,
hạnh phúc khơng phải ở số đông mà cho tất cả mọi người. Đây là những tư tưởng
mang đậm tính nhân ái, khoan dung trong trong tư tưởng Hồ Chí Minh và ln
được Người xem trọng, đánh giá cao. Cũng chính vì điều này mà Người thường
trích dẫn những mệnh đề có ý nghĩa Nho giáo mang đậm nét nhân ái, khoan dung
như: tư tưởng nhân chính, tư tưởng về việc tu dưỡng đạo đức cá nhân về lý tưởng
“Đại đồng”, đặc biệt nhất là những vấn đề nói lên khát vọng mưu cầu hạnh phúc
của con người, cho con người, dù đó là những người cô quả, bất hạnh.
- Phật giáo:
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấm nhuần tư tưởng: Vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ
cứu nạn, thương người như thể thương thân - một tình u bao la khơng chỉ dành
cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏ, nếp sống có đạo đức, trong
sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất

phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp, đặc biệt là lối sống không xa rời, lẩn tránh
mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào
cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Người nhấn mạnh về sự gắn bó, tác động qua lại giữa việc giải quyết nhiệm
vụ dân tộc là giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của bọn thực dân và các
thế lực thù địch với sự thực hiện lý tưởng nhân đạo của Phật giáo.

14


Người viết: “Phật giáo Việt Nam đối với dân tộc như bóng với hình, tuy hai
mà một”. Một chỗ khác Người nói rõ: “Hiến pháp ta ln tơn trọng tự do tín
ngưỡng thì Phật giáo cũng phát triển một cách thuận tiện. Nước có độc lập thì
Phật giáo mới được mở mang… đồng bào Phật giáo lại đoàn kết hy sinh của cải,
xương máu kháng chiến đến cùng để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc
dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Thế là
chúng ta theo dòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca. Kháng chiến để đưa
giống nịi ra khỏi cửa ải nơ lệ” [13, 408].
Người đặt ra nhiều hy vọng vào sự nổ lực của tăng ni phật tử và đồng bào
Phật giáo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Suốt cả cuộc đời mình, Người đã lấy việc hy sinh quyền lợi riêng làm sự
nghiệp mưu cầu hạnh phúc cho con người. Tấm gương đó gợi ta nhớ đến đức hy
sinh của Đức Phật. Và điều khác biệt ở đây là Hồ Chí Minh đã biến tư tưởng ấy
thành hành động thực tiễn. Người đã chỉ ra con đường giải phóng cho dân tộc trong
đó có cả tăng ni phật tử. Và Người sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn, khó nhọc,
khơng ham danh lợi, cao sang phú quý để trọn đời mình vì nghĩa lớn: “Nước được
độc lập, người dân được tự do”.
Như vậy, tất cả mặt tích cực của Phật giáo đã để lại dấu ấn trong tư duy hành
động, đi vào cách ứng xử trong đời sống tinh thần và nhân dân lao động. Gia đình
Hồ Chí Minh là gia đình nhà Nho, sống gần gũi với nhân dân, người lao động nên

cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
niệm khoan dung.

- Lão giáo:
Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh thần bao dung trong Lão giáo, đó là: chủ trương
sống hồ hợp với tự nhiên, tôn trọng quy luật của đất trời, từ đó nêu lên thuyết “vơ
vi, bất tranh”, “được ít khơng chê, được nhiều khơng mừng, cái vui đến thì tận
hưởng, cái vui đi không than tiếc, vui vẻ với bốn mùa, hoà hợp cùng ngoại vật…”.

15


Lão Tử kêu gọi: “Khoáng hề kỳ nhược cốc” (Hãy trống khơng như hang núi), nghĩa
là “hãy khơng là gì cả” thì đời sẽ trở nên cực kỳ đơn giản và tốt đẹp.
Chính nhờ biết dung hóa những yếu tố tích cực trên mà khoan dung Hồ Chí
Minh khơng chỉ thể hiện đối với con người mà còn được thể hiện trong cả giới tự
nhiên. Sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, cá nhân với cộng đồng, gia đình
với Tổ quốc, đạo với đời… Tất cả đều được Hồ Chí Minh kế thừa và gộp lại thể
hiện rõ trong quan niệm về khoan dung của Người.
* Tinh hoa văn hóa phương Tây:
Quan niệm về khoan dung của Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng sâu rộng của
nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây qua sự trải nghiệm của chính bản
thân Người trong suốt ba mươi năm hoạt động cách mạng của mình ở nước ngồi.
Người đã từng được phụ thân của mình cho vào học trường tiểu học Vinh. Từ
đây, lần đầu tiên, Người biết đến khẩu hiệu: “Tự do, bình đẳng và bác ái”, được
làm quen dần với văn hóa Pháp. Sau này Người vào học ở Huế, được tận mắt
chứng kiến thực trạng thối nát của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, thấy được
điều nghịch lý từ nền giáo dục của kẻ tự xưng là đi “khai hóa văn minh”, “tự do,
bình đẳng, bác ái” nhưng trong thực tế lại đi nô dịch, áp bức, bóc lột nhân dân ta.
Với quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước đã thơi thúc Người đặt chân đến chính

mảnh đất của kẻ xâm lược dân tộc mình.
Đến với quê hương của lý tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”, Hồ Chí Minh
được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te, Rútxô, Mông-tét-xki-ơ,… những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789 như: Tinh
thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô,… tư tưởng dân chủ
của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Người cịn tiếp thu
lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý trong trong Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Pháp năm 1791. Ngoài ra, Người cịn hấp thụ được tư tưởng dân chủ
và hình thành được phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt
trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V.

16


Cu-tuya-ri-ê, G. Mơng-mút-xơ… mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con
người ấy, trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ
của thời đại, Đông và Tây, vừa thông thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri
thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
Rõ ràng là: Ở Pháp Người đã có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một
cách tương đối tự do, thuận lợi hơn ở trên đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Khi xuất dương, Người cũng đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc, làm thuê
và thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau này, Người
thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người
được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị
của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong
bản tuyên ngôn này. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới
trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945. Mở đầu bản Tuyên ngôn,
Người khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong những tháng năm dừng chân tại nhiều nước châu Âu, châu Phi và Mỹ

Latinh, hịa mình trong cuộc sống của những người lao động, từ nỗi đau đồng bào,
Người thấu hiểu thêm nỗi đau nhân loại. Người viết: "Dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc
lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái mà thơi: Tình hữu ái là thật vơ sản" [10,
226].
Có thể khẳng định trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc
đã trang bị cho mình vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống ở các nước thuộc địa và
đây cũng chính là lý do để Người nhanh chóng tìm ra con đường đúng đắn nhất,
phù hợp với thực tế đất nước nhất để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân
mình.
Nói đến việc kết hợp văn hóa Đơng, Tây trong con người Hồ Chí Minh,
khơng thể khơng đề cập đến sự kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh, những giá trị cơ
bản của Thiên chúa giáo. Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng

17


dân tộc, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột; đã là hiện thân của
lịng nhân ái và đức hy sinh cao cả. Sau này, Người ln ln giáo dục cán bộ,
đảng viên về lịng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ ngoài mặt trận đó là những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên
chúa giáo đã khởi xướng và răn dạy.
Người lên án gay gắt những kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện những “hành
vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân viễn chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết
người (đặc biệt là trẻ em); chiếm ruộng đất canh tác, v.v… Và Người cũng lên án
những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương Tây, những kẻ nhân danh
Chúa để quan hệ mật thiết với thế lực thực dân, tham gia vào guồng máy của chủ
nghĩa thực dân, xâm nhập về kinh tế và quân sự, áp đặt nền văn hóa thực dân, làm
xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa, v.v…
Như vậy, Hồ Chí Minh với sự tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một
cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ

thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích khơng chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc mình mà cịn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên
thế giới.
Có thể nói rằng: Giải phóng dân tộc, giải phóng con người trở thành mục tiêu
cao cả trong suốt cuộc đời hoạt động, đấu tranh cách mạng của Hồ Chí Minh.
Người thấu hiểu sâu sắc giá trị của con người, trước hết là con người Việt Nam. Để
tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người
chủ trương thức tỉnh cả đến phần ít ỏi của lương tri cịn sót lại trong những con
người tội lỗi.
1.1.3. Giá trị nhân văn cộng sản chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại, là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, của các Đảng cộng sản và cơng nhân trong đấu tranh xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa.

18


Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra nguồn gốc của niềm đau khổ con người, vạch rõ con
đường khoa học, tất yếu đưa đến sự giải phóng triệt để và vĩnh viễn của toàn thể
loài người. Trong chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa nhân đạo thống nhất với chủ nghĩa
cộng sản. Nó vạch ra mục tiêu giải phóng triệt để con người.
Hồ Chí Minh đã tin theo chủ nghĩa cộng sản từ khi Người gia nhập vào Đảng
Xã hội Pháp. Nhưng chỉ sau khi Người đọc được Bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo
L’ Humanite, số ra ngày 16 và 17-7-1920. Tác phẩm của Lênin đã giúp Người
tìm ra được con đường giải phóng dân tộc và tự do cho đồng bào mình. Người như
hạnh phúc, sung sướng lên nhiều khi được đọc tác phẩm này của Lênin. Sau này,
khi được kể lại sự kiện quan trọng đó, Người đã nói: “… Luận cương của Lê nin
đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao!... Ngồi một

mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi
đồng bào bị đọa đầy, đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng của chúng ta”! [11,126-128].
Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã
thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, vì đây là
chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế
lúc bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách
mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là "hậu bị qn" của cách
mạng vơ sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới
được giải phóng. Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc khát vọng
và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa nên đã nêu lên luận điểm:
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách
mạng chính quốc, nhưng khơng hồn tồn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc.
Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể "chủ động đứng lên, đem sức
ta mà giải phóng cho ta", giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó,
thúc đẩy cách mạng chính quốc.

19


Tiếp đó, qua q trình đấu tranh nghiên cứu con đường của cách mạng tháng
Mười Nga, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, hoạt động trong phong trào cộng
sản và phong trào giải phóng dân tộc, bằng trí tuệ thiên tài của mình, Người đã
vạch ra con đường tất thắng của cách mạng Việt Nam. Đó là con đường đặt sự
nghiệp giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vơ sản, thực hiện ba cuộc
giải phóng: Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, bắt đầu
từ giải phóng dân tộc. Đến đây, khoan dung trong tư tưởng của Người thống nhất
với chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa nhân đạo, là sự vận dụng chủ nghĩa nhân đạo
Cộng sản vào sự nghiệp giải phóng con người.
Cần thấy rằng: Chủ nghĩa Cộng sản của Mác là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị,

chủ nghĩa nhân bản xã hội hóa, nâng cao, bổ sung, phát triển các nhân tố nhân đạo
trong lý thuyết và trong hiện thực lịch sử của nhân loại xưa nay chứ không có sự
phủ định sạch trơn. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản xuất hiện như một quá trình lịch
sử tự nhiên, hợp quy luật lịch sử. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản được hình thành,
gắn liền với việc xóa bỏ xã hội tiền tệ, xóa bỏ áp bức bóc lột và bất cơng.
Nói tóm lại: Chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng nhân đạo hiện thực với bản
chất của nó là phép biện chứng duy vật, thực tiễn. Ở đó, tính nhân loại, tính dân
tộc, tính giai cấp cơng nhân thống nhất trong mối quan hệ hài hòa nhưng chặt chẽ
với nhau. Đây là một học thuyết, tư tưởng về con người và sự nghiệp giải phóng
con người, phát triển con người với tư cách là thực thể tự nhiên xã hội.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin, là quá trình đi từ truyền thống nhân ái, khoan dung của dân tộc đến chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản. Và khoan dung trong tư tưởng của Người đã mở ra một
giai đoạn mới của truyền thống khoan dung dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi Hồ Chí
Minh tiếp thu lý luận Mác - Lênin đã giữ vai trò quan trọng quyết định, là cơ sở lý
luận giúp Người nhận thức được những vấn đề trong truyền thống khoan dung của
dân tộc và nâng cấp giá trị truyền thống này lên một tầm cao mới. Chính vì vậy,
Người coi chủ nghĩa Mác - Lênin là “cẩm nang” thần kỳ, là “kim chỉ nam”, là
“mặt trời” soi sáng con đường đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong tác phẩm “

20


Đường cách mệnh” (1927), Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lênin” [20, 268].
Nói về nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đã viết: Học
thuyết Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức, Cơ đốc giáo có ưu điểm là lịng
nhân ái, chủ nghĩa Mác- Lênin có ưu điểm là phép biện chứng trong công việc, chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với Việt Nam. Khổng
Tử, Chúa Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên có ưu điểm chung là nghĩ đến nhân loại, mưu

cầu hạnh phúc cho mọi người. Nếu như hôm nay, họ còn sống trên đời này, họ sẽ
ngồi họp với nhau và tơi xin nguyện làm người học trị nhỏ của họ.
1.1.4. Những nhân tố thuộc về phẩm chất cá nhân
Từ nhỏ được tắm mình trong truyền thống nhân ái, khoan dung của dân tộc,
quê hương và gia đình, lớn lên được chứng kiến tội ác man rợn của bọn thực dân,
nỗi lầm than, cơ cực của đồng bào, Hồ Chí Minh đã sớm hình thành khát vọng ra đi
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đối với Người, một người dân mất nước
bị nơ lệ thì giá trị tinh thần lớn nhất là “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Với
lòng yêu nước thương dân sâu sắc và tình yêu thương những người cùng khổ mà
Hồ Chí Minh sẵn sàng chịu đựng vì những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ
Quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Trong hành trình cứu nước, Người cũng đã từng chứng kiến cuộc sống áp bức
khốn cùng trong roi vọt, nỗi khổ của nhân dân các nước thuộc địa và Người cũng
đã trải qua nhiều năm lao động đầy cực nhọc, từng trải qua cảnh lao tù đầy đọa nên
trong trái tim của Người bao giờ cũng có mối đồng cảm, xót thương sâu sắc đối với
số phận của tất cả các dân tộc bị áp bức. Vì vậy, ngay khi bước vào cuộc đấu tranh
cách mạng, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp giữa đấu tranh giải phóng
dân tộc mình với đấu tranh “giải phóng những người bị áp bức khỏi các lực lượng
thống trị, thực hiện tình yêu thương và bác ái”. Trong lời kêu gọi trên báo Le Paria
số 1, Người đã viết: “Mục đích của báo… là giải phóng lồi người”.
Trên cơ sở hành trang ban đầu là chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã
đi qua nhiều châu lục trên thế giới, đến với nhiều châu lục khác nhau, đến với
21


những khu vực nghèo khổ nhất, cả những trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa tiêu
biểu của thế giới như : Pháp, Mỹ, Anh, Đức... Chính trong điều kiện đó, Người đã
đi sâu nghiên cứu những học thuyết tiến bộ giàu tính nhân ái của các nhà tư tưởng
văn hóa phương Tây.
Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá quy luật vận động xã hội,

đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các
quốc gia và thời đại để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực
tiễn, làm cho lý luận có giá trị khách quan, tính cách mạng và khoa học. Nguyễn Ái
Quốc luôn xác định một dân tộc biết bảo vệ tự do của mình thì đồng thời cũng tơn
trọng tự do của dân tộc khác, biết đấu tranh vì quyền tự quyết của mình thì cũng
ủng hộ những dân tộc khác vì mục đích như thế. Ngược lại, nếu nhân danh nhân
quyền, dân chủ, tự do, mà chà đạp quyền làm người của dân tộc khác, áp đặt khuôn
mẫu giá trị của mình ra ngồi biên giới, thì đó là sự xuyên tạc các giá trị nhân loại.
Theo Nguyễn Ái Quốc, sự cộng sinh, sự cùng chung sống giữa các dân tộc,
chỉ có thể hiểu như sự tơn trọng lẫn nhau và cùng phát triển. Từ điểm xuất phát
này, Nguyễn Ái Quốc đã đến với Quốc tế Cộng sản, và từ việc tiếp xúc với Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã làm
giàu thêm truyền thống dân tộc, một khi nội dung của khoan dung được xác định,
và trở thành yếu tố hòa giải, tập hợp lực lượng, trong cuộc đấu tranh vì những giá
trị của dân tộc.
Như vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên tìm đường cứu nước, trong hành
trang tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, khoan dung đã thực sự có tác dụng lớn, nhất
là khi Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, và một lần nữa, phấn đấu để đạo lý
khoan dung từng bước biến thành những nội dung tư tưởng cụ thể.
Sự tiếp thu và diễn đạt tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về tinh thần quốc
tế vô sản cũng được Hồ Chủ tịch diễn đạt hoàn toàn theo tinh thần của Nho gia:
“Quan sơn muôn dặm một nhà, bốn phương vơ sản đều là anh em” . Câu nói này
chứa đầy ý nghĩa, nó vừa là sự phỏng theo quan niệm của Nho gia về “tứ hải giai
huynh đệ”, đồng thời lại thể hiện luôn cả khẩu hiệu lớn lao của thời đại ngày nay:
“Vơ sản tồn thế giới liên hiệp lại!”. Đây là sự biểu hiện của sự hòa hợp sâu sắc
giữa tư tưởng “Đại Đồng” của Khổng Tử và chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả của
22


chủ nghĩa Mác trong con người Hồ Chí Minh. Người viết: “Hiểu chủ nghĩa Mác Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống

khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được” [19, 554].
Tóm lại: Quan niệm về khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa
truyền thống khoan dung của dân tộc, được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa yêu
nước và lấy chủ nghĩa yêu nước làm cơ sở định hướng cho tư tưởng khoan dung
kết hợp với những giá trị tinh thần nhân văn của nhân loại. Qúa trình tích tụ trong
mình các giá trị khoan dung của phương Đông và phương Tây cùng với việc đi từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận một
luận đề nổi tiếng của Mác - Ăngghen: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Hồ Chí Minh đã kết hợp tinh
thần khoan dung mác xít với truyền thống khoan dung, nhân ái Việt Nam cùng với
năng lực chủ quan, phi thường của Người đã tạo nên một tư tưởng mới - tư tưởng
khoan dung mang tầm cao và ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Xuất phát từ những điều kiện đặc thù của dân tộc, từ truyền thống, từ kinh
nghiệm và thói quen ứng xử của người Việt, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam mà
trước hết là thực tiễn đánh đuổi giặc ngoại xâm, Hồ Chí Minh đã làm cho tư tưởng
khoan dung trở nên thiết thực. Hơn nữa, Hồ Chí Minh cịn nâng truyền thống khoan
dung của dân tộc lên tầm cao mới bằng việc kết hợp nó với chủ nghĩa nhân văn
cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại, vũ khí
lý luận của giai cấp cơng nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng mình và giải phóng
tồn nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Nội dung quan niệm về khoan dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Khái niệm về khoan dung
Thuật ngữ “khoan dung” xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử tư tưởng
nhân loại. Ngay từ khi xuất hiện, nghĩa của “khoan dung” được thống nhất ở các
ngôn ngữ khác nhau.

23



Ở phương Tây: Khoan dung có nguồn gốc chung là từ tiếng Latinh
(Tolerantia) sau đó được phổ biến sang các thứ tiếng khác thuộc hệ ngữ Latinh
(chẳng hạn tiếng Anh là Tolerance, tiếng Pháp - Tolérance, tiếng Đức - Toleránz).
Thuật ngữ này được dịch sang tiếng Việt thông qua Hán ngữ tolerance được biểu
đạt bằng nhiều từ khác nhau như bao dung, độ lượng, khoan dung.
Khoan dung gốc từ tiếng Latinh là tolerantia, có nghĩa là phẩm chất đặc trưng
cho thái độ đối với những người khác cũng như đối với cá nhân có phẩm giá bình
đẳng với mình và thể hiện việc tự giác đè nén cảm giác tức giận sinh ra từ tất cả
những gì thể hiện cái khác mình thể hiện ở người khác từ ngoại hình, lối nói, thị
hiếu, lối sống đến niềm tin,… Thuật ngữ tolerantia trong tiếng Latinh cịn có hàm
nghĩa khác là chịu đựng, nhẫn nhục và kiên tâm một cách thụ động, là tự nguyện
đón nhận một đau khổ thường liên tưởng thái độ đối với các hiện tượng thuộc các
thuật ngữ như đau khổ, cái ác…
Đến nay khoan dung đã được hiểu căn bản là lập trường cho phép thừa nhận
và tôn trọng sự khác biệt, là quy tắc đạo đức tất yếu dẫn tới việc tìm kiếm khả năng
và giải quyết khả năng, giải quyết xung đột và mâu thuẫn thông qua sự thừa nhận
quyền của người khác hoặc thông qua những người nào đó có quan điểm, tín
ngưỡng, hình thức ứng xử khác với chúng ta.
Ở phương Đông: Khoan dung ban đầu được dùng như một khái niệm thuần
túy đạo đức. Xuất phát từ lòng nhân nghĩa, người ta kêu gọi cần có sự đối xử nhân
từ, rộng lượng đối với người khác, sẵn sàng bỏ qua cho những sai lầm, tội lỗi của
người khác. Trên ý nghĩa đó, khoan dung đồng nghĩa với bao dung, nó mang tính
cách bề trên, có màu sắc đẳng cấp Nho giáo.
Trong Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh, “khoan dung” được sử dụng
đồng nghĩa với “bao dung”, trong đó “khoan” là rộng rãi, dung được nhiều, độ
lượng rộng; và “dung” là tiếp nhận, bao chứa, bao bọc. Do vậy, “khoan dung”
được hiểu là rộng lòng bao dung, là khoan thứ, vị tha. Đại từ điển tiếng Việt cũng
nhất trí với cách giải thích này .

24



Trong văn kiện chính thức của Liên hợp quốc cũng đã chỉ rõ một số điểm về
khoan dung như sau: Một là, sự tôn trọng, chấp nhận và đánh giá cao sự phong phú
và đa dạng của các nền văn hóa trên thế giới. Hai là, khoan dung khơng phải là
nhượng bộ, hạ cố hay chiều lòng, mà trước hết là một thái độ tích cực xuất phát từ
việc thừa nhận các quyền phổ biến của con người. Ba là, thừa nhận đa dạng của sự
phát triển trên thế giới. Bốn là, thừa nhận tự do lựa chọn niềm tin của mình và chấp
nhận những người khác cũng có quyền tự do như vậy, không áp đặt ý kiến của
người này lên ý kiến của những người khác.
Khoan dung, xét từ góc độ văn hố, hàm chứa thái độ ứng xử tích cực, mang
tính giao lưu đối thoại trong quan hệ giữa các cộng đồng người, các dân tộc khác
nhau, thể hiện sự tôn trọng và học hỏi lẫn nhau, hướng đến những giá trị nhân loại
chung. Văn kiện chính thức của UNESCO về khoan dung đã chỉ ra bốn ý nghĩa của
nó như sau: Thứ nhất: Khoan dung là sự tôn trọng, chấp nhận và đánh giá cao sự
phong phú và đa dạng của các nền văn hoá thế giới, phương thức biểu đạt và cách
thể hiện phẩm chất con người của chúng ta. Nó được khuyến khích bằng tri thức,
sự cởi mở giao tiếp và tự do tư tưởng, ý thức về tín ngưỡng. Khoan dung là một
đức tính khiến cho hồ bình có thể thực hiện được và góp phần vào việc thay thế
văn hố chiến tranh bằng văn hố hồ bình. Thứ hai: Khoan dung … xuất phát từ
việc thừa nhận các quyền phổ quát của con người và những tự do cơ bản của người
khác. Trong bất kỳ trường hợp nào không thể viện ra khoan dung để bào chữa cho
sự vi phạm những giá trị cơ bản này. Khoan dung cũng phải được thực hành bởi
các cá nhân, các nhóm người và các nhà nước. Thứ ba: Khoan dung là trách nhiệm
đề cao các quyền con người, sự đa dạng của thế giới (kể cả văn hoá) dân chủ và
nhà nước pháp quyền… Thứ tư: Khoan dung có nghĩa là mỗi người được tự do
chọn lựa những niềm tin của mình và chấp nhận những người khác cũng có quyền
tự do như vậy. Nó… chấp nhận thực tế con người, đương nhiên khác nhau về vẻ
ngồi, hình thể, ngơn ngữ, tập tính và các giá trị, đều có quyền sống trong hồ bình
và tồn tại đúng bản chất của mình [ 22, 34].


25


Từ những khái niệm trên, có thể khẳng định rằng: Khoan dung không chỉ là
việc nắm lấy những nguyên tắc sống cơ bản, mà còn là điều kiện cho hòa bình, cho
phát triển kinh tế và cho sự tiến bộ xã hội. Khoan dung phải ăn sâu không chỉ trong
tâm trí của mọi người như một thái độ ứng xử, mà cả trong những cách bố trí của
sự vận hành xã hội và chính trị, chi phối và tạo dựng những mối quan hệ giữa con
người với con người. Khoan dung không chỉ thuộc về đạo đức của mỗi cá nhân, mà
cịn thể hiện tinh thần u hịa bình của mỗi dân tộc.
Khoan dung hẳn không phải là nét riêng của dân tộc này hay dân tộc khác, mà
được hình thành từ lịch sử của nhiều dân tộc trong cuộc mưu sinh và bảo vệ phẩm
giá của mình. Dân tộc ta từ xưa đã làm cho yếu tố này trở thành phổ biến trong hệ
thống ứng xử và đánh giá đối với quan hệ bên trong lẫn quan hệ đối ngoại. Điều
này bộc lộ rõ trong việc tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc đi trước, thực
hiện sự sàng lọc nghiêm túc, dần dần biến thành cái của chính mình.
Tóm lại, khoan dung là sự tơn trọng quyền tự do của người khác về niềm tin
tôn giáo cũng như về các quan điểm chính trị, triết học, là cách nhìn rộng lượng với
những cái khác biệt, là chấp nhận đối thoại về giá trị trong sự đa dạng của các nền
văn hóa để cùng tồn tại và phát triển.
Trên cơ sơ nhận thức tất cả mọi người đều bình đẳng về phẩm chất, nhưng
mỗi người lại có cách suy nghĩ và niềm tin khác nhau, chính sự khác nhau đó là
nhân tố làm nên sự phong phú cho nền văn hóa mỗi dân tộc và tồn bộ nền văn
minh nói chung, do đó khoan dung là sự đòi hỏi một thái độ hài hòa khác biệt để
cùng nhau tồn tại và phát triển.
Mặt khác khoan dung đòi hỏi chống lại mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, tơn giáo,
tuyệt đối hóa các giá trị của riêng mình, đi tới bỉ án, đàn áp, chống lại niềm xác tính
của người khác, áp đặt những giá trị xa lạ với truyền thống, bản sắc văn hóa của
dân tộc họ.

Do đó, khoan dung cần đến sự hiểu biết về chân lý, chính nghĩa, vì người ta
phân biệt có khoan dung tốt và khoan dung xấu. Muốn bênh vực cái tốt phải lên án
cái xấu, cái ác, lên án tư tưởng và hành động không tương hợp với các quyền cơ

26


×