Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Những hiểu biết chung về VOCs và thực trạng nghiên cứu về vấn đề ở trên thế giới và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.04 KB, 22 trang )

Ketnooi.com diễn đàn công nghệ hàng đầu Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
KHOA MÔI TRƯỜNG
---------***---------

TIỂU LUẬN
KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ VÀ TIẾNG ỒN
Đề tài: ‘Những hiểu biết chung về VOCs. Thực trạng nghiên cứu
về vấn đề ở trên thế giới và Việt Nam.’

Hà Nội


Ketnooi.com diễn đàn công nghệ hàng đầu Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
KHOA MÔI TRƯỜNG
---------***---------

TIỂU LUẬN
KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ VÀ TIẾNG ỒN
Đề tài: ‘Những hiểu biết chung về VOCs. Thực trạng nghiên cứu
về vấn đề ở trên thế giới và Việt Nam.’

GV: Trần Thị Thanh Thủy
Sinh viên thực hiện: Mai Duy Khánh
Lớp: Địa sinh thái k53

Hà Nội


Ketnooi.com diễn đàn công nghệ hàng đầu Việt Nam



Các nội dung chính
- Những hiểu biết chung về VOCs.
- Thực trạng nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam.
I. Những hiểu biết chung về VOCs
I.1 VOCs là gì?
VOC - Volatile Organic Compounds. VOC tạm dịch là hàm lượng hỗn hợp các chất
hữu cơ độc hại bay lên trong không khí làm ô nhiễm môi trường. VOC thực chất là
các hóa chất có gốc Carbon, bay hơi rất nhanh. Khi đã lẫn vào không khí, nhiều loại
VOC có khả năng liên kết lại với nhau hoặc nối kết với các phần tử khác trong không
khí tạo ra các hợp chất mới. Một số hỗn hợp có nguồn gốc thiên nhiên, một số khác
không độc hại lắm. Ví dụ: Một quả cam vừa được cắt cũng có thể thải ra không khí
các VOC.
Tuy nhiên, cụm từ VOC thường dùng để nói đến hỗn hợp các chất hữu cơ độc hại bay
trong không khí xuất phát từ các sản phẩm do con người chế tạo, chẳng hạn như các
dung môi toluen, xylene và dung môi xăng thơm lacquer (lacquer thinner). Trong quá
trình liên kết để tạo thành lớp sơn, VOC thải ra từ sơn là tổng các hợp chất hữu cơ bay
hơi thoát ra từ quá trình sơn, ngoại trừ nước. VOC được đo bằng đơn vị Gram/Lít.
I.2 Nguồn gốc
I.2.1 Nguồn gốc tự nhiên
Đa số các VOCs phát sinh từ thực vật. Ước tính hàng năm có 1150 Tg C (Tg = 10

12

gam) sinh ra từ thực vật.[1] Các thành phần chính là isoprene ᄃ, isoprene là một thành phần
1


hydrocarbon dễ bay hơn được thực vật thải ra với số lượng lớn. Một dấu hiệu của
chất là mùi phát ra mạnh mẽ từ nhiều loài thực vật. Các chất thải từ thực vật bị ảnh

hưởng bởi nhiều yếu tố, chẳng hạn như nhiệt độ, nó quyết định tỷ lệ bay hơi, tăng
trưởng, còn ánh sáng mặt trời quyết định tỷ lệ sinh tổng hợp. Phát xạ xảy ra hầu như chỉ
từ lá, từ các lỗ khí trên lá. Một nhóm chất chính của VOCs là tecpen. Tecpen là nhóm
hydrocarbon không no thường có công thức là (C 5H8)n. Tecpen và các dẫn xuất chứa
oxi của chúng thường có trong quả, lá, hoa và rễ của thực vật.
I.2.2 Nguồn gốc nhân tạo
Nhiều vật liệu xây dựng như sơn, keo dán, ván tường, và gạch trần phát ra
formaldehyde, làm cho con người bị kích thích và không thoải mái. Formaldehyde

lượng khí thải từ gỗ là trong khoảng 0,02-0,04 ppm. Độ ẩm tương đối cao và nhiệt độ
cao cho phép phát thải ra nhiều formaldehyde từ nguyên liệu gỗ . Formaldehyde là
một khí cay không màu, phát thải chủ yếu là từ các sản phẩm ván ép làm từ hạt nhựa
urê kết dính trong các vật liệu xây dựng, từ các thiết bị đốt như đồ gia dụng chạy bằng
gas, lò sưởi, những vật dụng trang trí nội thất như bông cách nhiệt, vải, thảm, và vật
liệu trải sàn nhà; sản phẩm giấy và mỹ phẩm. Formaldehyde nồng độ thấp trong
không khí có thể gây kích ứng mắt, mũi và họng, có khả năng gây chảy nước mắt, hắt
hơi và ho. Ở nồng độ cao, nó có thể gây cảm giác buồn nôn và khó thở. Cơ quan quốc
tế về Nghiên cứu Ung thư (IARC) phân loại formaldehyde thuộc nhóm chất có thể
gây ung thư.
Ngoài ra còn có nhiều nguồn VOCs trong các tòa nhà văn phòng, trong đó bao gồm
đồ nội thất mới, phủ tường, và thiết bị văn phòng như máy photocopy. Công nghiệp
sản xuất chất sơn phủ bề mặt, do dùng nhiều dung môi chứa các chất hữu cơ dễ bay
hơi đã gây nên ô nhiễm môi trường. Năm 1995 châu Âu đã sản xuất và tiêu thụ
khoảng 3,5 triệu tấn, tương ứng có 0,1 triệu tấn VOC thải ra. Còn trên thế giới hiện
nay lượng sơn tiêu thụ vào khoảng 23 triệu tấn. Ở các loại sơn hữu cơ thông thường,
2


hàm lượng chất rắn chiếm 13%, phần còn lại chủ yếu là VOC tương đương 600 - 840
g/l.[2] Cơ thể mỗi chúng ta có một mùi đặc trưng, giống như mỗi ngón tay có một dấu

vân riêng, và nó không thay đổi ngay cả khi chúng ta chuyển sang chế độ ăn khác.
Giới khoa học biết rằng động vật có vú, như chuột, sóc, hươu và cả con người, có mùi cơ thể đặc
trưng được quy định trong gene. Mùi cơ thể giúp chúng nhận ra một cá thể trong đám đông, thậm
chí trong việc tìm bạn tình. Mùi cơ thể được quyết định một phần bởi các gene đóng vai trò quan
trọng đối với hệ miễn dịch và được tìm thấy trong phần lớn động vật có xương sống. Thông tin về

mùi được truyền khắp cơ thể thông qua các dịch lỏng như nước tiểu và mồ hôi.
Những dịch lỏng này chứa nhiều hợp chất hữu cơ dễ bay hơi có khả năng giải phóng
mùi. Những người từng tập thể thao trong một căn phòng nhỏ và kín có thể cảm nhận
được sự tồn tại của các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi.
VOCs được sinh ra từ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày trong gia đình, có trong các
sản phẩm tẩy rửa hay chất làm lạnh. Chúng còn có trong công nghệ làm sạch khô của
các nghành công nghiệp. Các nghành công nghiệp sử dụng các nguồn nhiên liệu hóa
thạch tạo ra VOCs trực tiếp từ các sản phẩm như xăng,dầu…hoặc gián tiếp từ các sản
phẩm phụ như khí thải ô tô. Con người sản xuất phát thải khoảng 10% mức phát thải
của tự nhiên,nên việc hạn chế là vô cùng khó khăn..
II. Thực trạng nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt Nam
II.1 Trên thế giới

Vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là sự suy giảm chất lượng không khí hiện đang
là mối quan tâm hàng đầu trên thế giới, nhất là tại các quốc gia có nền công nghiệp
phát triển. Một lượng lớn các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi khác nhau VOCs được thải
vào khí quyển hàng ngày. Trong những năm gần đây, ngưỡng cho phép của hàm
lượng VOCs trong khí thải đã được giảm xuống rất nhiều nhờ những nỗ lực tích cực
của thế giới trong việc bảo vệ môi trường. Chính phủ các nước đang ngày càng thắt
chặt các quy định liên quan đến hàm lượng các chất gây ô nhiễm trong các nguồn khí
3


thải ra môi trường.

Hoa Kỳ
VOCs là hợp pháp theo quy định tại các luật khác nhau và mã số theo đó họ ban hành
các quy định. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) quy định VOC trong không
khí, nước và đất. Các Đạo luật nước uống an toàn thực hiện bao gồm một danh sách có
nhãn VOCs phải có ghi các chất hữu cơ và được ổn định. Ngoài nước uống, VOCs
được quy định tại nước cần xử lý (xử lý nước thải và xử lý nước mưa), chất thải nguy
hại, Sở Lao động Hoa kỳ ban về nghề nghiệp của mình và an toàn quản lý sức khỏe
(OSHA) quy định VOC tiếp xúc ở nơi làm việc. Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi có
chất độc hại sẽ được quy định bởi các Cục An toàn Vật liệu độc hại .

Hoa Kỳ hiện nay, lượng VOC có trong sơn được quy định ở cấp liên bang là 250
gram/lít, và sẽ là 100 gram/lít sau ngày 01-01-2011. Qua nhiều thập niên, từ năm
1975-2009, lượng VOC trong sơn đã giảm dần từ 750 xuống 560 – 450 – 300 – 100 –
50 và mới đây, vào năm 2008-2009 rất nhiều hãng sơn đã thành công trong việc sản
xuất ra những dòng sơn không có VOC.

Các

hợp

chất

hữu

cơ dễ bay
hơi
(VOC) là
một

mối


quan tâm
chính của


quan
4


Bảo vệ Môi trường (EPA) và không khí được cảnh báo về sự nguy hiểm trên toàn
nước Mỹ. Là một yếu tố tạo nên ozone, một chất gây ô nhiễm không khí thông
thường mà đã được chứng minh là gây nguy hiểm y tế công cộng. Các hợp chất hữu
cơ dễ bay hơi sẽ phản ứng với sự có mặt của ánh sáng mặt trời với các oxit nitơ
(NOx) để tạo thành ôzôn. Ozone này có năng lượng thấp kết hợp với các hạt mịn của
bụi và các vật liệu khác và góp phần hình thành sương khói. Trong sương mù đó có
chứa ozon (O3), alđehyt, peoxyt axetyl nitrat và một lượng nhỏ các chất oxy hóa. Phản
ứng quang hóa học dưới tác dụng của nitơ oxit phân hủy dung môi hữu cơ tạo ra
những tác nhân oxy hóa:
VOC + ánh sáng + NO2 + O2 —> O3 + NO + CO2 + H2
Ngoài ra trong phản ứng trên ta còn thấy sản phẩm sinh ra còn có cả CO 2 loại khí gây
hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Trong khi ozone trong không khí phía trên là có lợi, ozone ở mặt đất là hoàn toàn
ngược lại. Tầng ôzôn của khí quyển giúp bảo vệ chúng ta khỏi nguy hiểm của tia cực
tím mặt trời,tuy nhiên khi chúng ở gần ta thì theo các nghiên cứu EPA nó hoạt động
như một chất kích thích phổi, gây ra vấn đề sức khỏe cho tất cả sự sống, bao gồm cả
động vật và thực vật. Những nghiên cứu này cho thấy hít thở không khí với nồng độ
ozone trên các tiêu chuẩn chất lượng không khí sẽ gây trầm trọng thêm các triệu
chứng của những người bị bệnh phổi và dường như tăng tỷ lệ các mắc bệnh suyễn.
Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy kéo dài tiếp xúc với ôzôn gây hại lâu dài đến
mô phổi và cản trở hoạt động của hệ thống miễn dịch.

California là tiểu bang đầu tiên ban hành luật hạn chế các nội dung VOC trong sơn và
chất phủ. New York, New Jersey, Texas and Arizona đã tham gia California với pháp
luật khu vực của riêng họ, và dự kiến sẽ sớm có các tiểu bang khác cùng tham gia.
Theo truyền thống, các quy tắc môi trường của California đã đặt ưu tiên cho các quy
định liên bang, cũng như những người của các quốc gia khác. EPA hiện đang tham
5


gia trong một quá trình đàm phán điều tiết để phát triển một quy định VOC quốc gia
mà sẽ có hiệu quả trong tất cả các nước.
California Board (CARB) và một số tiểu bang phía đông bắc là thành viên của Ủy ban
Giao thông vận tải Ozone (OTC) hiện nay quy định về VOC cấp nhiều sản phẩm tiêu
dùng,với mục tiêu cải thiện chất lượng không khí. Sản phẩm tiêu dùng được định
nghĩa rất rộng rãi trong các quy định này và bao gồm cả thương mại và tổ chức nhiều
sản phẩm bao gồm sản phẩm chăm sóc xe, ngoài các sản phẩm gia dụng hiện nay.
California đã được điều chỉnh VOC nội dung người tiêu dùng trong một số sản phẩm
trong nhiều năm. Ngược lại VOC quy định tại các bang miền đông bắc có hiệu lực
vào năm 2005. Các quy tắc áp dụng cho các VOC là 350 gam / lít.
EPA Hoa Kỳ ban hành luật mới liên quan đến những giới hạn về các hợp chất hữu cơ
dễ bay hơi (VOC) cho các kiến trúc và bảo dưỡng công nghiệp (AIM) ngành công
nghiệp. Các luật này đã được ghi vào Sổ đăng ký Liên bang vào tháng 11,1998 và
hiệu lực vào ngày 13 Tháng 9, 1999.
California Giới hạn VOC mới 12/31/08 (12/31/09 cho sản phẩm đăng ký EPA)
Danh mục sản phẩm
Giới hạn VOCs(% trọng lượng VOCs)
Chất kết dính: Xây dựng, Panel và Tầng
7
Che
Anti-Static sản phẩm: Thuốc
Phòng tắm và làm sạch Tile: Non-Thuốc

Cân các loại phanh
Bộ chế hòa khí hoặc nhiên liệu khí Máy

80
1
20
20

phun Intake
Thuốc khử trùng: Thuốc
Thuốc khử trùng: Non-Thuốc
Bảo trì sản phẩm nội thất: Non-Sol khí,

70
1
3

trừ dán / rắn
Mục đích chung Cleaners: Aerosol
Mục đích chung Degreasers: Aerosol

8
20
6


Tinh bột giặt là / Định kích thước / Vải

4.5


Finish sản phẩm
Máy giặt: Non-Sol khí bao gồm máy bơm

1

xịt và các chất lỏng
Thuốc Khử trùng:
Sanitizer: Non-Thuốc

70
1

Theo Cơ quan Bảo vệ Môi sinh của Mỹ thì 9% hợp chất gây ô nhiễm môi trường là do
hàm lượng VOC từ trong sơn thải ra. Tất cả các loại sơn đều có 4 thành phần chính:
Tinh bột, chất liên kết, phụ gia và dung môi. Trong đó, dung môi và phụ gia là 2
thành phần chính thải ra VOC. [3]
Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh rằng: Một số hóa chất được tìm
thấy trong những dòng sơn không tốt đã gây tác hại xấu đến thai nhi. Con người dễ bị
dị ứng, đau đầu, chóng mặt, nhức mắt, khó thở khi vừa tiếp xúc với các loại sơn đó.
Theo báo cáo của của Hiệp hội các bệnh về phổi ởMỹ (American Lung Association),
VOC có thể gây khó chịu mắt và da, các vấn đề liên quan đến phổi và đường hô hấp,
gây nhức đầu, chóng mặt, các cơ bị yếu đi hoặc gan và thận bị hư tổn. Do vậy, mối
quan tâm về an sinh, sức khỏe ngày càng tăng cao của xã hội đã tác động đến ngành
xây dựng, tạo nên một xu hướng mới mang ý nghĩa vươn tới một “ngôi nhà xanh –
green building”.

Ảnh hưởng của sự tiếp xúc với các dung môi hữu cơ trong không khí trên sức khỏe và
các phương thức tự bảo vệ:
-


Không khí trong nhà:

Môi trường trong nhà có khoảng 100 hợp chất hữu cơ bay hơi từ nhiều nguồn khác
nhau như vật liệu xây dựng, đồ đạc, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, thuốc trừ sâu... Quần áo
giặt khô có thể còn chứa dư lượng dung môi. Nhiều hợp chất hữu cơ bay hơi có thể
7


gây nghiện và dẫn đến làm suy nhược hệ thần kinh TƯ gây kích ứng cho mắt, mũi và
họng, gây nhức đầu, choáng váng, rối loạn thị giác và nhiều tổn hại khác. Nhiều hợp
chất hữu cơ bay hơi đo được trong nhà có khả năng gây ung thư cho người và động
vật.
Cuộc nghiên cứu Total Exposure Assessment Methodology (TEAM) năm 1985 của
Cơ quan Bảo vệ Môi Sinh Hoa Kỳ (US Environmental Protection Agency=EPA) đã
thay đổi cách đánh giá về phẩm chất của không khí mà chúng ta hít thở trong nhà.
Bản nghiên cứu này cho thấy sự tiếp xúc quan trọng nhất của mỗi cá nhân với những
chất hữu cơ dễ bay hơi không phải do ở không khí bên ngoài trời như chúng ta thường
nghĩ mà chính là do không khí trong nhà ! EPA đã theo dõi sự hiện diện của 20 loại
VOCs (thường là những dung môi hữu cơ) trong không khí bên trong nhà, ngoài trời,
không khí hít thở và không khí bao quanh từng cá nhân nơi 780 người. Không khí bao
quanh từng cá nhân được ghi nhận bằng cách đặt những hệ thống thu hút mẫu trên
quần áo của người đó: không khí này cho thấy có sự tiếp xúc rất cao với 11 loại
VOCs, nồng độ hóa hất trong không khí này cao hơn rất nhiều so với không khí ngoài
trời. Các hợp chất hữu cơ bay hơi thường gặp trong mẫu hơi thở: Chloroform, 1,1,1Trichloroethane,Benzene,tetrachloride,Carbon,Trichloroethylene,Tetrachloroethylene,
Styrene, m,p-Dichlorobenzene, Ethylbenzene, o-Xylene, m,p-Xylene.
Những hợp chất thường gặp nhất là: paradichlorobenzene (chất tẩy mùi), styrene
(nhựa plastic, bọt cao-su=foam rubber, chất độn bảo vệ nhiệt độ =insulation),
tetrachloro ethylene (dùng trong tẩy-giặt khô =dry cleaning), vinylidene chloride
(nhựa plastic), xylene (sơn), benzene và ethlbenzene trong xăng-dầu. Các nồng độ này
cao hơn trong khí hít thở của những người hút thuốc (so với người không hút), điều

này phù hợp với các nghiên cứu cho rằng hút thuốc gây sự tồn đọng các hóa chất hít
vào trong tế bào phổi. Các ghi nhận khác cho thấy nồng độ benzene, xylene và
tetracholoethylene trong mẫu thử cá nhân, tăng cao hơn, mỗi khi người này ghé trạm
xăng hay đến tiệm giặt dry clean. Công nhân làm việc tại tiệm giặt, dĩ nhiên có nồng
8


độ hóa chất hít thở cá nhân, cao hơn là khách hàng, tuy nhiên những công nhân này
cũng còn mang tetrachloroethylene (hay perchloroethylene) về nhà theo..quần áo, tóc
và hơi thở trong phổi! Nồng độ tetrachloro ethylene trong nhà của những công nhân
làm nghề dry-clean ở mức cao đáng kể, đưa đến tình trạng có thể bị nhiễm độc của
những người cùng sống chung trong nhà!
Các nghiên cứu trước đó, khi đối chiếu với nghiên cứu TEAM, đều cho thấy những
kết quả tương đối ổn-định nơi 800 nhà được đo không khí. Tất cả đều cho thấy nồng
độ các hóa chất trong số 40 loại VOCs nghiên cứu đều ở mức độ cao hơn bên trong
nhà so với không khí bên ngoài, có khi gấp 10 lần. Nguồn gốc của các hóa chất độc
hại này có thể là từ vật liệu xây cất, bàn ghế trong nhà, quần áo dry-clean, thuốc lá,
xăng dầu, chất tẩy rửa..Ngoài ra các kết quả còn ghi nhận những người đã từng bị
nhiễm độc khi tiếp xúc với các hóa chất trước đó, nếu sau này tiếp xúc lại..thì phản
ứng sẽ gia tăng hơn nhiều! Các chất biến dưỡng từ dichlorobenzene được tìm thấy
trong nước tiểu của 96 % trẻ em tại Arkansas và trong 98% mẫu thử nơi 1000 nguời
(chọn một cách may rủi) trong toàn Hoa Kỳ (Arch Environ Health No 50-1995)[4]
- Nồng độ cao của các hóa chất độc hại kể trên trong không khí bên trong nhà
có thể do ở hai yếu tố:
+ Thứ nhất: Do ở hậu quả của cuộc 'khủng hoảng xăng-dầu' trong những năm 70, kỹ

thuật xây cất nhà cửa tại Hoa Kỳ thay đổi, tập trung vào việc tìm cách làm nhà thật
kín, để tiết kiệm năng lượng. Nhà được xây cất với mục đích giảm thiểu tối đa sự trao
đổi không khí giữa trong nhà và bên ngoài, để bớt dùng năng lượng cần thiết để giữ
nhiệt độ không thay đổi. Hău quả là những nhà mới xây..giữ lại nhiều hóa chất VOCs

hơn những nhà cũ, vốn thông thoáng hơn!
+ Thứ hai: Cũng trong thời kỳ này, có sự gia tăng trong việc xử dụng những hợp chất

có chứa VOCs trong vật liệu xây cất, vải bọc, bàn ghế, vật liệu trong nhà. Việc xử
dụng gỗ được thay bằng ván vụn ép có chứa nồng độ cao formaldehyd và VOC, Sà
9


nhà , trước đây bằng gỗ nguyên nay cũng được thay bằng gỗ ghép chứa formaldehyd.
Sàn nhà được thay từ gỗ cứng bằng ván phủ thảm..cũng giữ lại các VOCs. Thập kỷ 70
cũng cho thấy những thay đổi trong vật liệu làm bàn ghế trong nhà đem thêm các
VOCs vào bên trong nhà. Các chất bột polyurethane và sợi polyester thay thế các vật
liệu cũ trong nệm ghế ,sofa; sợi nhân tạo thay cho bông gòn. Rayon thay cho lụa để
bọc ghế. Các vải bọc ghế chứa formaldehyde để giúp không bị nhăn khi ngồi lên trên
ghế. Các vật dụng bằng plastic, vốn chứa phthalates nay xuất hiện đầy trong nhà. Văn
phòng lảm việc tại nhà, có máy computer, máy fax, máy sao chụp copier. Càng làm
tăng ozone, hơi plastic và VOCs trong nhà. Ngoài các loại vật dụng trên, còn có sơn,
keo dính, sưởi nóng bằng hơi gaz, bếp gaz các nhà để xe lại là nơi tồn trữ sơn thừa,
nước pha sơn, xăng dầu, thuốc trừ sâu, diệt cỏ nấm mốc tất cả đã tạo thành một môi
trường độc hại ngay bên trong nhà. Sự thật, tuy không tốt đẹp, nhưng chúng ta phải
chấp nhận..là dù sống trong nhà, ngoài trời..tại nơi làm việc.chúng ta luôn luôn phải
hít thở các dung môi và 2 nơi nguy hại nhất lại là nhà chúng ta ở và nơi làm việc mà
chúng ta sẽ tiếp xúc ít nhất là 8 giờ mỗi ngày.
- Thảm, một nguồn thải ra các hóa chất gây ô nhiễm bên trong nhà:
Thảm lót sàn trong nhà có thể là một yếu tố đáng chú ý trong việc thải ra các VOCs
và tồn giữ các chất diệt sâu bọ còn đọng lại. Khi EPA điều tra về nguyên do gây ra sự
độc hại tại Trụ sở Trung Ương (1988), kết quả cho thấy là những nồng độ cao VOC là
do những thảm mới lót, sau khi thay hết 27,000 yard vuông thảm không khí bên trong
trụ sở trở nên khá hơn. Điểm nên chú ý những hóa chất này cũng là những hóa chất
mà EPA tìm được trong cuộc nghiên cứu TEAM, và sau đó cũng tìm thấy trong

nghiên cứu của Thụy Điển. Rất nhiều hợp chất, như 4-phenylcyclohexene, TCE,
Benzene, Xylene, Toluene, Sturene và các me thylbenzenes được biết là các chất gây
độc hại thần kinh.
Vì thảm lót sàn có thể gây những tác dụng độc hại thần kinh bằng cách phóng thích
10


các hợp chất kể trên nên Phòng thí nghiệm Anderson đã tìm cách thử nghiệm tác động
của thảm đối với Hệ miễn nhiễm: Chuột thử nghiệm được sống trong không khí đã
thổi qua thảm và sau đó được theo dõi phản ứng; kết quả ghi nhận nơi 400 mẫu thử:
có sự hiện diện của độc tố trong 90 % mẫu, kể cả những độc tố gây ra tử vong cho
chuột (Informed Consent No 1-1993).
Thảm và bụi trong nhà đều là những vật chứa đựng các hóa chất trừ sâu bọ. Vào năm
1993, bản phúc trình NOPES (Non-Occupational Pesticide Exposure Study), do EPA
bảo trợ được công bố (Arch Environ Contam Toxicol No 26-1994). Bản phúc trình
này xác nhận những kết quả của những nghiên-cứu trước đó về tác dụng độc hại của
không khí bên trong nhà (hơn là ngoài trời); tuy nhiên bản phúc trình NOPES chú
trọng vào các hóa chất trừ sâu nhiều hơn. Các nhà nghiên cứu của EPA tìm thấy là
nồng độ chất trừ sâu trong không khí bên trong nhà cao nhất vào mùa hè và thấp nhất
vào mùa đông, phù hợp với phương thức xử dụng chất trừ sâu tùy theo mùa.
Các loại thuốc trừ sâu bọ trong bụi thảm (theo NOPES):
-Heptachlor
-DDT
- Chlorpyrifos
-ortho-Phenylphenol
- Aldrin
- Dieldrin
-Diazinon
- Chlordane
11



- Carbaryl
- Atrazine
Các mẫu thảm chứa trung bình 12 loại hóa chất trừ sâu (trong số các hóa chất định
tìm), trong khi đó mẫu không khí chứa trung bình 7.5 loại. 13 loại thuốc trừ sâu tìm
thấy trong bụi thảm, nhưng không thấy trong không khí: những chất này kém bay hơi
nên thường ở tại chỗ sau khi rơi xuống. Trẻ em và trẻ sơ sinh chịu ảnh hưởng nhiều
nhất vì tiếp xúc với thảm và bụi chứa thuốc trừ sâu: chúng bò lê cả ngày trên thảm và
nhặt các vật rơi trên thảm đưa vào miệng và theo NOPES thì phương thức tiếp xúc
này khiến trẻ sơ sinh và trẻ em nhận đủ mọi độc chất như DDT, aldrin, atrazine và
carbaryl. Do đó phụ huynh nên tìm những biện pháp phòng ngừa như thay, bỏ thảm
(nếu có thể), lau sạch các ống thổi hơi sưởi, đặt thêm hệ thống làm sạch không khí, bỏ
giầy dép ngoài nhà, tránh dùng thuốc trừ sâu trong vườn.
-

Không khí ngoài trời:Một số người khi cho rằng không khí tại nơi làm việc, trong

nhà..không được tốt, nên ra ngoài trời để hít thở 'không khí trong lành hơn' nhưng
chắc họ sẽ phải thất vọng khi biết rõ hơn về không khí mà họ định hít thở!
Tuy Hoa Kỳ đã có Sắc luật 'Clean Air Act', nhưng chưa hẳn vì thế mà không khí được
trong lành. Đa số các dữ kiện về vấn đề ô nhiễm của không khí ngoài trời được công
bố đều được soạn bởi các công ty kỹ-nghệ. Các số liệu do kỹ nghệ đưa ra có thể
không phản ảnh rõ về toàn cảnh số liệu được phân tích theo những kiểu mẫu phân tán,
vận tốc gió, hướng gió, điều kiện khí tượng, và sự ổn định của bầu khí quyển. Các kết
quả cho thấy nồng độ trong không khí (ngoài trời) của các chất benzene,
formaldehyde, và 1,3-butadiene cao hơn những nồng độ tiêu chuẩn của ung thư trong
hơn 90% các kết quả theo dõi trong nội địa Hoa Kỳ. Ngoài ra khoảng 10% các kết
quả theo dõi (đa số bên phía Đông HK) ước lượng nồng độ của những chất gây ung
thư trong không khí ô nhiễm cao hơn mức độ báo động từ 1 trong 10,000.(Environ

Health Perspect No 106-1998).
12


- Các tác hại của các Dung môi trên sức khỏe:
Các dung môi hữu cơ có nhiều ảnh hưởng khác nhau trên sức khỏe. Trong phần trước
chúng ta đã xét qua bản phúc trình National Human Adipose Tissue của EPA trong đó
4 loại dung môi xylene, dichlorobenzene, ethylphenol và styrene đã hiệndiện trong
toàn bộ mẫu thử (100%). Các dung môi hữu cơ (VOCs) là những độc tố gây hại cho
hệ thần kinh trung ương và ngoại vi: các tác hại trên thần kinh trung ương gồm giảm
trí nhớ, giảm khả năng nhận thức, giảm khả năng phối hợp các động tác giữa mắt và
tay, giữa mắt và chân, khả năng giữ thăng bằng. Sự tiếp xúc lâu dài đưa đến thay đổi
tâm tính, trầm cảm, dễ cáu giận, mệt mỏi, các tác hại trên thần kinh ngoại vi có thể
gồm run rẩy tay, tê tay, các động tác mất khéo léo để thành vụng về. VOCs có thể gây
hư hại thận gây những vấn đề về miễn nhiễm kể cả gia tăng tỷ lệ ung thư làm hạ nồng
độ testosterone và LH (Luteinizing Hormone). Chúng được xem là có thể gây hiếm
muộn, làm giảm lượng tinh trùng và gây gia tăng các trường hợp dị dạng cho bào thai.
Ngoài ra VOCs cũng liên hệ đến các hư hại về máu huyết, gây tăng các tỷ lệ tử vong
vì bệnh tim-mạch. Tỷ lệ VOCs trong không khí bên trong nhà và formaldehyde liên
hệ mật thiết với sự gia tăng các trường hợp Suyễn và Sưng phổi kinh niên, nhất là nơi
trẻ em .

- Các phương thức phòng ngừa và chữa trị
Việc tiếp xúc hàng ngày với các dung môi bay hơi là điều không thể tránh được trong
đời sống..nhưng chúng ta có thể tìm một số phương cách để giới hạn được càng nhiều
càng tốt. Ngòa việc cố giới-hạn sự tiếp xúc, nên đưa không khí sạch hơn vào nhà để
giúp thải bớt VOCs, có thể dùng thêm các hệ thống lọc không khí. Một số cây trồng
trong nhà cũng có những tác dụng giúp lọc không khí. Cơ quan Không gian HK
13



NASA đã nghiên cứu và tìm được một số cây thanh lọc không khí, giảm được nồng
độ benzene, trichloroethylene và formaldehyde, Các cây đáng chú ý gồm:
- Gerbera jasemoni (Cúc đồng tiền)
- Chrysanthemum morifolium(Cúc hoa trắng hay Bạch cúc)
- Hedera helix (English Ivy rất thông thường tại Hoa-Kỳ)
- Sansevieria trifascita (Cây lưỡi cọp lá vàng=Hổ vĩ mép lá vàng)
- Dracaena deremansis (Cây phát dụ)
- Dracaena marginata (Phát dụ Madagascar)
- Spathiphyllum aracacea (Cây buồm trắng)
- Aglaonema modestum ( Cây vạn niên = Minh ty)
- Chamaedorea sefrizii (Parlor Palm, loại cọ trồng trong nhà)
Giai đoạn kế tiếp sau khi cố tránh những tiếp xúc không cần thiết với các dung môi,
dùng hệ thống lọc để giúp không khí trong sạch hơn là giúp cơ thể thải loại các VOCs
sau khi chúng đã vào cơ thể. Khả năng thải loại các dung môi cũng thay đổi tùy cơ
thể: có người loại bỏ được chất độc nhanh chóng nhưng cũng có người loại bỏ chậm
hơn. Có nhiều yếu tố gây ra suy yếu trong việc thải loại độc chất như : ăn uống thiếu
dưỡng chất cần thiết cho cơ thể để biến đổi các độc chất, uống rượu, uống thuốc như
aspirin, hay đã có sẵn những dung môi tồn lại trong cơ thể, ăn thiếu protein hay ăn
quá nhiều chất đường, khiếm khuyết biến dững bẩm sinh, cơ thể bị nhiễm các kim
loại nặng làm nồng độ glutathion xuống thấp.
- Giai đoạn 1 của sự Sinh biến đổi (Biotransformation)
14


Đây là giai đoạn đầu tiên khi cơ thể thanh lọc các hợp chất độc hại khỏi máu. Các
dung môi hữu cơ VOCs bị oxy-hóa bởi các men trong nhóm Cytochrome P450. Vài
loại dung môi như Toluene, Xylene được biến đổi thành benzoic acid . Styrene có thể
thành benzoic mandelic, hay phenylglyoxylic acid. Hexane bị oxy-hóa thành 2,5hexanediol. Có những bằng chứng cho thấy những biến đổi về gene đưa đến sự khác
biệt về hoạt động của những men cyclooxegenase(J.Clin Pharmacol No 9-1980):

những khiếm khuyết về gene này có thể sẽ làm cho cơ thể của một số người mất bớt
khả năng khởi động các tiến trình thanh lọc các VOCs khỏi máu. Phương thức ăn
uống có những ảnh hưởng khá quan trọng trên việc thải loại chất độc khỏi cơ thể,
Phẩm chất của protein cũng giữ một vai trò, ví dụ như người Á châu ăn chay do ở sự
không cân bằng tỷ lệ protein trong rau-quả, nên việc thải loại chất độc bị giảm sút.
Những trạng thái acid thấp (hypochlorhydria) hay không có acid (achlorhydria) trong
bao tử, gặp ở những người dị ứng với hóa chất, có những ảnh hưởng xấu với vấn đề
sinh-khả dụng của các acid amin trong chế độ ăn uống, dù ăn thật nhiều protein: do đó
nên cho những người hay tiếp xúc với VOCs, dùng những protein từ nước sữa (whey)
đã thủy giải một phần (partially hydrolyzed), chế phẩm này không những cung cấp
protein toàn diện cần thiết cho sự biến dưỡng các hóa chất từ bên ngoài nhập vào cơ
thể, đồng thời gia tăng lượng glutathione trong gan. Ngoài vấn đề cung cấp cho đủ các
protein cần thiết, cũng cần giảm thiểu việc ăn uống chất đường: tại Hoa-Kỳ mức tiêu
thụ đường trung bình cho mỗi đầu người lên đến 150 gram/ ngày cùng với tình trạng ô
nhiễm môi sinh do dung môi hữu cơ có lẽ đã tạo ra tình trạng. ngộ độc tiềm ẩn trên
toàn quốc? (Annu Rev Nutr No 11-1991). Ăn nhiều những loại rau có họ cải
(cruciferous), chứa nhiều indol-3-carbinol, rất tốt cho việc thải loại độc chất.
Một số các dưỡng chất dạng vi lượng (micro-nutrients) cũng giúp ích cho Giai đoạn 1
của tiến trình thải loại: Đa số những vitamins nhóm B (như Thiamine=B1;
Riboflavine =B2, Niacin, Pyridoxine=B6) cần thiết cho hoạt động của hệ men
cyclooxygenase khi thiếu những vitamin này, sự loại chất độc giảm xuống. Các
Vitamin E, C; các khoáng chất Magnesium, Selenium đều có ảnh hưởng trên tiến
15


trình thải loại (Nutritional Toxicology Vol 2- Academic Press 1987).
- Giai đoạn 2 của sự Sinh biến-đổi:
Sau khi các dung môi hữu cơ (VOCs) đã bị oxy-hóa ở giai-đoạn 1, chúng sẽ được kết
nối (conjugated) với các acid amin trong Giai đoạn 2: đây là những tiến trình acyl hóa
hay kết nối. Các acid amin thường dùng nhất để kết nối là glycine (cho toluene và

xylene), taurine, và glutamine. Taurine cũng yểm trợ cho Tiến trình sulfat hóa..mà
một số VOCs được thải loại. Một số VOCs khác lại bị thải theo tiến trình kết nối với
glutathione. Sự khiếm khuyết acid amin này có thể làm suy giảm sự thải loại của
những VOCs khỏi máu. Có thể giúp nâng nồng độ glutathion bằng cách dùng thêm
Vitamin C, protein từ nước sữa (whey protein), cây milk thistle, acid alpha lipoic,
selenium và N-acetylcystein (dùng glutathione trực tiếp bằng cách uống lại không có
tác dụng! vì glutathione khi vào đường tiêu hóa bị thủy phân ngay bởi gammaglutamyltransferase trong ruột và gan, trung hòa mất khả năng hoạt động – (European
Journal of Clinical Pharmacology No 43-1992). Ngoài vai trò giúp gia tăng nồng độ
glutathione trong cơ thể, acid alpha-lipoic còng giúp loại trừ thủy ngân (một chất ức
chế glutathione); acid alpha-lipoic còn có khả năng bảo vệ chống các tổn hại thần
kinh gây ra bởi hexane...

Ở Canada
Y tế Canada cho rằng lớp VOCs là hợp chất hữu cơ có điểm sôi khoảng trong khoảng

từ 50 đến 250 ° C (122-482 ° F). Và được nhấn mạnh là nó sẽ có ảnh hưởng đến chất
lượng không khí.[5]
Liên minh châu Âu
16


VOC là hợp chất hữu cơ có một điểm sôi ban đầu ít hơn hoặc bằng 250 ° C đo được
tại một áp suất không khí tiêu chuẩn 101,3 kPa chúng có thể làm hư hỏng, cảm nhận
thị giác.[5]
II. Việt Nam
Việt Nam là nước đang phát triển nên việc hạn chế các VOCs là còn rất hạn chế.

Tại thị trường Việt Nam hiện nay, nhiều loại sơn có tác hại xấu đến sức khỏe và môi
trường sống vẫn đang được sử dụng để sơn nhà ở, nơi làm việc, các tòa cao ốc, các
căn hộ cao cấp… Đó là những loại sơn có hàm lượng VOC rất cao như sơn dầu, sơn

Polyurethane (PU), sơn Nitro Cellulose (NC)… Thậm chí, nhiều thương hiệu sơn có
tên tuổi vẫn sản xuất những dòng sơn dầu hoặc sơn nước độc hại gây ô nhiễm môi
trường.
Nhiều nghiên cứu cho thấy lượng VOC bên trong nhà có thể cao hơn 10 lần so với
bên ngoài, và có khi tăng cao đến hơn 1.000 lần sau khi một lớp sơn mới được sơn lên
tường… Đây là vấn đề chúng ta nên lưu tâm khi có quyết định chọn mua sơn. Bởi lẽ,
bên cạnh cái đẹp, yếu tố an toàn sức khỏe đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của
con người hiện nay. Điều này có ý nghĩa hơn đối với người lớn tuổi, trẻ em và phụ nữ
sắp làm mẹ.[3]
Trong các hoạt động sinh hoạt chúng ta vẫn đang thải các chất hữu cơ dễ bay hơi ra môi trường,
nhưng do mặt bằng về sự hiểu biết đối với sự nguy hại của các hợp chất này nên người dân vẫn hàng
ngày tiếp xúc với chất độc hại này. Các cơ quan chức năng cũng đánh giá được mức độ nguy hiểm
của VOCs nhưng cũng chưa có biện pháp nào để hạn chế phát thải các chất này, vì nguồn hàng tiêu
dùng vào nước ta rất phức tạp do không có sự quản lý chặt chẽ hàng nhập khẩu nên sự phát thải các
chất gây ô nhiễm môi trường cũng khó có thể kiểm soát.
Trong nghành y tế của Việt Nam cũng đã hiểu rõ về tác hại của các hợp chất này,và đưa ra những
khuyến cáo cho người dân như sau khi làm nhà,sơn mới đồ vật thì nên để cho bay hết mùi rồi hãy sử
dụng,và nói cho họ biết nguyên nhân là tư VOCs(các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi).

17


Các giáo sư các nhà khoa học của chúng ta cũng đã và đang nghiên cứu cách để xử lý các VOCs gây
nguy hiểm cho môi trường này.

Công nghệ xử lý các chất VOCs gây ô nhiễm hiện nay được chia thành hai nhóm:
công nghệ phân hủy (gồm phương pháp oxy hóa nhiệt và oxy hóa xúc tác), và công
nghệ thu hồi (gồm phương pháp hấp phụ, hấp thụ, ngưng tự và tách qua màng lọc).
Để đạt được hiệu quả làm sạch cao, người ta có thể kết hợp nhiều phương pháp với
nhau. Hấp phụ là phương pháp làm sạch hiệu quả nhất khi các khí gây ô nhiễm ở

nồng độ thấp (cỡ ppm hoặc dưới ppm), hơn nữa, các chất hấp phụ có thể tích mao
quản lớn để chứa đựng các phân tử chất khí gây ô nhiễm và có thể thu hồi lại một
cách dễ dàng. Cho đến hiện tại, kỹ thuật hấp phụ mới chỉ được ứng dụng 10% trong
xử lý các chất gây ô nhiễm, nhưng tỷ lệ này sẽ tăng lên nhanh chóng trong tương lai
gần do tính hiệu quả và kinh tế của nó trong việc xử lý khí thải. Trong số các chất hấp
phụ, thì hỗn hợp γ-Al2O3-zeolit X.P1 là chất rất có triển vọng để ứng dụng trong
ngành công nghiệp hấp phụ và xử lý khí thải, do nó có diện tích bề mặt riêng lớn và
kích thước mao quản phân bố hẹp, dễ điều chỉnh kích thước mao quản. Vì vậy, việc
nghiên cứu khả năng hấp phụ và các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng hấp phụ của hỗn
hợp γ-Al2O3-zeolit X.P1 là rất cần thiết, kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở quan trọng
cho việc lựa chọn các điều kiện tối ưu cho quá trình hấp phụ của hỗn hợp γ-Al2O3zeolit X.P1. Nghiên cứu khả năng hấp phụ VOCs của hỗn hợp γ- Al2O3-zeolit X.P1
là luận văn-Luận án - Đề tài KH của Trường Đại học Bách khoa Hà nội. Giáo viên
HD là TS. Phạm Thanh Huyền.
III. Kết luận
VOCs là hợp chất gây nguy hiểm cho con người và sinh vật trên trái đất chính vì thế
chúng tao phải hiểu rõ nguồn gốc,các tác nhân của chúng, quan trọng là biết cách hạn
chế sự phát thải của chúng ra môt trường. Nghiên cứu kĩ các tác hại của chúng tới con
người từ đó nâng cao ý thức của con người trong sự tự bảo vệ bản thân và công đồng.
18


Thế giới với trình độ khoa học tiên tiến họ có thể hạn chế được chất thải nguy hại
này,còn Việt Nam chúng ta nên biết tiếp thu thành tựu khoa học của thế giới mà đưa
ra các phương án giải quyết cho phù hợp với chế độ và kinh tế của nước ta.

Tài liệu tham khảo:
1.

/>Volatile_organic_compound


2.

/>
3. />4. />19


5. />vi&u= />
20



×