Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty TNHH Vật tư khoa học kỹ thuật Đông Dương- Indochina.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.7 KB, 81 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới theo xu hướng khu
vực hoá, toàn cầu hoá đang đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển
nền kinh tế thế giới. Các nước không chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế của mình trong phạm
vi quốc gia mà còn tham gia vào các hoạt động kinh tế toàn cầu hoặc khu vực để tận dụng
mọi lợi thế so sánh. Hoà chung xu thế quốc tế hoá đó, Việt Nam đã thực hiện nhiều
chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực cũng như
trên thế giới trong nhiều năm qua. Một trong những nỗ lực lớn nhất của Việt Nam để hội
nhập kinh tế thế giới là sự kiện ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO) - một công cụ thương mại đa biên
quan trọng nhất để điều chỉnh nền thương mại quốc tế. Những bước phát triển mới này
thúc đẩy các quan hệ thương mại quốc tế đã và đang phát triển mạnh mẽ giữa các thương
nhân Việt Nam và các chủ thể thương nhân quốc tế. .
Thương mại quốc tế có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Nó thu
hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư vào Việt Nam, tạo cơ hội hợp tác kinh doanh đối với
các doanh nghiệp trong nước, tạo việc làm với thu nhập cao cho người lao động, và thúc
đẩy một loạt các ngành dịch vụ trong nước phát triển.
Trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam những năm qua, các hoạt động
mua bán hàng hoá quốc tế đã có những bước tiến vượt bậc, góp phần tích cực vào sự tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Điều này khiến Nhà nước ta luôn quan tâm sâu
sắc đến việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Môi trường pháp
lý thuận lợi, thông thoáng được coi là biện pháp tối ưu để tăng cường hiệu quả trong hoạt
động thương mại quốc tế. Trong hoạt động này, mua bán hàng hoá quốc tế đóng vai trò
phổ biến và rất quan trọng. Cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền lợi và ràng buộc trách nhiệm
của các bên tham gia của việc mua bán hàng hoá này chính là hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
Trong thời gian thực tập tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Vật tư khoa học kỹ thuật
Đông Dương - Indochina, vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế của Công ty đã thu hút sự quan tâm của tôi. Qua nghiên cứu thực tiễn ký kết và thực


1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty, được sự hướng dẫn tận tình của
thầy giáo PGS, TS Trần Văn Nam, tôi đã chọn đề tài: “Giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế tại Công ty TNHH Vật tư khoa học kỹ thuật Đông Dương-
Indochina” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Bố cục chuyên đề, ngoài phần mở đầu và kết luận, được kết cấu thành ba chương:
Chương I: Các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Chương II: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế tại Indochina.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Indochina.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian thực tập tại công ty để khảo
sát thực tế chưa nhiều nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong chuyên đề thực tập.
Tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để chuyên
đề thực tập của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Hải Ninh
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
CHƯƠNG I:
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1.1. Khái niệm
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa

vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận (Điều 3
khoản 8- Luật Thương mại 2005) Mua bán hàng hoá quốc tế là hoạt động mua bán hàng
hoá được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất, tạm xuất, tái nhập
và chuyển khẩu. Việc MBHHQT phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản,
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 27- Luật Thương mại
2005)
Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng. Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế (MBHHQT) trước hết là một hợp đồng mang đầy đủ đặc trưng của một
hợp đồng mua bán hàng hoá, nhưng có thêm yếu tố quốc tế. Tính quốc tế của hợp đồng
MBHHQT có thể được xác định bằng nhiều cách, được công nhận cả trên phạm vi luật
pháp quốc tế và phạm vi luật pháp quốc gia. Việc xác định yếu tố quốc tế này căn cứ vào
nơi kinh doanh hoặc nơi thường trú của các đối tác, hay những tiêu chuẩn tổng quát hơn
như việc đánh giá hợp đồng “có quan hệ quan trọng tới nhiều quốc gia”, “liên quan đến
sự lựa chọn giữa luật của các nước khác nhau”, hoặc “có ảnh hưởng đến các quyền lợi
trong buôn bán quốc tế”
(1)
. Theo giả định của nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế
( PICC- Principles of International Commercial Contracts) thì quan điểm về các hợp đồng
“quốc tế” nên được giải thích theo nghĩa rộng nhất, để loại trừ những trường hợp không
liên quan đến yếu tố quốc tế, ví dụ khi tất cả các yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ liên
quan đến một quốc gia cụ thể.
Điều 1 Công ước La Haye 1964 về mua bán hàng hoá quốc tế những tài sản hữu
hình, hợp đồng MBHHQT được định nghĩa: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp
đồng, trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được
1


Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế” Người dịch: Lê Nết-NXB TP HCM 1999.
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46

==================================================================
chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí kí kết hợp đồng giữa các
bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau” Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc
về hợp đồng MBHHQT đã gián tiếp định nghĩa loại hợp đồng này khi quy định trong
Điều 1: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết
giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại 1997 đề cập đến “hợp đồng mua bán hàng hoá với
thương nhân nước ngoài” ở Điều 80, và chỉ đề cập đến những điểm khác biệt của loại
hợp đồng này thông qua sự khác biệt trong quốc tịch của các chủ thể tham gia hợp đồng:
“hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá
được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước
ngoài”. Luật Thương mại Việt Nam 2005 cũng chỉ đưa ra quy định hình thức hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế là “thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương” (Điều 27.2)
Việc đưa ra một khái niệm rõ ràng, chính xác cho hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế chưa được quan tâm thích đáng trong khoa học pháp lý Việt Nam. Điều này có
thể do Việt Nam mới tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế và trong thực tiễn
chưa có vụ tranh chấp nào liên quan đến việc xác định luật áp dụng, căn cứ vào tính
quốc tế cuả hợp đồng
(2)
. Một số tác giả đã đưa ra khái niệm cho hợp đồng này trên tinh
thần của các công ước quốc tế, các văn bản pháp luật mà Việt Nam đề cập. Tiến sỹ Phan
Thị Thanh Hồng – Đại học KT Đà Nãng đưa ra khái niệm: “hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân cớ trụ sở kinh doanh đặt ở các
quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng và
chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên khác gọi là Bên nhập khẩu và nhận thanh toán.
Bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hoá theo thoả thuận.”
(3)
Một khái niệm khá phổ biến nữa là của ông Vũ Hữu Tửu-

giảng viên cao cấp, già giáo ưu tú Đại học Ngoại Thương Hà Nội thì “hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế, còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán ngoại
thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,
theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu
2
Dương Anh Sơn: “Tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương”. Tạp chí KHPL Số 6/2004, phiên
bản html: Ngày truy cập 6/3/2008.
3
Phan Thị Thanh Hồng: “Hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế”. NXB Lao Động 2005.
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá;
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng”
(4)
….
Như vậy, ta có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất về ý
chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có yếu tố nước ngoài mà thông qua đó,
thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó với
nhau.
Yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng quốc tế được biểu hiện:
- Các bên tham gia giao kết hợp đồng MBHHQT là các thương nhân có quốc tịch
khác nhau (nếu chỉ xác định tính quốc tế bằng cách này thì gặp nhiều khó khăn và đôi khi
không xác định được do pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau xác định quốc tịch của
pháp nhân không giống nhau) và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau (đây là cách
xác định theo Công ước Viên 1980 được áp dụng rất phổ biến);
- Hàng hóa - đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới quốc gia
hoặc giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác
nhau;
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển

giao quyền sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau;
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là ngoại tệ đối
với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng;
- Luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các điều ước quốc tế và các tập quán
quốc tế khác về thương mại và hằng hải.
1.2. Đặc điểm
- Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận có ý chí giữa các bên giao kết. Đây là
đặc trưng rất cơ bản của một hợp đồng nói chung.
- Chủ thể của hợp đồng là bên bán và bên mua là các thương nhân có trụ sở kinh
doanh đặt tại các quốc gia khác nhau. Nếu các bên không có trụ sở kinh doanh thì sẽ căn
cứ vào nơi cư trú của họ. Việc căn cứ vào quốc tịch của cá nhân ít được sử dụng do
không phổ biến và đôi khi gặp khó khăn ví dụ hai người trực tiếp ký vào hợp đồng đều
mang quốc tịch Việt Nam nhưng đại diện cho các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại các
quốc gia khác nhau, và hợp đồng này vẫn là hợp đồng MBHHQT.
4
Vũ Hữu Tửu: “Hợp đồng mua bán quốc tế”.Bài viết hỗ trợ kinh doanh. .Ngày 6/3/2008.
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá phải qua biên giới quốc gia (biên giới hải
quan) hay giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước
khác nhau; hoặc hàng hoá không phải qua biên giới nhưng hàng được các tổ chức quốc tế
dùng ở lãnh thổ Việt Nam (sứ quán, công trình đầu tư nước ngoài…). Thuật ngữ “biên
giới hải quan” được sử dụng xuất phát từ thực tiễn hình thành các kho ngoại quan, các
khu chế xuất, các đặc khu kinh tế, và những quy chế hải quan đặc biệt dành cho sự hoạt
động của các khu vực này làm cho biên giới lãnh thổ không thật chính xác để xác định
ranh giới di chuyển của hàng hoá xuất nhập khẩu
(5)
.
- Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển

giao quyền sở hữu của hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau;
- Đồng tiền tính giá hoặc thanh toán không còn là đồng nội tệ của một quốc gia mà
là ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết. Phương thức thanh toán thông qua hệ thống
ngân hàng.
- Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng đa dạng và phức tạp. Không chỉ còn luật quốc
gia mà còn bao gồm các điều ước quốc tế về thương mại, luật nước ngoài và các tập quán
thương mại quốc tế.
- Cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là toà án, hay trọng tài
thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là
cơ quan nước ngoài đối với ít nhất một trong các chủ thể.
2. Nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng MBHHQT có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác nhau
như các điều ước về MBHHQT, các tập quán quốc tế về thương mại, pháp luật của các
quốc gia… Việc nguồn luật nào điều chỉnh còn tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
2.1. Điều ước quốc tế
Theo Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế: “Điều ước quốc tế là tất cả
các văn bản được ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”. Vậy có thể
nói, điều ước quốc tế về thương mại là sự thoả thuận bằng văn bản giữa hai hoặc nhiều
quốc gia ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhằm ấn định,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ thương mại quốc
tế.
5
Phan Thị Thanh Hồng: “Mộ số vấn đề cần lưu ý nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế”. . Ngày truy cập 6/3/2008.
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
Trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế có một số điều ước quốc tế tiêu biểu:
- Điều kiện chung về giao hàng giữa các tổ chức kinh tế của các nước thành viên
Hội đồng tương trợ kinh tế (ĐKCGHSEV 1968/1988) điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ

của các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Một điều ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực MBHHQT là công ước Viên về
mua bán hàng hoá quốc tế ngày 1/1/1980. Đến nay đã có hơn 60 nước phê chuẩn công
ước này (Xem phụ lục 1)..
- Quy tắc La Hay ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng vào hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
- Công ước Rôma về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
được ký tại Rôm ngày 19/6/1980.
- Công ước Liên Mỹ về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế được ký ở Mehico
City ngày 17/5/1994, được thông qua bởi Hội nghị quốc tế Liên Mỹ về tư pháp quốc tế tổ
chức tại Mehico City
(6)
.
Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 60 Hiệp định thương mại song phương.
Trong đó phải kể đến: Hiệp định Buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU là hiệp định
thương mại chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ của hàng hoá, điều khoản
liên quan đến hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng. Việc ký kết các hiệp
định thương mại, là thành viên của các công ước quốc tế sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi và
thống nhất cho hoạt động MBHHQT giữa các thương nhân Việt Nam với các thương
nhân nước ngoài
(7)
.
2.2. Luật quốc gia
Trong hoạt động thương mại quốc tế, luật quốc gia áp dụng thông thường là luật
của nước bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước
thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện…
(8)
Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT trong các trường hợp:
6
Nguyễn Vũ Hoàng: “Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng con đường toà án” NXB Thanh Niên 2004.

Trang 23.
7
Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 100.
8
Bùi Xuân Nhự (Chủ biên): “Giáo trình Tư pháp quốc tế”. ĐH Luật HN. NXB Công an nhân dân.1997. Tr 38-41
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
- Các bên ký hợp đồng về việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
Việc thoả thuận áp dụng luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng phải được ghi trong
hợp đồng MBHHQT.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng MBHHQT được quy định trong
các điều ước quốc tế liên quan xác định luật của một quốc gia đương nhiên trở thành luật
áp dụng cho các hợp đồng đó. Thông thường, luật quốc gia áp dụng sẽ là luật của nước
bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước thứ ba, luật
nơi ký kết hợp đồng, luật của nước mà các bên mang quốc tịch,…
2.3. Án lệ
Án lệ hay tiền lệ pháp về thương mại cũng được các thương nhân tham gia ký kết
hợp đồng thương mại quốc tế coi trọng và lựa chọn, đặc biệt là ở các quốc gia theo hệ
thống thông luật (Common law). Trong thương mại quốc tế, việc công nhận và sử dụng
các phán quyết của toà án cũng như thừa nhận vai trò tích cực của án lệ đang ngày một
gia tăng tại các nước có hệ thống pháp luật khác nhau. Cơ quan xét xử có thể vận dụng án
lệ tương tự để giảm nhẹ những khó khăn phức tạp trong việc tra cứu, mà các tranh chấp
trong hoạt động thương mại quốc tế thường tập trung vào một số vấn đề và có nhiều
trường hợp tương đồng.
2.4. Tập quán thương mại quốc tế
Các tập quán thương mại quốc tế hình thành từ rất lâu đời. Các tập quán này sẽ trở
thành nguồn luật đìều chỉnh các hợp đồng MBHHQT nếu các chủ thể tham gia ký kết hợp
đồng chấp nhận các tập quán thương mại quốc tế sẽ là nguồn luật điều chỉnh.

Khi được dẫn chiếu vào hợp đồng MBHHQT, các tập quán thương mại sẽ có hiệu
lực bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể ký kết, chúng được chia thành nhóm: Các

(1)
tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại quốc tế chung và các tập
quán thương mại khu vực. Ví dụ, một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế được
Phòng Thương mại quốc tế (The International Chamber of Commerce - ICC) soạn thảo
và ban hành một tập quán thông dụng trong mua bán quốc tế là Incoterms (phụ lục 2).
II. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC
VIÊN 1980
Công ước này được ký kết ngày 11/4/1980 tại Viên (Áo). Ban đầu ký kết chỉ có 6
quốc gia thành viên. Số lượng các quốc gia phê chuẩn Công ước ngày càng tăng lên và
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
đến nay đã có trên 60 quốc gia thành viên (phụ lục 1). Công ước Viên là nguồn luật chủ
yếu để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay.
1. Phạm vi áp dụng
Công ước Viên được áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên có
trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau. Theo Điều 1, Công ước Viên chỉ coi trọng
nơi đặt trụ sở thương mại chứ không chú ý tới quốc tịch của các bên tham gia hợp đồng.
Công ước được áp dụng khi các bên tham gia hợp đồng có trụ sở ở các quốc gia là
thành viên của Công ước.. Công ước cũng được áp dụng nếu chỉ có một bên có trụ sở tại
nước phê chuẩn Công ước, nhưng quy định xung đột về luật điều chỉnh đã dẫn tới việc áp
dụng luật của nước này ví dụ như khi các bên thoả thuận áp dụng luật của nước bên bán,
mà nước bên bán là thành viên của Công ước; hoặc trường hợp các bên thoả thuận áp
dụng luật của nước thứ 3, mà nước này là thành viên của Công ước. Ngoài ra, Công ước
cũng có thể được áp dụng khi hai bên không có trụ sở thương mại tại nước thành viên
Công ước nhưng lại thoả thuận áp dụng Công ước. Trường hợp này, Công ước cũng cho
phép các bên có thể thoả thuận không áp dụng hoặc không áp dụng hoàn toàn một điều

khoản nào đó của Công ước trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng
(9)
.
2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
2.2. Giao kết hợp đồng MBHHQT
2.2.1. Chào hàng (Offer order)
Chào hàng là “đề nghị về việc giao kết hợp đồng được gửi đích danh cho một hoặc
một vài người” (Điều 14). Có hai loại: chào hàng cố định –Firmed (người đề nghị bày tỏ
ý chí rằng buộc bởi lời đề nghị của mình nếu có sự chấp nhận); chào hàng tự do –Free (đề
nghị được gửi cho một hoặc nhiều người không xác định). Hiệu lực chào hàng chỉ phát
sinh khi chào hàng tới nơi người được chào hàng (Điều 15 khoản 1). Chào hàng cũng có
thể bị huỷ nếu thông báo của người chào hàng về việc huỷ chào hàng gửi đến tới nơi
người được chào trước hoặc cùng lúc với chào hàng (Điều 15 khoản 2). Một chào hàng sẽ
mất hiệu lực khi người chào hàng nhận được thông báo về việc từ chối chào hàng (Điều
17).
9
Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”. Đại học kinh tế
quốc dân. 2005. Trang 104 – 205
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
2.2.2. Chấp nhận chào hàng (Accept order)
Chấp nhận chào hàng là “một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được
chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng” (Điều 14.khoản 1). Sự im lặng hoặc không
hành động của người nhận được chào hàng không được coi là chấp nhận chào hàng. Một
chấp nhận chào hàng có hiệu lực pháp lý từ khi người chào hàng nhận được chấp thuận
chào hàng, và được gửi tới trong thời hạn mà người chào hàng đã quy định trong chào
hàng. (Điều 18 khoản 2).
Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm sự chấp nhận chào hàng có hiệu
lực (Điều 23), và từ thời điểm này các bên có những quyền và nghĩa vụ được quy định

trong hợp đồng.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng
3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
3.1.1. Nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hoá
Công ước Viên quy định về giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng
hoá từ Điều 31 đến Điều 34 của Công ước. Theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và
các chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua đúng thời gian. Thời gian này là thời
điểm mà các bên đã thoả thuận, nếu không thoả thuận cụ thể trong hợp đồng thì có thể
căn cứ vào hợp đồng để xác định được. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng,
chất lượng, quy cách phẩm chất như mô tả trong hợp đồng. Về địa điểm giao hàng, nếu
các bên không thoả thuận thì bên bán phải giao hàng theo quy định tại Điều 31 Công ước.
3.1.2. Quyền của bên bán
Công ước nêu rõ, bên bán có quyền được thanh toán theo những quy định trong
hợp đồng. Trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ của mình thì bên bán có quyền thực
hiện những biện pháp bảo hộ pháp lý cũng theo quy định của Công ước như sau:
- Yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của người
mua, trừ phi họ sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác không thích hợp với các yêu
cầu đó (Điều 62).
- Có thể chấp nhận cho người mua một thời gian bổ sung hợp lý để thực hiện
nghĩa vụ của họ (Điều 63 khoản 1).
- Tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trường hợp quy định tại Điều 64.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Điều 74.
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
- Ngoài ra, bên bán có thể yêu cầu trả tiền lãi khi bên mua chậm thanh toán, theo
quy định Điều 78.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
3.2.1. Quyền của bên mua
Bên mua có quyền thực hiện một số biện pháp để bảo vệ lợi ích của mình khi bên

bán vi phạm nghĩa vụ của họ. Một số biện pháp được quy định trong Công ước là:
- Yêu cầu bên bán phải thực hiện nghĩa vụ của họ theo thoả thuận trong hợp đồng.
Ở đây có thể là yêu cầu bên bán cung cấp hàng hoá đúng thoả thuận trong trường hợp
hàng hoá chưa phù hợp; hoặc yêu cầu tiếp tục bổ sung hàng hoá nếu không đảm bảo đủ
số lượng; hoặc sửa chữa…
- Bên mua có thể cho phép bên bán thêm một thời hạn nhất định để thực hiện hợp
đồng nếu bên bán không đảm bảo được đúng thời hạn giao hàng (Điều 47).
- Bên mua cũng có quyền tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trường hợp bên bán
không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tạo thành một vi phạm cơ bản hợp đồng hay khi
bên bán không giao hàng trong thời hạn bên mua gia hạn thêm hoặc bên bán tuyên bố sẽ
không giao hàng trong thời bạn bổ sung đó (Điều 49).
3.2.2. Nghĩa vụ của bên mua
Điều 53 Công ước Viên quy định: người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và
nhận hàng theo quy định của hợp đồng.
- Về thanh toán tiền hàng: bên mua phải trả tiền vào ngày thanh toán đã quy định
hoặc có thể được xác định theo hợp đồng và theo Công ước, mà không cần phải có một
lời yêu cầu hay việc thực hiện một tục nào khác về phía người bán (Điều 59). Nghĩa vụ
thanh toán tiền hàng bao gồm việc áp dụng các biện pháp và tuân thủ các biện pháp mà
hợp đồng hoặc luật lệ đòi hỏi để có thể thực hiện được thanh toán.
- Về việc nhận hàng: Bên mua có các nghĩa vụ theo quy định của Công ước Viên
tại Điều 60. Theo đó, bên mua phải thực hiện mọi hành vi tạo điều kiện cho bên bán giao
hàng và tiếp nhận hàng hoá.
4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi
phạm hợp đồng phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết. Theo Công
ước Viên, có các hình thức trách nhiệm pháp lý sau:
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
4.1. Tiếp tục thực hiện hợp đồng

Bên vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khi bên bị vi phạm vẫn
yêu cầu phải thực hiện đúng theo nghĩa vụ đó trong các trường hợp:
- Khi bên bán chậm giao hàng: Nếu bên mua yêu cầu bên bán tiếp tục thực hiện
hợp đồng thì bên mua sẽ định ra một thời hạn để bên bán hoàn thành nghĩa vụ. Trường
hợp bên mua không chấp nhận giao hàng chậm hơn thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng thì bên mua có thể yêu cầu huỷ hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
- Khi bên bán giao hàng thiếu số lượng: bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao
hàng bổ sung cho đủ số lượng.
- Khi bên mua chậm thanh toán: Bên bán vẫn yêu cầu bên mua trả tiền theo hợp
đồng, và có thể yêu cầu phải trả thêm lãi suất cho số tiền chậm thanh toán.
- Khi hàng được giao không phù hợp hoặc không đúng theo quy định của hợp
đồng: Bên bán phải giao hàng thay thế hoặc sửa chữa khuyết tật nếu có trừ khi việc sửa
chữa là không hợp lý căn cứ vào tình tiết của sự việc (Điêề 46).
- Khi bên mua không nhận hàng theo hợp đồng: Bên bán yêu cầu bên mua phải
nhận hàng. Nếu trong thời hạn do bên bán ấn định mà bên mua vẫn không nhận hàng, bên
bán buộc phải huỷ hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại phát sinh (Điều 62).
4.2. Bồi thường thiệt hại
Các thiệt hại mà bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường cho bên bị vi phạm:
- Những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu;
- Những thu nhập bị bỏ lỡ do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia;
Về tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng, Công ước Viên quy
định: “là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu
do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng”. Mức tiền này cũng không được cao hơn thiệt hại
thực tế và những khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ.
4.3. Huỷ hợp đồng
Trách nhiệm pháp lý này chỉ áp dụng khi hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi
phạm tạo thành một hành vi nghiêm trọng. Tức là hành vi đó làm cho bên bị thiệt hại,
trong một chừng mực đáng kể bị mất đi cái mà họ chờ đợi trên cơ sở hợp đồng (Điều 25).
Có thể liệt kê các trường hợp mà hình thức pháp lý huỷ hợp đồng được áp dụng:
- Việc không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của hợp đồng tạo thành một vi phạm

chủ yếu đối với hợp đồng như: Giao hàng không đúng chủng loại đã quy định trong hợp
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
đồng; Hàng kém phẩm chất, hàng giao thiếu bộ phận nào đó mà việc giao thiếu này dẫn
đến việc không thể khai thác, sử dụng được hàng đã giao…
- Bên bán không giao hàng trong thời hạn gia hạn thêm của bên mua, hoặc bên bán
tuyên bố không giao hàng trong thời gian gia hạn thêm đó.
- Bên mua không trả tiền, hay không nhận hàng; hoặc tuyên bố không trả tiền, hay
không nhận hàng trong thời gian gia hạn thêm mà bên bán quy định.
III. CÁC ĐIỀU KIỆN GIAO HÀNG INCOTERMS VỚI HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
Điều kiện cơ sở giao hàng quy định những cơ sở có tính nguyên tắc của việc giao
nhận hàng hoá giữa bên bán với bên mua như: Sự phân chia bên bán với bên mua các
trách nhiệm tiến hành việc giao nhận hàng như các trách nhiệm: Thuê mướn công cụ vận
tải (thuê mướn tàu lưu cước…) bốc hàng, dỡ hàng, mua bảo hiểm, khai hải quan, nộp
thuế xuất khẩu, nộp thuế nhập khẩu v.v…; Sự phân chia giữa bên bán và bên mua các chi
phí về giao hàng như các chi phí chuyên chở hàng, chi phí bốc hàng, chi phí dỡ hàng, chi
phí lưu kho, chi phí mua bảo hiểm… Sự di chuyển từ người bán sang người mua những
rủi ro về tổn thất hàng hoá
(10)
.
Những nội dung trên là cơ sở nảy sinh các thuật ngữ nhất định trong buôn bán
quốc tế như: Giao tại xưởng (ex work), giao hàng trên tàu (free on board), tiền hàng + phí
bảo hiểm và cước phí (cost insurance and freight)..v.v.. Nội dung của các điều kiện giao
hàng này khá rộng và mỗi nước, mỗi khu vực có cách giải thích không hoàn toàn giống
nhau. Phòng Thương mại quốc tế (ICC) đã tổng hợp, xuất bản bộ Incoterm (International
Commercial Terms- các điều kiện thương mại quốc tế) nhằm xây dựng các nguyên tắc
giải thích các điều kiện thương mại quốc tế để các bên có thể thoả thuận áp dụng cho một
hợp đồng mua bán. Mỗi điều kiện của Incoterms được chọn sẽ trở thành một điều khoản

của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chứ không phải là của hợp đồng chuyên chở
hàng hoá.
Về cơ bản, Incoterms trả lời câu hỏi khi nào ngưòi bán hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ
giao hàng của mình. Những hậu quả do việc người bán không hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng không được đề cập trong Incoterms. Khi áp dụng Incoterms, các bên được khuyến
cáo là nên dẫn chiếu đến một phiên bản cụ thể để tránh những hiểu lầm không cần thiết
do có những sự khác biệt tương đối giữa các phiên bản Incoterms được Phòng Thương
10
Vũ Hữu Tửu: “Incoterms trong mua bán hàng hoá quốc tế”. Bài viết hỗ trợ kinh doanh. Ngày
truy cập 6/3/2008.
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
mại quốc tế xuất bản lần đầu 1936, các bản sửa chữa, tái bản 1953, 1967, 1980,1990, và
mới nhất là năm 2000. Nội dung cơ bản của các điều kiện giao hàng được giải thích trong
Incoterm 2000 bao gồm:
1. Nhóm điều kiện E
Nhóm này chỉ có một điều kiện: EXW (Giao hàng tại xưởng – EX Work).
Theo điều kiện này, người bán phải: Đặt hàng dưới quyền định đoạt của người
mua trong thời hạn và tại địa điểm do hợp đồng quy định. Nếu hợp đồng không quy định
về thời hạn thì thời điểm giao hàng sẽ là thời điểm thông thường cho việc giao hàng hoá
đó. Nếu không có thoả thuận về địa điểm mà lại có nhiều địa điểm có thể giao hàng thì
người bán có thể chọn điểm giao hàng thuận tiện nhất cho mình. Người mua phải nhận
hàng tại xưởng của bên bán, chịu mỏi rủi ro và phí tổn kể từ thời điểm nhận hàng.
2. Nhóm các điều kiện F
Là nhóm điều kiện mà người bán phải tổ chức toàn bộ khâu vận tải để đưa hàng
đến địa điểm quy định giao cho người vận chuyển, và không phải trả cước chặng vận
chuyển. Người mua thuê phương tiện vận chuyển và chịu chi phí cho chặng vận tải chính.
Cụ thể có ba điều kiện: Giao cho người chuyên chở (FCA- Free Carier); Giao dọc mạn
tàu (FAS - Free Alongside Ship); Giao lên tàu (FOB – Free on Board)

14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
3. Nhóm điều kiện C
Là nhóm điều kiện mà người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình tại nơi
gửi hàng, có thêm nghĩa vụ tổ chức vận tải hàng hoá và chịu chi phí vận tải cho
chặng vận chuyển quốc tế. Người bán chỉ chịu rủi ro đến khi họ hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng, tức là thời điểm hàng hoá được gửi đi. Người bán cần quan tâm đến
ngày giao hàng cho người vận chuyển chứ không cần quan tâm thoả thuận ngày
hàng đến nước của người mua. Nhóm điều kiện này có hai nhóm nhỏ theo phương
thức vận tải: vận chuyển bằng đường biển:Tiền hàng và cước phí CFR – Cost and
Freight; và Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí CIF – Cost, Insurance and
Freight; vận chuyển bằng mọi phương tiện vận tải kể cả đường biển và vận tải đa
phương thức: Cước phí trả tới CPT – Carriage Paid To; và Cước phí và bảo hiểm
trả tới CIP – Cost, Insurance Paid to.
4. Nhóm đìều kiện D
Là nhóm điều kiện “nơi đến”. Tức là người bán sẽ hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
của mình tại địa điểm đích được quy định trong hợp đồng. Nhóm D bao gồm 5 điều kiện:
Giao tại biên giới (DAF – Delivered At Frontier); Giao tại tàu (DES – Delivered Ex
Ship); Giao tại cầu cảng (DEQ – Delivered Ex Quay); Giao tại đích chưa nộp thuế
(DDU – Delivered Duty Unpaid); Giao tại dích dã nộp thuế (DDP – Delivered Duty
Paid)
IV. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Thời kỳ trước năm 1997
Trong thời kỳ bao cấp với đặc thù là nền kinh tế tế kế hoặch hoá, nguyên tắc “Nhà
nước độc quyền về ngoại thương (hay thương mại quốc tế)” là cơ sở pháp lý chủ yếu của
hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến Pháp
năm 1946, năm 1959, và năm 1980 tại Điều 21 “Nhà nước độc quyền về quản lý hoạt
động ngoại thương và các quan hệ kinh tế quốc tế khác”.

Nguyên tắc Nhà nước độc quyền về ngoại thương thể hiện: Mọi hoạt động ngoại
thương được tập trung trong tay Nhà nước, chỉ có những tổ chức được Nhà nước cho
phép mới được tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu; Nhà nước quyết định và thực
hiện mọi đường lối ngoại thương thông qua bộ máy thống nhất trong cả nước; Mọi hoạt
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
động ngoại thương được tiến hành trên cơ sở kế hoạch chung về trao đổi hàng hoá với
nước ngoài, được Nhà nước hoạch định, kiểm soát và quản lý thống nhất từ trung ương
đến địa phương; Nội dung của nguyên tắc “Nhà nước độc quyền ngoại thương” đã chi
phối mọi hoạt động xuất nhập khẩu, là cơ sở, nền tảng pháp lý cho toàn bộ công tác xây
dựng pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu và tạo thành nét đặc trưng của hoạt
động ngoại thương trong thời kỳ này
(11)
.
Thời kỳ trước năm 1980, xuất phát từ nguyên tắc trên, mọi hoạt động xuất nhập
khẩu được Nhà nước giao cho Bộ Ngoại thương độc quyền thực hiện. Bộ lập những tổ
chức gọi là Tổng công ty xuất nhập khẩu được quyền trực tiếp trao đổi, mua bán hàng
hoá với nước ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ này gần như bó hẹp trong
quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Mọi vấn đề pháp sinh thường được giải quyết dựa
vào các quy phạm pháp luật thống nhất quy định trong các hiệp định thương mại và đặc
biệt và trong điều kiện chung giao hàng tay đôi giữa Việt Nam với từng nhà nước xã hội
chủ nghĩa, sau này có thêm điều kiện chung giao hàng SEV – các nước thuộc hội đồng
tương trợ kinh tế. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu chưa hình
thành.
Các bản điều kiện chung giao hàng là công cụ quan trọng trong việc điều tiết xuất
nhập khẩu Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là điều tiết những vấn đề
liên quan đến thủ tục giao kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng nhập khẩu;
trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng; cơ quan xét xử tranh chấp; hay vấn đề áp dụng
luật…. Các tổ chức ngoại thương của các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có các Tổng

công ty xuất nhập khẩu trên cơ sở các điều kiện chung giao hàng đã tiết kiệm được thời
gian đàm phán, loại bỏ những điểm bất đồng do có sự quy định khác nhau trong hệ thống
luật của mỗi quốc gia
(12)
.
2. Thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2005
Nếu như trong thời kỳ bao cấp với cơ chế “Nhà nước độc quyền về ngoại thương”
làm cho nền kinh tế đối ngoại chậm phát triển, thậm chí suy giảm trong một thời gian dài
thì khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế “Nhà nước thống nhất quản lý và
11
Trần Văn Nam, Trần Thị Hoà Bình (đồng chủ biên): “Giáo trình luật thương mại quốc tế”. Đại học Kinh tế
Quốc dân. NXB: Lao động xã hội 2005. Trang: 28-30.
12
Trần Văn Nam, Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế”. Đại học Kinh tế
Quốc dân. 2005. Trang 30.
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
mở rộng kinh tế đối ngoại…” (Điều 24- Hiến pháp 1992) đã thúc đẩy hoạt động ngoại
thương phát triển mạnh mẽ sôi động hơn.
Để phù hợp vơi quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường với những đặc điểm cơ
bản của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam đã luật hoá các hoạt
động thương mại. Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 ngày 19/5/1997 đã thông qua Luật
Thương mại 1997 (Sau đây gọi là Luật Thương mại 1997), bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/01/1998. Luật Thương mại 1997 ra đời đã thể chế hoá các đường lối, chính sách của
Đảng, cơ chế quản lý thương mại của Nhà nước, trong đó có chính sách về kinh tế đối
ngoại. Riêng về hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, Luật dành mục
2 Chương II gồm 37 điều, Điều 82 cũng xác định hợp đồng mua bán hàng hoá với thương
nhân nước ngoài phải tuân theo các quy định về mua bán hàng hoá của Luật. Các hành vi
mua bán hàng hoá có nhân tố nước ngoài cũng chịu sự điều chỉnh của các quy định về

mua bán hàng hoá nói chung, được quy định trong Luật.
Các vấn đề về điệu kiện hiệu lực của hợp đồng và giao kết hợp đồng, Luật
Thương mại 1997 có quy định trong mục riêng dành cho hợp đồng ký kết với thương
nhân nước ngoài. Những nội dung chủ yếu của hợp đồng ngoại này sẽ theo quy định
trong Điều 50, tuân theo quy định của hợp đồng nói chung. Các vấn đề về trách nhiệm
pháp lý do vi phạm hợp đồng cũng tuân theo quy định đối với hợp đồng chung. Song,
lưu ý là bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm
hoặc bồi thường thiệt hại (khác với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 28/9/1989 áp dụng
đồng thời hai hình thức trách nhiệm pháp lý đối với một hành vi vi phạm)
Cũng trong thời gian này, pháp luật Việt Nam đã có những sửa đổi khá cơ bản về
quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của thương nhân (đến nay vẫn có hiệu lực) góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển như: theo quy định tại Nghị
định số 33/CP ngày 19/4/1994, những doanh nghiệp chưa có Giấy phép kinh doanh xuất
nhập khẩu không phải là chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương. Mọi hợp đồng
mua bán ngoại thương do các doanh nghiệp này ký đều không có hiệu lực vì chủ thể ký
kết phía Việt Nam không hợp pháp. Và thực tế ở Việt Nam trong một thời gian đã tồn tại
những doanh nghiệp được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp
không được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghị định 57/1998/NĐ-CP có hiệu lực
pháp lý từ ngày 1/9/1998 đã tạo bước đột phá trong quy định về quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu đối với thương nhân. Theo đó, thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật, được phép xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã
đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh, thành
phố, không phải xin Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thương mại. Và kể từ
ngày Nghị định 57 có hiệu lực pháp lý, các Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ
thương mại đã cấp hết hiệu lực thi hành. Như vậy, theo Nghị định 57, quyền kinh doanh
xuất nhập khẩu đối với thương nhân đã được mở rộng cho tất cả các doanh các doanh

nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Cục
Hải quan tỉnh, thành phố là được kinh doanh xuất nhập khẩu, không còn phải xin phép Bộ
thương mại. Và cũng không còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp được quyền và doanh
nghiệp không được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu nữa. Nghị định 44/2001/NĐ-CP đã
tiếp tục mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu cho doanh nghiệp khi quy định thương
nhân có thể xuất khẩu tất cả các loại hàng hoá không phụ thuộc vào ngành nghề được ghi
trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ những hàng hoá thuộc danh mục cấm
xuất khẩu. Tuy nhiên, quyền kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp vẫn còn bị hạn chế.
Cụ thể, thương nhân chỉ được nhập khẩu những hàng hoá theo ngành nghề, ngành hàng
ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh…
3. Thời kỳ từ năm 2005 đến nay
Hoạt động thương mại nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng
không ngừng phát triển cùng với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế. Về
hoạt động thương mại quốc tế, trong 10 năm trở lại đây, hoạt động này ngày càng mở
rộng thêm nhiều lĩnh vực như sở hữu trí tuệ, đầu tư, dịch vụ… Ngày càng nhiều các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được hình thành, mặt hàng kinh doanh ngày
càng đa dạng…
Luật thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 thay thế cho Luật Thương mại
1997 đã góp phần tích cực trong khung pháp lý điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế.
Luật Thương mại 2005 không tách rời hẳn một mục cho hoạt động mua bán hàng hoá
quốc tế như Luật Thương mại 1997, mà quy định cùng với hoạt động thương mại trong
nước thành “các quy định chung đối với hoạt động mua bán hàng hoá”. Hợp đồng thương
mại quốc tế cũng được đề cập trong Bộ Luật Dân sự 2005 phần quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài. Theo quy định của Luật Thương mại 2005, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế không chỉ dừng lại ở trường hợp các bên giao kết hợp đồng có quốc tịch khác nhau mà
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
còn bao gồm những trường hợp khác như một bên có trụ sở kinh doanh ở nước ngoài, hay
mua bán hàng hoá ở khu chế xuất…

Cùng với Luật Thương mại 2005, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006
quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và
các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hoá với nước ngoài đã góp
phần củng cố khung pháp lý quy định cho hoạt động thương mại quốc tế nói chung và
hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng.
Từ sau khi có Luật Thương mại 2005, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp cũng được mở rộng hơn nữa bởi sự ra đời của Nghị định 12/2006/NĐ-CP.
Nghị định 12/2006/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/5/2006 và thay thế cho Nghị định
57/1998/NĐ-CP và Nghị định 44/2001/NĐ-CP. Theo Nghị định 12, thương nhân được
xuất khẩu nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ
hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh
mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.
Pháp luật Việt Nam cũng đã có sửa đổi khá cơ bản về yêu cầu đối với nội dung
của hợp đồng theo hướng phù hợp hơn với pháp luật quốc tế. Cụ thể:
- Theo quy định của Luật thương mại năm 1997 đã hết hiệu lực thi hành kể từ
ngày 1/1/2006, hợp đồng mua bán hàng hoá phải có các nội dung chủ yếu là: tên hàng; số
lượng; quy cách, chất lượng; giá cả; phương thức thanh toán; địa điểm và thời hạn giao
nhận hàng. Việc quy định hợp đồng phải có 6 nội dung không thể thiếu như trên mâu
thuẫn với nguyên lý cơ bản của pháp luật thương mại, theo đó quy định các chủ thể tham
gia kinh doanh được tự do thoả thuận mọi giao dịch của mình. Mâu thuẫn rõ ràng là giữa
việc các chủ thể cùng lúc phải tuân thủ quy định bắt buộc gồm sáu nội dung của hợp
đồng với việc pháp luật đã trao cho các chủ thể quyền tự do thoả thuận hợp đồng. Hơn
nữa, Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (gọi tắt là
Công ước Viên 1980) hiện có hơn 60 nước phê chuẩn quy định tối thiểu về các nội dung
bắt buộc này, chỉ xoay quanh ba điều khoản: tên hàng; số lượng và giá cả (Điều 14 Công
ước Viên 1980).
- Vì những lý do trên, để phù hợp hơn với pháp luật quốc tế cũng như tôn trọng
nguyên tắc tự do thoả thuận hợp đồng của các chủ thể, Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy
định khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau: Đối tượng
19

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
của hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá cả, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm,
phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng; phạt vi phạm hợp đồng; các nội dung khác (Điều 402). Rõ ràng, quy định mới
về nội dung của hợp đồng là nhằm giúp các bên xác định được thoả thuận cụ thể giữa họ
chứ không phải để ràng buộc hay hạn chế quyền tự do hợp đồng của họ.
4. Giao kết và thực hiện hợp đồng MBHHQT theo quy định của Luật Thương
mại 2005
4.1. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Làm thế nào để hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (MBHHQT) có hiệu lực pháp
lý là vấn đề được các bên giao kết hợp đồng đặc biệt quan tâm. Vì chỉ khi hợp đồng giao
kết giữa các bên có hiệu lực pháp lý thì quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên mới được bảo
đảm và thực hiện theo hợp đồng đã thoả thuận, và nếu có tranh chấp xảy ra thì mới đảm
bảo việc khiếu nại hay tố tụng được giải quyết trước Toà án hay Trọng tài. Các vấn đề
cần quan tâm để hợp đồng MBHHQT có hiệu lực:
4.1.1. Giao kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện thoả thuận ý chí giữa các bên
Cơ sở tự nguyện thoả thuận ý chí giữa các bên ở đây chính là sự thuận mua vừa
bán. Người bán nhất chí giao hàng mà người mua muốn mua; người mua nhận hàng và
trả tiền theo cam kết. Hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp lý nếu việc giao kết không vi phạm
các trường hợp ngăn cấm như: có sự cưỡng bức, đe doạ; có sự lừa dối; có sự nhầm lẫn.
4.1.2. Điều kiện về chủ thể
Chủ thể của hợp đồng là các thương nhân có trụ sở kinh doanh đặt tại các quốc gia
khác nhau và có đủ tư cách pháp lý. Trong đó, tư cách pháp lý của các thương nhân được
xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó có trụ sở. Theo quy định của
Luật thương mại 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
các nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh (Điều 6 Khoản 1). Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài
công nhận (Điều 16 Khoản 1)

Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Cục Hải
quan tỉnh, thành phố là được kinh doanh xuất nhập khẩu không còn phải xin phép Bộ
Thương mại (nay là Bộ Công thương). Không có sự phân biệt giữa doanh nghiệp được
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
quyền hay doanh nghiệp không được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu như trước đây
nữa.
4.1.3. Điều kiện về người có thẩm quyền giao kết hợp đồng
Người giao kết hợp đồng là người đại diện cho thương nhân đó theo luật hoặc theo
uỷ quyền. Đại diện theo luật là đại diện do pháp luật quy định, là người đứng đầu pháp
nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại
diện và người được đại diện. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ
quyền và người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch trong phạm đại diện. Uỷ quyền
phải được làm bằng văn bản và người uỷ quyền phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành
vi của người được uỷ quyền trong phạm vi quy định của sự uỷ quyền. (Điều 140-142 Bộ
Luật Dân sự 2005).
4.1.4. Điều kiện về đối tượng của hợp đồng
Hàng hoá (đối tượng của hợp đồng MBHHQT) theo hợp đồng phải là hàng hoá
được phép mua bán theo quy định pháp luật của nước bên mua và nước bên bán.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, thương nhân được xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ những
hàng hoá thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hoá thuộc Danh
mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công thương) hoặc các bộ quản lý chuyên ngành. (Điều 3, 4 Nghị định số 12/2006/NĐ-
CP). Danh mục hàng hoá thuộc diện quản lý chuyên ngành theo quy định của Việt Nam
được quy định trong phụ lục số 01, 02 và 03 ban hành kèm theo Nghị định số
12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006.
4.1.5. Điều kiện về nội dung của hợp đồng

Nội dung của hợp đồng phải tuân thủ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng. Nguồn luật
điều chỉnh hợp đồng có thể được các bên thoả thuận quy định trong hợp đồng. Nếu không
quy định trong hợp đồng thì việc xác định nguồn luật điều chỉnh hợp đồng sẽ áp dụng
quy tắc xung đột pháp luật: “luật nước người bán”; “luật nơi xảy ra tranh chấp”; “luật nơi
ký kết hợp đồng”; “luật nơi thực hiện nghĩa vụ”.
Để phù hợp với pháp luật quốc tế và nguyên tắc tự do thoả thuận hợp đồng của các
chủ thể, Bộ luật Dân sự 2005 quy định khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
những nội dung: Đối tượng hợp đồng; Số lượng, chất lượng; Giá cả, phương thức thanh
toán; Thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các
bên; Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng; Các nội dung khác (Điều 402). Quy định
giúp các bên xác định được thoả thuận cụ thể giữa họ chứ không phải để ràng buộc hay
hạn chế quyền tự do hợp đồng của họ.
4.1.6. Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng phải tuân thủ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng. Luật
Thương mại 2005 quy đinh rõ: “Mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở
hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương” (Điều
27 Khoản 2). Các hình thức có gía trị pháp lý tương đương văn bản như: điện báo, telex,
fax, thông điệp dữ liệu (Khoản 15 Điều 3)
4.2. Giao kết hợp đồng MBHHQT
4.2.1. Cách thức giao kết hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể được giao kết bằng các phương thức
trực tiếp hoặc gián tiếp.
Giao kết hợp đồng MBHHQT bằng phương thức trực tiếp: Các bên tham gia
giao kết hợp đồng cử người đại diện để trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng
và thoả thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản hợp
đồng. Kể từ thơi điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng, hợp đồng được xác lập và phát
sinh hiệu lực pháp lý. Trường hợp có quy định điều kiện khác trong hợp đồng như có

quota hoặc một giấy phép đặc biệt hoặc mở L/C… thì hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu
những điều kiện này được thực hiện.
Giao kết hợp đồng bằng phương thức gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp
nhau để bàn bạc, thảo luận mà thực hiện trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn,
điện báo, đơn đạt hàng, đơn chào hàng…có ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch.
Trình tự giao kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn: Đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Những vấn đề này không được
Luật Thương mại 2005 quy định cụ thể, vì vậy các quy định của Bộ Luật Dân sự 2005 sẽ
được áp dụng, và áp dụng chung cho cả hợp đồng MBHHQT.
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
4.2.2. Thời điểm giao kết hợp đồng
Về nguyên tắc, hợp đồng mua bán được giao kết vào thời điểm các bên đạt được
sự thoả thuận. Luật Thương mại 2005 không quy định cụ thể về thời điểm giao kết hợp
đồng MBHHQT cũng như hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung, vì vậy áp dụng Bộ
Luật Dân sự 2005 Điều 404 có các trường hợp sau:Với hợp đồng giao kết trực tiếp bằng
văn bản, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản; Với hợp
đồng giao kết gián tiếp bằng văn bản, thời điểm giao kết là khi bên đề nghị nhận được trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng; Hợp đồng giao kết bằng lời nói không áp dụng cho hợp
đồng MBHHQT vì theo quy định của Điều 27 Luật Thương mại 2005 hình thức hợp
đồng MBHHQT phải là văn bản hoặc hình thức giá trị pháp lý tương đương.
Thời điểm giao kết hợp đồng cũng được coi là thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ
phi các bên thoả thuận một thời điểm khác hoặc vào một thời điểm mà một điều kiện của
hợp đồng được thực hiện như thời điểm mở L/C khi thoả thuận thanh toán bằng tín dụng
thư, hay thời điểm có quota khi hàng hoá theo quy định phải được cấp hạn ngạch
Luật thương mại 2005 không quy định bắt buộc các bên phải thoả thuận
những nội dung cụ thể nào trong hợp đồng MBHHQT cũng như trong hợp đồng MBHH
nói chung. Điều 402 Bộ Luật Dân sự 2005 đưa ra các nội dung chủ yếu của hợp đồng
mang tính “khuyến nghị”, “định hướng” của pháp luật giúp hạn chế những rủi ro pháp lý

những tranh chấp trong hoạt động MBHH đặc biệt là hoạt động MBHHQT
(13)
.
4.3. Thực hiện hợp đồng MBHHQT
Các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ mà mình đã cam kết trong hợp đồng sau khi
hợp đồng được xác lập và có hiệu lực pháp lý. Cùng với các nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động thương mại (Mục 2 Điều 10-15 Luật Thương mại 2005), nguyên tắc thực hiện hợp
đồng dân sự (Điều 412 Bộ Luật Dân sự 2005), hợp đồng MBHH nói riêng phải được thực
hiện một cách trung thực, trên tinh thần họp tác cùng có lợi.
Với hợp đồng MBHHQT thường có những thủ tục là điều kiện để hợp đồng có giá
trị pháp lý mà các bên phải hoàn thành trước khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng như: Xin
giấy phép xuất nhập khẩu hoặc quota (với trường hợp giấy phép phải có hạn ngạch); Mở
thư tín dụng nếu hợp đồng có thoả thuận phương thức thanh toán này.
Sau các điều kiện trên, các bên thực hiện những nghĩa vụ cụ thể khác đã thoả
thuận trong hợp đồng như: Thuê tàu lưu cước, mua bảo hiểm hàng hoá; Giao/ nhận hàng;
13
Giáo trình Luật Thương mại II. Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân. 2006. Trang 23-24.
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
Làm thủ tục hải quan; Kiểm tra hàng hoá; Thanh toán... Các nghĩa vụ khác khi có yêu
cầu. Luật Thương mại 2005 quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
mua bán hàng hoá (áp dụng chung cho cả mua bán hàng hoá trong nước và mua bán hàng
hoá quốc tế) tại Mục 2 của Luật.
4.3.1. Quyền và nghĩa vụ của người bán
Nghĩa vụ của người bán: Giao hàng đúng thoả thuận trong hợp đồng về số lượng,
chất lượng, quy cách… thời hạn và địa địa điểm giao hàng. Đảm bảo quyền sở hữu cho
người mua đối với hàng hoá đã bán. Các nghĩa vụ này ngoài quy định trong Luật Thương
mại còn phải tuân theo những điều kiện thương mại quốc tế mà các bên đã thoả thuận lựa
chọn.

Quyền của người bán: Nhận tiền theo thoả thuận trong hợp đồng. Nếu do lỗi của
người mua dẫn đến việc người bán chậm nhận được tiền hoặc không nhận được tiền
thanh toán thì họ có quyền áp dụng các biện pháp do luật định như buộc thực hiện đồng,
phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và huỷ hợp đồng.. (Điều 297, 300,302,308, 312 Luật
Thương mại 2005)
4.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người mua
Nghĩa vụ của người mua: Tiếp nhận và thanh toán hàng hoá theo đúng thoả thuận
trong hợp đồng.Người mua phải thanh toán tiền hàng kể cả trong trường hợp mất mát, hư
hỏng hàng hoá xảy ra sau thời điểm hàng hoá đã nằm trong sự định đoạt của người mua,
tức là sau thời điểm quyền sở hữu hàng hoá đã được chuyển từ người bán sang người
mua, trừ phi do lỗi của người bán gây ra (Điều 50 Luật Thương mại 2005). Các nghĩa vụ
của người mua còn phụ thuộc vào điều kiện thương mại quốc tế mà các bên đã thoả thuận
lựa chọn.
Quyền của người mua: Nhận hàng theo thoả thuận trong hợp đồng. Người mua có
quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng theo Điều 51 Luật Thương mại 2005 khi có bằng
chứng về việc buôn bán lừa dối, hàng hoá là đối tượng đang bị tranh chấp, bên baá giao
hàng không phù hợp với hợp đồng.
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp SVTH:Phạm Thị Hải Ninh-K46
==================================================================
5. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng MBHHQT theo quy định của
Luật Thương mại 2005
5.1. Yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng MBHHQT nói
riêng và hợp đồng MBHH nói chung được áp dụng khi có các căn cứ do pháp luật quy
định. Để kết luận một bên có vi phạm hợp đồng hay không cần xem xét các vấn đề là:
- Có hành vi không thực hiện hay thực hiện không đúng hợp đồng đã giao kết;
- Bên vi phạm hợp đồng có lỗi;
- Thiệt hại;
- Thiệt hại mà bên vi phạm phải gánh chịu có nguyên nhân trực tiếp là hành vi trái

pháp luật của bên vi phạm hợp đồng.
5.2. Các hình thức trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng MBHHQT
Các loại chế tài được áp dụng khi có hành vi vi phạm trong thương mại nói chung
được quy định trong Điều 292 Luật Thương mại 2005: Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
Phạt vi phạm hợp đồng; Bồi thường thiệt hại; Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ
thực hiện hợp đồng; Huỷ bỏ hợp đồng. Các bên cũng có thể thoả thuận các biện pháp
khác không trái với luật được áp dụng trong hợp đồng, các điều ước quốc tế, tập quán
thương mại mà các bên thoả thuận áp dụng…
5.2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng (Điều 297 Luật Thương mại 2005)
Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng
(như giao hàng không đúng đối tượng, quy cách phẩm chất… quy định trong hợp đồng)
thì bên có quyền được yêu cầu họ phải thực hiện., nếu không phải thanh toán theo giá trị
thị trường (các bên thoả thuận áp dụng giá thị trường) của hàng hoá. Nếu bên có nghĩa vụ
gây ra thiệt hại cho bên có quyền thì phải bồi thường cả thiệt hại sau khi đã thanh toán giá
trị hàng hoá cho bên có quyền.
5.2.2. Phạt vi phạm hợp đồng (Điều 300 Luật Thương mại 2005)
Là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm
hợp đồng nếu hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách. Mức phạt vi phạm
do các bên thoả thuận, nhưng tổng mức phạt không 8% gía trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị
vi phạm.
25

×