Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Ôn thi vấn đáp môn lý luận nhà nước và pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.94 KB, 51 trang )

ÔN TẬP THI VẤN ĐÁP MÔN LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Câu 1: Đối tượng nghiên cứu của Lý luận nhà nước và pháp luật.
- Đối tượng nghiên cứu của lý luận nhà nước và pháp luật là nghiên cứu những vấn đề
chung nhất, cơ bản nhất của 02 hiện tượng nhà nước và pháp luật.
+ Nghiên cứu quy luật phát sinh, phát triển của nhà nước và pháp luật. + Nghiên cứu
những thuộc tính cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật.
+ Nghiên cứu những biểu hiện quan trọng nhất của 02 hiện tượng nhà nước và pháp
luật. => Kết luận lý luận nhà nước và pháp luật nghiên cứu 02 hiện tượng nhà nước và
pháp luật một cách toàn diện (nghiên cứu nguồn góc, bản chất).
Câu 2: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Lý luận nhà nước và
pháp luật.
.Phương pháp nghiên cứu: Khái niệm: phương pháp nghiên cứu của một khoa học được hiểu là cách thức, nguyên
tắc hoạt động khoa học đạt được chân lý khách quan trên cơ sở của sự chứng minh khoa
học
- Phương pháp nghiên cứu của nhà nước và pháp luật :
1. Phương pháp luận: Lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm cơ sở phương pháp luận cho mình. - Phương pháp luận: là lập trường, xuất phát
điểm của nhận thức. tuân thủ 02 nguyên tắc: + Khách quan + Toàn diện
2. Phương pháp cụ thể khác: - Phương pháp trừu tượng khoa học: là phương pháp tư duy
trên cơ sở tạm thời tách cái chung ra khỏi cái riêng.
Câu 3: Sự hình thành nhà nước trong lịch sử: các quan điểm khác nhau về sự hình
thành nhà nước, các phương thức hình thành nhà nước trong lịch sử.
Các quan điểm khác nhàu về sự hình thành nhà nước bao gồm:
+Thuyết thần học cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, NN là do thượng
đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, do vậy NN là lực lượng siêu nhiên và với quyền
lực vĩnh cưủ và sự phục tùng quyền lực này là cần thiết và tất yếu.
1


+Thuyết gia trưởng cho rằng: NN là kết quả sự phát triển tự nhiên của gia đình, là hình
thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy NN có trong mọi xã hội và quyền


lực NN về bản chất cũng giống như quyền gia trưởng của người đứng đầu gia đình.
+ Thuyết khế ước xã hội cho rằng: Các học giả tư sản cho rằng sự ra đời của NN là sản
phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký kết trước hết là giữa những con người sống
trong trạng thái tự nhiên không có NN. Vì vậy, NN phản ảnh lợi ích của các thành viên
trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu NN phục vụ, bảo vệ lợi ích của họ.
+ Thuyết bạo lực cho rằng: NN xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc
của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng nghĩ ra một hệ
thống cơ quan đăc biệt để nô dịch kẻ chiến bại.
+ Thuyết tâm lý cho rằng: NN xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên
thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sỹ…Vì vậy NN là tổ chức của những
siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội.
+ Thuyết “NN siêu trái đất”cho rằng: Sự xuất hiện xã hội loài người và NN là sự du
nhập và thử nghiệm những thành tựu của một nền văn minh ngoài trái đất.
Phương thức hình thành thì có 4 kiểu điển hình:Do sự phân hóa xã hội thành các giai
cấp không thể điều hòa được và chế đọ tư hữu về tư liêu sản xuát mà đã hình thành lên
các kiểu nhà nước aten, roma, giéc manh, phương đông
-Aten hình thành trong sự đấu tranh giữa giai cấp trong thị tộc
-Rôma hinh thành từ cuộc cách mạng. Đưới tác động thúc đảy cảu cuộc đáu tranh cảu
những người bình dân sống ngoài cấc thị tộc của rôma chống lại giới quý tộc cảu các thi
tộc rôma
-Giéc manh hình thành từ việc đi chinh phục lãnh thổ
-Phương đông cổ đại hinh thành từ việc chống lại thiên tai, bảo vệ lợi ích chung của
công đồng.
5. Các đặc trưng cơ bản của nhà nước, vấn đề xác định định nghĩa nhà nước
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm
nhiệm vụ quản lý và cưỡng chế nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ địa vị thống trị của
2


giai cấp thống trị trong xã hội tức là nhà nước là một tổ chức thuộc về một giai cấp mà

giai cấp đó có khả năng chi phối các giai cấp khác trong xã hội.
1. Quan điểm phi Mác xit bàn về nguồn gốc ra đời nhà nước Nhà nước là một hiện
tượng xã hội đa dạng và phức tạp.
- Thuyết thần học đã khẳng định nhà nước ra đời là do Chúa và Thượng đế sinh ra. Nhà
nước là sản phẩm của thượng đế và nhà nước là lực lượng siêu nhiên và tất yếu quyền
lực nhà nước bất biến, vĩnh cửu. Quyền lực của nhà nước là quyền lực của thượng đế và
tất cả các thành viên trong xã hội phải phục tùng quyền lực này. Đại diện cho quan điểm
của học thuyết này có các nhà tư tưởng như Ph. Acvin, Masiten, Koct...
- Theo quan điểm của Arixtot, Mikhailop, Merdooc... đại diện cho thuyết gia trưởng thì
cho rằng nhà nước ra đời là sản phẩm của sự phát triển gia đình và quyền lực của người
gia trưởng trong gia đình giống như quyền lực của nhà nước.
Vào thế kỷ XVI, XVII, XVIII đã tồn tại những tư tưởng quan điểm mới về nguồn gốc ra
đời nhà nước. Thuyết khế ước xã hội đã ra đời và đa số các nhà học giả tư sản như: John
Locke, Montesquieu, DenisDiderot, Jean Jacques Roussau đều cho rằng nhà nước ra đời
là sản phẩm của một hợp đồng được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái
tự nhiên không có nhà nước. Nhà nước thể hiện và bảo vệ lợi ích của các thành viên
trong xã hội.
2.Quan điểm Mác-Lê Nin về nguồn gốc nhà nước. Trên cơ sở quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, Mác-Lê Nin cho rằng Nhà nước có quá trình phát sinh, phát
triển và tiêu vong khi những điều kiện làm nảy sinh nhà nước không còn nữa. Lê Nin
cho rằng: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được. Bất cứ ở đâu hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.”
Thứ nhất, nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt. Quyền lực công
cộng đặc biệt là quyền lực chính trị mà chủ thể của nó là giai cấp thống trị về kinh tế,

3


chính trị và tư tưởng. Quyền lực chính trị được đảm bảo thức hiện bằng bộ máy cưỡng

chế đặc biệt của nhà nước thông qua một tầng lớp người chuyên làm nhiệm vụ quản lý.
Thứ hai, nhà nước phân chia dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Nhà
nước phân chia dân cư không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp, giới
tính, tín ngưỡng, tôn giáo để dân cư “thực hiện những quyền lợi và những nghĩa vụ xã
hội của họ tại nơi cư trú, không kể họ thuộc thị tộc nào và bộ lạc nào. Cách tổ chức
những công dân của nhà nước theo địa vực họ cư trú như thế là một đặc điểm chung của
tất cả các nhà nước”. Nhà nước phân chia theo đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, xã để
thức hiện việc quản lí và thông qua đó nhà nước thiết lập mối quan hệ với công dân của
mình.
Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là một thuộc tính
không tách rời của nhà nước, là một khái niệm chính trị - pháp lý thể hiện quyền tự
quyết về đối nội và đối ngoại mà không chịu sự can thiệp hay lệ thuộc vào ý chí của các
quốc gia khác. Nhà nước thiết lập quyền lực trong phạm vi lãnh thổ và bình đẳng độc
lập với các quốc gia khác.
Thứ tư, nhà nước ban hành pháp luật và áp dụng bắt buộc đối với mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội. Nhà nước và pháp luật là phạm trù lịch sử có mối quan hệ
biện chứng hữu cơ với nhau. Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật ngược lại
pháp luật cũng không phát sinh nếu không có nhà nước. Để quản lí xã hội nhà nước là
chủ thể duy nhất có quyền ban hành ra hệ thống pháp luật và đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh thông qua hệ thống cảnh sát, tòa án, quân đội, nhà
tù… Chỉ có nhà nước mới có các cơ quan cưỡng chế và đảm bảo cho pháp luật được
thức thi.
Thứ năm, nhà nước đặt ra thuế và tiến hành thu thuế dưới các hình thức bắt
buộc. Thuế là nguồn thu để nuôi dưỡng những người chuyên làm nhiệm vụ trong bộ
máy nhà nước và đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như việc xây
dựng và duy trì cơ sở vật chất kĩ thuật cho bộ máy nhà nước. Nhà nước là chủ thể duy
nhất được quyền thu các loại thuế đối với mọi công dân. Tuy nhiên, mỗi một nhà nước

4



sẽ có một chế độ, chính sách thuế riêng nhưng chính sách thuế đó cũng phải phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội tại thời điểm nhà nước ban hành chính sách thuế đó.
6. Hình thức nhà nước: khái niệm, các thành tố cơ bản của hình thức nhà nước,
các yếu tố quy định, tác động đến hình thức nhà nước, nêu ví dụ.
Khái niệm: Hình thức nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài của việc tổ chức quyền lực
nhà nước ở mỗi kiểu nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Hình thức
nhà nước do bản chất và nội dung của nhà nước quy định.
Phân loại: Có 2 loại hình thức chính thể và hình thức cấu trúc:
- Hình thức chính thể: là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối cao, cơ cấu trình tự
và mối quan hệ giữa chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc
thiết lập các cơ quan này.
Hình thức chính thể gồm 2 dạng cơ bản là:
+ Chính thể quân chủ: quyền lực nhà nước tập trung toàn bộ hay phần lớn trong tay
người đứng đầu nhà nước (Vua, Hoàng đế...) theo nguyên tắc thừa kế.
+ Chính thể cộng hòa: quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan đại diện do
dân bầu ra trong một thời gian nhất định.
- Hình thức cấu trúc: là sự tổ chức nhà nước theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ và
tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước, giữa cơ quan nhà nước trung
ương với cơ quan nhà nước địa phương.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu đó là:
+ Nhà nước đơn nhất: là nhà nước có lãnh thổ toàn vẹn, thống nhất Các bộ phận hợp
thành nhà nước là các đơn vị hành chính lãnh thổ không có chủ quyền quốc gia và các
đặc điểm khác của nhà nước; đồng thời nó có hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung
ương xuống địa phương.
Ví dụ:Nhà nước Việt Nam, Lào, Trung Quốc...
+ Nhà nước liên bang: do nhiều nhà nước hợp lại. Trong nhà nước liên bang thì không
chỉ liên bang có dấu hiệu của nhà nước mà các nhà nước thành viên cũng có. Có hai hệ
thống cơ quan nhà nước và hai hệ thống pháp luật của chung liên bang và từng nhà nước
thành viên.

Ví dụ:Nhà nước liên bang Mỹ, Malaixia, Braxin...
5


+ Ngoài ra có một loại hành nhà nước khác nữa là Nhà nước liên minh - chỉ là sự liên
kết tạm thời của các quốc gia để thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu nhất định. Sau
khi hoàn thành nhiệm vụ và đạt được mục đích rồi thì nhà nước liên minh tự giải tán,
cũng có trường hợp nó phát triển thành nhà nước liên bang.
Ví dụ:Từ năm 1776 đến 1787 Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là nhà nước liên minh sau đó
phát triển thành nhà nước liên bang.
Chế độ chính trị
Là toàn bộ các phương pháp, cách thức, phương tiện mà các cơ quan nhà nước sử dụng
để thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, chế độ chính trị là phương pháp cai trị
và quản lý xã hội của giai cấp cầm quyền nhằm thực hiện những mục tiêu chính trị nhất
định. Chế độ chính trị quan hệ chặt chẽ với bản chất, nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của
nhà nước và các điều kiện khác về kinh tế, chính trị - xã hội, thể hiện mức độ dân chủ
trong một nhà nước.
Từ khi nhà nước xuất hiện cho tới nay các giai cấp cầm quyền đã sử dụng nhiều phương
pháp cai trị khác nhau nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là phương pháp dân
chủ và phương pháp phản dân chủ. Tương ứng với 2 phương pháp ấy là 2 chế độ nhà
nước:
- Chế độ dân chủ: tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được đảm bảo trong thực tế
bằng việc được pháp luật bảo vệ. Công dân được tham gia vào việc xây dựng nhà nước,
tham gia quản lý và giải quyết những công việc hệ trọng của nhà nước.
Vídụ:chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ qúy tộc phong kiến, chế độ dân chủ tư sản.
- Chế độ phản dân chủ: chà đạp lên quyền tự do dân chủ của công dân.
Vídụ:chế độ độc tài chuyên chế chủ nô, chế độ độc tài chuyên chế phong kiến, chế độ
độc tài phát xít tư sản.

7. Hình thức chính thể: khái niệm, phân loại và so sánh các dạng hình thức chính

thể nhà nước.
Hình thức nhà nước (hay còn được gọi một cách thông thường là hình thức tổ
chức nhà nước) là mô hình tổ chức ra các cơ quan nhà nước và mối quan hệ giữa chúng
với nhau, giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân, và thường được phân tích dưới nhiều
giác độ/tiêu chí khác nhau. Thuật ngữ “chính thể” là một từ Hán Việt cổ, dùng để chỉ
một chế độ chính trị, cách thức tổ chức nhà nước (regime). Hình thức chính thể là sự
6


biểu hiện bề ngoài thành mô hình, hình dáng của nhà nước thông qua cách thức thành
lập, cơ cấu bên trong của việc tổ chức, vị trí, quyền hạn trách nhiệm, mối quan hệ của
các cơ quan nhà nước cấu tạo nên nhà nước và bản chất, nguồn gốc của quyền lực nhà
nước.
Nói đến chính thể là nói đến việc xem xét mô hình tổ chức nhà nước dưới giác độ
cách thức thành lập, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan cấu thành nên bộ
máy nhà nước. Trước hết là mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu nhà
nước) với nhân dân.
Hiện nay, trên thế giới có hai loại hình thức chính thể cơ bản. Đó là chính thể
quân chủ và chính thể cộng hoà. Chính thể quân chủ là chính thể mà ở đó nguyên thủ
quốc gia do thế tập truyền ngôi, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ cõi “hư vô”, do
thiên đình định đoạt. Chính thể cộng hoà là chính thể nguyên thủ quốc gia do bầu cử lập
nên và quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân.
Khi xác định chính thể, trước hết người ta thường dựa vào cách thức thành lập
nguyên thủ quốc gia và nhiệm vụ quyền hạn của nguyên thủ quốc gia. Sau đó, sẽ xét đến
cách thức tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước khác, mà chủ yếu là của
các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Từ đây, chúng ta có thể đưa ra một quy trình cho việc xác định chính thể của mọi
nhà nước. Trước hết, phải căn cứ vào người đứng đầu nhà nước - nguyên thủ quốc gia để xác định nhà nước đó thuộc loại quân chủ hay dân chủ (cộng hoà). Nếu nguyên thủ
quốc gia được hình thành bằng phương pháp truyền ngôi thì đó là nhà nước quân chủ.
Và ngược lại, nếu nguyên thủ quốc gia được lập nên thông qua bầu cử thì đó là chính

thể cộng hoà.
Các loại hình chính thể: quân chủ và cộng hoà
7


Thuật ngữ “quân chủ” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Monosarchy” (được ghép từ
hai từ “Monos” có nghĩa là một và “archy” có nghĩa là chính quyền), tức là chính quyền
nằm trong tay một người. Trong chính thể quân chủ, nhà vua - người đứng đầu nhà nước
- được lập nên không thông qua bầu cử, mà do thế tập truyền ngôi; các thần dân, những
thành viên sống trong lãnh thổ quốc gia đó, là những người không có quyền tham gia
vào các công việc nhà nước. Đây là mô hình phổ quát của chế độ chính trị phong kiến,
và trước đó là của chế độ chiếm hữu nô lệ.
Thuật ngữ “cộng hoà” có nguồn gốc từ thành ngữ Hy Lạp “Respublica est res
populi”, có nghĩa là “Nhà nước là công việc của nhân dân”. Mô hình tổ chức nhà nước
này xuất hiện từ thời cổ đại La Mã - Hy Lạp. Nhưng sang đến chế độ chính trị phong
kiến nó bị loại dần, mãi đến chế độ chính trị tư bản mới trở thành mô hình phổ biến. Chế
độ chính trị cộng hoà còn được gọi là chế độ chính trị dân chủ. Dân chủ cũng là thuật
ngữ có nguồn gốc từ cổ Hy Lạp, “Democrat” có nghĩa là quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân.
Dựa vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, việc tổ chức nhà nước được áp dụng,
được pha tạp từ hai hình thức trên thành hình thức tổ chức nhà nước của mỗi một nhà
nước sở tại.
Mô hình quân chủ thường được tổ chức thành quân chủ tuyệt đối của nhà nước
hoàn toàn theo chế độ phong kiến. Nhà vua có thể thâu tóm mọi quyền hành từ lập pháp,
hành pháp đến tư pháp; nhà vua đứng trên pháp luật và tạo nên một chính thể quân chủ
chuyên chế.
Quân chủ hạn chế (hay còn gọi là quân chủ lập hiến) là mô hình tiến bộ hơn:
quyền lực thần bí, truyền ngôi của nhà vua bị hạn chế, phải nhường chỗ cho các thiết
chế khác của nhà nước. Trước hết là cho Quốc hội - cơ quan mới xuất hiện trong cách
8



mạng tư sản do nhân dân trực tiếp bầu ra, sau đó phải nhường tiếp cho Chính phủ - cơ
quan được hình thành dựa trên cơ sở của Quốc hội. Hiến pháp là văn bản pháp lý thể
hiện sự hạn chế này. Mục đích của sự hạn chế đó là một phần hay còn gọi là cơ sở của
tuyên ngôn “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Đó cũng là một bản cáo chung cho
sự ra đi của chế độ quân chủ chuyên chế.
Thời hiện đại, chính thể quân chủ dường như bị suy tàn một cách dần dần. Những
nền quân chủ còn lại đều là những nền quân chủ lập hiến - nhà vua bị hạn chế quyền lực
bởi bản văn hiến pháp - những ông vua lập hiến. Quyền hạn của nhà vua chỉ còn là hình
thức. Một trong những mô hình phổ biến hiện nay của quân chủ lập hiến là quân chủ đại
nghị (mà hình mẫu của nó là ở các nước như Anh, Nhật,...).
So với thể chế quân chủ thì việc tổ chức Nhà nước theo thể thức cộng hoà có tính
chất dân chủ, tiến bộ hơn. Sở dĩ như vậy là bởi vì việc tổ chức nhà nước này cố gắng
đoạn tuyệt với cách thức tổ chức của chế độ phong kiến. Nguyên thủ quốc gia do bầu cử
mà ra. Trong cách thức tổ chức nhà nước này, nhân dân, ở mức độ khác nhau, là chủ thể
được quyền tham gia vào các công việc nhà nước, được Hiến pháp tuyên bố “quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân”.
Mô thức tổ chức Nhà nước theo chính thể cộng hoà thường chia làm hai loại:
Cộng hoà đại nghị và Cộng hoà tổng thống. Cách phân chia này được xác định trên cơ
sở mối quan hệ giữa hai nhánh quyền lực hành pháp và lập pháp. Nếu hai nhánh quyền
lực này phụ thuộc và có sự phối kết hợp với nhau thì thuộc loại hình đại nghị; còn
ngược lại, nếu giữa chúng không có mối quan hệ nào thì thuộc loại hình tổng thổng.
Câu 8: Hình thức cấu trúc nhà nước, chế độ chính trị, liên hệ các nhà nước thuộc
ASEAN
1, Hình thức cấu trúc nhà nước

9



Là sự cấu tạo tổ chức nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và tính chất, quan
hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước với nhau, giữa các cơ quan nhà nước ở TW với
các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Cấu trúc nhà nước bao gồm: nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang
a) nhà nước đơn nhất: là nhà nước có chủ quyền chung, có lãnh thổ toàn vẹn thống
nhất.
Các bộ phận hợp thành nhà nước:
_Các đơn vị hành chính – lãnh thổ ko có chủ quyền.
_Hệ thống các cơ quan nhà nước (cơ quan quyền lực, cq hành chính, cq cưỡng chế)
thống nhất từ TW đến đp.
_ Có 1 hệ thống pháp luật thống nhất trên toàn lãnh thổ.
_Công dân có 1 quốc tịch.
b) nhà nước liên bang: Gồm 2 hay nhiều nhà nước thành viên hợp thành. Đặc điểm của
nhà nước liên bang:
_Các nhà nước thành viên có chủ quyền riêng nhưng thống nhất với nhau về mặt quốc
phòng, đối ngoại, an ninh.
_Có chủ quyền chung, đồng thời mỗi nhà nước thành viên cũng có chủ quyền riêng.
_Có 2 hệ thống PL: của nhà nước toàn liên bang và cảu nhà nước thành viên.
_Công dân có 2 quốc tịch.
c) nhà nước liên minh
Đây là sự liên kết tạm thời của 1 vài nhà nước để thực hiện những mục đích nhất định,
sau khi thực hiện xong mục đích, nhà nước liên minh tự giải tán hoặc chuyển thành nhà
nước liên bang.
2, Chế độ chính trị:
Là tất cả những phương pháp và thủ đoạn mà nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực
nhà nước.
- Có nhiều pp và thủ đoạn khác nhau mà nhà nước sử dụng, nhưng tự chung lại có
2 pp:

10



_PP phản dân chủ là pp khi thực hiện đi ngược lại nguyện vọng của đại đa số trong xã
hội.
_PP dân chủ là pp khi thực hiện phù hợp ý chí, mục đích, nguyện vọng của đại đa số
trong xã hội.
- Chế độ chính trị phụ thuộc bản chất, nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước và các đk
về KT, chính trị - xã hội, tương quan lực lượng trong xã hội trong từng thời kỳ
khác nhau.
- Tương ứng có 2 chế độ: chế độ dân chủ và chế độ phản dân chủ.
3, Liên hệ các nhà nước thuộc Asean
thể chế chính trị các nước ASEAN, đã xác định được những đặc điểm chủ yếu
sau:
Một là, thể chế chính trị của các nước ASEAN (trừ Thái Lan) từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay gắn liền với quá trình đấu tranh giành và giữ vững nền độc lập dân
tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Sự lựa chọn con đường phát triển TBCN hay
XHCN là một trong những yếu tố quyết định tính chất và đặc điểm của hình thức chính
thể và tổ chức bộ máy Nhà nước các nước ASEAN. Trong số 8 nước đi theo con đường
phát triển TBCN, có 4 nước theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến (Brunây,
Campuchia, Malaixia, Thái Lan); Xingapo có hình thức chính thể cộng hòa đại nghị
theo mô hình của nước Anh. Riêng Mianma, theo Hiến pháp năm 1947 là chính thể
cộng hòa dân chủ đại nghị, nhưng từ sau các cuộc đảo chính quân sự (năm 1962-1974
và năm 1988), thể chế chính trị của Mianma đến nay vẫn đang là chế độ quân sự. Nước
Lào từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sau khi giành được độc lập đã đi theo con
đường phát triển XHCN với hình thức chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân.
Hai là, ở các nước ASEAN phát triển theo con đường TBCN, phải trải qua nhiều biến
động, nhiều xung đột gay gắt, giai cấp tư sản và địa chủ tại các nước này mới dần dần
giữ được vị trí thống trị của mình. Nền dân chủ tư sản ở các nước ASEAN chịu ảnh
hưởng và mô phỏng dân chủ tư sản phương Tây, mức độ nhiều ít khác nhau tùy thuộc
11



vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhưng do đặc điểm lịch sử và điều
kiện kinh tế – xã hội của những nước này không có sự tương đồng như các nước phương
Tây, nên không tạo ra nền tảng cho việc thực thi các thể chế dân chủ tư sản, mà chỉ là
“bức tranh biếm họa” của mô hình dân chủ tư sản phương Tây. Điển hình là chế độ cộng
hòa tổng thống của Philippin, Inđônêxia với sự thống trị độc tài, quân phiệt và nạn tham
nhũng nặng nề của giới chóp bu cầm quyền xung quanh tổng thống (như thời kỳ cầm
quyền của Marcos với lệnh thiết quân luật hơn mười năm trời trên toàn nước Philippin
từ đêm 21/9/1972; cũng như suốt 32 năm của cái gọi là “Trật tự mới” dưới thời cầm
quyền của Xuhactô ở Inđônêxia…).
Ba là, sau những biến động chính trị – xã hội sâu sắc bởi sự thao túng của giới quân sự
(Inđônêxia, Philippin, Mianma) đã để lại hậu quả nặng nề về nhiều mặt tại các quốc gia
này nên những năm gần đây, khuynh hướng dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước
và dân sự hóa bộ máy Nhà nước đang thắng thế ở một loạt nước ASEAN. Ví dụ, năm
1986 đã chấm dứt 21 năm cầm quyền của Marcos, một “Tổng thống có một bàn tay sắt”
với chế độ độc tài do ông ta tạo ra ở Philippin; sự ra đi của Tổng thống Xuhactô sau 32
năm cầm quyền và sự lùi bước của phe quân sự trước phe dân sự ở Inđônêxia; hoặc các
thế lực quan liêu, quân phiệt đã không ngăn cản và đàn áp được các lực lượng dân sự và
tiến bộ ở Thái Lan (điển hình là “cuộc cách mạng của sinh viên” vào những năm 1973 –
1976, cũng như xu hướng dân sự hóa bộ máy Nhà nước ở Thái Lan hiện nay…).
Bốn là, do tính phức tạp, đa dạng về sắc tộc, tôn giáo, cũng như sự phân hóa ngay trong
nội bộ giai cấp tư sản của các nước ASEAN và ảnh hưởng của nền dân chủ phương Tây,
nên các nước ASEAN (trừ Lào) đều có rất nhiều đảng phái chính trị (ví dụ: Inđônêxia có
gần 100 đảng chính trị, Thái Lan có hàng trăm đảng phái khác nhau…). Nhưng thực tế
cho thấy, ở những nước này chỉ có một hoặc liên minh một số đảng nhất định cầm
quyền. Ví dụ: Đảng Nhân dân hành động (PAP) là đảng duy nhất cầm quyền ở Xingapo
liên tục từ năm 1959 đến nay; ở Malaixia, Đảng Dân tộc Mã Lai thống nhất (UMNO)
cầm quyền suốt 40 năm qua,v.v.. Đây là điều kiện bảo đảm ổn định về chính trị và phát
12



triển kinh tế – xã hội của đất nước ở những nước này trong những năm vừa qua, nhất là
Xingapo
9. Liên minh nhà nước: khái niệm, xu hướng phát triển.
10. Kiểu nhà nước, kiểu pháp luật, các quan điểm tiếp cận kiểu nhà nước, kiểu
pháp luật
11. Bản chất, hình thức, đặc điểm cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt nam
12. Chức năng nhà nước: khái niệm, phân loại, các yếu tố quy định, tác động đến
việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước, nêu ví dụ.
Khái niệm: Chức năng nhà nước là những hoạt động chủ yếu, thường xuyên, có tính ổn
định tương đối, trực tiếp thể hiện bản chất, phương thức thực hiện các nhiệm vụ chiến
lược, mục tiêu lâu dài của Nhà nước.
Phân loại:
Căn cứ theo lĩnh vực hoạt động, chia làm 2 lĩnh vực hoạt động chủ yếu, bao trùm nhất
của Nhà nước là đối nội và đối ngoại, trong đó chức năng đối nội là chủ đạo
1/ Đối nội: những hoạt động chủ yếu của Nhà nước nhằm giải quyết những vấn đề kinh
tế, văn hóa, giáo dục, KHCN, ANQP trong nước. VD, Trước đây chức năng tổ chức và
quản lý nền kinh tế thực hiện theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu thì hiện nay
Nhà nước điều hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định
hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu và tổ chức sx, huy động tiềm năng sẵn có
trong nước và sử dụng viện trợ, đầu tư Nhà nước.
2/ Đối ngoại: những hoạt động của Nhà nước trong quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ đất
nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để thực hiện chức
năng đối nội.
Trong lĩnh vực đối ngoại, “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa
13



phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc”.
– Hiến pháp 2013
Căn cứ hình thức (pháp lý) thực hiện quyền lực Nhà nước: Chức năng lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Căn cứ lĩnh vực hoạt động: chính trị, kinh tế, XH
Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng Nhà nước: nhiệm vụ (chiến lược) Nhà nước
và bản chất Nhà nước là 2 yếu tố quyết định chức năng Nhà nước. Cụ thể,
- Lịch sử phát triển của từng dân tộc, truyền thống, VH, hệ tư tưởng;
- Trình độ phát triển LLSX, phát triển KT trong XH;
- Cơ cấu phân tầng XH, Quốc hội giữa các nhóm lợi ích trong XH;
- Quyền con người, dân chủ và toàn cầu hóa;
- Trình độ và trách nhiệm của những nhà chính trị, các nah2 quản lý Nhà nước.
Chức năng của Nhà nước là hoạt động chủ yếu của cả bộ máy Nhà nước mà tất cả
các cơ quan Nhà nước đều tham gia thực hiện với mực độ nhất định, pham vi nhất định
xuất phát từ vị trí, vai trò, thẩm quyền của mình.
Mỗi nhiệm vụ chiến lược của đất nước liên quan chặt chẽ với hầu hết các chức
năng của Nhà nước và được thực hiện bởi tất cả chức năng Nhà nước. Vd, xét xử là
chức năng riêng của Tòa Án. Thông qua việc xét xử cá nhân hay tổ chức vi phạm pháp
luật về VH, GD, KH, CN và giải quyết những vấn đề XH, tòa án góp phần vào việc
quản lý VH, GD, KH, CN và thực hiện chính sách XH.
Các chức năng của Nhà nước luôn phát triển cùng với Nhà nước và XH. Sự biến
đổi về số lượng và nội dung các chức năng phụ thuộc vào bản chất, nhiệm vụ mục tiêu
cơ bản của Nhà nước cũng như khả năng, điều kiện của XH, hoàn cảnh trong nước và
quốc tế.


14


VD, kể từ khi xuất hiện, nhà nước đã tiến hành hoạt động của mình trong các lĩnh vực
xã hội, tác động vào chúng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đó
nhằm đạt đến mục đích theo ý muốn của mình, của giai cấp thống trị cầm quyền mà
mình đang đại diện. Nội dung chức năng xã hội của nhà nước luôn mang tính đặc thù và
cụ thể ở những giai đoạn phát triển nhất định. Chức năng xã hội của nhà nước là
những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, tác động đến các lĩnh vực xã hội có
liên quan đến tất cả cộng đồng xã hội, đến từng giai cấp, từng lớp, nhóm xã hội, từng cá
nhân: như vấn đề lao động - việc làm, thu nhập, dịch vụ công cộng, giáo dục, y tế v.v.
Thông qua việc thực hiện chức năng này, nhà nước bảo đảm những phúc lợi xã hội, tạo
ra những khả năng như nhau cho mọi công dân để đạt được những phúc lợi đó, bảo vệ
xã hội chống lại những hiệu ứng bên ngoài của thị trường và điều chỉnh những hậu quả
do lợi ích kinh tế thị trường gây ra.
Chức năng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để thực hiện các chức năng
khác của Nhà nước Việt Nam. Nó có ảnh hưởng to lớn đến quan hệ giai cấp, đến phát
triển kinh tế, ổn định xã hội và là điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người.
Khi có những dấu hiệu, điều kiện ảnh hưởng tác động hoặc đe doạ đến chất lượng
cuộc sống của các thành viên trong cộng đồng hoặc cộng đồng thì nhà nước phải có
những biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn hoặc giải quyết theo hướng có lợi cho sự tồn
tại của các thành viên đó nói riêng và cả của cộng đồng nói chung.
Nếu nhà nước đảm bảo được việc tổ chức tốt đời sống cộng đồng thì sẽ tạo ra các
điều kiện để ổn định xã hội, phát triển kinh tế, từ đó nhà nước và xã hội càng có điều
kiện để chăm lo cho toàn bộ dân cư không may mắn trong xã hội. Ngược lại, khi bộ
phận dân cư yếu thế trong xã hội được quan tâm cứu giúp có khả năng tự vươn lên sẽ
làm giảm bớt gánh nặng cho xã hội, góp phần ổn định cho toàn xã hội.
Thời kỳ trước đổi mới, do không nhận thức đầy đủ quy luật kinh tế khách quan
nên Nhà nước Việt Nam đã tuyệt đối hoá sở hữu công hữu, dẫn đến kết quả không tạo
được sự phát triển kinh tế, không tạo được cơ sở vật chất để thực hiện chức năng xã hội

đồng thời cũng vì thế mà mọi trách nhiệm giải quyết các công việc của đời sống xã hội
đương nhiên đều thuộc về nhà nước. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, trong
15


đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đã tạo ra động lực cho sự phát triển đất nước. Nhà
nước đã giải quyết được một số mâu thuẫn trên cơ sở xác định các hình thức sở hữu đan
xen, tạo lập sự bình đẳng về mặt pháp lý đối với các hình thức sở hữu đó cũng như
đối với các chủ thể trong quan hệ kinh tế, trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thực tế
đó càng khẳng định mối liên hệ mật thiết hữu cơ của hai chức năng KT và XH.
13. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng nhà nước, liên hệ vào các chức
năng của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Để thực hiện chức năng nhà nước: nhà nước phải lập ra bộ máy cơ quan nhà nước
gồm nhiều cơ quan nhà nước khác nhau. Mỗi một cơ quan phải thực hiện nhiệm vụ của
cơ quan ấy, đồng thời tất cả các cơ quan ấy phải phục vụ chung cho nhiệm vụ của nhà
nước.
Hình thức thực hiện chức năng nhà nước:
- Hình thức pháp lý: là hình thức thực hiện chức năng chủ yếu của nhà nước thể
hiện trong các hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Các phương diện,
(mặt) hoạt động cơ bản của nhà nước được thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật,
là hình thức cơ bản để thực hiện chức năng nhà nước. Bằng pháp luật, xác định rõ trách
nhiệm, thẩm quyền thực hiện các chức năng nhà nước.
- Hình thức tổ chức: phương thức mang tính tổ chức của các phương diện, (mặt) hoạt
động cơ bản của nhà nước, cùng với hình thức pháp lý giúp chức năng nhà nước được
thực hiện nhịp nhàng, hiệu quả.
Phương pháp thực hiện chức năng nhà nước:
- Phương pháp thuyết phục: là cách thức theo đó nhà nước động viên khuyến khích, tạo
điều kiện cho các chủ thể thực hiện một cách tự giác.
- Phương pháp cưỡng chế: là cách thức mà theo đó các nội dung, yêu cầu của nhà nước
được các đối tượng có liên quan thực hiện một cách bắt buộc.

Vd, khi tiến hành đền bù giải phóng mặt bằng một dự án đầu tư, nhà nước phải cân nhắc
tổ chức thực hiện để hài hòa chức năng kinh tế và XH.

16


• Bộ máy nhà nước: có các cơ quan chuyên ngành như Bộ Tài nguyên Môi trường
quản lý về quy hoạch sử dụng đất; Bộ Tài chính quản lý về giá đất và chính sách
bồi thường; Bộ Xây dựng quản lý về quy mô, cấu trúc dự án; chính quyền địa
phương chịu trách nhiệm cùng nhà đầu tư minh bạch hóa quy hoạch dự án, lên
phương án kiểm đếm thực trạng đất đai, xây dựng phương án bồi thường và tổ
chức thực hiện giải phóng mặt bằng; phối hợp cùng các tổ chức chính trị xã hội
vận động người dân bị ảnh hưởng của dự án;
• Hệ thống các văn bản pháp quy về lĩnh vực này đã được ban hành, tuy nhiên do
thiếu cập nhật, thiếu thực tế nên mang lại nhiều khó khăn, thiệt hại về tài chính
cho chủ đầu tư, bức xúc cho người dân, tạo dư luận không đồng thuận trong XH,
do đó cần phải được điều chỉnh càng sớm càng tốt. Việc đền bù GPMB không nên
để nhà đầu tư đứng mũi chịu sào, tự thương lượng với dân theo giá thị trường.
Công tác đền bù, GPMB diễn ra từ năm này qua năm khác làm đảo lộn cuộc sống
cư dân địa phương. Sau đó chủ đầu tư lại tiếp tục phải đóng tiền sử dụng đất cho
Nhà nước, tương đương với việc “mua” đất lần thứ hai, gây thiệt hại vật chất to
lớn cho chủ đầu tư, đội kinh phí dự án. Nhà nước, căn cứ theo quy họach sử dụng
đất, nên chủ động đứng ra đền bù GPMB, tạo quỹ đất sạch, sau đó đấu giá công
khai. Việc đó sẽ tạo ra sự minh bạch, công bằng cho cả người dân và chủ đầu tư.
• Phương pháp thực hiện vừa mang tính chất phổ biến pháp luật, tuyên truyền ảnh
hưởng tích cực của dự án, đồng thời phải chuẩn bị phương án cưỡng chế di dời
đối với những đối tượng lấn chiếm đất công.
14. Chức năng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam trong giai đoạn hiện
nay: khái niệm, phân loại, so sánh với các chức năng nhà nước trong thời kỳ quản
lý hành chính, tập trung bao cấp trước đây

Khái niệm
- Chức năng nhà nước phản ánh hoạt động quản lý của nhà nước. Chức năng của Nhà
nước Công hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là những hoạt động chủ yếu, thường xuyên,
có tính ổn định tương đối, trực tiếp thể hiện bản chất, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu lâu
17


dài của nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
- Cần phân biệt “chức năng” và “nhiệm vụ chiến lược”, cụ thể:
+) Nhiệm vụ chiến lược: là những vấn đề cốt yếu nhất, mang tính lâu dài và có ý
nghĩa sống còn với nhà nước, quốc gia, dân tộc.
+) Chức năng: là phương thức thực hiện nhiệm vụ chiến lược. Chức năng nhà
nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước (chức năng của từng cơ quan hoặc kết
hợp nhiều cơ quan với nhau cùng thực hiện).
- Nhà nước thực hiện nhiều loại chức năng khác nhau do có nhiều lĩnh vực quản lý khác
nhau hết sức đa dạng và phức tạp. Căn cứ vào hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu của nhà
nước là đối nội và đối ngoại mà chức năng của nhà nước cũng được phân chia như vậy.
- Các chức năng đối nội:
+) Tổ chức và quản lý nền kinh tế nhà hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
+) Tổ chức và quản lý nền văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và giải quyết những
vấn đề thuộc các chính sách xã hội: nhằm phát triển con người Việt Nam toàn diện; coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển khoa học công nghệ; giải quyết kịp thời, thỏa
đáng các vấn đề xã hội.
+) Giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
+) Bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Các chức năng đối ngoại:
+) Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa. Bên

cạnh đó, thiết lập, củng cố, phát triển các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả các nước
trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau.
+) Tham gia vào các cuộc đấu tranh cùng nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
- So với các chức năng nhà nước trong thời kỳ trước, chức năng nhà nước hiện nay
có những điểm đổi mới sau:
18


+) Chức năng quản lý kinh tế trước được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu bao
cấp thì nay đã được đổi thành quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
+) Chức năng đối ngoại được mở rộng, khi chỉ bó hẹp trong quan hệ ngoại giao với các
nước cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa, ngày này chức năng đối ngoại được thực hiện với
phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy”, không phân biệt chế độ chính trị.
15. Chức năng kinh tế của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.
Tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng quan trọng hàng đầu của bất cứ nhà nước
XHCN nào nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho XHCN.
Nhà nước ta quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế để kích thích nền
kinh tế phát triển, như các cụm kinh tế, vùng kinh tế, các khu công nghệ cao, xây dựng
riêng các chính sách cho các vùng riêng như thành phố HCM, Vũng Áng, …
16. Các chức năng xã hội của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Yên dân trị nước, vì thế các chính sách xã hội ngày nay đang rất nóng và cần
được giải quyết căn cơ để đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Bảo vệ môi trường: Hiện nay vấn đề môi trường đang là vấn nạn của xã hội như
vụ cá chết ở biển Miền Trung, hạn hán ở đồng bằng sông Cửu Long, chặt phá rừng, …Ý
thức bảo vệ môi trường phải được thực hiện cụ thể trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi
người dân.
Nhà nước cũng cần chỉ đạo quyết liệt và có các biện pháp cấp bách để khắc phục.
- Tội phạm và tệ nạn: Tội phạm và tệ nạn ngày một phức tạp và tinh vi.

- Đối tượng dễ bị tổn thương: như người nhiễm HIV, phụ nữ, người nghèo,
nông dân, cũng đã có chính sách ưu tiên nhưng còn rất nhiều hạn chế.
17. Bộ máy nhà nước: khái niệm, phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
các mô hình tổ chức bộ máy nhà nước (trong các kiểu nhà nước ).

19


- Khái niệm: Bộ máy nhà nước là một tổ chức từ cơ quan Trung ương đến Địa
phương nhằm đảm bảo nhiệm vụ và chức năng của bộ máy nhà nước.
- Phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước: Căn cứ vào các chức năng bảo vệ
quyền lực nhà nước chia làm 3 loại:
+ Cơ quan Lập pháp
+ Cơ quan Hành pháp
+ Cơ quan Tư pháp
- Các mô hình tổ chức bộ máy nhà nước.
1. Mô hình tập quyền dân chủ chuyên chế ( tập chung vào người đứng đầu như
nhà Vua, Hoàng đế).
Không có sự phân định rạch ròi giữa 3 cơ quan Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp.
2. Mô hình phân quyền: là mô hình phân chia quyền lực nhà nước( có sự phân
biệt rạch ròi giữa 3 cơ quan Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp).
3. Tập quyền xã hội chủ nghĩa: Không áp dụng phân chia quyền lực, có sự phân
định của 3 cơ quan Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp nhưng chưa thực sự rạch ròi và rõ
nét, chưa có cơ chế kiểm soát lẫn nhau, chưa có cơ chế độ lập.
18. Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt nam: khái niệm, phân loại các cơ quan trong
bộ máy nhà nước, các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.
- Khái niệm: Bộ máy nhà nước XHCN Việt nam là hệ thống các cơ quan nhà
nước từ Trung ương đến Địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc chung,
thống nhất nhằm thực hiện chiến lược và chức năng của nhà nước.

- Phân loại các cơ quan: Chúng ta cũng căn cứ vào các chức năng để phân loại các
cơ quan trong bộ máy nhà nước gồm:
+ Cơ quan Lập pháp
+ Cơ quan Hành pháp
+ Cơ quan Tư pháp
- Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy XHCN Việt nam:
20


+ Nhà nước của dân, do dân và vì dân
+ Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ.
+ Nguyên tắc pháp chế XHCN.
19. Nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nguyên tắc dân tộc trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
- Nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Điều này thể thiện thông qua cơ
quan đại diện của nhân dân là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
- Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc,
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống
và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mọi mặt,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số".
Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đòi
hỏi, tất cả các dân tộc phải có đại diện của mình trong các cơ quan nhà nước đặc biệt
trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan nhà nước phải xuất phát từ
lợi ích của nhân dân, của các dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa
các dân tộc. Nhà nước có chính sách ưu tiên giúp đỡ để các dân tộc ít người mau đuổi
kịp trình độ phát triển chung của toàn xã hội.
20. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự
phân công rành mạch, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo: phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Đảng đề ra đường lối, chiến lược về đối nội, đối ngoại để nhà nước thể chế hóa chúng
thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.
Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ của nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho nhà
nước .
21


Đảng giới thiệu nhân sự cho nhân dân bầu vào các cơ quan quyền lực của nhà nước.
Đảng kiểm tra, giám sát sự hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Từ Hiến pháp 2013 thì Hiến pháp đã quy định rõ về sự phân quyền của 3 cơ
quan Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp.
- Mỗi quyền là 1 thiết chế, các quyền độc lập với nhau ( Lập pháp, Hành pháp, Tư
pháp) phương thức làm việc khác nhau.
- Có sự chế ước lẫn nhau.
21. Nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ ở Việt Nam
+ Tập trung là quy về 1 đầu mối.
+ Dân chủ được thảo luận và nghi nhận các ý kiến.
+ Tránh tập trung quan liêu, vô chính phủ và cục bộ ngành và cơ quan đơn vị.
+ Phục tùng cấp trên, từ Trung ương đến Địa phương.
- Nguyên tắc pháp chế:
+ Áp dụng chung, bình đẳng đối với tất cả các chủ thể.
+ Tổ chức bộ máy hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.
24. Khái niệm, các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của nhà nước pháp quyền
Khái niệm: NNPQ là một nhà nước quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật và
nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật. NNPQ là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ
thể phục tùng pháp luật trước hết là các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước.

Các đặc điểm cơ bán của NNPQ:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư
sản không thể có được. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân
định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy
quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn bộ
dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các
chế độ khác.
22


- Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước để
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta
phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải
có sự phân công, phân định thẩm quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả
với chất lượng cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở HP, PL và đảm bảo cho HP và
các đạo luật giữ vị trí tối thượng. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành
dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có
sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ
chức thành viên của Mặt trận.
Câu 28: .Sự hình thành pháp luật trong lịch sử
Pháp luật ra đời cùng sự xuất hiện của nhà nước, đó là một điều tất yếu khách quan. Xét
về phương diện chủ quan, pháp luật do Nhà nước đề ra và đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh của mình, trở thanh một công cụ có hiệu quả nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị trong xã hội, nó quản lý xã hội theo mục đích của nhà nước, tức là theo mục
đích của giai cấp thống trị.

Trước khi pháp luật xuất hiện, các tổ chức thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng
những phong tục tập quán với bản chất của nó là nguyên tắc bình đẳng giữa các thành
viên trong xã hội. Khi nhà nước xuất hiện cùng với việc các quan hệ trong xã hội phát
triển vượt bậc cả về chiều sâu và chiều rộng, các phong tục tập quán này không còn có
thể điều chỉnh được nữa mà cần một loại quy phạm xã hội mới đó chính là pháp luật.
Câu 29. Khái quát về các trường phái quan niệm pháp luật
Câu 30: Bản chất, các thuộc tính cơ bản của pháp luật, so sánh với các loại quy
phạm xã hội, liên hệ thực tiễn.
* Bản chất của pháp luật:
-Tính giai cấp:
23


+ Tính giai cấp của pháp luật trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà
nước của giai cấp thống trị, nội dung của ý chí đó đựơc quy định bởi điều kiện
sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước,
giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một
cách tập trung thống nhất, hợp pháp hoá ý chí của nhà nước, được nhà nước bảo
hộ thực hiện bằng sức mạnh của nhà nước.
+ Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh của pháp
luật. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp
các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một trật tự phù
hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ củng cố địa vị của giai cấp thống trị.
Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
- Tính xã hội:
+ Tính xã hội của pháp luật thể hiện thực tiễn pháp luật là kết quả của
sự "chọn lọc tự nhiên" trong xã hội. Các quy phạm pháp luật mặc dù do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tuy
nhiên chỉ những quy phạm nào phù hợp với thực tiễn mới được thực tiễn giữ lại

thông qua nhà nước, đó là những quy phạm "hợp lý", "khách quan" được số đông
trong xã hội chấp nhận, phù hợp với lợi ích của đa số trong xã hội.
+ Giá trị xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ, quy phạm pháp luật vừa
là thước đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các
hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quan hệ xã
hội, hướng chú ý vận động, phát triển phù hợp với các quy luật khách quan.
*Thuộc tính cơ bản của pháp luật:
Thuộc tính của pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng riêng có của pháp luật nhằm
phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Nhìn một cách tổng quát, pháp luật
có những đặc trưng cơ bản sau:
-

Tính quy phạm phổ biến: Pháp luật được tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp

luật, quy phạm là tế bào của pháp luật, là khuôn mẫu, là mô hình xử sự chung. Trong xã
hội các hành vi xử sự của con người rất khác nhau, tuy nhiên trong nhưng hoàn cảnh
24


điều kiện nhất định vẫn đưa ra được cách xử sự chung phù hợp với đa số. Cũng như quy
phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có những quy tắc xử sự chung, nhưng
khác với các quy phạm xã hội, pháp luật có tính quy phạm phổ biến. Các quy phạm
pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ, việc áp dụng các quy phạm này chỉ bị
đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi bằng những quy
định khác hoặc thời hiệu áp dụng các quy phạm đã hết. Tính quy phạm phổ biến của
pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước “được đề lên thành luật”.
-

Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Thuộc tính thứ hai của pháp luật là


tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, nó là sự thể hiện nội dung pháp luật dưới những
hình thức nhất định. Thuộc tính này thể hiện:
Nội dung của pháp luật đựơc xác định rõ ràng, chặt chẽ khái quát trong các điều, khoản
của các điều luật trong một văn bản quy phạm pháp luật cũng như toàn bộ hệ thống pháp
luật do nhà nước ban hành. Ngôn ngữ sử dụng trong pháp luật là ngôn ngữ pháp luật, lời
văn trong sáng, đơn nghĩa. Trong pháp luật không sử dụng những từ “vân vân” và các
dấu (...), “có thể” và một quy phạm pháp luật không cho phép hiểu theo nhiều cách khác
nhau.
-

Tính được bảo đảm bằng nhà nước: Khác với các quy phạm xã hội khác pháp

luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự bảo
đảm bằng nhà nước là thuộc tính của pháp luật. Pháp luật không chỉ do nhà nước ban
hành mà nhà nước còn bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, có nghĩa là nhà nước trao
cho các quy phạm pháp luật có tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và
cá nhân. Pháp luật trở thành quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung nhờ vào sức mạnh
quyền lực của nhà nước. Tuỳ theo mức độ khác nhau mà nhà nước áp dụng các biện
pháp về tư tưởng, tổ chức, khuyến khích,... kể cả biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện.
Như vậy, tính được bảo đảm bằng nhà nước của pháp luật được hiểu dưới hai khía
cạnh. Một mặt nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật bằng cả hai phương pháp thuyết
phục và cưỡng chế, mặt khác nhà nước là người bảo đảm tính hợp lý và uy tín của pháp
luật, nhờ đó pháp luật được thực hiện thuận lợi trong đời sống xã hội.
25


×