Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp “pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và thực tiễn áp dụng tại tổng công ty may 10 CTCP”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.53 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài khóa luận`................................................................................................................ 1
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.............................................................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................................................................... 5
6. Kết cấu khóa luận.................................................................................................................................................................. 5
3.2.2 Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT ở Tổng công ty may 10.........................................36
3.2.2.1 Thực tiễn giao kết hợp đồng MBHHQT tại Tổng công ty may 10.........................................................36
Phương thức giao kết hợp đồng........................................................................................................................................ 37
3.2.2.2. Thực tiễn thực hiện hợp đồng MBHHQT tại Tổng công ty may 10..........................................................39
Chuẩn bị hàng hoá................................................................................................................................................................... 39
Kiểm tra hàng hoá................................................................................................................................................................... 40
Thuê tàu lưu cước.................................................................................................................................................................... 40
Làm thủ tục hải quan............................................................................................................................................................. 40
Giao nhận hàng với tàu......................................................................................................................................................... 40
Thanh toán hợp đồng............................................................................................................................................................. 41
3.3 Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT....................41
3.3.1. Đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hợp đồng MBHHQT........................................................................41
3.3.1.1 Hoàn thiện, đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng MBHHQT .................42
3.3.1.2 Hoàn thiện quy định về khái niệm, nội dung hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế...............43
3.3.1.4. Phê chuẩn các điều ước quốc tế về thương mại....................................................................................44
3.3.1.5 Giảm bớt thủ tục hải quan................................................................................................................................ 44
3.3.2. Đề xuất về phía Tổng công ty may 10................................................................................................................. 45
3.3.2.1 Đối với nghiệp vụ đàm phán và giao kết hợp đồng...............................................................................45
3.3.2.2 Đối với quá trình thực hiện hợp đồng MBHHQT....................................................................................46
KẾT LUẬN......................................................................................................................................................................................... 46
PHỤ LỤC............................................................................................................................................................................................ 47
Vii/ trade mark.................................................................................................................................................................... 50


LỜI MỞ ĐẦU



1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài khóa luận`
Từ trước tới nay, hoạt động thương mại luôn giữ vai trò quan trọng và là nền tảng
cho sự phát triển của mọi quốc gia. Vì vậy, tất cả các nước trên thế giới đều nỗ lực nhằm
thúc đẩy hoạt động thương mại trong và ngoài nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu
hướng đó, điều đó đã được thể hiện rõ trong quá trình xúc tiến gia nhập tổ chức thương
mại quốc tế WTO trong năm 2006. Cùng với sự rằng sự giao lưu giữa các nước trên thế
giới ngày càng được mở rộng theo xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế
giới thì hoạt động thương mại không còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà là phạm vi
toàn cầu và khu vực. Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi doanh nghiệp
trong nước phải mở rộng các mối quan hệ xã hội. Trong đó các bên thiết lập với nhau
những quan hệ, chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất, hàng hóa… nhằm đáp ứng nhu
cầu các bên và đi đến lợi ích tối ưu nhất. Việc thiết lập quan hệ đó được thực hiện thông
qua các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Từ lâu, hợp đồng mua bán hàng hóa đã trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu cho các
thương nhân, thể hiện hầu hết các quan hệ mua bán của các bên trong nhiều lĩnh vực. Với
nhu cầu phát triển hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa càng đóng vai trò quan trọng
hơn nữa khi mà hợp đồng mua bán hàng hóa không còn bị bó hẹp trong phạm vi một
quốc gia mà đã mở rộng thành những hợp đồng mua bán hàng hóa phạm vi quốc tế. Với
đà phát triển hiện tại của nền kinh tế nước ta, hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế ngày
càng phát triển và giữ vai trò quan trọng. Trong hoạt động MBHHQT việc giao kết và
thực hiện hợp đồng MBHHQT là một trong những việc quan trọng nhất, nó quyết định
xem có thể thực hiện việc giao dịch mua bán hay không, và cũng liên quan lớn đến việc
thực hiện như thế nào, cũng như kết quả của việc giao dịch. Vì thế một hợp đồng
MBHHQT là thứ tiên quyết và tối quan trọng đối với các giao dịch quốc tế. Tuy nhiên
trong quá trình giao kết thực hiện còn gặp nhiều khó khan do pháp luật điều chỉnh hợp
đồng MBHHQT của nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, không đáp ứng được tốc độ hội
nhập quốc tế nên cần phải có các giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta
về giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT.
Xuất phát từ những lí do trên và qua quá trình thực tập tại Tổng công ty may 10,

em nhận thấy rằng việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế diễn ra
thường xuyên. Hơn nữa hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế là một trong các hoạt động
chính của công ty, đóng vai trò quan trọng trong quá trình kinh doanh của công ty, vì vậy
1


em đã chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế và thực tiễn áp dụng tại Tổng công ty may 10 - CTCP” làm công trình nghiên
cứu cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những vấn đề pháp lý về hoạt động MBHHQT nói chung và hợp đồng MBHHQT
nói riêng đã được đề cập trong giáo trình của một số trường đại học như Giáo trình Luật
Thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội…
nhưng mới chỉ dừng lại ở việc trang bị các kiến thức cơ bản. Bên cạnh đó cúng đã có
nhiều công trình nghiên cứu chất lượng liên quan đến vấn đề này. Những nghiên cứu này
đã có những thành công nhất định, góp phần làm rõ thêm vấn đề lý luận và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Một số tác phẩm đề cập
đến đề tài cần được quan tâm như:
Nguyễn Thị Tuyết Giang (2008), “Pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế”, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn tập
trung vào các vấn đề lý luận chung liên quan đến xác định pháp luật áp dụng trong hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thực trạng pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế và đưa ra một số giải pháp. Bài luận văn chỉ đi sâu vào việc xác
định pháp luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chưa đề cập đến
các vấn đề như giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và những bất cập
còn tồn tại của pháp luật điều chỉnh nội dung này.
Nguyễn Văn Quang (2014), “So sánh chế định giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên 1980”, Luận văn thạc sĩ luật
học Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn khái quát chung về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên 1980, so sánh các nội

dung cụ thể của Công ước Viên 1980 với pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Có thể thấy bài luận văn đã đưa ra sự so sánh,
đánh giá dựa trên quá trình phân tích cụ thể từng nội dung trong các quy định của pháp luật
Việt Nam và Công ước Viên 1980. Tuy nhiên bài luận văn của tác giả vẫn chưa đề cập đến
vấn đề áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong thực tiễn.
Nguyễn Uy Pháp (2014), “Các vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế theo Công ước Viên 1980 – CISG”, Nghiên cứu khoa học sinh viên. Bài nghiên
cứu tìm hiểu các quy định chung của Công ước Viên 1980 – CISG; làm rõ trách nhiệm,
nghĩa vụ và biện pháp xử lý trong trường hợp không thực hiện đúng hợp đồng. Nhìn
2


chung, bài nghiên cứu chỉ lựa chọn vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế theo Công ước Viên 1980 – CISG mà chưa phân tích các quy phạm pháp luật trong
nước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Ngoài các tác phẩm nêu trên, còn có nhiều luận văn, công trình nghiên cứu về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tuy
nhiên cá nhân em vẫn mong muốn bài nghiên cứu của bản thân có thể đem đến một khía
cạnh mới mẻ và rõ ràng hơn về vấn đề này, vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài "Pháp
luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế - thực tiễn áp dụng
tại Tổng công ty may 10 - CTCP" để thể hiện được những quan điểm, đánh giá riêng của
bản thân về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế qua tìm hiểu các cơ sở lý thuyết và thực
tiễn thực hiện tại một công ty cụ thể.
3.

Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu

Trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và tình hình đầy biến động của nền
kinh tế nước nhà, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là

một nhu cầu tất yếu. Đây cũng là giải pháp góp phần bảo vệ quyền lợi cho các doanh
nghiệp thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; giảm thiểu các vi phạm hợp đồng
xảy ra; dễ dàng hơn trong xác định trách nhiệm pháp lý; tạo nên môi trường kinh doanh
thuận lợi thu hút các doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, việc nghiên cứu pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn áp dụng hiện nay là vô cùng cần thiết.
Bằng việc tham khảo các tài liệu, công trình nghiên cứu đi trước khác và quá trình tìm
hiểu, thực tập tại Tổng công ty may 10 cùng với sự hướng dẫn tận tình của giảng viên
ThS. Đỗ Hồng Quyên, đề tài nghiên cứu này tập trung vào phân tích một số nội dung
pháp luật về hợp đồng MBHHQT, tìm hiểu về nội dung, hình thức, quá trình giao kết và
thực hiện của một hợp đồng MBHHQT, nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng MBHHQT. Nghiên cứu và đánh giá về thực trạng thực hiện các quy phạm pháp
luật điều chỉnh hợp đồng MBHHQT. Sau đó đưa ra thực tiễn áp dụng pháp luật về giao
kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Tổng công ty may 10 và đề ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng MBHHQT.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trong các văn bản pháp luật có liên
quan đến hợp đồng MBHHQT, các bản hợp đồng MBHHQT của Tổng công ty may 10
3


và thực tiễn thực hiện những quy định đó trong nội dung các bản hợp đồng MBHHQT
giữa Tổng công ty may 10 với các đối tác của Tổng công ty.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khoá luận là luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT; trên cơ sở đó đề ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng MBHHQT để đảm bảo thực thi có hiệu quả
trên thực tế, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế thị
trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hợp đồng MBHHQT, hiệu quả của
việc tuân thủ pháp luật về việc ký kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT.
Phân tích, đánh giá, và trên cơ sở lý luận, thực tiễn tại công ty đề xuất những giải
pháp nhằm giúp Tổng công ty may 10, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong việc
ký kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT.
Đánh giá những thành tựu đạt được, những mặt còn hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân dẫn đến để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị giúp công ty nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về ký kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT.
Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khóa sau.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu của một khóa luận tốt nghiệp,
bài viết tập trung nghiên cứu pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế và các vấn đề liên quan (bao gồm các vấn đề lý luận cơ bản
của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật mua bán hàng hóa quốc tế tại Tổng công ty may 10 trong giao kết và thực
hiện hợp đồng; một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế).
Không gian nghiên cứu: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ghi nhận trong
pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau và các điều ước quốc tế… Tuy nhiên để thuận lợi
hơn cho việc nghiên cứu, bài khóa luận chủ yếu nghiên cứu pháp luật Việt Nam điều
chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các điều khoản
và Công ước về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; thực
trạng giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT tai Tổng công ty may 10
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2013 đến năm 2015.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

đề tài tập trung sử dụng một số phương pháp chủ yếu: phương pháp thu nhập, phân tích,
tổng hợp, thống kê chọn lọc.... Các phương pháp này được vận dụng trong nhiều phần
khác nhau của đề tài.
Phương pháp thu thập dữ liệu, thu thập thông tin thứ cấp: Thu thập các dữ liệu có
sẵn từ các phương tiện thông tin đại chúng như: sách, báo, internet…Ngoài ra, đề tài còn
sử dụng các báo cáo tổng kết của Tổng công ty may 10 – CTCP. Thu thập thông tin sơ
cấp: Thông tin sơ cấp được thu thập bằng cách hỏi ý kiến của các chuyên gia, các anh chị
có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thảo luận
nhóm với các sinh viên có chung vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp thống kê, chọn lọc, tổng hợp dữ liệu: Từ những dữ liệu đã thu thập
được, tiến hành tổng hợp dữ liệu, chọn lọc những dữ liệu cần thiết để tiến hành phân tích,
đưa vào bài.
Phương pháp phân tích, so sánh dữ liệu: Dựa vào các dữ liệu đã thu thập và tổng
hợp có chọn lọc, tiến hành phân tích dữ liệu, so sánh với những thông tin, dữ liệu, văn
bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để tìm ra những ưu, khuyết điểm của vấn đề
nghiên cứu, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện cho đề tài khóa luận của mình.
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn: nhằm nắm bắt được những khó khăn,
vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực tiễn hoạt động giao kết và thực hiện
hợp đồng tại Tổng công ty may 10 – CTCP.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung của bài khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và Pháp luật
điều chỉnh Hợp đồng MBHHQT
Chương 2: Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo quy
định của pháp luật Việt Nam
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật điều chinh hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế, Thực tiễn áp dụng hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT tại Tổng
công ty may 10 và một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết
và thực hiện hợp đồng MBHHQT


5


CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Một số khái niệm cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Hợp đồng
Thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) có nghĩa là ràng buộc, xuất hiện đầu tiên ở La
Mã vào khoảng thế kỷ V – IV trước công nguyên. Sau khi đế quốc La Mã tan rã, các
nước châu Âu đã chấp nhận dùng thuật ngữ “hợp đồng” khởi nguồn từ La Mã. Xuất phát
từ thuật ngữ “contractus”, trong tiếng Anh thuật ngữ này được gọi là “contract”, trong
tiếng Pháp là “contrat”, tiếng Nga là “kontrakt”… Ở Việt Nam, trong thời kỳ phong kiến
thuật ngữ này có thể gọi là “khế ước” và đến ngày nay từ “hợp đồng” đã trở nên gần gũi
hơn sau quá trình phát triển của hệ thống pháp luật nước ta.[1]
Về khái niệm hợp đồng, cũng có nhiều quan điểm khác nhau theo thời gian. Theo
Bộ luật dân sự đầu tiên trên thế giới (Bộ luật dân sự Pháp năm 1804) thì: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một
công việc” hoặc theo Bộ luật dân sự Liên bang Nga năm 1994: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”… Với Việt Nam, nếu như trước đây khái niệm “khế ước” còn chưa để lại nhiều
dấu ấn thì sau khi cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, khái niệm “hợp đồng” đã thực sự thể hiện được vị trí của
nó trong đời sống xã hội. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định: “Hợp đồng dân
sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.
Theo đó, có thể định nghĩa hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các chủ thể
nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể.
1.1.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa

Trước hết, mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.[2]
Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng hóa.
1[]
2[]

Theo Nguyễn Ngọc Khánh (2006), Hợp đồng: Thuật ngữ và khái niệm, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8, tr.38
Theo Điều 3 Luật thương mại năm 2005

6


Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Luật thương mại nước ta không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua bán tài sản trong luật dân sự
để xác định bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Điều 428 Bộ luật dân sự năm
2005, hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa
vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả
tiền cho bên bán. Hàng hóa được hiểu là động sản cho nên hàng hóa thuộc tài sản và có
phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại
một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Có thể xem xét các đặc điểm của hợp
đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ với hợp đồng mua bán tài sản. Theo đó đặc
điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng ưng thuận và là hợp đồng song vụ có
tính đền bù.
1.1.3. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Pháp luật quốc tế và pháp luật các nước có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với
khái niệm này song đều thống nhất chung một quan điểm rằng hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là hợp đồng có tính quốc tế. Một số công ước quốc tế đã định nghĩa về hợp

đồng mua bán hàng hóa có yếu tố quốc tế như sau:
Điều 1 Công ước La Haye năm 1964 (Công ước về Luật thống nhất về thiết lập
hợp đồng mua bán quốc tế các động sản hữu hình) quy định: “Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương
mại ở các nước khác nhau và hàng hóa trong hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới,
hoặc việc ký kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau”.
Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế cũng gián tiếp định nghĩa về loại hợp đồng này khi quy định “Công ước này áp
dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở
thương mại tại các quốc gia khác nhau” [3]. Khác với Công ước La Hye năm 1964, các yếu
tố như địa điểm ký kết hợp đồng, việc dịch chuyển qua biên giới đối với đối tượng của
hợp đồng không được Công ước Viên năm 1980 đề cập tới. Công ước Viên năm 1980
cho thấy tính chất quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ được xác định
bởi yếu tố duy nhất là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại tại các quốc gia
khác nhau.
Theo đó, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất về ý chí
3[]

Căn cứ Điều 1 Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

7


giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có yếu tố nước ngoài mà thông qua đó, thiết
lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó với nhau.
Ngoài các công ước quôc tế, với hệ thống pháp luật của các quốc gia cũng tồn tại
những quan điểm khác nhau về tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Theo pháp luật Pháp việc xác định tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa được
căn cứ vào tiêu chí kinh tế hoặc pháp lý. Về tiêu chí kinh tế, một hợp đồng được coi là
hợp đồng quốc tế khi nó tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương

ứng giữa hai nước. Về tiêu chí pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu
nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của
các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán [4]. Còn ở Việt Nam, căn
cứ theo Luật thương mại năm 2005 thì mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới
các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển
khẩu[5]; qua đó gián tiếp bác bỏ quốc tịch khi xác định hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Như vậy, hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Việc sử dụng khái niệm này vẫn phải dựa trên căn cứ pháp lý là các nguồn
luật khác nhau điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế.
1.1.4 Giao kết hợp đồng MBHHQT
Giao kết hợp đồng dân sự là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên theo
hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định, được pháp luật thừa nhận nhằm xác
định quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 389 luật dân sự quy định về nguyên tắc giao kết
hợp đồng dân sự).
Giao kết hợp đồng MBHHQT là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các chủ
thể là thương nhân có trụ sở kinh doanh tại các nước khác nhau theo hình thức, nội dung,
nguyên tắc, trình tự nhất định, được pháp luật thừa nhận nhằm xác định quyền và nghĩa
vụ dân sự.
1.1.5 Thực hiện hợp đồng MBHHQT
Hợp đồng giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc với các bên. Thực hiện hợp đồng
là thực hiện những quyền và nghĩa vụ đã phát sinh trong hợp đồng. Thông thường với các
loại hợp đồng dân sự thì quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Vì vậy
thực hiện nghĩa vụ của bên này là đảm bảo quyền của bên kia. Đề đảm bảo quyền của các
bên giao kết hợp đồng, BLDS 2005 đã nêu một số nguyên tắc cơ bản cho việc thực hiện
hợp đồng tại điều 412, đó là các nguyên tắc:
4[]
5[]

Theo Nguyễn Thị Tuyết Giang, Pháp luật áp dụng trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tr.16

Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật thương mại năm 2005

8


Một là, nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng, bao gồm thực hiện đúng đối tượng
của hợp đồng, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức thực hiện và
các thỏa thuận khác mà các bên đã cam kết. Việc thực hiện không đúng hợp đồng sẽ bị
coi là vi phạm hợp đồng, là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và có thể gây thiệt hại cho
các bên tham gia.
Hai là, nguyên tắc thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác
và có lợi nhất cho các bên đảm bảo tin cậy lẫn nhau. Nguyên tắc này có ý nghĩa nhằm
ngăn chặn sự tối nghĩa trong hợp đồng để làm lợi cho một bên. Việc thực hiện hợp đồng
không chỉ đòi hỏi sự trung thực của các bên mà còn cần đến tinh thần hợp tác giúp đỡ, tin
cậy lẫn nhau. Nhằm đảm bảo hợp đồng thực hiện một cách thuận lợi nhất, tạo lợi ích lớn
nhất cho các bên.
Ba là, nguyên tắc thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của người khác. Mặc dù cho phép các chủ thể
tự do tham gia quan hệ dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng, pháp luật quy
định nguyên tắc này nhằm giới hạn sự tự do của các chủ thể khi thực hiện hợp đồng
nhằm kết hợp hài hòa giữa các lợi ích trong xã hội.
Thực hiện hợp đồng MBHHQT là thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được phát sinh trong
hợp đồng MBHHQT. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.2 Đặc điểm cúa hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1.2.1 Chủ thể
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các chủ thể của hoạt động kinh
doanh quốc tế, có thể là các thể nhân, pháp nhân, trong một số trường hợp nhất định, Nhà
nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ này. Tính quốc tế của các chủ thể của hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế căn cứ vào dấu hiệu quốc tịch, nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở thương
mại trong từng trường hợp. Việc các bên có quốc tịch, có nơi cư trú hoặc trụ sở thương

mại ở các nước khác nhau được xét là một trong những căn cứ xác định yếu tố quốc tế
của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Ngoài ra, trong thực tế thương mại quốc tế, không phải lúc nào các chủ thể của
hợp đồng là bên bán và bên mua đều đích thực trực tiếp ký hay thực hiện hợp đồng mà họ
ủy nhiệm, ủy quyền hoặc ủy thác cho bên thứ ba thường là đại lý, đại diện thương mại
hoặc bên nhận ủy thác ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng.

1.2.2

Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
9


Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cũng được quy định rất khác nhau
trong pháp luật các quốc gia và pháp luật quốc tế. Có hệ thống pháp luật yêu cầu bắt buộc
hình thức cảu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được lập thành văn bản nhưng
cũng có hệ thống pháp luật không có bất kì yêu cầu nào về hình thức hợp đồng. Theo đó,
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể được xác lập và chứng minh dưới mọi hình
thức, kể cả bằng lời khai của nhân chứng. Bên cạnh đó, một điểm cần lưu ý là ngay trong
khái niệm “văn bản” giữa các quốc gia cũng có cách quan niệm rộng, hẹp khác nhau về
những dạng vật chất nhất định chứa thông tin nào được coi là “văn bản” (thực tiễn
thương mại quốc tế thừa nhận các dạng tồn tại sau đây của dữ liệu như là văn bản: Bản
fax; điện tín, điện toán; tài liệu mềm …)
Tuy nhiên, để tránh những hiểu lầm khi thực hiện hợp đồng, thông thường mọi
thỏa thuận đều được ghi lại thành văn bản, nhất là trong trường hợp mua bán hàng hóa
quốc tế, khi các bên thường không có cùng tiếng nói, không cùng một hệ thống pháp luật
và có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau.
1.2.3 Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là tổng hợp các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng (bên bán và bên mua), được hình thành trong quá trình

thương lượng, thoả thuận và đi đến kí kết hợp đồng. Nội dung của hợp đồng MBHHQT
phải hợp pháp, thể hiện ý chí của các bên.
Nội dung của hợp đồng phải tuân thủ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng. Nguồn luật
điều chỉnh hợp đồng có thể được các bên thoả thuận quy định trong hợp đồng. Nếu không
quy định trong hợp đồng thì việc xác định nguồn luật điều chỉnh hợp đồng sẽ áp dụng
quy tắc xung đột pháp luật: “luật nước người bán”; “luật nơi xảy ra tranh chấp”; “luật nơi
ký kết hợp đồng”; “luật nơi thực hiện nghĩa vụ”.
Để phù hợp với pháp luật quốc tế và nguyên tắc tự do thoả thuận hợp đồng của các
chủ thể, Bộ luật Dân sự 2005 quy định khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về
những nội dung: Đối tượng hợp đồng; Số lượng, chất lượng; Giá cả, phương thức thanh
toán; Thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các
bên; Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng; Các nội dung khác (Điều 402). Quy định
giúp các bên xác định được thoả thuận cụ thể giữa họ chứ không phải để ràng buộc hay
hạn chế quyền tự do hợp đồng của họ.

1.3 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng MBHHQT
10


Trước khi giao kết hợp đồng MBHHQT, các chủ thể luôn phải tìm hiểu trong hoàn
cảnh đó hợp đồng qui định họ có những quyền và nghĩa vụ gì, như thế nào? Nếu một hợp
đồng MBHHQT không chặt chẽ thì khả năng xảy ra tranh chấp là rất lớn, các bên dễ vi
phạm hợp đồng. Trên thực tế, một hợp đồng MBHHQT dù được soạn thảo hoàn chỉnh,
chi tiết đến đâu cũng không tiên liệu trước được mọi tình huống có thể phát sinh trong
quá trình thực hiện. Khi đó, những vấn đề phát sinh sẽ dựa vào cơ sở nào để giải quyết
nếu như trong hợp đồng không qui định hoặc qui định không đầy đủ. Nếu là hợp đồng
mua bán hàng hoá trong nước thì thông thường luật quốc gia là cơ sở. Nhưng nếu là hợp
đồng MBHHQT thì không đơn giản. Để giải quyết vấn đề này, theo sự thoả thuận của các
bên tham gia hợp đồng, nguồn luật Điều chỉnh có thể là luật quốc gia, luật quốc tế, tập
quán thương mại quốc tế hay tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại.

1.3.1. Luật quốc gia
Luật quốc gia ở đây được hiểu là toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia. Ví
dụ: Nếu pháp luật Việt Nam được áp dụng thì không chỉ áp dụng luật Thương mại mà là
toàn bộ pháp luật Thương mại, rộng hơn nữa là toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT trong các trường hợp:
• Nếu Điều ước quốc tế mà quốc gia của chủ thể tham gia ký kết hoặc thừa nhận
có qui định về Điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT, thì luật đó đương nhiên
được áp dụng mà không phụ thuộc vào sự đàm phán và thoả thuận của các chủ thể.
• Các bên thoả thuận trong hợp đồng MBHHQT cho phép áp dụng luật quốc gia.
• Nếu các bên không đạt được bất kỳ một thoả thuận nào về luật áp dụng thì cơ
quan thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ tự mình lựa chọn luật áp dụng căn cứ vào qui
phạm xung đột của nước mình.
• Trường hợp do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau mà các bên
có thể thoả thuận lựa chọn luật áp dụng sau khi ký hợp đồng hoặc thậm chí sau khi đã
phát sinh tranh chấp (khi đó các bên vẫn có quyền thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử
theo trình tự trọng tài và quyết định áp dụng luật quốc gia nào để giải quyết tranh chấp
mà hợp đồng chưa qui định về cơ quan giải quyết tranh chấp).
• Có một vấn đề cần lưu ý là là tất cả các nước trên thế giới đều không cho phép
áp dụng pháp luật nước ngoài khi có lý do phải bảo vệ trật tự công cộng nước mình dù
qui phạm xác định dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Luật quốc gia được các bên lựa chọn có thể là luật nước người bán, nước người
mua, luật của nước thứ ba hoặc luật của bất kỳ nước nào khác có quan hệ với hợp đồng,
chẳng hạn như luật của nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện nghĩa vụ….
11


Khi lựa chọn pháp luật của một nước thứ ba, phải có hiểu biết về luật pháp của
nước đó. Cần phải biết luật đó bảo vệ quyền lợi của người bán, người mua, luật đó có trái
với chế độ chính trị hay vi phạm quyền lợi của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng hay không.
Ở Việt Nam, luật quốc gia có liên quan đến hợp đồng MBHHQT là luật Thương

mại 2005, bộ luật Hàng hải, bộ luật Dân sự 2005, luật thuế xuất nhập khẩu, … Ngoài ra
còn hàng loạt các nghị định, nghị quyết, qui định, thông tư như NĐ số 12/2006/NĐ-CP
ngày 23 tháng 1 năm 2006, Nghị định 187/2013/NĐ-CP nhằm qui định hoặc chi tiết hoá
hướng dẫn việc thi hành các bộ luật này.
1.3.2. Luật quốc tế
1.3.2.1 Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là sự thoả thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là
giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập những qui tắc pháp lý
bắt buộc để ấn định, thay đổi hoặc hoặc từ bỏ quyền và nghĩa vụ với nhau. Điều ước quốc
tế về thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, nó là cơ sở pháp lý quan trọng đối với hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế được thiết lập giữa các doanh nghiệp của các quốc gia đó, là cơ sở để
tăng cường mối quan hệ thương mại trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể mà các quốc gia
tham gia vì mục đích tăng cường hợp tác thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mặc dù vậy, trong tư pháp quốc tế, Điều ước quốc tế không phải là nguồn luật chủ
yếu chiếm ưu thế, vì để ký kết một Điều ước quốc tế cần có những điểm tương đồng về
lợi ích trên cơ sở tương quan lực lượng giữa các quốc gia và còn những trở ngại về phong
tục tập quán, nhưng đây là cách hữu hiệu nhất để giải quyết xung đột pháp luật, chúng có
tác động chủ đạo và trực tiếp đối với hoạt động MBHHQT.
Điều ước quốc tế có thể phân chia thành Điều ước song phương và Điều ước đa
phương hoặc cũng có thể phân chia thành Điều ước quốc tế Điều chỉnh trực tiếp và Điều
ước quốc tế Điều chỉnh gián tiếp.
Đối với Điều ước quốc tế không điều chỉnh trực tiếp hợp đồng MBHHQT không
qui định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng mà chỉ điều chỉnh ở tầm vĩ mô
nhưng cũng là cơ sở để ký kết. Nội dung của các Điều ước này chỉ định nguyên tắc áp
dụng pháp lý chung giữa các quốc gia. Bao gồm chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, chế độ đãi
ngộ quốc gia, chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, nguyên tắc có đi có lại, …
Đối với các Điều ước điều chỉnh trực tiếp như công ước Viên 1980, công ước
Lahaye, … Sau khi đã tham gia Điều ước quốc tế, các quốc gia thành viên phải thi hành
12



Điều ước quốc tế có giá trị áp dụng bắt buộc trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia đó. Các qui
phạm luật quốc gia ban hành phải phù hợp với Điều ước quốc tế (nguyên tắc nội luật hoá).
Trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế có một số điều ước quốc tế tiêu biểu:
- Điều kiện chung về giao hàng giữa các tổ chức kinh tế của các nước thành viên
Hội đồng tương trợ kinh tế (ĐKCGHSEV 1968/1988) điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Một điều ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực MBHHQT là công ước Viên về
mua bán hàng hoá quốc tế ngày 1/1/1980. Đến nay đã có hơn 60 nước phê chuẩn công
ước này.
- Quy tắc La Haye ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng vào hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
- Công ước Rôma về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được
ký tại Rôm ngày 19/6/1980.
- Công ước Liên Mỹ về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế được ký ở Mehico
City ngày 17/5/1994, được thông qua bởi Hội nghị quốc tế Liên Mỹ về tư pháp quốc tế tổ
chức tại Mehico City(6).
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 60 Hiệp định thương mại song phương.
Trong đó phải kể đến: Hiệp định Buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU là hiệp định
thương mại chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ của hàng hoá, điều khoản
liên quan đến hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng. Việc ký kết các hiệp
định thương mại, là thành viên của các công ước quốc tế sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi và
thống nhất cho hoạt động MBHHQT giữa các thương nhân Việt Nam với các thương
nhân nước ngoài(7).
1.3.2.2. Tập quán thương mại quốc tế
Tập quán thương mại là những thói quen thương mại được lặp đi lặp lại trong một
thời gian dài được nhiều nước công nhận và áp dụng rộng rãi trong những hoạt động
thương mại nhất định. Thông thường thói quen thương mại được công nhận là tập quán
thương mại quốc tế khi thoả mãn Điều kiện:

6

Nguyễn Vũ Hoàng: “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường toà án” NXB Thanh Niên 2004.

Trang 23.
7

Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 100.

13


• Thói quen được phổ biến được áp dụng thường xuyên và có tính chất ổn định.
• Thói quen duy nhất về từng vấn đề ở từng địa phương, từng quốc gia hay trong
từng khu vực.
• Thói quen có nội dung cụ thể rõ ràng dựa vào đó có thể xác định được quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Tập quán thương mại quốc tế trở thành nguồn luật để Điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hoá ngoại thương trong các trường hợp sau:
• Được các bên thoả thuận trong hợp đồng sẽ áp dụng.
• Được qui định trong Điều ước quốc tế.
• Hoặc trong trường hợp hợp đồng không có qui định gì vấn đề đang tranh chấp
và Điều ước quốc tế liên quan với luật quốc gia được dẫn chiếu không qui định gì.
Điều 13 luật Thương mại Việt Nam 2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật
không có qui định, các bên không có thoả thuận và không có thói quen đã được thiết lập
giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên
tắc qui định trong luật này và trong bộ luật Dân sự”.
Tập quán thương mại quốc tế chung và phổ biến là: Điều kiện thương mại quốc tế
(Incoterms 2010), Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 500), Qui

tắc về nhờ thu (URC).
Tập quán thương mại quốc tế là tập quán thương mại được nhiều nước công nhận
và áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi, nhiều khu vực. Trong các hợp đồng xuất nhập khẩu
thường dẫn chiếu tới tập quán thương mại quốc tế trong Incoterms do Phòng Thương mại
và Công nghiệp quốc tế biên soạn vào năm 1936, sửa đổi bổ sung vào các năm 1953,
1967, 1980, 1990, 2000 và gần đây nhất là Incortems năm 2010 - qui định về Điều kiện
giao hàng, bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên, như: chi phí trong giao nhận hàng
hoá giữa các bên, thời điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua. Ngoài ra người
ta còn áp dụng Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) do phòng
Thương mại và Công nghiệp quốc tế ban hành.
1.3.2.3. Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại
Tiền lệ pháp về bản chất là việc sử dụng các phán quyết đã tuyên bố trước đây của
toà án hoặc trọng tài trên cơ sở phân tích và vận dụng nó như một cơ sở pháp lý để các cơ
quan tư pháp giải quyết tranh chấp về sau. Đối với một số quốc gia thì tiền lệ pháp không
được coi là nguồn của pháp luật, nhưng đối với một số nước như Anh, Mỹ thì tiền lệ
pháp được coi là một nguồn quan trọng của pháp luật.
14


Việt Nam không thừa nhận tiền lệ pháp, nhưng đối với hợp đồng MBHHQT có thể
trở thành luật áp dụng nếu một trong hai nước mà chủ thể mang quốc tịch coi án lệ là một
nguồn của pháp luật và luật áp dụng trong hợp đồng là luật của quốc gia coi án lệ là
nguồn của pháp luật. Tuy nhiên việc sử dụng án lệ không được trái với nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam.

15


CHƯƠNG 2: GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

2.1 Pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng MBHHQT
Để đưa ra một bản hợp đồng hợp lý, đảm bảo quyền lợi các bên, các bên thường
phải trải qua một quá trình thương lượng, đàm phán. Có thể trực tiếp và gián tiếp với
nhiều phương thức khác nhau, có thể bằng thư từ, điện thoại, fax, … Mỗi phương thức có
ưu nhược điểm nhất định. Vì vậy tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để lựa chọn
phương thức thích hợp. Việc ký kết theo phương thức gián tiếp hay trực tiếp thường tuân
theo những bước nhất định tùy theo nguồn luật điều chỉnh. Hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế có thể được giao kết bằng các phương thức trực tiếp, gián tiếp hoặc giao kết
thông qua thương mại điện tử.
2.1.1 Giao kết hợp đồng MBHHQT trực tiếp
Giao kết hợp đồng MBHHQT bằng phương thức trực tiếp là việc các bên
tham gia giao kết hợp đồng MBHHQT cử người đại diện để trực tiếp gặp nhau tại
một địa điểm xác định để cùng bàn bạc, thương lượng và thoả thuận thống nhất về
các nội dung của hợp đồng MBHHQT (nội dung hợp đồng MBHHQT phải tuân thủ
theo pháp luật Việt Nam) và cùng ký tên vào văn bản hợp đồng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người ký kết là người đại diện cho thương
nhân đó theo luật hoặc theo ủy quyền. Đại diện theo luật là đại diện do pháp luật quy
định, là người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập
theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Phạm vi đại diện theo ủy
quyền được xác lập theo sự ủy quyền và người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch
trong phạm vi đại diện. Ủy quyền phải được làm bằng văn bản và người ủy quyền phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của người được ủy quyền trong phạm vi quy định
của sự ủy quyền. (Điều 140-142 Bộ luật dân sự 2005).
Theo điều 404 Bộ luật dân sự 2005 quy định thì: Hợp đồng dân sự được giao kết vào
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Thời điểm giao kết hợp đồng đối
với hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời
điểm bên sau cùng ký vào văn bản. Tức là kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp
đồng, hợp đồng được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý. Trường hợp có quy định điều
kiện khác trong hợp đồng như có quota hoặc một giấy phép đặc biệt hoặc mở L/C… thì

hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu những điều kiện này được thực hiện.
16


Đối với hợp đồng bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên
đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những chứng cứ hợp
pháp để chứng minh việc các bên đã thỏa thuận.
2.1.2 Giao kết hợp đồng MBHHQT gián tiếp
Giao kết hợp đồng bằng phương thức gián tiếp là việc các bên không trực tiếp gặp
nhau để bàn bạc, thoả thuận mà thực hiện trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công
văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng…có ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch.
Trình tự giao kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn: Đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Những vấn đề này không được
Luật Thương mại 2005 quy định cụ thể, vì vậy các quy định của Bộ Luật Dân sự 2005 sẽ
được áp dụng, và áp dụng chung cho cả hợp đồng MBHHQT.
• Đề nghị giao kết hợp đồng: có bản chất là hành vi pháp lý đơn phương của một
chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với các chủ thể khác theo những
điều kiện xác định. Đó là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp
nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý
định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên
đã được xác định cụ thể8. Về nguyên tắc thì hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng phải
phù hợp với những quy định pháp luật về hợp đồng. Bộ luật dân sự 2005 không quy định
về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng, để xác định hình thức của đề nghị hợp đồng,
theo đó đề nghị hợp đồng có thể được thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể
hoặc kết hợp giữa các hình thức này. Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức của
hợp đồng phải bằng văn bản thì hình thức đề nghị của hợp đồng cũng phải bằng văn bản.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến cho một hay nhiều chủ thể đã xác định. Hiệu lực của đề
nghị giao kết hợp đồng thông thường được bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị không
ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị hợp đồng thì đề nghị của giao kết hợp đồng có
hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Trong trường hợp đề nghị giao

kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba
trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà
không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh. Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về
lời đề nghị của mình, bên đề nghị cũng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị của mình trong
trường hợp được quy định tại điều 392 Bộ luật dân sự. Trong trường hợp bên đề nghị giao kết
hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông
báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên đề nghị nhận được thông báo
trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp
đồng chấm dứt hiệu lực trong trường hợp: bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; hết
8

Điều 390 Bộ luật dân sự 2005

17


thời hạn trả lời chấp nhận; khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; khi
thông báo về việc huỷ bỏ đề nghị có hiệu lực; theo thoả thuận của bên đề nghị và bên nhận được
đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời9.

• Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự
trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của
đề nghị. Theo điều 404 Bộ luật dân sự 2005 quy định thì: Hợp đồng dân sự được giao kết
vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Hợp đồng dân sự cũng xem như
được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận
im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.

Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực
khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhận được
trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận sau này được coi là đề nghị mới của bên

chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đến chậm
vì lý do khách quan thì thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng này vẫn có
hiệu lực.
Bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp
đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng.
Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản, thời điểm đạt được sự thỏa thuận
được xác định khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. trong một
số trường hợp sự im lặng của bên được đề nghị cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng có
thể là căn cứ xác định hợp đồng đã được giao kết nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng (theo khoản 2 điều 404 BLDS năm 2005). Tuy nhiên theo
CISG thì sự im lặng hoặc không hành động của người nhận được chào hàng không được
coi là chấp nhận chào hàng. (Điều 14 khoản 1).
Đối chiếu với các quy định liên quan của CISG, có thể nói, ngoại trừ một số chi
tiết cụ thể, hầu hết các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến giao kết hợp đồng
đều tương thích với những nguyên tắc cơ bản của Công ước Viên 1980. Chỉ có một số
khác biệt nhỏ, thể hiện ở những quy định chi tiết hơn của Công ước. Ví dụ, CISG quy
định cụ thể về điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa (gồm tên hàng, số
lượng, giá cả), còn pháp luật về mua bán hàng hóa của Việt Nam hiện nay không có quy
định hợp đồng mua bán hàng hóa phải có những điều khoản chủ yếu nào. Ngoài ra, CISG
còn quy định rất rõ tại điều 19.3 về nội dung của chấp nhận chào hàng, qua đó có thể xác
Pháp luật về hợp đồng thương mại và đầu tư: những vấn đề pháp lý cơ bản – TS Phạm Thị Dung
XBCTQG 2008
9

18


định được những sửa đổi bổ sung nào của chấp nhận chào hàng là cơ bản khiến cho chấp
nhận chào hàng đó trở thành một chào hàng mới. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005

không có quy định cụ thể như vậy. Ngoài ra, do yêu cầu của thực tiễn thương mại quốc
tế, CISG còn đưa ra quy định về việc kéo dài thời hạn hiệu lực của chào hàng khi ngày
cuối cùng của chào hàng lại rơi vào ngày nghỉ hay ngày lễ, trong khi luật Việt Nam
không quy định gì về vấn đề này.
2.1.3 Giao kết hợp đồng MBHHQT qua thương mại điện tử
Bên cạnh hai phương thức trực tiếp và gián tiếp, trong thực tiễn hoạt động thương
mại còn có phương thức giao kết qua thương mại điện tử. Ta nhận thấy rằng khi nói đến
hình thức hợp đồng MBHHQT điều 3 khoản 15 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005
quy định về “hình thức giá trị pháp lý tương đương văn bản”. Thực chất điều này là nói
về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký dưới dạng hợp đồng điện
tử. Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng
được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”. Nói cách khác, hợp đồng điện tử là hợp
đồng được ký kết thông qua các phương tiện điện tử như thư điện tử, điện báo, fax, telex,
thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa
là pháp luật thương mại Việt Nam đã thừa nhận những hợp đồng ký bằng fax, thư điện
tử...có giá trị pháp lý như ký bằng văn bản. Theo quy định tại Điều 11, Điều 12, Điều 13
và Điều 14 Luật Giao dịch điện tử thì các thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ
nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện thông điệp dữ liệu. Thông điệp dữ
liệu này có giá trị như văn bản, có giá trị như bản gốc và có giá trị làm chứng cứ.
Ngoài Luật giao dịch điện tử điều chỉnh các quan hệ pháp luật về giao dịch điện tử
còn có nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử thay thế Nghị định
57/2006/NĐ-CP. Nghị định mới quy định cụ thể về các hoạt động thương mại điện tử
cũng như công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, với mục tiêu thiết lập hành lang
pháp lý cho các giao dịch Thương mại điện tử được tiến hành một cách minh bạch, trên
cơ sở cạnh tranh lành mạnh, qua đó tạo điều kiện để thương mại điện tử phát triển góp
phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và xây dựng các tập quán thương mại
hiện đại cho Việt Nam. Hiện nay đã có quy phạm pháp luật để điều chỉnh giao dịch điện
tử trong các lĩnh vực như Ngân hàng, thuế… (Thông tư số 180/2010/TT-BTC ngày
10/11/2010 của Bộ Tài và Thông tư số 35/2013/TT-BTC sửa đổi bổ sung Thông tư
180/2010/TT-BTC; Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động

ngân hàng…). Tuy nhiên chưa có quy định về hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài.
Luật Giao dịch điện tử chỉ có một điều quy định về thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký
điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài.
19


Một hợp đồng được hình thành khi một đề nghị giao kết hợp đồng (thường được gửi
dưới dạng một đơn chào hàng) được chấp nhận. Đối với hợp đồng điện tử, các vấn đề có
thể phát sinh khi một đơn chào hàng hoặc một sự chấp nhận bị mạo danh bởi một người
nào đó không có thẩm quyền về mặt pháp lý để ràng buộc công ty với hợp đồng. Trong
một số trường hợp, doanh nghiệp có thể nhận được đơn chào hàng hay đơn đặt hàng
được ký bởi một chữ ký không đảm bảo an toàn, ví dụ như loại chữ ký gồm các ký tự đơn
giản, chữ ký là một bản quét chữ ký viết tay, v.v… Trong trường hợp như vậy, doanh
nghiệp cần có một thư điện tử yêu cầu đối tác xác nhận thông tin đã nêu nhằm tránh
những rủi ro có thể phát sinh. Nếu doanh nghiệp không có sự xác nhận lại như thế hoặc
không có những thủ tục ràng buộc, rất có khả năng một người khác đang lợi dụng những
thông tin của bên đối tác để gửi đơn chào hàng hoặc đơn đặt hàng giả. Nếu thực hiện việc
giao hàng (hoặc cung ứng dịch vụ) theo những đơn chào hàng, đơn đặt hàng đó, doanh
nghiệp sẽ gánh chịu thiệt hại về vật chất do gặp rủi ro không lấy được tiền hàng.
Bên cạnh đó, đối với hợp đồng điện tử, vấn đề về lưu trữ chữ ký điện tử cũng là vấn
đề phức tạp. Doanh nghiệp sử dụng chữ ký điện tử cần phải có sự đảm bảo về việc bảo
mật cho các chữ ký dạng này được lưu giữ trong các máy vi tính vì trong trường hợp bất
kỳ, nếu một người nào tiếp cận được với chữ ký đó và dùng nó để ký hợp đồng thì doanh
nghiệp không còn cách nào khác là phải công nhận hiệu lực của hợp đồng điện tử đã ký
kết trước đối tác của mình, về mặt pháp lý, dù điều đó bất lợi cho mình. Hoặc nếu doanh
nghiệp để lọt mật mã vào tay người khác, người này có thể giả mạo doanh nghiệp để giao
kết hợp đồng điện tử với đối tác. Trong những trường hợp như vậy, doanh nghiệp có thể
sẽ chịu rất nhiều rủi ro như: mất danh tiếng, phải thực hiện những hợp đồng không phải
do mình ký, đối tác không tin tưởng v.v…
2.2 Pháp luật điều chỉnh vấn đề thực hiện hợp đồng MBHHQT

Các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ mà mình đã cam kết trong hợp đồng sau khi
hợp đồng được xác lập và có hiệu lực pháp lý. Cùng với các nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động thương mại (Mục 2 Điều 10-15 Luật Thương mại 2005), nguyên tắc thực hiện hợp
đồng dân sự (Điều 412 Bộ Luật Dân sự 2005), hợp đồng MBHHQT nói riêng phải được
thực hiện một cách trung thực, trên tinh thần họp tác cùng có lợi.
Với hợp đồng MBHHQT thường có những thủ tục là điều kiện để hợp đồng có giá
trị pháp lý mà các bên phải hoàn thành trước khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng như: Xin
giấy phép xuất nhập khẩu hoặc quota (với trường hợp giấy phép phải có hạn ngạch); Mở
thư tín dụng nếu hợp đồng có thoả thuận phương thức thanh toán này.
Các vấn đề cần quan tâm của quá trình thực hiện hợp đồng MBHHQT là : Giao
20


hàng và chứng từ liên quan, nhận hàng, thanh toán, chuyển quyển sở hữu và rủi ro từ
người mua sang người bán và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng MBHHQT.
2.2.1 Giao hàng và chứng từ liên quan
Theo điều 34 Luật thương mại 2005 quy định giao hàng và chứng từ liên quan đến
hàng hóa thì bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số
lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng.
Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên
quan theo quy định của Luật này.
2.2.1.1 Giao hàng
Giao hàng được coi là nghĩa vụ cơ bản nhất của người bán trong hợp đồng
BHHQT. Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của người bán đều nhằm mục đích thực hiện
nghĩa vụ giao hàng cho người mua. Khi thực hiện giao hàng cần giao đúng địa điểm và
thời hạn như thỏa thuận.
• Giao hàng đúng địa điểm
Điều 35 LTM 2005 quy định về địa điểm giao hàng. Theo đó thì bên bán có nghĩa
vụ giao hàng đúng địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng, nếu không có trong thỏa thuận
thì thực thi theo luật định. Địa điểm giao hàng cần được xác định rõ trong hợp đồng mua

bán và địa điểm này thường tuỳ thuộc vào điều kiện cơ sở. Ví dụ khi so sánh hai điều
kiện giao hàng CIF và DDU, trong hợp đồng mua bán theo điều kiện CIF trách nhiệm
giao hàng của bên bán được hoàn thành khi hàng hoá được giao lên tàu ở cảng đi. Theo
điều kiện DDU bên bán chịu mọi rủi ro cho đến tận khi hàng hoá tới cảng đến và thanh
toán toàn bộ cước phí tới tận điểm đích…
• Giao hàng đúng thời hạn
Điều 37 LTM 2005 quy định về thời điểm giao hàng. Thời hạn giao hàng trong hợp đồng
mua bán MBHHQT là thời hạn mà bên bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho
người mua. Thời hạn giao hàng có thể được các bên quy định là giao ngay hàng trong
một khoảng thời gian nhất định, giao một lần, giao một chuyến, giao thành nhiều chuyến,
hoặc thời hạn cuối cùng mà hàng phải giao xong. Thời điểm người bán hoàn toàn thành
nghĩa vụ giao hàng còn phụ thuộc vào điều kiện giao hàng cơ sở mà các bên thoả thuận.
Người bán cũng có thể giao hàng trước thời hạn, giao hàng từng phần khi có thoả
thuận trong hợp đồng hoặc khi được người mua chấp nhận.
• Trường hợp giao hàng trước hạn
21


Theo điều 38 LTM 2005 quy định, trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn
đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên
không có thỏa thuận khác. Trên thực tế thì bên mua thường nhận hàng ngay khi
có thể vì việc vận chuyển trong thương mại quốc tế luôn có nhiều sự biến,
không thể đảm bảo đến đúng hạn.
2.2.1.2 Giao chứng từ liên quan
Chứng từ của hàng hóa là một phần của hàng hóa, nó làm cho hàng hóa trở
nên có giá trị hợp pháp, chính vì vậy việc chuyển giao giấy tờ đúng quy định
của hợp đồng và luật áp dụng được coi là hành vi quan trọng trong nghĩa vụ của
người bán. Việc giao chứng từ được thực hiện với các trách nhiệm sau:
• Giao chứng từ đúng thời gian
Giao chứng từ đúng thời hạn cũng quan trọng như giao hàng đúng thời hạn, bởi

nếu đã giao hàng mà không giao chứng từ thì hàng hóa không thể lưu thông trên
thị trường. Giao hàng và giao chứng từ là hai việc độc lập nhưng cùng chung
một mục đích là làm cho hàng hóa được chuyển giao hoàn hảo cho bên mua.
• Giao chứng từ đúng địa điểm
Chứng từ cũng là một dạng vật chất, chính vì thế nó có thể bị phá hủy hoặc thất
lạc. Bởi vậy, việc giao chứng từ cần thực hiện nghiêm ngặt, tức là địa điểm giao
hàng quan trọng thế nào thì địa điểm giao chứng từ quan trọng như vậy. Khi
chứng từ bị giao sai địa điểm thì nó sẽ bị thất lạc và không thể khắc phục như
việc giao hàng hóa sai địa điểm.
• Giao chứng từ trước thời hạn
Trường hợp bên bán đã giao chứng từ liên quan đến hàng hóa đến trước thời hạn
thỏa thuận thì bên bán vẫn có thể khắc phục những thiếu sót của các chứng từ
này trong thời hạn còn lại. Khi bên bán khắc phục thiếu sót mà gây bất lợi hoặc
phát sinh chi phí bất hợp lý thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất
lợi hoặc chịu chi phí đó.
Bên cạnh đó, công ước Viên quy định về giao hàng và chuyển giao chứng từ liên
quan đến hàng hoá từ Điều 31 đến Điều 34 của Công ước. Theo đó, bên bán có nghĩa vụ
giao hàng và các chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua đúng thời gian. Thời gian
này là thời điểm mà các bên đã thoả thuận, nếu không thoả thuận cụ thể trong hợp đồng
22


thì có thể căn cứ vào hợp đồng để xác định được. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng số
lượng, chất lượng, quy cách phẩm chất như mô tả trong hợp đồng. Về địa điểm giao
hàng, nếu các bên không thoả thuận thì bên bán phải giao hàng theo quy định tại Điều 31
Công ước. Ngoài ra, người bán phải có nghĩa vụ phải giao các chứng từ liên quan đến
hàng hoá đúng thời hạn, đúng địa điểm và đúng hình thức như quy định trong hợp đồng.
Trong trường hợp người bán giao chứng từ trước kỳ hạn, thì họ có thể, trước khi hết thời
hạn quy định sẽ giao chứng từ, loại bỏ bất kỳ điểm nào không phù hợp với chứng từ với
điều kiện là việc làm này không gây cho người mua một trở ngại hay phí tổn vô lý nào.

2.2.2 Nhận hàng
Theo điều 56 LTM 2005 quy định, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận
và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng. Vấn đề này cũng được
quy định tại Điều 60 Công ước Viên 1980. Theo đó, bên mua phải thực hiện mọi hành vi
tạo điều kiện cho bên bán giao hàng và tiếp nhận hàng hoá.
Nghĩa vụ nhận hàng là nghĩa vụ theo đó mà người mua phải chuẩn bị đầy đủ phương
tiện đồng thời thực hiện những thủ tục cần thiết để người bán thực hiện nghĩa vụ giao
hàng và bên mua phải tiếp nhận hàng. Khi người bán mang hàng đến địa điểm đúng quy
định và đặt hàng dưới sự định đoạt của người mua thì người mua phải thực hiện nghĩa vụ
của mình là nhận hàng. Để thực hiện việc sẵn sang tiếp nhận hàng hóa, người mua phải
tiến hành chuẩn bị mọi cơ sở vật chất như phương tiện bốc dỡ, chuẩn bị kho bãi…
Kiểm tra hàng hóa là một bước không thể thiếu của người mua khi nhận hàng.Đây
không phải là một nghĩa vụ của người mua để nhận hàng thế nhưng đó là việc đảm bảo
quyền lợi cho mình. Sau khi kiểm tra và phát hiện sự không phù hợp của hàng hóa, người
mua cần thông báo sự không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý, nếu không thông báo
kịp thời, người mua sẽ mất quyền khiếu nại. Việc kiểm tra hàng hóa về hình dáng, kích
thước hay những đặc trưng khác là một trong những quyền lợi của bên mua. Nếu bên
mua không thực hiện trong thời gian đã thỏa thuận thì quyền lợi này sẽ được bên bán xác
nhận thay cho bên mua.
Sau khi giám định hàng hóa, nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, người mua
có quyền từ chối nhận hàng, có thể từ chối cả lô hàng hoặc một phần lô hàng.
2.2.3. Thanh toán
23


Thanh toán tiền hàng của bên mua cũng quan trọng như việc giao hàng của bên
bán. Theo khoản 1, điều 50 LTM 2005 quy định bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên
bán và nhận hàng theo thỏa thuận.
• Phương thức thanh toán
Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện thanh toán theo trình tự,

thủ tục đã thỏa thuận theo quy định của pháp luật. (Khoản 2, điều 50 LTM 2005). Trong
hợp đồng MBHHQT, các bên tham gia hợp đồng chấp nhận thanh toán theo các phương
thức sau: Phương thức chuyển tiền (Remittance), Phương thức thanh toán bằng cách ghi
sổ (Open Account), Phương thức nhờ thu (Collection of Payment), Phương thức uỷ thác
thu mua (Authority to Purchase - A/P), Thư bảo đảm tiền (Letter of credit - L/C).
• Địa điểm thanh toán
Theo điều 54 LTM 2005 quy định trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm thanh
toán cụ thể thì bên mua phải thanh toán cho bên bán tại một trong các địa điểm sau đây:
1. Địa điểm kinh doanh của bên bán được xác định vào thời điểm giao kết hợp đồng, nếu
không có địa điểm kinh doanh thì tại nơi cư trú của bên bán;
2. Địa điểm giao hàng hoặc giao chứng từ, nếu việc thanh toán được tiến hành đồng thời
với việc giao hàng hoặc giao chứng từ.
Vấn đề này cũng được quy định tại điều 57 CISG như sau:
1. Nếu người mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng tại một địa điểm quy định
nào thì họ phải trả tiền cho người bán:
a. Tại nơi có trụ sở thương mại của người bán hoặc:
b. Tại nơi giao hàng hoặc chứng từ nếu việc trả tiền phải được làm cùng lúc với việc
giao hàng hoặc chứng từ.
2. Người bán phải gánh chịu mọi sự gia tăng phí tổn để thực hiện việc thanh toán do sự
thay đổi địa điểm của trụ sở thương mại của mình sau khi hợp đồng được ký kết.
• Thời hạn thanh toán
Theo Điều 55 LTM 2005 quy định về thời hạn thanh toán như sau: Trừ trường hợp có
thoả thuận khác, thời hạn thanh toán được quy định như sau:
1. Bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao
chứng từ liên quan đến hàng hoá;
2. Bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong hàng hoá
24



×