Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Một số biện pháp cơ bản chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn quận hải an TP hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.59 KB, 98 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi thông tin
trích dẫn trong luận văn đều ghi rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày

LỜI CẢM ƠN

i

tháng

năm 2015


Cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các đơn vị, cá nhân
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành bản luận văn này.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. VŨ
CÔNG NHĨ đã trực tiếp hướng dẫn và đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn. Tôi xin chân thành cảm
ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Hàng hải, Viện Đào tạo sau đại học cùng
toàn thể quý thầy cô đã tận tình giúp đỡ trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin chân trọng cảm ơn các các đồng nghiệp, các cơ quan ban
ngành, Cục thuế thành phố Hải Phòng, đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập,
tìm kiếm số liệu, tài liệu.
Xin cảm ơn các bạn đồng môn đã đóng góp ý kiến giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.

MỤC LỤC



ii


Hải Phòng, ngày tháng năm 2015....................................................................................i
1.Tính cấp thiết của Đề tài...........................................................................................1
2.Mục đích nghiên cứu................................................................................................2
Đánh giá thực trạng công tác chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa
bàn nghiên cứu trong thời gian qua, rút ra những thuận lợi, những hạn chế, bất cập
trong công tác chống thất thu thuế, chỉ rõ nguyên nhân, từ đó đề xuất các biện pháp
cơ bản nhằm tăng cường công tác chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp trên
địa bàn Quận Hải An - TP Hải Phòng..........................................................................2
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài................................................................2
Đối tượng nghiên cứu: Công tác chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp trên
địa bàn Quận Hải An – TP Hải Phòng..........................................................................2
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số sắc thuế cơ bản thường áp dụng cho các
doanh nghiệp. Các số liệu minh họa được thu thập từ năm 2011-2014. Từ đó có
những giải pháp tăng cường công tác chống thất thu thuế ở các doanh nghiệp trên
địa bàn Quận Hải An – TP Hải Phòng..........................................................................2
5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài..................................................................3
6.Kết cấu và nội dung đề tài........................................................................................3

iii


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu


Ý nghĩa

1

TP

Thành phố

2

NSNN

Ngân sách nhà nước

3

UBND

Ủy ban nhân dân

4

KH

Kế hoạch

5

NQD


Ngoài quốc doanh

6

GTGT

Giá trị gia tăng

7

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

8

TNCN

Thu nhập cá nhân

9

BVMT

Bảo vệ môi trường

10

SDĐPNN


Sử dụng đất phi nông nghiệp

11

NN

Nông nghiệp

DANH MỤC CÁC BẢNG

iv


Số bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5

Tên bảng
Kết quả thu ngân sách Quận Hải An giai đoạn 2011 –
2014
Kết quả thu thuế ngoài quốc doanh Quận Hải An giai
đoạn 2011 – 2014
Kết quả truy thu thuế hàng năm
Phân tích tình hình nợ thuế theo nhóm trong giai đoạn
2011-2014
Phân tích tình hình nợ thuế theo khu vực kinh tế giai

đoạn 2011-2014

v

Trang
36
41
45
49
51


DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hình
2.1
2.2

Tên hình
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của cục thuế TP Hải Phòng
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của chi cục thuế Quận Hải An –
TP Hải Phòng

vi

Trang
27
32



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số biểu đồ
2.1

Tên biểu đồ
Tổng giá trị thuế đã thu địa bàn Quận Hải An giai
đoạn 2011-2014

Trang
40

2.2

Số thuế truy thu Quận Hải An 2011-2014

46

2.3

Số tiền phạt thuế Quận Hải An 2011-2014

46

2.4
2.5

Kết quả truy thu thuế hàng năm Quận Hải An 20112014
Tổng số tiền thuế nợ đến 31/12 thời kỳ 2011-2014


vii

47
52


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của Đề tài
Hoà nhịp cùng với thành phố cảng, trong những năm qua dưới sự lãnh

đạo của Đảng, Chính phủ, trực tiếp là sự lãnh đạo chỉ đạo của Thành Uỷ, hội
đồng nhân dân, ủy ban Thành phố, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế, của các cấp
Uỷ Đảng, Chính quyền địa phương, sự quan tâm hỗ trợ của các Sở ban ngành,
Đoàn thể, các tổ chức kinh tế, cá nhân kinh doanh và sự quyết tâm, chung sức
đồng lòng của toàn thể cán bộ, công chức ngành thuế Hải Phòng... Cục thuế
thành phố Hải Phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai các biện pháp
để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ thu Ngân sách Nhà nước, phấn đấu hoàn thành
toàn diện các chỉ tiêu thu đã được Chính phủ, Thành phố giao. Số thu năm sau
cao hơn năm trước, trong đó văn phòng Cục thuế quản lý thu trên 70% tổng
số thu của toàn Ngành.
Tuy nhiên, những năm gần đây bên cạnh những thuận lợi nhất định
cũng còn không ít khó khăn, thách thức: Nền kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều
diễn biến phức tạp, khó lường; tốc độ tăng trưởng giảm sút, bất ổn về chính
trị, xã hội ở một số quốc gia, khu vực đã tác động đến nền kinh tế Việt Nam.
Trong nước, kinh tế vĩ mô chưa ổn định, lạm phát còn ở mức cao, thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp. Ngoài ra, tình hình chấp hành chính sách pháp
luật thuế của các tổ chức, cá nhân còn chưa nghiêm chỉnh, chưa kịp thời, nguy
cơ thất thu thuế tại các doanh nghiệp là khó tránh khỏi.

Vì vậy, sau khi kết thúc chương trình học, tác giả lựa chọn đề tài:
“Một số biện pháp cơ bản chống thất thu thuế đối với các doanh
nghiệp trên địa bàn Quận Hải An - TP Hải Phòng” làm đề tài luận văn
thạc sĩ.

1


2.

Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng công tác chống thất thu thuế đối với các doanh

nghiệp trên địa bàn nghiên cứu trong thời gian qua, rút ra những thuận lợi,
những hạn chế, bất cập trong công tác chống thất thu thuế, chỉ rõ nguyên
nhân, từ đó đề xuất các biện pháp cơ bản nhằm tăng cường công tác chống
thất thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Quận Hải An - TP Hải
Phòng.
3.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Công tác chống thất thu thuế đối với các doanh

nghiệp trên địa bàn Quận Hải An – TP Hải Phòng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số sắc thuế cơ bản thường áp
dụng cho các doanh nghiệp. Các số liệu minh họa được thu thập từ năm
2011-2014. Từ đó có những giải pháp tăng cường công tác chống thất thu
thuế ở các doanh nghiệp trên địa bàn Quận Hải An – TP Hải Phòng.
4.


Phương pháp nghiên cứu
Đánh giá khách quan và đúng bản chất tình trạng công tác chống thất

thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn. Từ đó chỉ ra hạn chế và đề ra
mục tiêu, yêu cầu, nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện biện
pháp chống thất thu thuế ở các doanh nghiệp, đáp ứng phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa đất nước.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp sau:
-

Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Phương pháp thống kê
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp đối chiếu, so sánh
Ngoài ra luận văn còn kết hợp một số phương pháp diễn giải, phương

pháp phân tích…

2


5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thông qua việc hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về thuế, các

sắc thuế áp dụng cho doanh nghiệp và công tác chống thất thu thuế ở các
doanh nghiệp, đã đánh giá được cơ bản thực trạng công tác chống thất thu
thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Quận Hải An nói riêng, TP Hải

Phòng nói chung, chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém trong
công tác chống thất thu thuế, từ đó đề xuất các biện pháp khắc phục những
hạn chế trên nhằm tăng cường công tác chống thất thu thuế đối với các doanh
nghiệp này trong thời gian tới.
6.

Kết cấu và nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong 03 chương:
Chương I. Lý luận chung về thất thu thuế và sự cần thiết phải tăng

cường chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp .
Chương II. Thực trạng thất thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa
bàn Quận Hải An – TP Hải Phòng.
Chương III. Một số giải pháp cơ bản chống thất thu thuế đối với các
doanh nghiệp trên địa bàn Quận Hải An – TP Hải Phòng.

3


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẤT THU THUẾ VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG CHỐNG THẤT THU THUẾ ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về thu ngân sách và thuế
1.1.1. Khái quát chung về thu ngân sách
Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà
nước dùng quyền lực chính trị để thực hiện phân phối các nguồn tài chính dưới
hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ của Nhà nước. Như vậy, thu ngân
sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà
nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước đáp ứng cho các yêu cầu chi tiêu
xác định của nhà nước.

Nét nổi bật của việc thu ngân sách nhà nước là: trong bất cứ xã hội nào,
cơ cấu các khoản thu ngân sách nhà nước đều gắn liền với chức năng, nhiệm
vụ và quyền lực chính trị của Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của
Nhà nước là điều kiện xuất hiện các khoản thu NSNN. Ngược lại, các khoản
thu ngân sách nhà nước là tiền đề vật chất không thể thiếu để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Một đặc trưng khác của thu ngân sách nhà nước là luôn luôn gắn chặt
với các quá trình kinh tế và các phạm trù giá trị. Kết quả của quá trình hoạt
động kinh tế và hình thức, phạm vi, mức độ vận động của các phạm trù giá trị
là tiền đề quan trọng xuất hiện hệ thống thu ngân sách nhà nước. Nhưng chính
hệ thống thu ngân sách nhà nước lại là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng to
lớn đến kết quả của quá trình kinh tế cũng như sự vận động của các phạm trù
giá trị.
Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt
động kinh tế trong xã hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP
hàng năm là tiền đề đồng thời là yếu tố khách quan hình thành các khoản thu

4


ngân sách nhà nước và quyết định mức độ động viên các khoản thu của ngân
sách nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước ảnh hưởng lớn đến tốc độ, chất lượng và tính
bền vững trong phát triển của một quốc gia. Trong cơ cấu thu, nguồn thu nội
địa phải luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Không thể nói đến sự phát triển bền
vững nếu thu từ ngoài nước (vay nợ, nhận viện trợ từ nước ngoài) và các
khoản thu có liên quan đến yếu tố bên ngoài (thuế nhập khẩu, tiền bán tài
nguyên thiên nhiên ra bên ngoài …) chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu.
Trong cơ cấu thu ngân sách của hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế
luôn là nguồn thu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất bởi nó được trích xuất chủ

yếu từ những giá trị do nền kinh tế tạo ra và thể hiện rõ nét quyền lực nhà
nước. Nền kinh tế quốc dân càng phát triển với tốc độ cao thì nguồn thu của
nhà nước từ thuế chiếm tỷ trọng càng lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước.
Thu NSNN bao gồm thuế, các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động kinh tế
của nhà nước, thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ và
các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Quản lý thu ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước sử dụng hệ
thống các công cụ chính sách, pháp luật để tiến hành quản lý thu thuế và các
khoản thu ngoài thuế vào NSNN nhằm đảm bảo tính công bằng khuyến khích
SXKD phát triển. Đây là khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách mà
không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp ngân
sách. Phần lớn các khoản thu ngân sách nhà nước đều mang tính chất cưỡng
bức, bắt buộc mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phải tuân thủ thực hiện
[14].
Trong việc quản lý các nguồn thu ngân sách, thuế là nguồn thu quan
trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách
nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh

5


tế quốc dân. Để phát huy tốt tác dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế, ở
nước ta cũng như các nước khác trên thế giới, nội dung của chính sách thuế
thường xuyên thay đổi cho phù hợp với diễn biến thực tế của đời sống kinh tế xã hội và phù hợp với yêu cầu của quản lý kinh tế, tài chính. Các sắc thuế chủ
yếu hiện đang được áp dụng ở nước ta hiện nay gồm có: Thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông
nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất.... Do đó nâng cao quản lý
thu thuế cũng là một nhiệm vụ tối quan trọng trong công tác quản lý thu ngân
sách nhà nước.

Công tác quản lý thu thuế là một công tác kinh tế xã hội tổng hợp.
Nhiệm vụ chính trị của ngành Thuế là tổ chức triển khai các chủ trương, chính
sách, pháp luật về thuế và trực tiếp tổ chức thu Ngân sách trên địa bàn. Quản lý
thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan thuế nhằm đảm
bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước
theo quy định của pháp luật. Quản lý thuế có vai trò bảo đảm cho chính sách
thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Chính
sách thuế được thiết kế nhằm thực hiện những chức năng cao cả của thuế như
điều tiết kinh tế vĩ mô phục vụ mục tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân
phối thu nhập nhằm bảo đảm sự công bằng giữa các tầng lớp dân cư trong xã
hội. Tuy nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực nếu quản lý thuế thực
hiện điều hành, giám sát tốt để ai là người nộp thuế thì phải nộp thuế và người
nộp thuế phải nộp đúng, nộp đủ và nộp đúng hạn số thuế phải nộp vào ngân
sách nhà nước. Vì vậy, có thể khẳng định Quản lý thuế có vai trò quyết định
cho sự thành công của từng chính sách thuế.

6


1.1.2. Khái quát chung về thuế
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế
giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm Thuế, bởi lẽ góc độ
nghiên cứu có nhiều khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đưa ra khái
niệm về Thuế mới chỉ nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của Thuế mà
mình muốn khai thác hoặc tìm hiểu, chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của
phạm trù Thuế. Chẳng hạn theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất
đơn giản: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp
của những người công dân của Nhà nước đó là Thuế khoá”.
Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass
và Bryan Lowes, đứng trên góc độ đối tượng chịu thuế đã cho rằng: "Thuế là

một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được
của các cá nhân hay doanh nghiệp (Thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng
hoá và dịch vụ (Thuế gián thu) và trên tài sản" [15]
Một khái niệm khác về Thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong
cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ, dựa trên cơ sở đối giá như
sau: "Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao
bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ,
mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào
cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi
phạm pháp luật". [14]
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm
hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi
tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế, Thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc
mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật

7


định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
Nhà nước.
Trên góc độ kinh tế học, Thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà
nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực
tư sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà
nước.[14]
Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều góc độ khác
nhau, nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn
đang được áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển
hình là khái niệm về Thuế của Gaston Jèze đưa ra trong giáo trình Tài chính

công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái
niệm tổng quát về Thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với Nhà nước; không mang
tính chất đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để
trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng. [14]
1.2.

Các sắc thuế đối với các doanh nghiệp
Trong những năm qua để đảm bảo cho nền kinh tế ổn định tiến tới tăng

trưởng và phát triển, Nhà nước ta đã sử dụng thuế như là một công cụ quan
trọng nhất để quản lý kinh tế. Với các doanh nghiệp nói chung kể cả các
doanh nghiệp có vốn của Nhà nước hay các doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế khác bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau do đó, với các doanh
nghiệp này áp dụng hầu hết các sắc thuế trong hệ thống thuế Việt Nam, đó là:
Thuế giá trị gia tăng, Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
xuất nhập khẩu, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng
đất, thuế tài nguyên, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất, thuế nhà đất (thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp), các khoản thu trên vốn của doanh nghiệp Nhà

8


nước. Ngoài ra còn các khoản phí, lệ phí mang tính chất thuế: thuế môn bài, lệ
phí trước bạ, lệ phí chứng thư...
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh áp dụng một số sắc thuế
chính như: Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân, thuế xuất nhập khẩu...
-


Thuế giá trị gia tăng [15]
Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp vận tải là

phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng, theo đó:
Thuế giá trị gia tăng = thuế giá trị gia tăng đầu ra - thuế giá trị gia tăng
đầu vào được khấu trừ
-

Thuế thu nhập doanh nghiệp [15]
Doanh nghiệp vận tải không được ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập

doanh nghiệp và được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
thông thường là 25%
Doanh nghiệp vận tải nếu sử dụng nhiều lao động nữ, sử dụng nhiều lao
động là người dân tộc thiểu số sẽ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng
số chi thêm cho lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số.
-

Thuế thu nhập cá nhân [15]
Đối với doanh nghiệp vận tải thuế thu nhập cá nhân chủ yếu là thuế thu

nhập cá nhân từ tiền lương tiền công.
Cá nhân làm việc tại các doanh nghiệp vận tải hầu hết là người Việt
Nam có thu nhập bình quân thường cao hơn các ngành nghề khác do đặc thù
riêng là làm việc trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, lao động nặng nhọc,
thường xuyên xa nhà, đồng thời được hưởng phụ cấp cao, phần làm việc thêm
giờ…
Thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền lương, tiền công, các khoản có tính
chất tiền lương, tiền công; Các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định; Tiền thù


9


lao dưới các hình thức; Tiền thưởng và các khoản lợi ích khác mà người lao
động nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền;
Thu nhập miễn thuế là thu nhập từ tiền lương, tiền công làm việc ban
đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban
ngày, làm trong giờ theo quy định của Bộ luật Lao động.
Thu nhập chịu thuế sau khi trừ đi các khoản giảm trừ theo quy định thì
được thu nhập tính thuế.
Các khoản giảm trừ bao gồm: các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải
tham gia bảo hiểm bắt buộc, các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo... và giảm
trừ gia cảnh đối với bản thân người lao động và người phụ thuộc.
Thuế thu nhập cá nhân được tính bằng thu nhập tính thuế nhân với thuế
suất. Thuế suất áp dụng đối với tiền lương tiền công là biểu thuế suất lũy tiến
từng phần với 7 mức từ 5% đến 35%.
-

Thuế xuất nhập khẩu [15]
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải nộp thuế nhập khẩu, thuế

xuất khẩu đối với hàng hóa nhập từ nước ngoài để phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp và đối với sản phẩm của doanh
nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài.
1.3. Thất thu thuế
1.3.1. Khái niệm về thất thu thuế
Lịch sử đã chứng minh thuế ra đời là cần thiết khách quan gắn liền với
sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.

Thất thu thuế là những khoản tiền thuế không thu được từ đối tượng
nộp thuế theo quy định của luật thuế, pháp lệnh thuế và những khoản thu đáng
lẽ được thu vào ngân sách nhà nước nhưng lại không thu được. Trong đó thất
thu thuế gồm thất thu thực và thất thu tiềm năng. [14]

10


-

Thất thu thuế thực: là những khoản tiền thuế không thu được vào ngân

sách nhà nước từ những tổ chức, các cá nhân, các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh theo quy định của luật thuế. [14]
Thất thu thuế tiềm năng: là những trường hợp luật thuế còn bỏ sót
nguồn thu từ hoạt động kinh doanh của của các doanh nghiệp mà đáng lẽ số
tiền này được nộp vào ngân sách nhà nước nhưng do luật thuế chưa quy định
nên không thu được.[14]
Dạng thất thu thuế là những biểu hiện bên ngoài của thất thu thuế theo
những tiêu thức nhất định. Do vậy có thể khái quát các dạng thất thu thuế cơ
bản như sau:
-

Thất thu thuế do không bao quát hết số cơ sở sản xuất, kinh doanh:

Tình trạng này xảy ra do các cơ sở sản xuất, kinh doanh không đăng ký kinh
doanh, không đăng ký mã số thuế hoặc có thể đăng ký kinh doanh nhưng
không đăng ký mã số thuế nhưng vẫn tiến hành sản xuất, kinh doanh. Ngoài
ra cũng có thể do các cơ sở này xin tạm nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn
tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Nhiều đối tượng cố tình kê khai không đúng số thuế đáng lẽ phải nộp
theo quy định của pháp luật cũng như thực tế mà họ đang kinh doanh. Các
doanh nghiệp cũng như các hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai thấp hơn
nhiều so với số thuế thực tế phải nộp bằng cách khai tăng chi phí, giảm doanh
thu thậm chí khai sai thuế suất.
Các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tìm mọi
cách để trốn, lậu thuế như lập 2 hệ thống sổ sách kế toán để đối phó với cơ
quan thuế, thực tế cho thấy nhiều kế toán của các công ty “sở hữu” hàng trăm
chữ ký khác nhau.
Trốn thuế thông qua buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới không
những không giảm mà có chiều hướng ngày càng tăng và phức tạp hơn trước.
Thất thu từ hoạt động xây dựng, du lịch lữ hành, vận tải tư nhân, cho
thuê nhà nghỉ còn lớn do nhà nước chưa có các biện pháp quản lý các hoạt

11


động này có hiệu quả.Các cá nhân, các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp
thường không khai báo, không đăng ký nộp thuế nhằm trốn, tránh nghĩa vụ
thuế với nhà nước.
Thất thu do không bao quát hết thu nhập của người nộp thuế cũng như
số lượng người phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay số lượng người lao
động hành nghề tự do ở nước ta còn lớn, thu nhập của người lao động ở nước
ta có từ nhiều nguồn thu khác nhau và thường lớn hơn nhiều so với quỹ lương
nhưng nhà nước mới chỉ quản lý được phần thu nhập thông qua quỹ lương mà
cá cơ quan, đơn vị chi trả, còn những khoản thu nhập từ các nguồn khác thì
chưa có biện pháp quản lý hiệu quả.
Thất thu thuế từ các khoản phí, lệ phí do chưa có biện pháp quản lý có
hiệu quả ví dụ như tình trạng mua, bán vé cầu đường giả diễn ra rất “tấp nập”
mà nhà nước chưa có biện pháp quản lý.

Vì lợi ích cá nhân cán bộ thuế móc ngoặc với người nộp thuế để làm
giảm số thuế phải nộp vào NSNN để chia chác.
Tình trạng thất thu thuế nói trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong
đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
-

Do xuất phát từ người nộp thuế: Trong lịch sử phát triển của xã hội nhà

nước ra đời là tất yếu khách quan trong xã hội có giai cấp. Để có thể đảm bảo
quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước cần có nguồn tài chính để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của mình. Nguồn này được lấy bằng cách động viên một
phần thu nhập của các tầng lớp trong xã hội. Với quyền lực của mình nhà
nước đặt ra các loại thuế buộc mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội phải tuân
theo. Nhu cầu chi tiêu của nhà nước càng nhiều thì mức động viên của thuế
càng cao. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các nhà kinh
doanh là tối đa hóa lợi nhuận, vì vậy họ luôn tìm cách để làm tăng doanh thu,
giảm chi phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, mà thuế cũng là
một khoản chi mà họ phải nộp cho nhà nước nên sẽ làm giảm lợi nhuận mà họ

12


thu được. Do đó vì lợi ích của mình họ luôn tìm cách làm giảm số thuế đáng
lẽ phải nộp mà trốn được thuế không phải nộp thì càng tốt. Như vậy trong
thuế luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của người
kinh doanh, vì lẽ đó tình trạng thất thu thuế là không thể tránh khỏi.
Các cơ quan quản lý nhà nước chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công
tác quản lý thuế. Chính quyền các cấp chưa tích cực tạo điều kiện thuận lợi
cho cơ quan thuế làm việc.
Nguyên nhân từ cơ quan thuế: Có thể do trình độ quản lý còn yếu, bộ

máy tổ chức kém hiệu quả, hay có thể do trình độ chuyên môn của cán bộ
quản lý chưa cao hoặc có thể do chính sách thuế thay đổi liên tục, diễn giải
không rõ ràng, còn có những thiếu sót, sơ hở dẫn đến việc hiểu sai luật thuế
do đó sẽ dẫn đến thực hiện sai. Hoặc cũng có thể do trình độ cán bộ còn yếu
nên không thể phát hiện ra những gian lận, sai sót trong các hóa đơn, chứng
từ, sổ sách do vậy người nộp thuế có thể trốn thuế.
Thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế đã được cải thiện nhiều song
vẫn còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho người nộp thuế. Nhiều quy trình
quản lý thuế chưa được rà soát, xem xét sửa đổi do vậy gây tâm lý sợ đến cơ
quan thuế của người nộp thuế.
Công tác kiểm tra, thanh tra thuế mặc dù đã được cải thiện nhưng hiệu
quả chưa cao. Tình trạng chưa nắm bắt đủ thông tin, đánh giá đúng đối tượng
mà vẫn tiến hành kiểm tra, thanh tra do vậy không phát hiện được vi phạm
của các cơ sở. Bên cạnh đó việc xử lý các hành vi trốn thuế, lậu thuế còn chưa
nghiêm, mức xử phạt còn quá nhẹ không có tính răn đe khiến cho tình trạng
trốn thuế, buôn lậu vẫn tái phạm.
Hệ thống thuế ngày càng tăng cả về số lượng và thể loại, nhiều loại
thuế có mức thuế suất còn quá cao, nhưng nhiều loại thuế lại có mức thuế suất
lại quá thấp do vậy chưa đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp
và người lao động chính vì vậy mà việc thực hiện thuế còn gặp nhiều khó
khăn.

13


1.3.2. Phân loại và nguyên nhân gây thất thu thuế
Thất thu thuế do điều kiện khách quan
Các điều kiện khách quan dẫn đến việc thất thu thuế bao gồm: Thiên
tai, chính trị, kinh tế suy thoái chậm phát triển, tỷ lệ lạm phát tăng cao thất
nghiệp ảnh hưởng tới căn cứ tính thuế gây ra tình trạng thất thu thuế.

Thất thu thuế do chính sách thuế
Chính sách thuế và các văn bản quy phạm pháp luật về thuế có ảnh
hưởng lớn đến việc thất thu thuế. Cụ thể như: Chính sách pháp luật thuế chưa
đồng bộ, chặt chẽ, chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời để phù hợp với tình
hình thực tế, sự phát triển kinh tế xã hội. Mức thuế suất còn còn một số điểm
chưa phù hợp với thực tiễn, quy định về thuế còn nhiều kẽ hở để các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp vận tải biển nói riêng trốn lậu thuế.
Thất thu thuế do công tác quản lý thuế
Sự yếu kém về năng lực trình độ chuyên môn, một bộ phận cán bộ,
công chức chưa nêu cao tình thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, chưa
thường xuyên học tập, trau rồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, rèn
luyện phẩm chất đạo đức còn hạn chế, thoái hóa biến chất đã đặt lợi ích cá
nhân lên trên nhiệm vụ của ngành thuế, chưa thực hiện nghiêm túc điều 18,
19, 20 luật cán bộ công chức quy định. Bên cạnh đó cơ quan thuế thiếu cơ sở
hạ tầng, phương tiện làm việc, thiếu sự phối kết hợp của các ban ngành chức
năng để thực hiện thanh tra kiểm tra cưỡng chế nợ thuế.
Thất thu thuế do đối tượng nộp thuế
Một số doanh nghiệp vận tải biển không tự giác tìm mọi thủ đoạn để
trốn thuế, không chấp hành chế độ thu nộp Ngân sách, không nộp kịp thời các
khoản thuế theo số tự tính, tự kê khai của đơn vị và thông báo của cơ quan
thuế. Phương tiện vận tải tại các doanh nghiệp cũ kỹ lỗi thời so với các nước
trong khu vực cũng như các nước trên thế giới nên khả năng khai thác dịch vụ
vận tải biển của các doanh nghiệp giảm.
1.3.3. Hậu quả của thất thu thuế

14


Thất thu thuế xảy ra sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đất nước
như:

-

Ảnh hưởng tới chi tiêu của nhà nước
Thuế là nguồn thu chủ yếu của nhà nước, ở nước ta thu từ thuế đóng

góp khoảng 80% vào ngân sách (trừ thu từ dầu). Thông qua việc thu thuế nhà
nước tập trung một phần nguồn lực xã hội vào tay mình để tiến hành hoạt
động, tuy nhiên khi xảy ra tình trạng thất thu thuế thì nguồn thu của nhà nước
sẽ giảm đi, khi đó sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu của nhà nước. Đứng
trước tình hình đó nhà nước buộc phải:
+ Giảm bớt các khoản chi đã dự định: Khi đó kế hoạch của nhà nước sẽ
phải thay đổi, do vậy các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội có thể sẽ không đạt được
như kế hoạch đã đề ra.
+ In thêm tiền chi tiêu để thực hiện theo kế hoạch đã đề ra: Khi đó
lượng tiền đưa vào lưu thông quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sự ổn định và phát triển của đất nước.
+ Vay nợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước: Khi đó sẽ để
lại ghánh nặng nợ trong tương lai nhất là khi các khoản đầu tư này không
mang lại hiệu quả như mong muốn.
-

Ảnh hưởng đến việc điều chỉnh, định hướng cơ cấu nền kinh tế
Thông qua chính sách thuế nhà nước có thể điều chỉnh cơ cấu nền kinh

tế theo vùng, theo lãnh thổ, theo lĩnh vực đảm bảo sự phát triển hài hòa, đồng
đều giữa các vùng trong cả nước.
Để thúc đẩy phát triển ở một vùng có kinh tế lạc hậu, bằng việc thi
hành chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư ở vùng đó, như miễn thuế trong
một khoảng thời gian, ưu đãi về thuế suất… để kêu gọi đầu tư, tuy nhiên mục
tiêu của nhà kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận do vậy khi nghiên cứu họ thấy

là nếu tiến hành kinh doanh tại địa bàn đang được khuyến khích mặc dù có lợi

15


nhuận nhưng nếu thấp hơn ở vùng mà họ đang kinh doanh do họ đã tìm được
cách trốn thuế, lậu thuế thì rất khó để thu hút họ đầu tư vào đó. Hoặc để thúc
đẩy những ngành nghề, lĩnh vực mà nhà nước cần phát triển mặc dù có những
ưu đãi về thuế nhưng ở lĩnh vực mà họ đang kinh doanh mà họ trốn lậu được
thuế thì cũng khó để họ đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích do
vậy có thể làm cho nền kinh tế phát triển không bền vững.
Ảnh hưởng đến mọi mặt xã hội
Một trong những mục tiêu của thuế là đảm bảo công bằng xã hội, tuy
nhiên khi xảy ra tình trạng thất thu thuế thì có doanh nghiệp nhà nước thu đủ
thuế, có doanh nghiệp nhà nước chỉ thu được một phần thuế, thậm chí có
doanh nghiệp nhà nước không thu được thuế do đó sẽ có sự không công bằng
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Ngoài ra thông qua thu
thuế, nhà nước có nguồn tài chính để thực hiện phân bổ lại của cải xã hội. Ví
dụ như xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng còn khó khăn, chi trợ cấp cho người
nghèo…nhưng khi thất thu thuế xảy ra thì nhà nước có thể sẽ không có khả
năng để thực hiện.
Bên cạnh đó khi xảy ra tình trạng thất thu thuế còn tạo ra sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, những doanh nghiệp trốn được thuế
sẽ có lợi thế hơn những doanh nghiệp không trốn được thuế. Khi đó còn ảnh
hưởng đến kỷ cương xã hội, những doanh nghiệp trốn thuế họ tìm cách lẩn
tránh sự kiểm tra của nhà nước, thậm chí còn tìm cách khác để trốn thuế tiếp,
còn các doanh nghiệp trước kia không trốn thuế nhưng thấy doanh nghiệp
khác trốn được, có lợi thế trong kinh doanh thì họ có thể noi gương mà vi
phạm.
Như vậy có thể thấy rằng thất thu thuế có ảnh hưởng nghiêm trọng đến

mọi mặt của xã hội, đến sự phát triển bền vững của đất nước. Do vậy chống
thất thu thuế là đòi hỏi khách quan của mọi nền kinh tế.

16


1.4.

Sự cần thiết phải tăng cường chống thất thu thuế đối với các doanh

nghiệp
Thành phố Hải Phòng được xác định là đô thị trung tâm cấp quốc gia,
một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch của cả
nước và của vùng duyên hải Bắc Bộ; Hải Phòng còn là một cực tăng trưởng
tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh,
đồng thời là cửa ngõ quốc tế về cảng biển, nơi tập trung một lượng lớn nhu
cầu về vận tải hàng hóa xuất khẩu.
Thành phố Hải Phòng hiện nay vẫn không ngừng quy hoạch mở rộng,
hình thành các khu công nghiệp, thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài
nước đầu tư vào thành phố, đồng thời cũng hình thành ngày càng nhiều các
doanh nghiệp vận tải tham đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa. Tuy nhiên quản
lý thuế đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải trong thời gian qua còn
bộc lộ nhiều hạn chế làm ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu phát triển chung
của đất nước. Để có thể phát huy được tối đa vai trò của mình thì yêu cầu đặt
ra là trong thời gian tới là cần phải tăng cường công tác quản lý thuế mà đặc
biệt là hoạt động chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp kinh doanh cần
phải đi trước một bước, điều này đã được Chính phủ, Bộ Tài chính và Tổng
cục Thuế rất quan tâm và chú trọng.
Với chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân, thuế bằng nhiều cách
hình thành nên nguồn tài chính tập trung lớn nhất phục vụ cho chi tiêu công

cộng, đó là Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước được tập hợp từ nhiều
nguồn thu khác nhau, nhằm đảm bảo yêu cầu chi tiêu chung cho nhu cầu công
cộng. Trong tất cả các nguồn, thông thường số thu về thuế chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng số thu Ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn thu ổn định nhất
được kế hoạch hoá tốt trên cơ sở dự báo kế hoạch và tiềm năng phát triển kinh
tế của đất nước trong một năm. Hầu như mọi khoản chi tiêu của Ngân sách

17


Nhà nước đều dựa vào sự đóng thuế của người dân. Vì vậy, việc chống thất
thu thuế đối với các doanh nghiệp vận tải nói riêng và với toàn bộ các người
nộp thuế nói chung là cần thiết để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước.
Từ khi nước ta thực hiện đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho các thành phần trong xã hội có thể tự do sản xuất, kinh
doanh theo quy định của pháp luật trong đó có việc tự do lựa chọn loại hình
doanh nghiệp. Nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức trong xã hội được tự
do sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhờ chính sách thông
thoáng của Nhà nước, đặc biệt là khi luật doanh nghiệp 2005 được áp dụng và
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta, cùng với sự hội nhập ngày
càng sâu rộng vào kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát
triển ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô, số lượng và lĩnh vực hoạt động. Các
doanh nghiệp Trung Ương và địa phương đã đóng góp vào sự tăng trưởng và
phát triển của đất nước. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay việc chống thất thu thuế
đối với các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Mặc dù luật thuế đã thực hiện
được một thời gian khá dài nhưng công tác quản lý chưa chặt chẽ vẫn còn
nhiều kẽ hở vì vậy một số doanh nghiệp đã lợi dụng để trốn, lậu thuế, do đó
một trong những nhiệm vụ quan trọng là tăng cường chống thất thu đối với

các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tránh thất
thoát cho Ngân sách Nhà nước. Hiện nay nước ta ngày càng hội nhập sâu với
kinh tế thế giới do vậy nhiều loại thuế đang được cắt giảm theo những hiệp
định đã ký kết nhất là các loại thuế xuất nhập khẩu, đồng nghĩa với việc cắt
giảm các loại thuế này là Ngân sách Nhà nước sẽ mất đi một khoản thu đáng
kể do vậy mà việc chống thất thu thuế ngày càng trở lên cấp thiết.

18


×