Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TÓM TẮT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.62 KB, 34 trang )

Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

TÓM TẮT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
Chuẩn bị bởi
Nhóm Công tác Nông nghiệp
GIỚI THIỆU
Báo cáo này phản ánh những mối quan tâm và những vấn đề ảnh hưởng đến cộng đồng doanh
nghiệp quốc tế tại Việt Nam trong lĩnh vực Nông nghiệp. Thông tin của báo cáo này được đóng
góp từ các thành viên của nhóm Công tác Nông nghiệp thuộc Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
(VBF), Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) và Tiểu ban Thực phẩm, Nông nghiệp và Nuôi trồng
Thủy sản (FAASC) thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham). Tôi xin chân
thành cảm ơn các thành viên đã nỗ lực dành thời gian, và đóng góp cho báo cáo này.
Một số vấn đề đã được Nhóm Công tác đưa ra tại các kỳ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
trước đây nhưng vẫn tiếp tục xuất hiện trong bản báo cáo này vì theo quan điểm của chúng tôi
những vấn đề này chưa được quan tâm (đúng mức) hoặc vẫn chưa được giải quyết. Năm nay
chúng tôi đã thêm một mục về An toàn Thực phẩm vì đây là một chủ đề quan trọng trong nhiều
Hiệp định Thương mại Tự do đã được thông qua. Chính phủ đang thực hiện nhiều hành động,
nhưng nếu nhìn vào số lượng lớn những sản phẩm nông nghiệp Việt Nam bị từ chối thông quan
tại các nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, và liên minh châu Âu, thì rõ ràng những hành động này
là chưa đủ.1
Báo cáo này được chia thành 4 phần: những ý kiến đóng góp về Dự thảo Nghị định về những
chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực Nông nghiệp, Quá trình hiện đại hóa và
phát triển bền vững của ngành Nông nghiệp ở Việt Nam, các vấn đề khác liên quan đến Nông
nghiệp như quyền sở hữu trí tuệ, thuốc trừ sâu - phân bón và chúng tôi kết thúc báo cáo với
vấn đề An toàn Thực phẩm. Các vấn đề sẽ được trình bày theo cấu trúc sau: trước hết tóm tắt
sơ lược vấn đề và đề xuất liên quan. Tiếp đó là nội dung chi tiết của những vấn đề này và tác
động của chúng tới ngành Nông nghiệp Việt Nam.
TÓM TẮT
1. Dự thảo Nghị định về những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực


Nông nghiệp
Theo quan điểm của chúng tôi Dự thảo Nghị định còn khá chung chung và thiếu số liệu cụ thể ở
nhiều điểm. Đồng thời Nghị định cũng đưa ra một số quyết định mang tính chủ quan. Hơn nữa,
dự thảo nghị định chỉ áp dụng cho đầu tư nước ngoài. Chúng tôi băn khoăn về vấn đề này khi
Việt Nam đã có một hệ thống luật điều chỉnh thống nhất cho cả đầu tư trong nước và nước
ngoài (Luật Đầu tư 2014). Điều quan trọng là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang tiến
hành Kế hoạch tái cấu trúc nông nghiệp với trọng tâm đẩy mạnh đầu tư cho khối tư nhân cả
trong và ngoài nước.
Dự thảo Nghị định cũng đề xuất một danh sách các phân ngành và tham chiếu tới các địa điểm
được ưu đãi ở Phụ lục 1. Tuy nhiên, lý do ưu đãi đối với những hoạt động và địa điểm này chưa
thực sự rõ ràng. Chúng tôi đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nên tiến hành khảo
sát chính thức các nhà đầu tư để xác định mức độ hiệu quả của những ưu đãi hiện hành cũng
như quyết định một cách khách quan ưu đãi mấu chốt để thu hút nhà đầu tư nước ngoài.

1

Xem báo cáo 2015 của UNIDO về đạt tiêu chuẩn chất lương, tuân thủ các tiêu chuẩn về thương
mại<www.unido.org/tradestandardscompliance.html>

Trang 1/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Cuối cùng, Dự thảo Nghị định đề cập tới công tác xúc tiến đầu tư mà theo chúng tôi còn khá mơ
hồ và không thực sự có ý nghĩa (Chương IV). Chúng tôi đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn và/hoặc Cơ quan cưỡng chế thi hành (thuộc đầu tư khu vực tư nhân) xác định
những dịch vụ và hỗ trợ cụ thể tới nhà đầu tư.

Đề xuất
- Khuyến nghị Dự thảo không nên chỉ giới hạn ở nhà đầu tư nước ngoài mà mở rộng phạm vi
áp dụng đối với cả các nhà đầu tư trong nước;
- Dự thảo nên cụ thể hóa hơn và kết hợp với các hoạt động xúc tiến đầu tư;
- Khuyến nghị tiến hành khảo sát nhà đầu tư chính thức để xác định tính hiệu quả của các
chính sách khuyến khích/ưu đãi trong thu hút các nhà đầu tư nước ngoài; và
- Xác định và cụ thể hóa các dịch vụ và hỗ trợ dành cho nhà đầu tư nước ngoài.
2. Hiện đại hóa và phát triển bền vững ngành Nông nghiệp Việt Nam
Vấn đề cản trở Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu hàng đầu trong thị trường xuất khẩu nông
nghiệp là sự thiếu bền vững, mà một phần bắt nguồn từ thực tế tại Việt Namlà phần lớn các cơ
sở nông nghiệp đều có quy mô nhỏ. Đây là nguyên nhân làm hạn chế sự việc sử dụng máy móc
– phương pháp có thể cải thiện chất lượng và số lượng – vì một hộ làm nông nhỏ đơn lẻ không
thể chi trả được chi phí đầu tư và diện tích đất nền quá nhỏ để sử dụng máy móc. Chính phủ đã
nhận ra vấn đề này cần được giải quyết và đang tiến hành các biện pháp nhằm thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài và phát động nhiều chương trình kêu gọi tài trợ để mục đích hiện đại hóa
và cơ giới hóa trồng trọt trở nên dễ dàng hơn.2 Chúng tôi tin rằng Chính phủ nên hỗ trợ khuyến
khích người nông dân hợp tác. Doanh nghiệp cũng có thể đóng vai trò giới thiệu những biện
pháp hỗ trợ để khuyến khích hợp tác sâu rộng hơn với người nông dân. Chúng tôi nhận thấy
rằng cơ giới hóa sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng nông thôn vì nguồn thu nhập của
nhiều người dân đến từ các hoạt động nông nghiệp, do vậy chúng tôi ủng hộ ý tưởng xây dựng
các nhà máy ở khu vực nông thôn để đảm bảo tỷ lệ việc làm bền vững ở những khu vực này.
Chúng ta cần có kinh phí để hiện thực hóacác chiến lược và chương trình này. Trong những năm
trở lại đây, đầu tư vào nông nghiệp vẫn chưa tương xứng với những đóng góp của nông nghiệp
vào GDP. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ quan điểm được đề xuất trong hội thảo FFTC-NACF (Food
and Fertilizer Technology Center (FFTC) and National Agricultural Cooperative Federation
(NACF), việc đầu tư rất quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và phát triển nông
nghiệp bền vững ở Việt Nam.3 Chúng tôi cũng tin rằng một hệ thống nông nghiệp được hiện đại
hóa và cơ giới hóa sẽ cải thiện sản lượng và chất lượng sản xuất nông nghiệp. Để đạt được điều
này, cần tạo ra một sân chơi bình đẳng về mọi lĩnh vực trong kinh doanh nông nghiệp của các
công ty nước ngoài. Đặc biệt khi xét đến chuyên môn và kiến thức mà những doanh nghiệp này

có thể mang lại để cải thiện nền nông nghiệp Việt Nam. Do vậy, việc cân nhắc cách thức cơ cấu
lĩnh vực nông nghiệp và loại hình sản phẩm xuất khẩu cũng rất quan trọng, thật sự cần thiết và
có khả năng thực hiện. Khi xét tới nhiều ý kiến liên quan, chúng tôi tin rằng Chính phủ đã nhận
thức rõ điều này. Việc mở cửa thị trường để xuất khẩu hàng Việt Nam cũng rất quan trọng,
không chỉ với các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản hay Liên minh châu Âu, mà còn tới cả các quốc
gia láng giềng. Hiện nay Việt Nam đang nhập khẩu sản phẩm từ các nước như Thái Lan hay
Trung Quốc, nhưng việc xuất khẩu sang các quốc gia này vẫn chưa thực sự được đẩy mạnh. Việc
kết nối sản phẩm Việt Nam và tiếp cận các thị trường này cũng như những thị trường khác cần
được tiến hành đàm phán.

2

Xem (vietnamnews.vn/society/263713/farmers-reap-modern-farming-gains.html)
Xem báo cáo của Việt Nam về FFTC-NACF các mối đe doạ và cơ hội của các Hiệp định thương mại tự do trong khu vực châu Á, được tổ chức tại
Hàn Quốc vào ngày 11 Tháng Chín 15, 2013, (www.agnet.org/htmlarea_file/activities/20110719103351/2007013101.pdf )
3

Trang 2/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Dù mức độ đầu tư của Chính phủ hiện chưa đủ, chúng ta vẫn có khả năng hiện đại hóa và cải
tiến thông qua Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và Hợp tác công-tư (PPP). Để thu hút FDI nhiều
hơn, chúng ta cần vượt qua một số thách thức dù Dự thảo Nghị định được đề cập ở phần trước
cũng sẽ có tác dụng hỗ trợ nếu những đề xuất của chúng tôi được đưa ra xem xét. Ví dụ, cần
tạo ra những chính sách thương mại và quy trình quản lý rõ ràng, minh bạch.Hơn nữa, điều
quan trọng là tạo ra sự công bằng khi tiếp cận cho doanh nghiệp và các hộ nông dân quy mô lớn

- nhỏ. Cuối cùng, cần lưu ý rằng hệ thống thuế của chúng ta không cạnh tranh bằng các quốc gia
trong khu vực. 4Chúng tôi đồng ý với quan điểm của Chính phủ rằng một số vùng cần cố gắng
thu hút FDI và sử dụng kỹ thuật canh tác công nghệ cao để phát triển ngành nông nghiệp.
Liên quan tới sự phát triển lâu dài của Hợp tác công-tư PPP, điều quan trọng là cần nhận rõ để
tiếp tục và duy trì thành công này. Chính phủ nên đưa ra một hệ thống giám sát và những chính
sách đúng đắn để đảm bảo người nông dân có thể áp dụng phương pháp thực hành tốt nhất.
Chúng tôi quan ngại rằng nếu điều này không được tiến hành, sẽ không có sân chơi bình đẳng
tất cả các bên tham gia. Việc thiếu những chính sách cụ thể của Chính phủ sẽ dẫn đến nguy cơ
các công ty không đầu tư vào Hợp tác công-tư PPP bất chấp những kết quả tích cực mà PPP đã
mang lại.
Một giải pháp khác để cải thiện sự bền vững của nông nghiệp là việc các công ty cung cấp các
giải pháp dinh dưỡngtheo mùa vụ cho người nông dân. Một trong các hoạt động phổ biến nhất
của các công ty trong lĩnh vực này là tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề với mục đích chuyển
giao công nghệ cao và giúp người nông dân hiểu thêm về cách quản lý dinh dưỡng một cách
thống nhất theo mùa vụ nhằm tăng sản lượng, chất lượng và thu nhập cho họ. Hội nghị khuyến
nông thường được tổ chức theo cấp độ thôn xã. Tuy nhiên, trước khi tiến hành hội nghị, công
ty cần được sự cho phép của Sở Công Thương (DOIT) cấp tỉnh. Chúng tôi tin rằng quy trình tiến
hành có thể được đơn giản hóa và hài hòa hơn, vì việc xin cấp phép cho mỗi hội nghị khá phức
tạp và khác nhau ở mỗi tỉnh thành. Một số vấn đề cũng nảy sinh khi xin cấp phép với người
nước ngoài hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, do vậy,thủ tục này cũng nên được đơn
giản hóa.Ví dụ, có thể dựa trên thực tế công ty đã có giấp phép phân phối, hay trong trường
hợp một người nước ngoài có giấy phép lao động có hiệu lực hoặc thẻ cư trú, những yêu cầu để
được cấp phép nên được bãi bỏ. Cuối cùng, đôi khi vẫn gặp phải trường hợp cơ quan nhà nước
và doanh nghiệp không hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của các quy định.Vì vậy việc tổ chức
những buổi hướng dẫn để nâng cao hiệu quả của quá trình thực hiện vô cùng cần thiết.
Đề xuất
- Nâng cấp ngành nông nghiệp;
- Thúc đẩy hợp tác;
- Tiếp tục tạo cơ hội cho người nông dân tiếp cận các nguồnhỗ trợ tài chính dễ dàng hơn, tiến
hành các biện pháp hỗ trợ nhằm khuyến khích hiện đại hóa và cơ giới hóa nông nghiệp;

- Hỗ trợ nông dân tiếp cận những công việc mới bên cạnh nghề truyền thống bằng cách
khuyến khích xây dựng nhà máy ở khu vực nông thôn;
- Khuyến khích phát triển việc thực hành tốt hoặc phát triển hình thức Hợp tác Công – tư
PPP;
- Phát triển hệ thống giám sát và những chính sách đúng đắn để đảm bảo người nông dân có
thể áp dụng việc thực hành tốt;
- Tạo ra sân chơi bình đẳng trong mọi lĩnh vực bằng cách:
 Tạo cơ hội tiếp cận ngang bằng tới nguồn lực tài chính trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam;
 Tạo cơ hội tiếp cận ngang bằng với các nguồn nguyên liệu thô trong và ngoài Việt Nam;
4

Xem(ap.fftc.agnet.org/ap_db.php?id=106&print=1)

Trang 3/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

-

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

 Đối xử bình đẳng trong việc xin cấp giấy phép kinh doanh; và
 Đối xử công bằng về các yêu cầu trong các lĩnh vực cụ thể khác.
Chuyển đổimặt hàng xuất khẩu từ các sản phẩm chất lượng thấp sang sản phẩm cao cấp;
Chuyển đổi từ phụ phẩm sang các sản phẩm thu hút xuất khẩu
Đa dạng hóa sản phẩm và hỗ trợ công bằng cho các sản phẩm khác như đã hỗ trợ cho cà
phê, trà, tiêu, hải sản và cao su;
Khuyến khích đầu tư vào quy trình sản xuất, giai đoạn sau thu hoạch, quá trình chế biến và
bảo quản;

Tạo cơ hội để sản phẩm Việt Nam tiếp cận thị trường các nước lân cận;
Đơn giản hóa và hài hòa quá trình xin cấp phép để tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề cho
nông dân;
Đơn giản hóa quy trình nhập cảnh của người nước ngoài làm việc cho các công ty đã có giấy
phép phân phối;
Bãi bỏ yêu cầu xin nhập cảnh với người nước ngoài đã có giấy phép lao động còn hiệu lực
hoặc thẻ cư trú; và
Tổ chức các buổi đào tạo/hướng dẫn cho cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp để tăng hiệu
quả thực hiện.

3. Chất lượng của các sản phẩm đầu vào nông nghiệp bao gồm thuốc trừ sâu và phân bón
Một báo cáo gần đây của các chuyên gia đã chỉ ra rằng 50% phân bón không đạt chuẩn hoặc
thậm chí bị làm giả. Báo cáo cũng chỉ ra rằng thất thoát kinh tế ước tính vào khoảng 800 triệu
USD. Số lượng sản phẩm bảo vệ thực vật giả mạo và bất hợp pháp cũng đang tăng lên, gây thiệt
hại rất lớn cho người nông dân và nền nông nghiệp.Thuốc trừ sâu giả hiếm khi được kiểm
nghiệm và còn có thể chứa những tạp chất độc hại có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của
người nông dân và người tiêu dùng.Hơn nữa các sản phẩm giả mạo có thể gây thiệt hại nghiêm
trọng cho cây trồng và có thể dẫn tới việc sản phẩm bị các công ty thực phẩm từ chối bởi mức
độ dư lượng không mong muốn. Tất cả những yếu tố này có thể đe dọa tới nguồn thu của
người nông dân. Chúng tôi tin rằng việc thắt chặt đăng kí và tuân thủ sẽ làm tăng chất lượng các
sản phẩm Việt Nam và cả các sản phẩm xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, vị thế của nông dân
Việt Nam theo đó cũng tăng lên.
Theo quan điểm của chúng tôi việc thiếu các hoạt động kiểm soát đảm bảo việc sử dụng an
toàn và thích hợp các sản phẩm đầu vào và việc sản phẩm đầu vào kém chất lượng được phân
phối tới người nông dân, sẽ dẫn tới những vấn đề môi trường và an toàn. Những hộ nông dân
nhỏ không thể mua những sản phẩm đầu vào chất lượng cao nên không thể cạnh tranh với các
công ty lớn. Tuy nhiên, việc này lại có tác động tiêu cực khá lớn. Việc sử dụng một cách thích
hợp các sản phẩm chất lượng cao sẽ làm giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất cây trồng/ chất
lượng và giamr thiểu tác động của việc sử dụng phân bón tới môi trường. Đồng thời điều quan
trọng là hình thành nhận thức về rủi ro của việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu giả với sức

khỏe con người và cũng như tác động của nó tới danh tiếng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
Các sản phẩm thường bị từ chối nhập khẩu ở một số nước vì dư lượng thuốc trừ sâu hoặc các
hóa chất độc hại khác quá lớn (mà nguyên nhân là do việc sử dụng sản phẩm giả hoặc không
đúng quy cách).Do vậy cần triển khai các chương trình hướng dẫn cũng như vệc chia sẻ thông
tin và công nghệ mới nhất tới người nông dân để cải thiện tình hình này. Việc phân biệt rõ ràng
phân bón NPK và các loại hóa chất khác theo mã HS cũng rất hiệu quả. Chúng tôi cũng cho rằng
các công ty sản xuất hay nhập khẩu sản phẩm chất lượng cao, an toàn cho môi trường và cộng
đồng nên được ưu đãi về một số yêu cầu giấy phép.
Cuối cùng, nhân cơ hội này chúng tôi muốn đóng góp một vài ý kiến về quy định mới trong quản
lý phân bón. Những quy định mới ban hành đã đưa đến một làn gió mới đối với thị trường phân
Trang 4/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

bón. Mục tiêu của những quy định này là để củng cố lại thị trường phân bón tại Việt Nam và
dần xóa bỏ những sản phẩm giả và kém chất lượng. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ những quy
định này tuy nhiên về mặt thực thi cần được cải thiện bởi nhiều khi việc áp dụng những quy
định này lại gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng có chất lượng. Do vậy,
việc tiến hành áp dụng thí điểm chuẩn mực các quy định này để tránh kết quả không chuẩn xác
khi đưa ra áp dụng trên thị trường là đặc biệt cần thiết.
Đề xuất
- Tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc triển khai chặt chẽ
các hoạt động chống hàng giả trên thị trường; thu hồi các sản phẩm bất hợp pháp trên thị
trường;
- Nâng cao nhận thức thông qua truyền thông đa phương tiện của Chính phủ để giải thích về
những rủi ro cho nông dân, cộng đồng và nền kinh tế khi người nông dân sử dụng các sản
phẩm đầu vào giả (rẻ tiền);

- Ban hành các quy chế nghiêm ngặt để kiểm soát thị trường phân bón giả và kém chất lượng;
- Thêm các quy định về quyền sở hữu trí tuệ vào thủ tục đăng kí để đảm bảo việc bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ được bắt đầu từ khi đăng kí;
- Triển khai đánh giá nghiêm ngặt về đăng kí thương hiệu, và bắt buộc loại bỏ những thương
hiệu, logo, hình ảnh tương tự…;
- Giải quyết vấn đề tham nhũng ở cấp địa phương và quy trình chặt chẽ hơn với việc mở cửa
và đóng cửa các công ty đầu vào nhỏ;
- Đưa ra các chương trình giáo dục về cân bằng dinh dưỡng, và cách thức sử dụng sản phẩm
phù hợp, giảm thiểu sử dụng sản phẩm đầu vào quá mức;
- Thiết lập một chương trình đào tạo khuyến khích việc cân bằng dinh dưỡng cây trồng theo
mô hình 4R (sản phẩm đúng, mức độ đúng, thời điểm đúng và địa điểm đúng) cũng như giải
quyết tình trạng sử dụng sai và/hoặc quá liều sản phẩm đầu vào; từ đó sẽ giúp giảm chi phí
sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng và giới hạn tác động của việc sử dụng
phân bón tới môi trường;
- Nâng cao kiến thức của chuyên gia tư vấn khuyến nôngvề dinh dưỡng và bảo vệ cây trồng,
và tác động của các sản phẩm đầu vào nông nghiệp tới môi trường để triển khai các chương
trình đào tạo hiệu quả;
- Khuyến khích chuyển giao kiến thức và nghiên cứu mới tới người nông dân càng sớm càng
tốt;
- Xúc tiến sân chơi bình đẳng bằng cách loại bỏ thuế nhập khẩu với phân NPK có chất lượng
(các loại phân bón được sản xuất bằng công nghệ cao, được thử nghiệm hiệu quả, an toàn
cho sức khỏe con người, không có hoặc ít tác động tới môi trường…) để khuyến khích nhập
khẩu/ sản xuất và sử dụng những sản phẩm này;
- Phân biệt phân bón với các hóa chất nói chung và xác định mã HS thích hợp cho phân bón
để tránh nhầm lẫn về thuế;
- Đảm bảo việc thực hiện các chương trình hướng dẫn bắt buộc ở tất cả các công ty về việc sử
dụng sản phẩm bảo vệ thực vật an toàn;
- Thiết lập hệ thống hỗ trợ quản lý việc sử dụng sản phẩm bảo vệ thực vật an toàn;
- Ban hành chính sách khuyến khích nhà đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng chất lượng để
tiến hành xét nghiệm và giám sát chất lượng của các sản phẩm nông nghiệp đầu ra;

- Loại bỏ quy định về giấy phép sử dụng một lần với các công ty mà giấy phép kinh doanh đã
bao gồm quyền nhập khẩu
- Loại bỏ yêu cầu về thư xác nhận của ngân hàng khi xin giấy phép nhập khẩu phân bón vào
Việt Nam

Trang 5/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

-

-

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Tập trung kiểm tra thị trường nội địa, địa phương để kiểm soát thị trường sản phẩm đầu
vào ở Việt Nam;
Phân biệt giữa công ty có giấy phép sản xuất và phân phối tại địa phương và công ty chỉ có
giấy phép phân phối;
Thiết lập các rào cản kỹ thuật để xóa bỏ việc sử dụng thuốc trừ sâu có độ rủi ro cao và gây
hại cho con người và môi trường;
Khuyến khích việc quản lý có trách nhiệm - đạo đức và việc sử dụng thuốc trừ sâu (chất
lượng cao và an toàn) theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất;
Khuyến khích việc dán nhãn thích hợp cho thuốc trừ sâu đồng bộ với hướng dẫn;
Ban hành các quy định theo từng tiêu chí cụ thể để khuyến khích việc giới thiệu sản phẩm
bảo vệ thực vật mới với kỹ thuật cao và công nghệ hiện đại;
Tiến hành các chương trình giáo dục chất lượng cho người nông dân để khẳng định tầm
quan trọng và lợi ích của việc sử dụng thuốc trừ sâu thích hợp và tuân theo hướng dẫn trên
nhãn mác.

Khuyến khích sử dụng phương pháp lấy mẫu chuẩn để tránh kết quả không đáng tin cậy và
không chính xác
Đưa ra những hướng dẫn giúp các doanh nghiệp thực hiện phương pháp lấy mẫu chuẩn.

4. An toàn thực phẩm
An toàn thực phẩm là một vấn đề quan trọng không chỉ với lĩnh vực nông nghiệp mà còn với cả
cộng đồng. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Thực phẩm không an toàn là nguyên nhân của
các vấn đề sức khỏe của con người từ khi lịch sử được ghi chép lại, và những vấn đề về an toàn
thực phẩm chúng ta gặp ngày nay không còn là vấn đề mới nữa. Tuy các Chính phủ trên toàn
thế giới đang nỗ lực hết mình để cải thiện mức độ an toàn của nguồn cung thực phẩm, sự xuất
hiện của những căn bệnh do thực phẩm gây ra vẫn là một vấn đề y tế nổi cộm ở cả các nước đã
và đang phát triển.5
Trong 9 tháng đầu năm 2015, tổng số ca ngộ độc thực phẩm được báo cáo là 129 ca với 3436
bệnh nhân và 20 trường hợp tử vong. Vấn đề an toàn thực phẩm không chỉ gây bệnh cho con
người mà còn hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam và ảnh hưởng đến uy tín sản phẩm
Việt. Trong năm 2014, ủy ban thương mại EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã nhận được rất nhiều lời
cảnh báo về những lô hải sản có chứa dư lượng thuốc kháng sinh vượt quá mức cho phép.
Trong năm 2015 nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình xuất khẩu đã được báo cáo: xuất khẩu
với Ả Rập Xê Út, Hoa Kỳ và Nhật Bản.6 Từ tháng Một tới nay, Hệ thống cảnh báo nhanh về thực
phẩm và thức ăn chăn nuôi (RASFF) của EU đã từ chối thông quan với 21 sản phẩm từ Việt Nam
nhập khẩu vào các nước thành viên EU. 17 sản phẩm khác bị tạm ngừng thông quan và phải
cung cấp thêm thông tin trước khi quyết định được đưa ra. Trong bối cảnh một loạt các hiệp
định thương mại tự do sẽ được kí kết và phê chuẩn, điều quan trọng là phải giải quyết vấn đề
đa dư lượng (multi-residue levels - MLRs) khi cuộc cạnh tranh ngày một trở nên khốc liệt hơn.7
Nguyên nhân gây nên mức độ dư lượng cao có thể do những thành phần giả mạo và bất hợp
pháp hoặc nguyên liệu thô, việc này sẽ đe dọa tới danh tiếng của các sản phẩm Việt Nam, và

5

‘Cầm nang năm chìa khoá cho an toàn thực phẩm 'của Tổ chức Y tế Thế giới, xem

(áchho.int/iris/bitstream/10665/43546/1/9789241594639_eng.pdf?ua=1)
6
Xem(tuoitrenews.vn/business/28078/vietnam-produce-exports-should-meet-food-hygiene-safety-requirements-in-overseas-markets-ministry)
7
Xem ( />(en.nhandan.org.vn/business/economy/item/3044802-agricultural-export-revenue-sets-new-record-of-us$30-8-billion.html),
(vietnamnews.vn/economy/271524/vn-produce-losing-their-edge.html), (vovworld.vn/en-US/Economy/Expanding-exports-markets-forVietnamese-farm-produce/266152.vov); (vccinews.com/news_detail.asp?news_id=32038) and (www.vir.com.vn/bright-prospects-foragriculture.html)

Trang 6/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

cũng có thể gây nguy hiểm với sức khỏe của nông dân và người tiêu dùng.8 Đôi khi chúng cũng
bao gồm những sản phẩm đã bị cấm từ lâu ở các quốc gia khác, nhưng vẫn chưa bị cấm và được
sử dụng tại Việt Nam; do thiếu quy định rõ ràng, hoặc thiếu các biện pháp cưỡng chế.9
Chúng ta cũng cần nhận thức rằng việc xử lý sau thu hoạch, bảo quản và phân phối chưa đầy đủ
có tác động tới tỷ lệ thành công cũng như vấn đề an toàn thực phẩm của các nước sản xuất.10
Điều này có thể được cải thiện bằng cách giới thiệu một bộ ngành chuyên trách, kết hợp và
điều phối hài hòa các luật và quy định tới Cục An toàn vệ sinh Thực phẩm do. Việc này cũng
đồng nghĩa với việc giảm thiểu rắc rối trong quản lý hơn và việc kiểm soát chất lượng và an toàn
sẽ hiệu quả hơn, đồng thời cho phép các bên liên quan tham gia nhiều hơn.
Hiện nay, Chính phủ đã nhận thức được những vấn đề này và đang tiến hành những biện pháp
bước đầu để giải quyết chúng. Trong năm 2013 và 2014, một loạt quy định đã có hiệu lực.11 Cụ
thể, thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT (Thông tư liên tịch 13) là một bước tiến
đáng kể để tránh việc quản lý thực phẩm chồng chéo của nhiều bộ, nhưng vẫn chưa xóa bỏ
được hoàn toàn sự lộn xộn. Đồng thời, nếu xét tới những vẫn đề còn đang tồn tại thì điều này
vẫn chưa đủ.
Hệ thống hiện nay gây khó khăn cho việc thống nhất quá trình soạn thảo, thi hành và áp dụng

các quy định. Vấn đề này càng trở nên phức tạp hơn vì ở cấp độ địa phương và tỉnh thành, quy
định đôi khi được diễn giải theo những cách khác nhau hay tiến hành theo các cách khác nhau.
Thanh tra viên có thể tới kiểm tra ba, thâm chí bốn lần cùng một vấn đề hoặc các vấn đề khác
nhau, và đôi khi đưa ra kết quả ngược với ý kiến chuyên môn.Việc này dẫn tới sự tốn kém và
mất thời gian của cả doanh nghiệp và chính quyền.
Việc này có thể sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, nhưng không đồng nghĩa là với việc thực phẩm
an toàn hơn. Chất lượng của các phòng thí nghiệm và các phương pháp kiểm tra cũng rất quan
trọng để tăng an toàn thực phẩm. Chúng tôi kiến nghị rằng mọi doanh nghiệp nên được đối xử
một cách công bằng và việc kiểm soát sản phẩm cần phải giống như trước được nhập khẩu vào
Việt Nam. Nhưng thực tế không phải lúc nào cũng như vậy. Một trường hợp gần đây đã chỉ ra
rằng việc cải tiến là cần thiết, vì hai bài kiểm nghiệm ở hai cơ quan kiểm tra khác nhau của cùng
một sản phẩm sẽ cho những kết quả khác nhau, và vì vậy không thể đi đến kết luận sản phẩm
đã an toàn hay chưa. Đôi khi không thể tiến hành việc kiểm tra; hoặc những sản phẩm làm tăng
tính nhận diện của các sản phẩm Việt Nam có thể được sử dụng hợp pháp ở EU nhưng lại không
thể nhập khẩu vào Việt Nam.Điều này có nghĩa hoa quả trồng tại địa phương – khi so sánh với
hoa quả được trồng ở những nơi khác – ít có khả năng xuất khẩu hơn. Theo quan điểm của
chúng tôi, vấn đề an toàn thực phẩm có thể giải quyết bằng nhiều cách khác nhau, như sử dụng
khuôn khổ luật pháp đúng đắn, hệ thống truy xuất nguồn gốc, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm
tập trung tham gia theo nhiều cách vào chuỗi cung ứng, quyền sở hữu trí tuệ, quản lí và kiểm
soát thuốc trừ sâu, hệ thống kiểm tra tốt và cưỡng chế thi hành hiệu quả.
Đề xuất
- Tiếp tục làm rõ phạm vi của Thông tư liên tịch 13;

8

Xem (tuoitrenews.vn/society/26193/toxic-tet-kumquats-highlight-vietnam-s-pesticide-problem)
‘Chương Kinh doanh nông nghiệp và an toàn thực phẩm 'của thực phẩm, nông nghiệp và Ủy ban Phát triển Doanh nghiệp Aqua trong Sách
trắng 2015 của Phòng Thương mại châu Âu, khoản 3.1.5 về khung pháp lý, điều phối và thực thi.
10
Xem Project VIE/61/94, May 2009, page 17 and (www.fao.org/ag/agn/CDfruits_en/launch.html)

11
Ví dụ: Nghị định 178/2013 / NĐ-CP ngày 14 tháng 11, 2013 về xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, Nghị định 119/2013 / NĐ-CP
ngày 9 tháng 10 năm 2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y, giống vật nuôi , và thức ăn chăn nuôi (Nghị định 119) và Thông
tư liên tịch 13/2014 / TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 09 tháng tư 2014 về việc giao nhiệm vụ và hợp tác giữa các cơ quan quản lý an toàn thực
phẩm.
9

Trang 7/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

-

-

-

-

-

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Thiết lập một nhóm công tác bao gồm các đại diện của các Bộ/ngành liên quan và các tổ
chức hoạt động trong ngành thực phẩm, nông nghiệp và kinh doanh thủy sản (như Nhóm
Công tác Nông nghiệp của VBF và Tiểu ban Thực phẩm, Nông nghiệp và Nuôi trồng Thủy sản
(FAASC) thuộc Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham);
Sửa đổi Luật An toàn Thực phẩm và thiết lập một Cục An toàn vệ sinh thực phẩm và một Bộ
chuyên trách về vấn đề này càng sớm càng tốt;

Phân công những viêc sau đây cho Cục An toàn vệ sinh thực phẩm:
 Kiểm tra, xác nhận và kiểm soát những vấn đề liên quan đến nhập khẩu, xuất khẩu và
vận chuyển các thành phần, nguyên liệu và thực phẩm
 Kiểm nghiệm và chứng nhận thực phẩm;
 Dán nhãn và kiểm soát quảng cáo thực phẩm;
 Lập các báo cáo về việc cảnh báo thực phẩm liên quan đến chuỗi cung ứng thực phẩm
bao gồm thuốc trừ sâu, phân bón, thức ăn chăn nuôi...
 Cấp phép, đăng kí thành lập và kinh doanh thực phẩm, chế biến thực phẩm và kho
lương thực;
 Tổ chức đào và nâng cao nhận thức về an toàn thực phẩm;
 Hỗ trợ phát triển việc thực hành tốt nhất liên quan đến an toàn thực phẩm; và
 Tổ chức kiểm tra và cung cấp dữ liệu cho việc điều tra tội phạm liên quan đến an toàn
thực phẩm.
Kết hợp với bộ máy tổ chức tại Cục An toàn vệ sinh Thực phẩm để lưu giữ các kiến thức và
kinh nghiệm hiện có;
Kết hợp với các nước láng giềng nhằm giải quyết vấn đề an toàn thực phẩm xuyên biên giới;
Khuyến khích các công ty giới thiệu hệ thống truy xuất nguồn gốc;
Thực thi pháp luật hiện hành về truy xuất nguồn gốc;
Thay đổi khung pháp lý để tất cả các phòng thí nghiệm ở Việt Nam, trong nước hay quốc tế,
dùng chung các phương pháp thử nghiệm tiêu chuẩn hóa và được quốc tế công nhận;
Đẩy mạnh việc công nhận và sử dụng duy nhất đề án VILAS;
Thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện uy tín các phòng thí nghiệm ở Việt Nam;
Khuyến khích duy trì, thực thi và công nhận đề án VILAS. Chấp nhận kết quả của một phòng
thí nghiệm (nước ngoài hoặc Việt Nam) đã được công nhận theo tiêu chuẩn quốc tếvà sử
dụng như đối với kết quả thử nghiệm của các phòng thí nghiệm nội bộ mà không cần phải
tiến hành một thí nghiệm khác để đạt được giấy phép hoặc chứng chỉ;
Tăng số lượng các phương pháp thử nghiệm hiện có ở Việt Nam
Cân đối phương pháp làm việc của các phòng thí nghiệm và phát triển việc thực hành tốt
nhất;
Chú ý rằng các sáng kiến hiện nay được thực hiện một cách cân đối hài hòa;

Giảm sự quan liêu khi các xét nghiệm cần phải được thực hiện ở nước ngoài;
Sửa đổi yêu cầu thử nghiệm theo cách yêu cầu“phân tích dạng” đối với kim loại nặng;
Kiểm tra “dạng” của các kim loại nặng về tác hại đối với tính di động, sinh khả dụng và tích
lũy sinh học;
Khuyến khích nâng cấp các phương pháp thử nghiệm và các cơ sở hướng tới hiện đại hóa,
phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế được công nhận bởi ISO, AFNOL, AOAC để đảm bảo kết quả
xét nghiệm chính xác, ngăn chặn bất kì sự chậm trễ nào và/ hoặc chuyên quyền hoặc phân
biệt vô lý;
Cho phép các công ty nhập khẩu lưu trữ thực phẩm đông lạnh tại các cơ sở lưu trữ riêng để
kiểm dịch và kiểm tra an toàn thực phẩm nhằm bảo toàn chuỗi cung ứng lạnh;
Cho phép các sản phẩm có thể được sử dụng hợp pháp ở các quốc gia khác nhập khẩu vào
Việt Nam mà không cần thêm các tài liệu bổ sung; và

Trang 8/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

-

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Thi hành pháp luật hiện hành, đặc biệt trong trường hợp ảnh hưởng tới sức khỏe cộng
đồng.

Chúng tôi đánh giá cao cơ hội được trình bày những vấn đề nêu trên tại Diễn đàn. Trong báo
cáo này, chúng tôi đã phản ánh mối quan tâm và quan điểm của chúng tôi, cũng như các lợi ích
khi những đề xuất của chúng tôi được thực hiện cho từng mục đã đề cập. Trong phần báo cáo
chi tiết sau đây, chúng tôi sẽ đưa một số hướng dẫn, khuyến nghị cho từng chủ đề cụ thể.


Trang 9/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

BÁO CÁO CHI TIẾT
Bản báo cáo đưa ra các vấn đề chi tiết, ảnh hưởng đến nông nghiệp, nền kinh tế, dân số cũng
như tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam như thế nào và chúng tôi cũng đưa ra các đề xuất giải
quyết vấn đề.
1. Nhận xét về Dự thảo Nghị định Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
nông nghiệp12
Chúng tôi lưu ý rằng Dự thảo Nghị định chỉ áp dụng cho đầu tư nước ngoài. Việt Nam có một hệ
thống pháp lý thống nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài (Luật Đầu tư). Liên
quan đến lĩnh vực nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang tiến hành ARP
mà trong đó sẽ tập trung vào việc tăng cường đầu tư khu vực tư nhân cho cả các công ty trong
nước và nước ngoài.
Dự thảo Nghị định cũng đề xuất một danh sách các phân ngành (tham khảo ở Phụ lục 1) và
tham chiếu tới các địa điểm được ưu đãi. Tuy nhiên, lý do ưu đãi đối với những hoạt động và
địa điểm này chưa thực sự rõ ràng. Thêm vào đó, các quyết định ở Nghị định còn mang tính chủ
quan và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thông lệ quốc tế được định nghĩa bởi sự minh bạch
, khả năng dự đoán của tiêu chuẩn và quy tắc thực hiện. Các quyết định đầu tư dài hạn thường
đặt ra yêu cầu về chính sách an ninh và các nhà đầu tư sẽ rất lo ngại nếu một số ưu đãi hiện
hành có thể bị loại bỏ theo thời gian. Liên quan đến mức độ và loại ưu đãi tài chính, có nhiều
minh chứng cho thấy ưu đãi thuế không phải là yếu tố ưu tiên hàng đầu khi nhà đầu tư lựa
chọn địa điểm. Tương tự, các bằng chứng khác trên thế giới cho thấy đối với đối tượng Dự thảo
hướng tới là các nhà đầu tư đang tìm kiếm nguồn tài nguyên hoặc thị trường, họ sẽ không yêu
cầu nhiều ưu đãi khi họ cảm thấy được thuyết phục hơn bởi những cơ hội khai thác trong nước.
Chúng tôi đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nên tiến hành khảo sát chính thức

các nhà đầu tư để xác định mức độ hiệu quả của những ưu đãi hiện hành cũng như quyết định
một cách khách quan ưu đãi mấu chốt để thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Dự thảo Nghị định đề cập tới công tác xúc tiến đầu tư mà theo chúng tôi còn khá mơ hồ và
chưa thực sự có ý nghĩa (Chương IV). Dự thảo Nghị định yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn phát triển chức năng xúc tiến đầu tư nước ngoài. Gần đây, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn đã thành lập một Bộ phận phối hợp xúc tiến đầu tư ở khu vực tư nhân. Trong
trường hợp này, điều không rõ ràng ở đây chính là lí do tại sao Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn cần có một bộ phận xúc tiến FDI riêng biệt và trên hết, mục tiêu cụ thể của bộ phận
là gì và sẽ cung cấp dịch vụ/ hỗ trợ cụ thể như thế nào cho các nhà đầu tư?
2. Hiện đại hóa và phát triển bền vững ngành Nông nghiệp Việt Nam
Nâng cấp các hộ sản xuất nhỏ
Vấn đề cản trở Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu hàng đầu trong thị trường xuất khẩu nông
nghiệp là sự thiếu bền vững, mà một phần bắt nguồn từ thực tế tại Việt Nam là phần lớn các cơ
sở nông nghiệp đều có quy mô nhỏ13. Đây là nguyên nhân làm hạn chế sự việc sử dụng máy
móc – phương pháp có thể cải thiện chất lượng và số lượng – vì một hộ làm nông nhỏ đơn lẻ
không thể chi trả được chi phí đầu tư và diện tích đất nền quá nhỏ để sử dụng máy móc. Chính
phủ đã nhận ra vấn đề này cần được giải quyết và đang tiến hành các biện pháp nhằm thu hút
12

Xin hãy xem các ý kiến thêm về những phần cụ thể của Dự thảo Nghị định ở Phụ lục 1 của báo cáo này.
Xem ở<english.vov.vn/Economy/Agricultural-restructuring-focuses-on-scientific-application-production/286519.vov>,
<vietnamnews.vn/society/261897/farmers-reap-benefits-from-innovations.html> and <english.vov.vn/Economy/Why-Vietnams-agricultureindustry-is-unsustainable/287883.vov>
13

Trang 10/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015


đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát động nhiều chương trình kêu gọi tài trợ để mục đích hiện
đại hóa và cơ giới hóa nông nghiệp trở nên dễ dàng hơn14. Chúng tôi nhận thấy rằng cơ giới hóa
sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng nông thôn vì nguồn thu nhập của nhiều người dân đến
từ các hoạt động nông nghiệp, do vậy chúng tôi ủng hộ ý tưởng xây dựng các nhà máy ở khu
vực nông thôn để đảm bảo tỷ lệ việc làm bền vững ở những khu vực này. Chúng tôi tin rằng
Chính phủ nên hỗ trợ khuyến khích người nông dân hợp tác. Doanh nghiệp cũng có thể đóng
vai trò giới thiệu những biện pháp hỗ trợ để khuyến khích hợp tác sâu rộng hơn với người nông
dân.
Một hệ thống sản xuất nông nghiệp hiện đại hóa và cơ khí hóa sẽ dẫn đến việc chất lượng và số
lượng các sản phẩm nông nghiệp được cải thiện.Điều này sẽ đưa các sản phẩm nông nghiệp
Việt Nam ngang hàng với các sản phẩm từ các nước xuất khẩu khác. Chúng tôi mong rằng
những nông dân có lợi từ thay đổi này sẽ cải thiện điều kiện sống của họ và nông nghiệp sẽ trở
nên bền vững hơn.
Đề xuất
- Nâng cấp ngành nông nghiệp;
- Khuyến khích hợp tác;
- Tiếp tục tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn tài trợ cho nông dân và tạo động lực để
khuyến khích những nông dân đã sẵn sàng hiện đại hóa và cơ khí hóa;
- Hỗ trợ những nông dân bỏ nghề để tìm công việc khác bằng cách khuyến khích xây dựng các
nhà máy ở vùng nông thôn.
Các hộ sản xuất nhỏ: chuyển giao kiến thức thông qua các hội nghị chuyên đề dành cho nông
dân
Kể từ năm 2014, việc quản lý phân bón vô cơ đã được thực hiện bởi Bộ Công Thương (MOIT)
thay vì Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD).Thông tư 29/2014-TT-BCT vào ngày
30/9/2014 được ban hành bởi Bộ Công thương quy định về việc sản xuất và buôn bán phân bón
vô cơ.Tuy nhiên trong giai đoạn chuyển giao, có một vài điểm không được thuận lợi lắm và
những điểm này cần được cải thiện nhằm hỗ trợ sự phát triển của các ngành công nghiệp.
Một giải pháp khác để cải thiện sự bền vững của nông nghiệp là việc các công ty cung cấp các
giải pháp dinh dưỡng theo mùa vụ cho người nông dân. Một trong các hoạt động phổ biến nhất

của các công ty trong lĩnh vực này là tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề với mục đích chuyển
giao công nghệ cao và giúp người nông dân hiểu thêm về cách quản lý dinh dưỡng một cách
thống nhất theo mùa vụ nhằm tăng sản lượng, chất lượng và thu nhập cho họ. Hội nghị khuyến
nông thường được tổ chức theo cấp độ thôn xã. Tuy nhiên, trước khi tiến hành hội nghị, công
ty cần được sự cho phép của Sở Công Thương (DOIT) cấp tỉnh. Chúng tôi tin rằng quy trình tiến
hành có thể được đơn giản hóa và hài hòa hơn, vì việc xin cấp phép cho mỗi hội nghị khá phức
tạp, chưa được quy định rõ ràng và khác nhau ở mỗi tỉnh thành. Cùng là một công ty nhưng
công ty đó phải chuẩn bị những tài liệu khác nhau để nộp đến Sở Công Thương cấp tỉnh. Ở một
số tỉnh, công ty cần phải xin phép từ 2 chính quyền địa phương khác nhau và phải nộp hồ sơ
cho cấp huyện để có được sự cho phép của họ sau khi được Sở Công Thương cho phép. Quy
định này không hợp lý và khác với quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, khi
các công ty chỉ cần xin phép từ Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (DARD) cấp tỉnh. Vấn
đề đôi khi nằm ở việc các cán bộ của Sở Công nghiệp và Thương mại chưa hiểu rõ về thủ tục, do
vậy chưa thể cung cấp câu trả lời rõ ràng cho các công ty, dễ gây nhầm lẫn. Vì vậy việc tổ chức
14

Xem<vietnamnews.vn/society/263713/farmers-reap-modern-farming-gains.html>

Trang 11/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

những buổi hướng dẫn khi một quy định mới được ban hành để nâng cao hiệu quả của quá
trình thực hiện là vô cùng cần thiết.
Một yêu cầu bất hợp lý khác đối với người nước ngoài, ngay cả khi sở hữu giấy phép cư trú, chỉ
có thể tham gia hội nghị chuyên đề dành cho nông dân khi được cho phép. Nếu không được
chấp thuận bởi chính quyền địa phương, người nước ngoài không thể tham gia cùng những

nông dân khác. Yêu cầu này được đặt ra nhằm bảo vệ những người nông dân và chúng tôi hoàn
toàn ủng hộ.Tuy nhiên, điều này cũng làm hạn chế việc chuyển giao kiến thức về công nghệ để
phát triển nông nghiệp bền vững. Quá trình xin phép để tổ chức cho những người nước ngoài
sẽ mất khá nhiều thời gian và rất phức tạp,trong khi việc thông báo và tổ chức một cuộc họp
trong thời gian ngắn hoặc thường xuyên là việc quan trọng và là dịp để những chuyên gia nước
ngoài có thể giới thiệu về công nghệ mới nhất tới cho người dân. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều
nếu các công ty được hướng dẫn rõ ràng về thủ tục cấp phép và các thủ tục này được thống
nhất trên toàn quốc.Trên thực tế, việc xin cấp phép chỉ yêu cầu đối với một cấp chứ không phải
là hai cấp như một số tỉnh đang yêu cầu. Thêm vào đó, thời gian cấp phép cho người nước
ngoài tham gia các buổi hội thảo nên được rút ngắn đối với: (i) những công ty đã có giấy phép
phân phối, (ii) đối với những người nước ngoài đã có giấy phép lao động hợp lệ hoặc thẻ cư trú
thì nên lược bỏ yêu cầu nhập cảnh.
Theo quan điểm của chúng tôi, các buổi hội thảo này là một trong những cách tiếp cận tốt nhất
để chuyển giao công nghệ tiên tiến cho nông dân, và nếu coi đây là một hoạt động phổ biến của
ngành, chúng tôi muốn đề xuất những điều sau để giải quyết thực trạng hiện tại:
-

Đơn giản hóa và thống nhất các thủ tục xin cấp phép để tổ chức các buổi hội thảo dành cho
nông dân;
Đơn giản hóa việc cho phép nhập cảnh đối với những người nước ngoài là nhân viên của các
công ty đã có giấy phép phân phối;
Bãi bỏ yêu cầu về giấy phép nhập cảnh cho người nước ngoài đã có giấy phép lao động hợp
lệ; và
Tổ chức tập huấn cho các cán bộ Chính phủ và các ngànhliên quan nhằm tăng tính hiệu quả
của việc áp dụng các quy định mới.

-

2.1 Biến đổi khí hậu và sự thay đổi trọng tâm
Ngành nông nghiệp cũng là một ngành dễ bị ảnh hưởng do biến đổi khí hậu và tình hình kinh tế

cũng có ảnh hưởng đối với sản lượng đầu ra. Sự ảnh hưởng đối với ngành nông nghiệp đặc biệt
đối với những người làm trong nghành này. Một nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược
Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) và Oxfam cho thấy tỉ lệ rủi ro đối với nông dân là 70
– 80% trong khi tỉ lệ lợi nhuận chỉ chiếm 20%.15Sự phụ thuộc vào tình hình thời tiết và giá cả
dao động làm hạn chế khả năng tăng sản lượng xuất khẩu các sản phẩm như gạo, cà phê và
trà.16 Vào thời điểm này, các sản phẩm Việt Nam đã có sự cạnh tranh về giá nhưng chưa có sự
cạnh tranh về chất lượng, và vì vậy cần có khả năng cải thiện các sản phẩm này. Một khi trọng
tâm không chỉ là việc sản xuất mà còn là thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng, chúng tôi
nghĩ rằng sẽ có nhiều cơ hội được mở ra. Chúng tôi tin rằng ngành nông nghiệp và kinh doanh
thủy sản có thể phát triển và xuất khẩu nhiều mặt hàng khác nhau một cách bền vững.
Mục tiêu này có thể đạt được bằng nhiều cách khác nhau. Một cách là chuyển từ xuất khẩu các
hàng hóa sản xuất hàng loạt là hàng hóa thấp cấp như hạt điều, hạt tiêu và cà phê sang các sản
15

Xem<vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30755>
Xem<vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30288>

16

Trang 12/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

phẩm chất lượng cao. Điều này sẽ giúp Việt Nam có thể thâm nhập vào các thị trường khác và
thu được nhiều lợi nhuận hơn.17Chúng tôi hài lòng với sáng kiến về cà phê và kế hoạch của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã dự thảo.18Cách thứ 2 đó là thay vì chỉ trồng và bán gạo,
trấu sẽ được sử dụng trong lĩnh vực năng lượng.19Một cách khác nữa là đa dạng hóa các loại

sản phẩm xuất khẩu. Trái cây và rau quả cũng là những sản phẩm xuất khẩu tiềm năng.Tuy
nhiên, có một số vấn đề cần phải được giải quyết.20Việc Chính phủ hỗ trợ cho những sản phẩm
này là cần thiết giống như việc hỗ trợ cho gạo, hải sản, cao su, trà và cà phê.Việc mở cửa thị
trường để xuất khẩu hàng hóa Việt cũng là một điều rất quan trọng. Về vấn đề này, Việt Nam
không nên chỉ tập trung vào các thị trường như Mỹ, Nhật hay Châu Âu, mà cũng nên tập trung
vào các nước láng giềng. Hiện nay, Việt Nam nhập khẩu rất nhiều sản phẩm từ Thái Lan hay
Trung Quốc, tuy nhiên lại không xuất khẩu nhiều sang những nước này và thậm chí là khá khó
khăn, chưa kể đến là chuyện không thể. Việc tiếp cận đến những thị trường này và các nước
khác đối với sản phẩm Việt là việc cần được đàm phán. Hơn nữa, việc đầu tư cho sản xuất, giai
đoạn sau thu hoạch, quá trình chế biến và bảo quản là cần thiết, và điều quan trọng là nông dân
và nhà sản xuất sẽ được hướng dẫn về an toàn và vệ sinh thực phẩm. Chúng tôi cũng tin rằng
việc giới thiệu một cơ chế quản lý sáng tạo và cấp hậu cần cao là cần thiết.21 Nói ngắn gọn, một
chiến lược để nâng cấp và hiện đại hóa chuỗi giá trị là cần thiết và chiến lược này sẽ giúp tăng
tính hiệu quả, cạnh tranh, bền vững, chất lượng của sản phẩm và giúp đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng.22
Đề xuất
- Chuyển từ xuất khẩu hàng hóa sản xuất hàng loạt và hàng hóa thấp cấp sang các hàng hóa
cao cấp
- Chuyển các sản phẩm cấp 2 thành các sản phẩm hấp dẫn cho xuất khẩu;
- Đa dạng hóa sản phẩm và cung cấp các hỗ trợ tương tự như hỗ trợ cho cà phê, trà, hạt tiêu,
hải sản và cao su;
- Khuyến khích đầu tư cho sản xuất, giai đoạn sau thu hoạch, quá trình chế biến và bảo quản;

- Tiếp cận thị trường các nước láng giềng đối với các sản phẩm Việt.
2.2 Sân chơi bình đẳng
Các phát hiện của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) trong báo cáo
“Nông nghiệp thế giới: tiến tới 2015/2030’, chúng tôi cho rằng quan điểm của FAO là rất quan
trọng và vẫn còn hiệu lực, cho dù nó có từ năm 2003.23FAO viết rằng đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) là công cụ chính mà thông qua đó các tập đoàn đa quốc gia (MNC) có thể mở rộng
quy mô của họ trên toàn cầu. Bằng cách đó, MNCs có thể ảnh hưởng đến mức độ sản xuất và

thành phần, công nghệ sản xuất, thị trường lao động và các tiêu chuẩn. MNC cũng có thể đóng
góp một phần quan trọng như vốn, kĩ năng, công nghệ, sự tiếp cận với các kênh trong nước và
kênh tiếp thị xuất khẩu, và tạo ra các mối liên kết với nền kinh tế nông thôn, ví dụ như thông
qua hợp đồng canh tác. Vấn đề này đã được hỗ trợ thông qua các cuộc thảo luận trong phiên
họp toàn thể của Nhóm Hỗ trợ Quốc tế của Ngân hàng Thế giới về những khó khăn và thử thách
như vốn đầu tư cho nông nghiệp, sự phát triển bền vững của nông nghiệp, cải thiện khả năng
17
18
19
20

21
22

23

Xem<vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30497>
Xem<www.livetradingnews.com/vietnam-works-to-increase-export-value-of-coffee-66189.htm#.U_QEsPmSwpU>
Xem<vietnamnews.vn/economy/255018/high-tech-agriculture-needs-funding.html>
Những hạn chế này đã được ghi rõ trong giấy tờ cho hội thảo FFTC-NACF quốc tế về Các mối đe dọa và cơ hội của Hiệp định Thương mại tự
do ở khu vực Châu Á, tổ chức ở Hàn Quốc vào ngày 11 – 15 tháng 9 2013,
Xem:Xem<ap.fftc.agnet.org/ap_db.php?id=106&print=1 and />Xem<ap.fftc.agnet.org/ap_db.php?id=106&print=1>, <vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30501> and
<en.vietnamplus.vn/Home/Modernising-agriculture-opportunities-and-solutions/20148/53514.vnplus>
Ibid, trang273.

Trang 13/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp


Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

cạnh tranh và tạo thuận lợi cho sự tham gia của khu vực tư nhân đối với sự phát triển của nông
nghiệp.24
Chúng tôi chia sẻ và hỗ trợ những phát hiện này vì chúng tôi nghĩ rằng chúng rất quan trọng để
tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các công ty lớn, nhỏ, ở địa phương và công ty quốc tế không
phân biệt quy mô hay quốc tịch, mà dựa trên lợi ích chung và chúng có thể đưa đến sự tiếp cận
bình đẳng đến nguồn tài trợ trong hay ngoài Việt Nam, tiếp cận bình đẳng với nguồn nguyên
liệu thô trong hay ngoài Việt Nam, đối xử công bằng trong việc xin cấp giấy phép kinh doanh tại
Việt Nam, và đối xử công bằng trong các yêu cầu khác liên quan đến lĩnh vực này. Điều này cũng
có thể thu hút FDI.
Đề xuất
Tạo một sân chơi bình đẳng trong mọi lĩnh vực bằng cách:
- Cho phép tiếp cận bình đẳng với nguồn tài trợ trong và ngoài Việt Nam;
- Cho phép tiếp cận bình đẳng với nguồn nguyên liệu thôn trong và ngoài Việt Nam;
- Cho phép đối xử bình đẳng trong việc xin cấp giấy phép kinh doanh ở Việt Nam; và
- Cho phép đối xử bình đẳng trong các yêu cầu cụ thể khác của nghành.
2.3 Tài chính: Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI)
Khi đã xây dựng chiến lược thì tiền là một yếu tố cần thiết để thực hiện chiến lược.Trong những
năm gần đây, đầu tư trong nông nghiệp đã không còn phù hợp với những đóng góp của ngành
nông nghiệp đối với GDP. Ví dụ như vào năm 2012, ngành nông nghiệp chiếm khoảng 19.7%
GDP, trong khi đó Chính phủ chỉ đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp 5%.25 Chúng tôi hoàn toàn ủng
hộ quan điểm được đưa ra trong báo cáo Quốc gia Việt Nam cho hội thảo FFTC-NACF, rằng việc
đầu tư vào nông nghiệp là vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và phát triển
bền vững của nông nghiệp ở Việt Nam.26Ngay cả khi lượng đầu tư của Chính phủ là không đủ,
nông nghiệp vẫn có thể hiện đại hóa và phát triển thông qua FDI và Hợp tác công – tư (PPP).
Điều đáng chú ý là Agribank, một ngân hàng ở Việt Nam đã khởi động chương trình tài trợ cho
sự ra đời của sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam.27
Trong năm 2013, ngành chỉ nhận được 0.6% FDI đầu tư ở Việt Nam.28Để thu hút nhiều vốn FDI,

chúng ta cần vượt qua một số thử thách. Ví dụ như việc xây dựng chính sách thương mại cũng
như các thủ tục hành chính rõ ràng và minh bạch là cần thiết. Bên cạnh đó, điều quan trọng là
nông dân và doanh nghiệp dù quy mô nhỏ hay lớn thì đều bình đẳng như nhau.Thêm vào đó,
chúng ta cũng cần chú ý rằng việc thiếu hụt nguồn lao động có tay nghề cao trong lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp hóa, đã thu hút nguồn lao động trẻ nhất ở vùng nông thôn đến các khu
công nghiệp. Cuối cùng, cần lưu ý rằng hệ thống thuế ở Việt Nam không cạnh tranh như các
nước khác trong khu vực.29 Chúng tôi rất đồng tình với quan điểm của Chủ tịch nước rằng một
số khu vực nên thử thu hút FDI và sử dụng kĩ thuật canh tác công nghệ cao để phát triển
nghành30 và một số tỉnh như Đồng Tháp, Lâm Đồng và Sơn La đã đạt được mục tiêu đó.31

24
25
26

27
28
29
30
31

Xem<www.isgmard.org.vn/News.asp?Status=1&InfoID=756>
Xem<vietnamnews.vn/economy/255018/high-tech-agriculture-needs-funding.html>
Xem giấy tờ cho hội thảo FFTC-NACF quốc tế về Các mối đe dọa và cơ hội của Hiệp định Thương mại tự do ở khu vực Châu Á, tổ chức ở Hàn
Quốc vào ngày 11 – 15 tháng 9 2013, <www.agnet.org/htmlarea_file/activities/20110719103351/2007013101.pdf>
Xem<bizhub.vn/banking/6726/agribank-finances-credit-programme-for-hi-tech-agriculture.html>
Xem<vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30755>
Xem<ap.fftc.agnet.org/ap_db.php?id=106&print=1>
Xem<vietnamnews.vn/economy/259037/bac-giang-told-to-attract-fdi-to-agriculture-sector.html>
Xem <vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30999>, <www.vir.com.vn/lam-dong-promotes-high-tech-agricultural-projects.html> and
<vccinews.com/news_detail.asp?news_id=31126>


Trang 14/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Đề xuất
- Tiếp tục để giúp nông dân tiếp cận với nguồn tài trợ dễ dàng hơn và truyền động lực cho
nông dân sẵn sàng cho công cuộc hiện đại hóa và cơ giới hóa; và
- Hỗ trợ cho các nông dân bỏ nghề tìm một công việc khác bằng cách khuyến khích xây dựng
các nhà máy ở khu vực nông thôn.
2.4 Tài chính: PPP
PPP là một cách khác để thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.32 Các dự án PPP hiện có đã
giúp tăng sản lượng đầu ra nông nghiệp gấp 2 - 3 lần, và thu nhập của nông dân đã tăng thành
công 10 - 15%. Bằng cách này, 33 có thể tạo ra chuỗi sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn thế giới, giúp
cho việc thâm nhập chuỗi siêu thị34 trở nên dễ dàng hơn và tăng tính bền vững của ngành. Sau
đây, chúng tôi sẽ đưa ra một vài ví dụ về các dự án PPP đã thành công hoặc đang được thực
hiện, và đang được coi là phương pháp thực hành tốt nhất trong lĩnh vực đó. PPP hay các thực
hành tốt nhất giúp tăng sản lượng đầu ra một cách bền vững, mang đến thu nhập cao hơn cho
nông dân. Đồng thời cũng nâng cao chất lượng sản phẩm và cho phép sản phẩm Việt Nam được
xuất khẩu dễ dàng hơn do sản phẩm đã có danh tiếng tốt trên thị trường.
2.4.1 PPP cho cà phê
Như đã được đề cập ở trên, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới.Nông dân
trồng cà phê ở Việt Nam chỉ là những hộ sản xuất nhỏ nhưng họ hiểu rõ hơn hết cách sử dụng
phân bón. Việc sử dụng này có một tác động tiêu cực đến môi trường, và nó cũng không đồng
nghĩa rằng sản lượng đầu ra sẽ tốt hơn.Nếu nông dân muốn cải thiện sản xuất, họ phải làm điều
đó một cách bền vững, sử dụng lượng đất nông nghiệp có hạn một cách tối ưu nhất.Điều này
giúp giảm áp lực đối với nạn phá rừng, phát thải khí nhà kính, mất nước và mất đa dạng sinh

học.Vào năm 2010, một sáng kiến đã được thực hiện nhằm tăng sản lượng đầu ra cà phê bao
gồm toàn bộ chuỗi giá trị cà phê. Dự án được hoàn thành dưới hình thức PPP và thành phần
tham gia là từ các khu vực tư nhân, khu vực cộng đồng, một số hiệp hội, chính quyền, các công
ty Việt Nam và các nông dân địa phương. Những người nông dân địa phương đóng vai trò là các
đại sứ truyền bá việc thực hành tốt nhất cho những người nông dân khác.Kết quả của dự án này
là sản lượng đầu ra tăng trong khi lượng khí thải carbon, lượng sử dụng nước và lượng phân
bón giảm. Một kết quả khác của sáng kiến này là việc hình thành của Ban Điều phối ngành hàng
Cà phê Việt Nam với mục tiêu nhằm củng cố vị thế của Việt Nam, là một nước xuất khẩu cà phê
và đồng thời cũng giúp sản xuất cà phê một cách bền vững35
Vào năm 2009, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Cao Đức Phát đã
làm theo Tầm nhìn mới về Nông nghiệp của Diễn đàn Kinh tế Thế giới nhằm giảm lượng khí thải
carbon 20%, tăng 20% lợi nhuận cho nông dân và tăng năng suất sản xuất cả phê 20%.36 Sau 5
năm hợp tác giữa các đối tác khác nhau như Chính phủ, các công ty tư nhân (trong nước và
ngoài nước), các tổ chức phi Chính phủ, nhiều mục tiêu về nông nghiệp cà phê bền vững đã
được thực hiện. Điều được tập trung chú ý ở đây là việc giảm khí thải carbon và nâng cao quản
lý nguồn nước. PPP Cà phê cho thấy 50% lượng giảm khí thải carbon và chỉ sử dụng 33.3%
lượng nước với năng suất tương tự. Tuy nhiên, để tiếp tục và duy trì thành công này, chúng tôi
32

33

34
35
36

Xem<english.vietnamnet.vn/fms/business/101550/ppp-will-make-vietnam-the-world-s-rice-field--cook-house.html>,
<vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30501>, and <www.talkvietnam.com/2013/11/ppps-foster-sustainable-agricultural-growth-invietnam/>
PPPs can for example help in the processing industry, storage, applying international certification, applying modern packaging technology
and traceability systems, applying technology in market information and agricultural product marketing.
Xem<vccinews.com/news_detail.asp?news_id=30720>

Xem<www.idhvietnam.com/site/getfile.php?id=227>
PPPs có thể là ví dụ cho việc giúp đỡ trong nghành công nghiệp chế biến, lưu trữ, áp dụng chứng chỉ quốc tế, áp dụng công nghệ đóng giói
hiện đại và hệ thống truy xuất, áp dụng công nghệ trong thông tin thị trường và tiếp thị sản phẩm nông nghiệp.

Trang 15/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

tin rằng Chính phủ nên đặt ra một hệ thống giám sát và áp dụng chính sách đúng đắn để đảm
bảo nông dân có những thực hành tốt nhất. Chúng tôi lo ngại rằng nếu điều đó không xảy ra thì
sẽ không có sân chơi bình đẳng cho các công ty tham gia. Việc thiếu các chính sách đúng đắn ,
cụ thể của Chính phủ sẽ khiến các công ty không muốn đầu tư vào hình thức PPP cho dù nó có
đem lại những kết quả tích cực.
2.4.2 PPP cho Sữa
Một dự án khởi động gần đây và do Chính phủ Hà Lan tài trợ kết hợp giữa các công ty, chính
quyền Việt Nam, nông dân, và một trường đại học.37Nhu cầu sữa tươi ở Việt Nam đang không
ngừng gia tăng, nhưng ngành sữa lại chưa phát triển và khoảng 75% các sản phẩm sữa là sản
phẩm nhập khẩu. Điều này có nghĩa rằng ngành sữa phải phát triển để đáp ứng nhu cầu đang
ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, các trang trại gia đình ở Việt Nam lại quá nhỏ, trung bình 1 trang
trại chưa có đến 10 con bò, và họ thường thiếu kiến thức và kĩ năng. Dự án này giúp phát triển
lĩnh vực một cách bền vững, đồng thời cũng tăng sản lượng sữa tươi, đáp ứng nhu cầu thị
trường. Trong vòng năm năm tới, 3 khu vực chăn nuôi bò sữa sẽ được thành lập, và mỗi khu
vực sẽ bao gồm 50 trang trại với 50 con bò sữa mỗi trang trại. Đồng thời, hệ thống cơ sở hạ
tầng phù hợp sẽ được xây dựng để đảm bảo sữa với chất lượng cao nhất.
Đề xuất
- Khuyến khích phát triển các thực hành tốt nhất hay PPP; và
- Xây dựng hệ thống giám sát và đưa ra chính sách đúng đắn để đảm bảo nông dân có thể áp

dụng các thực hành tốt nhất.
3. Sản phẩm đầu vào nông nghiệp chất lượng cao bao gồm thuốc trừ sâu và phân bón
3.1 Sử dụng sản phẩm đầu vào nông nghiệp chất lượng và phù hợp
Một báo cáo gần đây chỉ ra rằng 50% số phân bón do chính quyền kiểm tra ngẫu nhiên không
theo đúng tiêu chuẩn kĩ thuật, và thiệt hại cho nền kinh tế ước tính vào khoảng 800 triệu USD.
Thêm vào đó, sản phẩm giả mạo đang tăng lên đáng kể, khiến những người trồng trọt bị lầm lẫn
và dẫn tới việc sản xuất sản phẩm giả mạo cũng gia tăng. Đồng thời, nhận thức của cộng đồng,
nhu cầu tìm hiểu về nguồn gốc và an toàn thực phẩm đang ngày càng nâng cao. Báo cáo mới
nhất của Nhóm chuyên trách cà phê Việt Nam chỉ ra rằng Thực hành sản xuất Nông nghiệp tốt
(GAP) kết hợp với nguyên liệu nhập khẩu đầu vào chất lượng tốt có thể giúp tăng năng suất và
lợi nhuận 10% và giảm lượng khí thải carbon 50%. Việc thiếu các cơ sở hạ tầng kiểm tra chất
lượng có thể gây cản trở cho việc áp dụng công nghệ tiên tiến phục vụ cho sản lượng đầu ra tốt
hơn, cản trở cạnh tranh xuất khẩu. Việc thiếu chỉ đạo nhằm đảm bảo sử dụng sản phẩm đầu
vào an toàn và phù hợp cùng với sản phẩm đầu vào chất lượng thấp phân phát cho nông dân
dẫn đến các vấn đề môi trường và vấn đề về an toàn. Các hộ nông dân nhỏ không có đủ khả
năng chi trả cho sản phẩm đầu vào chất lượng tốt và thân thiện với môi trường bởi so với các
sản phẩm khác, hàng nhập khẩu phải chịu mức thuế 6%. Sản phẩm đầu vào chất lượng tốt/
thân thiện với môi trường có mức thuế nhập khẩu, làm tăng giá đối với nông dân và khuyến
khích nông dân sử dụng nguyên liệu đầu vào chất lượng thấp hoặc/và sản phẩm giả. Điều này
có thể dẫn tới nguy cơ hạn chế năng suất cây trồng (hoặc thậm chí làm hư hại cây trồng), ảnh
hưởng chất lượng sản xuất và an toàn thực phẩm. Một số nguyên liệu giả và kém chất lượng có
thể gây axit hóa và ô nhiễm đất. Nguy cơ là việc sử dụng phân bón đang gia tăng trong khi Việt
Nam vốn đã là nước sử dụng lượng phân bón mỗi hécta lớn nhất trên thế giới. Việc sử dụng các
sản phẩm bảo vệ thực vật kém chất lượng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cây trồng, đất và sức
khỏe con người. Theo quan điểm của chúng tôi, việc tạo các rào cản kỹ thuật để loại bỏ việc sử
37

Xem <www.talkvietnam.com/2014/07/sustainable-dairy-zone-project-breaks-ground-in-ha-nam>

Trang 16/34



Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

dụng các loại thuốc trừ sâu có khả năng gây hại lớn cho con người và môi trường là quan trọng
và cần thiết.
Việc sử dụng và áp dụng các sản phẩm thuốc trừ sâu kém chất lượng và sai mục đích là trở ngại
rất lớn đối với quy trình sản xuất thực phẩm. Việc này có thể làm ảnh hưởng tới sức khỏe người
sử dụng thuốc trừ sâu và người tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp cũng như gây ảnh hưởng
tới môi trường. Thêm vào đó, việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp có thể bị ảnh hưởng
nặng nề bởi các mặt hàng nông nghiệp có mức dư lượng tối đa vượt quá ngưỡng cho phép.
Chúng tôi được biết việc sử dụng thuốc trừ sâu kém giả và kém chất lượng vẫn tiếp diễn hàng
ngày trên khắp lãnh thổ Việt Nam bất chấp nỗ lực từ khối doanh nghiệp trong và ngoài nước
trong việc đào tạo và phổ biến kiến thức cho người nông dân. Hành động này được cho là bị
ảnh hưởng chủ yếu bởi thói quen truyền thống và đánh giá rủi ro dựa trên kinh nghiệm thay vì
tuân theo hướng dẫn kỹ thuật một cách bài bản. Bằng việc đảm bảo sản xuất thực phẩm an
toàn, Việt Nam có thể đẩy mạnh giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản, và theo đó dòng chảy
ngoại tệ vào Việt Nam cũng sẽ tăng lên. Ngoài ra, Việt Nam cũng sẽ củng cố được vị trí và nâng
cao uy tín của Việt Nam là một nguồn cung nông sản an toàn. Điều này đồng nghĩa với việc
nguồn thu của nông dân sẽ được cải thiện và nâng cao hơn.
Đồng thời, việc tuân theo các chuẩn mực về quản lý có trách nhiệm và có đạo đức và việc sử
dụng thuốc trừ sâu an toàn và chất lượng tốt là vô cùng quan trọng. Thuốc trừ sâu cần được
dán nhãn theo các quy định được đặt ra. Chúng tôi cho rằng cần khuyến khích các quy định với
các tiêu chuẩn cụ thể đối với các sản phẩm bảo vệ cây trồng mới sử dụng công nghệ cao. Các
chương trình đào tạo cần được giới thiệu tới người nông dân để người nông dân ý thức được
tầm quan trọng và lợi ích của việc sử dụng thuốc trừ sâu đúng phương pháp và tuân theo
hướng dẫn ghi trên bao bì. Ngoài ra, các chương trình đào tạo về cân bằng dinh dưỡng, tuân
theo nguyên tắc sử dụng sản phẩm để giảm thiểu việc lạm dụng sản phẩm đầu vào hay các

chương trình đào tạo theo 4 tiêu chí (đúng sản phẩm, đúng liều lượng, đúng thời điểm và đúng
chỗ) cần được đẩy manh. Việc tăng cường các chương trình đào tạo cho người nông dân sẽ
giúp làm giảm chi phí sản xuất mà vẫn tăng chất lượng và năng suất giống cây trồng và làm
thuyên giảm ảnh hưởng của việc sử dụng phân bón tới môi trường. Cuối cùng, chúng tôi tin
rằng việc thiếu thốn cơ sở hạ tầng phòng thí nghiệm kiểm tra chất lượng và đầu tư của bên thứ
ba hạn chế hiện thực hóa lợi ích từ việc sử dụng công nghệ tiên tiến.
Đề xuất
- Đảm bảo chương trình lãnh đạo bắt buộc ở tất cả các công ty liên quan tới việc đào tạo về
cách sử dụng sản phẩm bảo vệ thực vật an toàn;
- Xây dựng các rào cản kỹ thuật để loại bỏ việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu có khả năng gây
hại lớn cho con người và môi trường là quan trọng và cần thiết.
- Khuyến khích quản lý có trách nhiệm và đạo đức và việc sử dụng thuốc trừ sâu (chất lượng
cao và an toàn) sau khi thực hành tốt trong việc bán sản phẩm;
- Khuyến khích dán nhãn thuốc trừ sâu phù hợp tuân thủ theo hướng dẫn đã được cung cấp;
- Xây dựng quy định với các tiêu chuẩn cụ thể nhằm khuyến khích việc giới thiệu các sản
phẩm bảo vệ cây trồng thế hệ mới với công nghệ và kĩ thuật tiên tiến;
- Xây dựng cơ sở hạ tầng quản lý hỗ trợ cho việc sử dụng sản phẩm bảo vệ thực vật an toàn;
- Thực hiện các chương trình giáo dục có chất lượng cho nông dân để nhắc lại tầm quan trọng
và lợi ích của việc sử dụng thuốc trừ sâu đúng cách, tuân thủ theo hướng dẫn trên nhãn
dán.
- Giới thiệu các chương trình giáo dục để tăng cường dinh dưỡng cân bằng, các quy định sử
dụng sản phẩm phù hợp để giảm việc lạm dụng sản phẩm đầu vào;
Trang 17/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

-

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015


Xây dựng chương trình đào tạo để khuyến khích việc áp dụng dinh dưỡng cây trồng cân
bằng với định nghĩa 4-R (đúng sản phẩm, đúng tỉ lệ, đúng lúc và đúng chỗ) cũng như để giải
quyết vấn đề lạm dụng/ sử dụng không đúng cách sản phẩm đầu vào; từ đó giúp giảm chi
phí sản xuất, nâng cao năng suất/ chất lượng cây trồng và hạn chế ảnh hưởng của việc sử
dụng phân bón đối với môi trường;
Cập nhật kiến thức cho đơn vị khuyến nông về dinh dưỡng cây trồng và bảo vệ thực vật, và
tác động của các sản phẩm đầu vào nông nghiệp đối với môi trường để thực hiện chương
trình đào tạo có hiệu quả;
Khuyến khích truyền đạt kiến thức mới và kết quả nghiên cứu mới cho nông dân càng sớm
càng tốt;
Xây dựng chính sách khuyến khích các nhà đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng để
cho phép kiểm tra và giám sát chất lượng của sản lượng nông nghiệp;

-

-

3.2 Quá trình cấp phép một lần để nhập khẩu phân bón
Thông tư 35/2014/TT-BCT của Bộ Công thương ngày 15 tháng 12 năm 2014 quy định về giấy
phép nhập khẩu tự động đối với phân bón. Một công ty phải áp dụng giấy cấp phép một lần cho
mỗi lô phân bón nhập khẩu, cho dù công ty đó đã có giấy phép kinh doanh cho phép nhập khẩu
và kinh doanh phân bón ở Việt Nam.Ngoài ra, thêm một yêu cầu khi phát hành giấy cấp phép
một lần đó là phải có xác nhận từ một ngân hàng cụ thể vào thời điểm nhập khẩu.Theo quan
điểm của chúng tôi, yêu cầu đầu tiên là không cần thiết và chỉ làm việc nhập khẩu trở nên phức
tạp hơn mà không có giá trị gia tăng. Các yêu cầu bổ sung theo chúng tôi là không hợp lý và
không thực tế do các công ty không chắc chắn họ sẽ chọn ngân hàng nào để thanh toán cho nhà
cung cấp tại thời điểm nhập khẩu. Nó phụ thuộc vào sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và tỉ giá
quy đổi khi đến hạn thanh toán cho nhà cung cấp.
Chúng tôi hiểu rằng Chính phủ muốn kiểm soát cơ chế đã có. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng

kiểm soát nên tập trung vào việc kiểm tra thị trường nội bộ liên quan đến những mẫu hàng giả,
không nên thực hiện thông qua việc làm chậm quá trình nhập khẩu sản phẩm đầu vào chất
lượng cao, đặc biệt là đối với những công ty đã có giấy phép sản xuất và phân phối trong nước,
không chỉ là giấy phép kinh doanh.
Các thủ tục này không những là gánh nặng mà quá trình này còn khá tốn kém cho các công ty38,
do yêu cầu về giấy tờ cần thiết và thời gian.Đổi lại, điều này sẽ chỉ làm tăng giá của sản
phẩm.Các chi phí này không mang lại thêm giá trị mà chỉ hạn chế nông dân tiếp cận với các sản
phẩm này vì giá tăng cũng như là tác động tiêu cực tới sức khỏe và môi trường.
Đề xuất
- Loại bỏ yêu cầu “giấy phép một lần” đối với các công ty đã có giấy phép kinh doanh bao
gồm quyền nhập khẩu;
- Hủy bỏ yêu cầu cần thư xác nhận từ ngân hàng khi xin giấy phép nhập khẩu phân bón vào
Việt Nam;
- Tập trung vào việc kiểm tra thị trường nội bộ, địa phương để kiểm soát thị trường đầu vào
ở Việt Nam; và
- Phân biệt giữa các công ty có giấy phép sản xuất và phân phối trong nước và những công ty
chỉ có giấy phép phân phối.
3.3 Thuế
Việt Nam đã là một trong những nước sử dụng nhiều phân bón nhất trên thế giới.Việc sử dụng
không đúng cách hoặc sử dụng sản phẩm giả sẽ làm hạn chế năng suất cây trồng và thậm chí có
38

Các công ty phải trả tiền bồi thường cho các hãng tàu do việc gây tốn thời gian.

Trang 18/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015


thể làm hư hại cây trồng. Nó cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản xuất và an toàn thực phẩm;
và cuối cùng nó có thể gây ra axit hóa và ô nhiễm đất, làm cho việc sử dụng trong tương lai càng
khó khăn hơn. Việc sử dụng các sản phẩm bảo vệ cây trồng chất lượng thấp ngày càng tăng gây
ảnh hưởng xấu đối với cây trồng, đất và sức khỏe con người. Tuy nhiên, các sản phẩm có chất
lượng tốt và thân thiện với môi trường có thuế nhập khẩu là 6% so với các sản phẩm đầu vào
chất lượng thấp hay ngay cả sản phẩm giả.Thuế cao dẫn tới việc tăng giá cả và khuyến khích
nông dân sử dụng sản phẩm đầu vào chất lượng thấp hay thậm chí sản phẩm giả. Thêm vào đó,
mã HS cũng gặp một số vấn đề, như là việc sản phẩm dùng cho hóa chất gen được dùng để làm
phân bón tại chỗ gần đây giống tương tự như sản phẩm cho phân bón.
Đề xuất
- Phân biệt giữa hóa chất gen và phân bón, áp dụng mã HS phù hợp cho phân bón để tránh
nhầm lẫn về thuế;
- Thúc đẩy một sân chơi bình đẳng bằng cách loại bỏ thuế nhập khẩu đối với hợp chất phân
bón chất lượng NPK (phân bón được sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiệu suất tốt, an toàn
với sức khỏe con người, với ít hoặc không có tác động tới môi trường) để khuyến khích
nhập khẩu/ sản xuất và sử dụng các sản phẩm này; và
3.4 Kiểm soát chất lượng
Việc ban hành Nghị định 202/2013/NĐ-CP và các Thông tư có liên quan của Bộ Công thương
trong vấn đề quản lý phân bón đã đem đến một làn gió mới cho thị trường phân bón. Mục tiêu
của luật và quy định mới này là tái cấu trúc thị trường phân bón ở Việt Nam và dần dần xoá bỏ
các sản phẩm hàng giả, hàng kém chất lượng ra khỏi thị trường. Chúng tôi hoan nghênh điều
này nhưng việc thi hành cần được cải thiện vì đôi khi các công ty có các sản phẩm chất lượng
tốt cuối cùng lại gặp khó khăn.Để minh hoạ cho điều này, chúng tôi xin đưa ra một ví dụ sau
đây. Các công ty nhập khẩu phân bón chất lượng cao ví dụ như từ châu Âu gặp vấn đề khi Đội
ngũ Quản lý thị trường kiểm tra sản phẩm tại các cửa hàng bán lẻ39và kết luận rằng sản phẩm
không đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quy định. Nếu công ty nào có phàn nàn, thanh tra viên
có thể sẽ đưa ra một phân tích khác với kết quả thậm chí còn tệ hơn. Trường hợp này rất phức
tạp để giải quyết vì tất cả các tài liệu nhập khẩu chính thức, như CoA, nơi sản xuất sản phẩm và
Hải quan tại cảng nhập khẩu vào Việt Nam phân tích cho thấy rằng các sản phẩm đều đạt các

chỉ tiêu kỹ thuật. Chúng tôi tin rằng các kết quả sai có thể là hậu quả của việc lấy mẫu trong quá
trình kiểm tra. Các mẫu được lấy từ một túi sản phẩm duy nhất, trong khi quy định TCVN 5815
về quá trình lấy mẫu yêu cầu lấy mẫu ít nhất trong 5 túi. Các mẫu không được lấy bằng các dụng
cụ thích hợp như xiên và được đựng trong túi nylon bán trên thị trường thay vì túi nhựa
polyethylene được quy định trong TCVN 5815/2001.Không có mẫu tham khảo để lại tại các cửa
hàng bán lẻ như đề xuất trong TCVN.Sự khác biệt lớn trong việc phân tích của hai phòng thí
nghiệm cũng làm dấy lên những nghi ngờ liên quan đến các phương pháp phân tích được sử
dụng.
Theo như chúng tôi hiểu, lấy mẫu và phân tích các loại phân bón là mối lo ngại lớn nhất của các
nhà sản xuất và kinh doanh phân bón tại Việt Nam. Theo quan điểm của chúng tôi, những
hướng dẫn dưới đây sẽ có ích cho việc giải quyết và cải thiện vấn đề được nêu ra.Các nhà nhập
khẩu không thể chịu trách nhiệm cho việc kiểm tra ở cấp các cửa hàng bán lẻ, đặc biệt nếu họ
không có người đại diện có mặt vào cùng ngày hôm đó.Một công ty đại diện có liên quan nên có
mặt vào thời điểm lấy mẫu để chắc chắn rằng quá trình lấy mẫu được thực hiện đúng quy trình.
Nếu công ty đại diện hay người bán hàng nhận thấy quá trình lấy mẫu không theo đúng quy
39

Các công ty phân phối sản phẩm của mình thông qua các nhà phân phối địa phương, những người đó bán cho các cửa hàng bán lẻ để rồi các
cửa hàng bán cho nông dân.

Trang 19/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

định, người đó có thể từ chối ký vào biên bản kiểm tra. Để đảm bảo rằng mẫu vật được gửi đến
phòng thí nghiệm để phân tích là chính xác và nguyên vẹn, sau khi lấy mẫu và niêm phong, mẫu
vật đó nên được gửi ngay lập tức đến phòng thí nghiệm qua đường bưu điện thay vì mang đến

văn phòng của Đội ngũ Quản lý thị trường để gửi đi sau đó như hiện nay đang thực hiện. Sau
khi phân tích mẫu thứ 2, trong trường hợp công ty (nhà sản xuất hay nhà nhập khẩu) vẫn không
đồng ý với kết quả, họ có thể đề nghị một phòng thí nghiệm tư có giấy chứng nhận đạt tiêu
chuẩn (quốc tế) thực hiện việc phân tích và chi phí phân tích sẽ do công ty chi trả. Một lựa chọn
khác là lấy 4 mẫu vật mỗi lần kiểm tra thay vì 3 theo như quy định trong TCVN 5815. Một mẫu
được giữ lại tại nơi bán hàng và hai mẫu được mang tới văn phòng của Đội ngũ quản lý.Công ty
(nhà sản xuất hay nhà phân phối sản phẩm) sẽ lấy một mẫu và gửi tới một phòng thí nghiệm có
giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn (quốc tế) để phân tích.Cùng lúc đó Đội ngũ Quản lý thị trường
cũng gửi một trong hai mẫu vật của họ tới một phòng thí nghiệm tiêu chuẩn khác để phân
tích.Việc so sánh giữa kết quả của hai phòng thí nghiệm sẽ khiến cho kết quả chính xác
hơn.Cách này sẽ đảm bảo rằng các phương pháp phân tích được sử dụng là không khác nhau.
Những thay đổi này sẽ làm cho việc lấy mẫu và phân tích trở nên đáng tin và minh bạch hơn,
cũng như mối lo ngại của các công ty hay những nhà kinh doanh phân bón nói chung sẽ được
giải quyết.
Đề xuất
- Khuyến khích sử dụng phương pháp lấy mẫu chuẩn để tránh các kết quả không đáng tin cậy
và không chính xác; và
- Đưa vào các hướng dẫn giúp đỡ doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp lấy mẫu chuẩn.
3.5 IPR – Quyền SHTT
Việc thực thi Quyền SHTT yếu kém gián tiếp gây thiệt hại cho ngành nông nghiệp nói riêng và xã
hội nói chung. Vấn đề này cũng hạn chế khả năng của các ngành công nghiệp trong việc thúc
đẩy đổi mới trên thị trường.Các sản phẩm bảo vệ cây trồng giả mạo và trái phép đang gia tăng;
thuốc trừ sâu giả ít khi được kiểm tra và có thể chứa các tạp chất độc hại lạ gây hại cho sức
khoẻ của nông dân và người tiêu dùng. Hơn nữa, các sản phẩm giả có thể gây nguy hại nghiêm
trọng cho cây trồng hay có thể dẫn đến việc các công ty thực phẩm từ chối sản phẩm do dư
lượng không mong muốn. Tất cả những yếu tố này có thể mang đến nguy cơ cho thu nhập của
người nông dân. Về việc này, chúng tôi rất vui mừng với sự ra đời của Nghị định số
08/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính đối với sản xuất và kinh doanh hàng giả. Tuy nhiên, theo
quan điểm của chúng tôi, cần đặt ra hình phạt cao hơn để răn đe những kẻ coi thường pháp
luật.

Đề xuất
- Tăng cường các biện pháp bảo vệ Quyền SHTT thông qua việc thực hiện nghiêm ngặt các
hoạt động pháp lý chống hàng giả và thực thi tại các chợ; đồng thời thu giữ các mặt hàng
trái phép trên thị trường;
- Nâng cao nhận thức thông qua kênh truyền thông đại chúng của Chính phủ nhằm giải thích
về những rủi ro đối với người nông dân, dân số và nền kinh tế nếu nông dân sử dụng các
sản phẩm đầu vào giả (giá rẻ);
- Đặt ra các quy định có hiệu lực mà không làm tổn hại đến sự an toàn và hiệu quả;
- Đặt ra các quy định nghiêm ngặt hơn và kiểm soát thị trường về phân bón giả kém chất
lượng;
- Gắn các yêu cầu về Quyền SHTT trong một khuôn khổ đăng ký để đảm bảo bảo vệ Quyền
SHTT bắt đầu từ khi đăng ký;

Trang 20/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

-

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Thực hiện đánh giá nghiêm công tác đăng ký tên thương hiệu, đồng thời tiến hành loại bỏ
các thương hiệu, logo, hình ảnh ăn theo,v.v.

3.6 Các vấn đề khác
Một số sản phẩm đã bị cấm từ lâu ở các quốc gia khác do vấn đề sức khoẻ vẫn được sử dụng ở
Việt Nam, vì chưa bị cấm hoặc vì những quy định hiện hành cấm các sản phẩm này không được
thực thi. Mặt khác, các sản phẩm được sử dụng hợp pháp ở các quốc gia khác lại không được
nhập khẩu vào Việt Nam40.Chẳng hạn, một sản phẩm sáp từ EU có thể được sử dụng để làm

quả trồng trong nước có dự định xuất khẩu trở nên đẹp mắt hơn.Sản phẩm sáp này được sử
dụng hợp pháp ở EU. Tuy nhiên, các tài liệu cần có theo quy định của luật Việt Nam để được Bộ
Y tế cho phép nhập khẩu thì các nước thành viên EU lại không thể cung cấp được vì họ không
phát hành các tài liệu như vậy. Điều này có nghĩa là Bộ Y tế sẽ không chấp nhận, và loại quả
trồng trong nước – so với các loại quả được sản xuất ở các nơi khác có sử dụng sáp – kém hấp
dẫn hơn để xuất khẩu. Nếu Việt Nam chấp nhận các sản phẩm đã được cho phép sử dụng ở các
quốc gia khác thì Việt Nam có thể xuất khẩu sản phẩm có tiềm năng cao đến những nơi như
EU.Các nhà sản xuất Việt Nam sẽ có thể đẩy mạnh xuất khẩu và cạnh tranh với các nhà xuất
khẩu hoa quả khác trên thế giới được cho phép sử dụng sản phẩm này.
Đề xuất
- Cho phép các sản phẩm được sử dụng hợp pháp ở các quốc gia khác như khối thành viên EU
được nhập khẩu vào Việt Nam mà không yêu cầu thêm các tài liệu nào;
- Đặt ra các quy định có hiệu lực mà không làm tổn hại đến sự an toàn và hiệu quả.
4. An toàn thực phẩm
4.1 Giới thiệu
Đầu tháng 8, Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam đã được ký
kết. Theo ông Jean Jacques Bouflet, (nguyên) Tham tán Công sứ, Trưởng ban Kinh tế và Thương
mại EU tại Việt Nam, những yêu cầu về chất lượng của EU, đặc biệt là đối với các sản phẩm thực
phẩm, là khá cao và các công ty Việt Nam nên cố gắng để đáp ứng được những yêu cầu này41.
Điều này có nghĩa rằng các công ty cần phải đáp ứng các yêu cầu được đặt ra ở mức cao hơn so
với ở Việt Nam42. Dự kiến rằng việc ký Hiệp định này sẽ làm tăng lượng sản phẩm được xuất
khẩu sang EU, giúp đạt được mục tiêu xuất khẩu mà Chính phủ Việt Nam đặt ra43.
Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) viết: "Thực phẩm không an toàn đã trở thành một
vấn nạn đối với sức khỏe con người kể từ khi lịch sử được ghi nhận lần đầu tiên, và nhiều vấn
đề an toàn thực phẩm gặp phải hiện nay không phải là mới. Mặc dù các Chính phủ trên toàn thế
giới đang cố gắng hết sức để cải thiện độ an toàn của nguồn cung thực phẩm nhưng các căn
bệnh xảy ra do thực phẩm vẫn còn là một vấn đề quan trọng ở cả các nước đã và đang phát
triển."44
Trong một cuộc thăm dò dư luận được tiến
hành bởi Hiệp hội Công nghiệp thực phẩm châu

40

Xem đoạn 3.1.5 trong Sách Trắng năm 2015 phần khuôn khổ pháp lý, hợp tác và thực thi.
Xem < />42
Xem<vietnamnews.vn/economy/271524/vn-produce-losing-their-edge.html>, <vovworld.vn/en-US/Economy/Expanding-exports-markets-forVietnamese-farm-produce/266152.vov>, <vccinews.com/news_detail.asp?news_id=32038>; <en.vietnamplus.vn/Home/Food-safety-vital-towin-EU-market/20156/66823.vnplus>, <vietnamnews.vn/society/263169/producers-traders-blamed-for-substandard-foodsafety.html>và<english.thesaigontimes.vn/41839/Asian-importers-apply-EU-standards-to-seafood-imports-from-Vietnam.html>
43
Xem<en.nhandan.org.vn/business/economy/item/3044802-agricultural-export-revenue-sets-new-record-of-us$30-8-billion.html>,
‘<vietnamnews.vn/economy/271524/vn-produce-losing-their-edge.html>và<www.vir.com.vn/bright-prospects-for-agriculture.html>
44
‘Five keys to safer food manual’của WHO.
41

Trang 21/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

Á (FIA)45vào ngày 16 tháng 4 năm 2015, an toàn thực phẩm được xếp vào top đầu các vấn đề có
ảnh hưởng lớn nhất đến sở thích của người tiêu dùng ở châu Á trong 2015/2016. Nó lớn hơn
một cách đáng kể so với các chủ đề khác.
4.2 Vấn đề an toàn thực phẩm ở Việt Nam
An toàn thực phẩm hay thực phẩm an toàn là gì và tại sao an toàn thực phẩm lại quan trọng?
Thực phẩm an toàn là thực phẩm không làm chúng ta bị bệnh ngay sau khi chúng ta ăn mà còn
cả trong thời gian dài. Nếu thực phẩm có chứa hàm lượng các chất kích thích, thuốc trừ sâu,
một số kim loại nặng hoặc các thành phần hóa học khác ở mức không thể chấp nhận được thì
chúng ta có thể bị bệnh chỉ sau một thời gian46. WHO định nghĩa thực phẩm không an toàn là
"thực phẩm có chứa vi khuẩn, virus, ký sinh trùng hoặc các chất hóa học có hại và có thể gây ra
hơn 200 bệnh khác nhau - từ tiêu chảy đến các bệnh mãn tính như ung thư."

An toàn thực phẩm vẫn còn là một vấn đề ở Việt Nam. Trong giai đoạn 2011-2013, số lượng các
trường hợp liên quan đến ngộ độc thực phẩm đã giảm bớt47. Trong năm 2014, khoảng 5.000
người được báo cáo là đã bị ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam, 16 người đã thiệt mạng, và con
số này chỉ bao gồm các “trường hợp ngộ độc thực phẩm chính thức đã được báo cáo và ghi
lại48. Trong 9 tháng đầu năm 2015, số lượng các trường hợp ngộ độc thực phẩm được báo cáo
là 129 trường hợp, 3,436 người bị ốm và 20 người chết49. Chúng tôi đã nhìn thấy kết quả từ
những nỗ lực của Chính phủ trong việc thực hiện nâng cao an toàn thực phẩm50. Tuy nhiên,
thực phẩm không an toàn vẫn còn là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng nghiêm trọng tại Việt
Nam, cũng như ở các nước đang phát triển khác51, không phải vì ngộ độc thực phẩm mà vì
những vấn đề tiềm ẩn về an toàn thực phẩm do việc sử dụng các sản phẩm bị cấm như các chất
kích thích, thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu,v.v, gây ra các vấn đề về sức khỏe cho người dân về
lâu dài.
4.3 Hạn chế cơ hội xuất khẩu
Vấn đề an toàn thực phẩm không chỉ khiến con người mắc bệnh mà còn hạn chế khả năng xuất
khẩu của Việt Nam và còn làm tổn hại đến uy tín sản phẩm Việt. Trong năm 2014, các uỷ ban
thương mại thuộc Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản và Hoa Kỳ đã nhận được nhiều cảnh báo
về lô hàng thủy sản có chứa dư lượng kháng sinh vượt mức cho phép. Trong năm 2015, các vấn
đề khác nhau về những mặt hàng xuất khẩu sang Saudi Arabia, Hoa Kỳ và Nhật Bản đã được
báo cáo52. Từ tháng 1 đến nay, Hệ thống cảnh báo nhanh Thực phẩm và Thức ăn chăn nuôi
(RASSF) của EU đã từ chối 21 sản phẩm đến từ Việt Nam tại biên giới của một trong những quốc
gia thành viên EU. 17 sản phẩm khác đã phải ngừng lại và cần có thêm các thông tin khác trước
khi quyết định được đưa ra. Trong năm 2014 có đến 130 sản phẩm không được phép nhập
khẩu trực tiếp vào thị trường EU53.Khoảng 51 lô hàng có chứa hóa chất và kháng sinh ở mức
quá cao, tăng gấp 7 lần từ tháng 7 năm 2013. Nhìn chung, lý do hàng nhập khẩu bị ngừng lại là
45

Xem<foodindustry.asia/food-safety-key-to-consumer-preference-in-asia>
“Kinh doanh nông nghiệp và an toàn thực phẩm” - ChươngKhối Uỷ ban Kinh doanh Thực phẩm, Nông nghiệp và Nuôi trồng thủy sảntrong Sách
Trắng 2015của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu.
47

Xem <english.tapchicongsan.org.vn/Home/Vietnam-on-the-way-of-renovation/2013/396/Viet-Nam-continues-implementing-national-targetprograms-on-healthcare.aspx>
48
Xem<www.thanhniennews.com/health/5000-had-food-poisoning-in-vietnam-last-year-who-40796.html>, and <www.24h.com.vn/suc-khoedoi-song/gan-700-nguoi-chet-do-ngo-doc-pham-c62a662299.html>
49
Xem<vietnamnews.vn/society/276516/20-food-poisoning-deaths-reported-in-nine-months.html>
50
Xem <vietnamnews.vn/society/258361/advertising-hygiene-violations-cost-firms.html> and <www.vietmaz.com/2014/08/vietnam-tightenscontrol-over-imported-agricultural-produces/>
51
Xem <english.tapchicongsan.org.vn/Home/Vietnam-on-the-way-of-renovation/2013/396/Viet-Nam-continues-implementing-national-targetprograms-on-healthcare.aspx>
52
Xem<tuoitrenews.vn/business/28078/vietnam-produce-exports-should-meet-food-hygiene-safety-requirements-in-overseas-marketsministry>
53
Cổng hệ thống RASSF của EU: ec.europa.eu/food/safety/rasff/index_en.htm
46

Trang 22/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

do lô hàng chứa một số kim loại nặng, vi khuẩn, virus, nấm mốc hay các chất bị cấm khác với
hàm lượng quá cao.
4.4 Tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề an toàn thực phẩm
Trong bối cảnh một loạt các Hiệp định thương mại tự do (FTA) sắp tới sẽ được ký kết và phê
chuẩn, việc tìm ra mức Giới hạn Tối đa Dư lượng là đặc biệt quan trọng vì cạnh tranh ngày càng
trở nên gay gắt hơn54. Chẳng hạn, các lợi thế liên quan đến thuế bắt nguồn từ Hiệp định FTA sẽ
đòi hỏi các sản phẩm phải đạt đến tiêu chuẩn nếu Việt Nam mong muốn tăng sản lượng xuất
khẩu, đặc biệt là khi sẽ phải cạnh tranh hơn nữa trong khu vực. Theo quan điểm của chúng tôi,

chất lượng các mặt hàng hải sản và cá xuất khẩu là khá tốt nhưng các sản phẩm khác như hạt
tiêu, chè và cà phê vẫn cần phải cải thiện chất lượng.
Như đã đề cập trước đó, thực tế là các sản phẩm Việt Nam bị từ chối nhập khẩu ở các nước
khác đã gây thiệt hại cho uy tín sản phẩm Việt Nam nói chung. Đó có thể chỉ do một nhà sản
xuất hay nhà xuất khẩu không tuân thủ quy định hoặc không ý thức được rằng sản phẩm không
đáp ứng được yêu cầu, nhưng danh tiếng của tất cả các sản phẩm Việt Nam đang bị đe dọa và
toàn bộ các sản phẩm Việt sẽ được xem xét một cách kỹ lưỡng, chi tiết. Về mặt này, điều quan
trọng là phải nhận ra các nước nhập khẩu thường đặt ra một tiêu chuẩn cao hơn so với tiêu
chuẩn các sản phẩm Việt và cao hơn so với yêu cầu tiêu chuẩn của Việt Nam.Giải quyết các vấn
đề đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu xuất khẩu đặt ra là 32 tỷ USD.
Đáng chú ý rằng các thành phần hoặc nguyên liệu giả và trái phép không chỉ gây tổn hại nhất
đến uy tín sản phẩm Việt Nam mà còn gây nguy hiểm cho sức khoẻ của nông dân và người tiêu
dùng55. Đôi khi nó cũng liên quan đến các sản phẩm đã bị cấm trong một thời gian dài ở các
nước khác nhưng vẫn có thể được sử dụng ở Việt Nam; vì chúng chưa bị cấm, các quy định
không rõ ràng, hoặc do thiếu sự cưỡng chế56.
Không chỉ nhà quản lý của các công ty thực phẩm lo lắng về độ an toàn thực phẩm mà người
dân Việt Nam cũng lo lắng về an toàn thực phẩm và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe của họ57.
Xét về số lượng các sự kiện do các Bộ và các cơ quan khác nhau tổ chức thì rõ ràng an toàn thực
phẩm cũng là một chủ đề quan trọng đối với Chính phủ. Tuy nhiên, có vẻ như là chưa đủ và việc
giải quyết các vấn đề quan trọng như an toàn thực phẩm được cho là giải pháp cho sự phát
triển nông nghiệp.58
4.5 Ai nên giải quyết những vấn đề này
Chúng ta đều biết rằng việc xử lý, bảo quản và phân phối không thoả đáng sau thu hoạch ảnh
hưởng đến tỷ lệ thành công của các nước sản xuất và an toàn thực phẩm59. Việc áp dụng chuỗi
giá trị/cung ứng cũng rất quan trọng trong việc phân tích nguồn gốc các vấn đề an toàn thực
phẩm xảy ra ở đâu và làm thế nào để ngăn chặn tốt nhất, khi mà các vấn đề an toàn thực phẩm
có thể xảy ra trong toàn bộ chuỗi giá trị và cung ứng60. Cả Chính phủ và các đơn vị bán buôn
54

Xem< /><en.nhandan.org.vn/business/economy/item/3044802-agricultural-export-revenue-sets-new-record-of-us$30-8billion.html>, <vietnamnews.vn/economy/271524/vn-produce-losing-their-edge.html>, <vovworld.vn/en-US/Economy/Expanding-exportsmarkets-for-Vietnamese-farm-produce/266152.vov>; <vccinews.com/news_detail.asp?news_id=32038>và<www.vir.com.vn/bright-prospectsfor-agriculture.html>

55
Xem<tuoitrenews.vn/society/26193/toxic-tet-kumquats-highlight-vietnam-s-pesticide-problem>
56
“Kinh doanh nông nghiệp và an toàn thực phẩm” - ChươngKhối Uỷ ban Kinh doanh Thực phẩm, Nông nghiệp và Nuôi trồng thủy sảntrong Sách
Trắng 2015của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu, đoạn 3.1.5 về khuôn khổ pháp lý, hợp tác và thực thi.
57
Xem <thediplomat.com/2014/01/vietnam-back-to-organic>
58
Xem<english.vov.vn/Economy/Food-safety-optimal-solution-to-agricultural-growth/283734.vov>
59
Đề án VIE/61/94, tháng 5/2009, trang 17 và tại <www.fao.org/ag/agn/CDfruits_en/launch.html>
60
Xem<aciar.gov.au/files/food_safety_from_farm_to_fork.pdf>

Trang 23/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

bán lẻ đều có những sáng kiến phát triển phương pháp chuỗi (giá trị)61. Chúng tôi tin rằng
phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị là cách tốt nhất bởi nó cho phép các nhà bán buôn/bán lẻ
định hướng quá trình và cung cấp thông tin phản hồi để họ biết khách hàng của họ đang tìm
kiếm điều gì.
Các nhà bán buôn bán lẻ có thể được khuyến khích áp dụng phương pháp này nếu nó mang lại
lợi ích cho họ. Điều này phần nào có thể đạt được bằng cách thiết lập một Cơ quan An toàn
Thực phẩm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của một Bộ, thực hiện thống nhất các đạo luật và quy
định. Điều này sẽ giảm thiểu những rắc rối về thủ tục hành chính và việc kiểm soát chất lượng
&an toàn sẽ hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho sự tham gia của nhiều bên liên quan hơn.

Phương pháp chuỗi giá trị
Nông dân

Nhà sản
xuất

Nhà chế
biến

Nhà bán lẻ

Người tiêu
dùng

Nguồn: Phòng thí nghiệm Thẩm định Thực phẩm

Một số thực tiễn và giấy phép nhằm giải quyết những vấn đề này đã được phát triển trên toàn
thế giới và tại Việt Nam. Các nhà sản xuất cá và hải sản đã khá thành công và đang xuất khẩu
sản phẩm của mình. Tuy nhiên, nhìn chung khả năng để được cấp giấy chứng nhận đem đi xuất
khẩu thường rất khó khăn và thậm chí là bất khả thi, do quy mô nhỏ và các chi phí cao kèm theo
đó.
Phương pháp này có thể bắt đầu với những bước nhỏ, chẳng hạn như đào tạo nông dân để có
được giấy chứng nhận.Chính phủ có thể hỗ trợ và khuyến khích nông dân tham gia.Nên khuyến
khích nông dân thành lập các hiệp hội nông dân. Trong một báo cáo của Ngân hàng Phát triển
châu Á có chỉ ra rằng các hiệp hội như thế đang khá thành công với vai trò là các nhà cung cấp
thường xuyên cho các siêu thị và cũng có nhiều khả năng nhận được hỗ trợ của Chính phủ về kỹ
thuật và phát triển chất lượng hơn so với các trang trại tư nhân62.
Sự hợp tác trực tiếp giữa các nhà bán buôn bán lẻ và nhà sản xuất đồng nghĩa với việc các nhà
sản xuất sẽ nhận được một mức giá tốt hơn vì không phải thông qua đơn vị trung gian. Điều này
cũng có nghĩa là sự đứt đoạn trong mô hình chuỗi giá trị này sẽ ít xảy ra hơn, các sản phẩm sẽ

có chất lượng tốt hơn vì bớt các khâu xử lý ở giữa, và vấn đề an toàn thực phẩm sẽ được đảm
bảo hơn. Nếu giảm thiểu các vấn đề về thủ tục hành chính trong khâu cuối cùng của chuỗi giá
trị thì thậm chí có thể giảm giá thành.Lĩnh vực này sẽ trở nên cạnh tranh hơn và người tiêu
dùng sẽ là người được lợi hoàn toàn trong việc phát triển mô hình chuỗi (giá trị) này.
Tuy nhiên, cần có sự tham gia từ phía Chính phủ, đặc biệt là ở khâu đầu của chuỗi với khung
pháp lý rõ ràng và ở khâu cuối khi đưa pháp luật vào thực thi. Chúng tôi cũng tin rằng việc
thành lập một Cơ quan An toàn Thực phẩm (FSA) có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc
giải quyết các vấn đề an toàn thực phẩm.
4.6 Làm sao để giải quyết các vấn đề an toàn thực phẩm
Các vấn đề về an toàn thực phẩm có thể được giải quyết bằng nhiều cách, chẳng hạn như bằng
một khuôn khổ pháp lý tốt; một hệ thống theo dõi, giám sát và truy xuất sản phẩm; quyền sở

61

Xem<www.fao.org/ag/agn/CDfruits_en/launch.html >and <vietnamnews.vn/society/244563/seminar-promotes-safer-agri-food-chain.html>
Xem< trang 11.

62

Trang 24/34


Nhóm Công tác Nông nghiệp

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2015

hữu trí tuệ; kiểm soát và quản lý thuốc trừ sâu; thiết bị kiểm định tốt và thực thi pháp luật hiệu
quả.
4.6.1 Khuôn khổ pháp lý
Bắt đầu với một khuôn khổ pháp lý tốt và kết thúc bằng việc thực thi các quy định. Như Tổ chức

Lương thực và Nông nghiệp đưa ra trong bản hướng dẫn về kiểm soát thực phẩm: "Ở nhiều
quốc gia, hiệu quả của việc kiểm soát thực phẩm bị ảnh hưởng bởi khung pháp lý rời rạc, nhiều
cấp có thẩm quyền, và những yếu kém trong giám sát, kiểm tra và thực thi.”63 Chúng tôi hoàn
toàn hiểu điều này vì chúng tôi tin rằng khuôn khổ pháp lý hiện nay là một trong những nguyên
nhân chính tại sao rất khó để có sự kiểm soát và thực thi an toàn thực phẩm hiệu quả. Bản thân
nội dung của Luật Thực phẩm không phải là vấn đề, mà là tại hiện nay có quá nhiều Bộ và các
Cơ quan Chính phủ có liên quan tham gia quản lý hóa chất và kháng sinh cũng như quản lý vệ
sinh an toàn thực phẩm.64
Trong năm 2013 và 2014, một số quy định đã có hiệu lực65. Đặc biệt, Thông tư liên tịch
13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT (Thông tư liên tịch số 13) là một bước tiến quan trọng vì nó
nhằm tránh chồng chéo trong quản lý thực phẩm của các Bộ khác nhau, nhưng vẫn không loại
bỏ được những nhầm lẫn có thể xảy ra. Ví dụ, nếu một vitamin phụ gia được thêm vào sữa thì
sản phẩm này sẽ thuộc thẩm quyền của một Bộ khác so với chỉ là sữa không, gây ra phức tạp
cho các nhà sản xuất. Chúng tôi không có thông tin về đánh giá tác động của Thông tư liên tịch
số 13, vấn đề là có nhiều bên vẫn còn tham gia vào quá trình ra quyết định liên quan đến an
toàn thực phẩm. Theo quan điểm của chúng tôi, điều này sẽ không có hiệu quả bằng việc quy
trách nhiệm về một mối duy nhất.
Hệ thống hiện tại cũng gây khó khăn để nhất quán trong quá trình soạn thảo, thực hiện và áp
dụng các quy định. Nó thậm chí còn trở nên phức tạp hơn vì ở cấp địa phương và cấp tỉnh, các
quy định đôi khi được giải thích theo nhiều cách khác nhau hoặc cho phép giải quyết theo nhiều
cách khác nhau. Chẳng hạn như khi thanh tra đến kiểm tra 3, thậm chí 4 đợt và họ kiểm tra
những điểm giống hoặc khác nhau, kiểm tra chéo là hoàn toàn có thể nhưng không phải lúc nào
cũng xảy ra. Việc này sẽ rất tốn kém về mặt chi phí và thời gian cho các công ty và các cơ quan
có thẩm quyền, đẩy giá tiêu dùng cao hơn, nhưng không nhất thiết là tăng mức độ an toàn thực
phẩm.
Theo quan điểm của chúng tôi, một Cơ quan An toàn Thực phẩm có thể giải quyết và xoá bỏ
được nhiều vấn đề an toàn thực phẩm hiện nay. Chúng tôi nhận thấy rằng sự thay đổi này cần
có thời gian nhưng dưới quan điểm của các Hiệp định FTA, chúng tôi tin rằng những chuẩn bị
ban đầu để đạt được mục tiêu thành lập một Cơ quan An toàn Thực phẩm là điều vô cùng quan
trọng. Có một số điểm chúng tôi muốn nhấn mạnh về cơ cấu các cơ quan An toàn Thực phẩm

như dưới đây.
Một Cơ quan An toàn Thực phẩm cần:
- Sát nhập cơ cấu hiện tại của trung ương và địa phương thành một cơ cấu mới.
- Điều hoà và phối hợp giữa cấp tỉnh và cấp địa phương.
63

Xem <www.wpro.who.int/foodsafety/documents/docs/English_Guidelines_Food_control.pdf>
Như Bộ Y tế (MOH), Bộ Công thương (MoIT), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD), Bộ Khoa học Công nghệ (MoST) và Bộ Tài
nguyên Môi trường (MoNRE), cũng như Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản, NAFIQAD; xem:
<cip.cornell.edu/DPubS/Repository/1.0/Disseminate?view=body&id=pdf_1&handle=dns.gfs/1265385755>
65
VD như: Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, Nghị định 119/2013/NĐ-CP
ngày 09/11/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôivà Thông tư liên tịch
13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 09/04/2014 hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
64

Trang 25/34


×