Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Tiểu luận Khu công nghiệp sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.6 KB, 42 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN KHCN & QL MÔI TRƯỜNG

TIỂU LUẬN

Lớp: ĐHMT3B
Viện: KHCN & QL Môi Trường
Khóa học: 3
GVHD: GS.TSKH. Lê Huy Bá

TP. HCM, tháng 7 năm 2009


BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN KHCN & QL MÔI TRƯỜNG

TIỂU LUẬN

SV: Lê Hồng Thúy
MSSV: 07721441
Lớp: ĐHMT3B
GVHD: GS.TSKH. Lê Huy Bá

TP. HCM, tháng 7 năm 2009


MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu......................................................................................1


I. Khu công nghiệp sinh thái..........................................................2
1. Khu công nghiệp.............................................................................2
1.1. Khái niệm.....................................................................................2
1.2. Vai trò...........................................................................................2
1.3. Hạn chế.........................................................................................3
2. Sinh thái công nghiệp......................................................................5
2.1. Khái niệm.....................................................................................5
2.2. Trao đổi chất công nghiệp...........................................................6
2.2.1.Quá trình trao đổi chất công nghiệp..........................................6
2.2.2.Quá trình trao đổi chất công nghiệp so với quá trình trao đổi
chất sinh học........................................................................................7
2.3. Hệ sinh thái công nghiệp.............................................................9
3. Khu công nghiệp sinh thái............................................................11
3.1. Khái niệm...................................................................................11
3.2. Mục tiêu của Khu công nghiệp sinh thái...................................13
3.3. Lợi ích của việc phát triển KCNST...........................................15
3.3.1. Đối với các DN thành viên và chủ đầu tư KCNST................15
3.3.2. Đối với sản xuất công nghiệp.................................................16
3.3.3. Đối với xã hội..........................................................................16
3.3.4. Đối với môi trường.................................................................16
II. Hiện trạng xây dựng Khu công nghiệp sinh thái...................18
1. Khu công nghiệp sinh thái trên thế giới.......................................18
2. Vấn đề phát triển KCNST tại Việt Nam.......................................23
2.1 Áp dụng thuyết Sinh thái công nghiệp ở Việt Nam...................23
2.2. Các dự án phát triển KCNST.....................................................24


2.3. Khả năng áp dụng mô hình KCNST ở vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam...........................................................................................28
III. Giải pháp phát triển Khu công nghiệp sinh thái..................29

1. Tiêu chuẩn Khu công nghiệp sinh thái.........................................29
2. Giải pháp xử lý cuối đường ống và KCNST................................29
3. Phương pháp xây dựng KCNST...................................................32
Lời kết............................................................................................37
Tài liệu tham khảo........................................................................38


LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của các Khu công nghiệp đã đem lại những thành tựu to lớn, khẳng
định vai trò quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy nhanh
tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, khi các Khu
công nghiệp đi vào hoạt động và ngày càng phát triển, thì đồng thời cũng nảy
sinh không ít bất cập, ảnh hưởng tới đời sống xã hội của cộng đồng. Thực trạng
ô nhiễm môi trường Khu công nghiệp đang là vấn đề hết sức bức xúc. Do
không coi trọng đến việc xử lý chất thải ở các doanh nghiệp nên đã làm ảnh
hưởng rất lớn đến môi trường sống, gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Để
giải quyết vấn đề này cần hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi
trường, sớm ban hành đồng bộ khung pháp lý về bảo vệ môi trường khu công
nghiệp, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về môi trường, phân bố lại địa bàn
sản xuất công nghiệp theo hướng tập trung hoá và quy hoạch hợp lý hơn, triển
khai xây dựng hệ thống xử lý chất thải, nước thải, nâng cao ý thức và trách
nhiệm bảo vệ môi trường của chủ đầu tư Khu công nghiệp và doanh nghiệp...
trong số các giải pháp đó thì viêc hướng tới xây dựng Khu công nghiệp sinh
thái đang rất được quan tâm. Khu công nghiệp sinh thái được xem là hướng
phát triển công nghiệp bền vững mang tính khả thi nhất. Khái niệm sinh thái
công nghiệp và Khu công nghiệp sinh thái tuy đã phát triển ở một số nước trên
thế giới_ phần lớn là ở châu Âu và Mỹ nhưng vẫn còn khá mới mẻ ở nước ta.
Hiện đã có một số dự án xây dựng nhưng chỉ mới bắt đầu và nhiều dự án vẫn
đang ở thời kỳ phôi thai.



I. KHU CÔNG NGHIỆP SINH THÁI
1. Khu công nghiệp
1.1. Khái niệm
Khu công nghiệp (KCN) là khu vực dành cho phát triển công nghiệp theo một
quy hoạch cụ thể nào đó nhằm đảm bảo được sự hài hòa và cân bằng tương đối
giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường. KCN thường được Chính phủ
cấp phép đầu tư với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và pháp lý riêng. Những KCN có
quy mô nhỏ thường được gọi là cụm công nghiệp.
Sự ra đời của các KCN đã đem lại những thành tựu to lớn, khẳng định vai trò
quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy nhanh tiến trình
hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế.
1.2. Vai trò
Tính
3/2006,

đến
trên

tháng
toàn

quốc đã có khoảng
133 KCN do Thủ
tướng

Chính

thành


lập,

phủ
thuộc

phạm vi đối tượng
điều chỉnh của Nghị định này. Ngoài ra còn khoảng 500 cụm công nghiệp do
địa phương quản lý.
KCN ra đời đã tạo nên mảnh đất thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghiệp
trong và ngoài nước có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất. Hiện nay, Việt
Nam đã có tới 3.300 doanh nghiệp trong và ngoài nước sản xuất, cung cấp dịch
vụ công nghiệp hoạt động trong các KCN, với tổng đầu tư khoảng 20 tỷ USD
và 137.000 tỷ VND. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thì các khu,


cụm công nghiệp đều đã đẩy nhanh tiến trình CNH đất nước. Mặt khác, sự ra
đời của các KCN còn tác động mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông
nghiệp. Thực tế cho thấy, các tỉnh có nhiều KCN như Đồng Nai, Bình Dương,
tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế chỉ còn khoảng 10 – 15%,
thậm chí tốc độ chuyển dịch cơ cấu còn diễn ra rất nhanh.
Các KCN phát triển, kéo theo tốc độ đô thị hóa cũng diễn ra khá nhanh, với cơ
sở hạ tầng được nâng cấp mọi mặt. Chất lượng cuộc sống của người dân quanh
các KCN cũng nhờ đó được nâng lên. Đồng thời với tốc độ đô thị hóa là những
dịch vụ đi kèm như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ cơ sở hạ tầng, giao thông vận
tải, kho tàng bến bãi, đào tạo… cũng được kích thích phát triển. Đặc biệt KCN
mở ra đã là nơi thu hút không ít lao động địa phương, giải quyết một lượng lớn
công ăn việc làm cho người lao động. Tính đến hết năm 2005, các KCN đã tạo
công ăn việc làm cho trên 74 vạn lao động trực tiếp (gấp 3 lần năm 2001, gấp
14 lần năm 1995), và khoảng 2 triệu lao động gián tiếp. Bên cạnh đó, chất

lượng và trình độ người lao động cũng nhờ đó tăng lên. Các KCN ra đời còn là
một động lực làm chuyển biến tích cực trong cải cách hành chính, đổi mới cơ
chế, chính sách, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Và đó chính là những
bước đầu tiên để thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, kim ngạch xuất
khẩu tại các KCN chiếm tới 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp
phần tạo uy tín thương mại của Việt Nam trên thị trường thế giới. Các doanh
nghiệp tại các KCN cũng được hưởng cơ chế hải quan thông thoáng hơn, kích
thích khả năng cạnh tranh, đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3. Hạn chế
Không thể phủ nhận những thành công khi quyết định mở ra các KCN. Song,
bên cạnh hàng loạt những thành quả thu được từ các KCN, thì cũng không ít
bất cập, nếu không sớm nhận ra và có những giải pháp kịp thời, phù hợp với
điều kiện thực tế sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trước hết phải nói đến


tình trạng đất canh tác nông nghiệp dần bị thu hẹp lại. Điều này nếu thực sự
không tính toán kỹ lưỡng, sẽ gây ảnh hưởng tới an ninh lương thực.
Mặt khác, việc hình thành các KCN nhằm tạo điều kiện để các chủ doanh
nghiệp đầu tư mở rộng qui mô sản xuất, song thực tế cho thấy, nhiều doanh
nghiệp đã nhập dây chuyền công nghệ lạc hậu hàng chục năm. Điều này, không
chỉ làm giảm sức cạnh tranh, mà còn khiến hoạt động sản xuất không ổn định,
gây ô nhiễm môi trường. Thêm nữa, do muốn thu hút các nhà đầu tư, nên nhiều
địa phương ồ ạt mở ra KCN mà không tính đến quy hoạch đô thị. Vì vậy không
ít các KCN đã nằm quá gần khu đô thị, khu dân cư, ảnh hưởng tới chất lượng
môi trường đô thị trong một vài năm tới.
Chất thải công nghiệp cũng đang là mối nguy cơ đe dọa tới cuộc sống của một
số địa phương có KCN đóng trên địa bàn. Chất thải công nghiệp chưa được xử
lý kỹ càng gây ô nhiễm trầm trọng tới nguồn nước, không khí, tiếng ồn…Về
vấn đề này đã có khá nhiều địa phương phải trả giá; đời sống người dân thật sự
bị đe dọa. Nếu không đánh giá đúng và không đưa ra những giải pháp hữu

hiệu, tổ chức tốt việc phòng chống ô nhiễm thực tại này sẽ gây những tác hại
khôn lường.
Việc quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược đã gây ảnh hưởng xấu
đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, tạo ra sự phát triển không đồng
bộ giữa trong và ngoài hàng rào KCN, sự phân hóa rất rõ về mọi mặt giữa
trong và ngoài KCN, gây sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các KCN; thiếu
sự liên kết giữa các KCN trong một vùng, một địa phương, giữa các doanh
nghiệp trong cùng một KCN. Do đó chính các doanh nghiệp, các KCN không
những không khai thác hết thế mạnh của địa phương, mà còn làm xáo trộn hoạt
động kinh tế - xã hội địa phương.
Sự tập trung cao của lao động tại các KCN đang khiến cho vấn đề xã hội ngày
càng trở thành áp lực đối với chính quyền địa phương và người dân quanh


KCN. Đó là tình trạng thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, giá cả hàng
hóa tiêu dùng tăng và đáng lo ngại nhất vẫn là nảy sinh tệ nạn xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển KCN là một xu thế tất yếu trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, từ những bất cập nảy sinh trong thực tế,
chúng ta cần phải có tầm nhìn chiến lược trong sự phát triển của KCN. Có như
vậy, mới đảm bảo được tính bền vững của các mô hình này. Tính bền vững của
các KCN, sẽ tạo điều kiện phát huy những ảnh hưởng tốt và giảm thiểu tác
động xấu, góp phần phát triển kinh tế đất nước theo hướng CNH – HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế.
2. Sinh thái công nghiệp
2.1. Khái niệm
Sinh thái công nghiệp (STCN- Industrial Ecology) thể hiện sự chuyển hóa mô
hình hệ công nghiệp truyền thống sang dạng mô hình tổng thể hơn - hệ STCN
(Industrial ecosystem). Trong đó, chất thải hay phế liệu từ quy trình sản xuất
này có thể sử dụng làm nguyên liệu cho quy trình sản xuất khác. Khái niệm
STCN được biết đến vài năm trước đây, đặc biệt từ khi xuất hiện bài báo của

Frosch và Gallpoulos phát hành theo số báo đặc biệt của tờ Scientific American
(Frosch và Gallpoulos, 1989).
Khái niệm STCN còn được xem xét ở khía cạnh tạo thành mô hình hệ công
nghiệp bảo toàn tài nguyên là chiến lược có tính chất đổi mới nhằm phát triển
công nghiệp bền vững bằng cách thiết kế những hệ công nghiệp theo hướng
giảm đến mức thấp nhất sự phát sinh chất thải và tăng đến mức tối đa khả năng
tái sinh - tái sử dụng nguyên liệu và năng lượng. STCN là một hướng mới tiến
đến đạt được sự phát triển bền vững bằng cách tối ưu hóa mức tiêu thụ tài
nguyên thiên nhiên và năng lượng đồng thời giảm thiểu sự phát sinh chất thải.
Hay nói cách khác, khái niệm STCN còn bao hàm tái sinh, tái chế, tuần hoàn
các loại phế liệu, giảm thiểu chi phí xử lý, tăng cường việc sử dụng tất cả các
giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm bao gồm cả sản xuất sạch hơn và xử lý cuối


đường ống. Ở đây sản xuất sạch hơn là hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức cơ
sở sản xuất riêng lẻ, trong khi đó STCN hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức
hệ công nghiệp.

Mặc dù khái niệm STCN vẫn còn mới mẻ và chưa có một định nghĩa thống
nhất, tuy nhiên có thể thấy sự nhất trí rằng khái niệm STCN thể hiện những
quan điểm chính sau đây:
- STCN là sự tổ hợp toàn diện và thống nhất tất cả các thành phần của hệ công
nghiệp và các mối quan hệ của chúng với môi trường xung quanh.
- STCN nhấn mạnh việc xem xét các hoạt động do con người điều khiển sao
cho có thể phát triển công nghiệp theo hướng bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi
trường.
- STCN xem quá trình tiến hóa (cải tiến) công nghệ sản xuất là yếu tố quan
trọng để chuyển tiếp từ hệ công nghiệp không bền vững hiện tại sang hệ STCN
bền vững trong tương lai.
2.2. Trao đổi chất công nghiệp (Industrial metabolism)

2.2.1.Quá trình trao đổi chất công nghiệp
Quá trình trao đổi chất công nghiệp thể hiện sự chuyển hóa của dòng vật chất
và năng lượng từ nguồn tài nguyên tạo ra chúng, qua quá trình chế biến trong
hệ công nghiệp, đến người tiêu thụ và cuối cùng thải bỏ. Trao đổi chất công
nghiệp cung cấp cho chúng ta khái niệm cơ bản về quá trình chuyển hóa hệ
thống sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hiện tại theo hướng phát triển bền vững.
Đây là cơ sở cho việc phân tích dòng vật chất, xác định và đánh giá các nguồn
phát thải cũng như các tác động của chúng đến môi trường.


2.2.2.Quá trình trao đổi chất công nghiệp so với quá trình trao đổi chất
sinh học
Quá trình trao đổi chất sinh học đă có từ khi xuất hiện khoa học sinh học. Khái
niệm này được sử dụng để mô tả các quá trěnh chuyển hóa trong cơ thể sinh
vật sống. Trao đổi chất sinh học được sử dụng để mô tả các quá trình hóa sinh
xảy ra luân phiên trong các phân tử sinh học.
Sự giống nhau giữa quá trình trao đổi chất sinh học và trao đổi chất công
nghiệp là các quá trình trao đổi chất có thể được chia thành 2 nhóm chính: quá
trình đồng hóa và quá trình dị hóa. Cũng như thế, một hệ STCN tổng hợp vật
chất, hay thực hiện quá trình đồng hóa, và phân hủy vật chất, tức là thực hiện
quá trình tương tự như quá trình dị hóa sinh học. Trong một hệ sinh học, quá
trình trao đổi chất xảy ra ở tế bào, ở các cơ quan riêng biệt cũng như trong toàn
bộ cơ thể sinh vật. Tương tự như vậy, quá trình trao đổi chất công nghiệp cũng
có thể xảy ra trong từng cơ sở sản xuất riêng biệt, trong từng ngành công
nghiệp và ở mức toàn cầu. Mặc dù có một số điểm khác biệt giữa một sinh vật
sống và một cơ sở sản xuất khái niệm trao đổi chất công nghiệp có thể áp dụng
đối với các cơ sở sản xuất. Điểm cốt yếu lŕ phải xác định rő phạm vi mà dòng
vật chất và năng lượng tham gia vào quá trình chuyển hóa.
Bảng 1. Sự khác nhau giữa sinh vật sốngvà cơ sở sản xuất
Sinh vật sống

Cơ sở sản xuất
Sinh vật có khả năng tái sản sinh ra Cơ sở sản xuất chỉ tạo ra sản phẩm hoặc dịch
chúng. Sinh vật có tính đặc trưng và vụ phục vụ. Cơ sở sản xuất có thể thay đổi từ
không thể thay đổi đặc tính của chúng mặt hàng sản xuất cũng như dịch vụ thương
trừ khi trải qua quá trình tiến hóa lâu dài.

mại từ dạng này sang dạng khác. Một cơ sở
sản xuất chuyển hóa nguyên liệu, bao gồm cả
nhiên liệu và năng lượng, thành sản phẩm, phế
phẩm và chất thải.


Trao đổi chất sinh học là quá trình tự điều chỉnh. Đối với từng sinh vật, quá
trình này được thực hiện bởi những cơ chế sinh học chung. Ở mức hệ sinh thái,
quá trình này xảy ra thông qua sự đấu tranh sinh tồn giữa các sinh vật. Một hệ
STCN cũng là một hệ tự điều chỉnh. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cơ chế
chính của quá trình là hệ kinh tế được vận hành theo quy luật cung - cầu. Một
cách tổng quát, những điểm giống và khác nhau giữa quá trình trao đổi chất của
hệ sinh thái tự nhiên và hệ công nghiệp.
Trong hệ sinh thái tự nhiên, chu trình sinh học của vật liệu được duy trì bởi 3
nhóm chính: sản xuất, tiêu thụ và phân hủy. Nhóm sản xuất có thể là cây trồng
và một số vi khuẩn có khả năng tự tạo ra nguồn thức ăn cần thiết cho bản thân
chúng nhờ quá trình quang hợp hoặc để cung cấp năng lượng và protein cần
thiết cho cơ thể chúng. Nhóm phân hủy có thể là nấm và vi khuẩn. Nhóm này
có khả năng chuyển hóa các chất hữu cơ thành nguồn thức ăn cần thiết cho
nhóm sản xuất. Do đó, nhóm phân hủy cũng đóng vai trò của cơ sở tái chế. Với
nguồn năng lượng là ánh nắng mặt trời, thế giới tự nhiên có khả năng duy trì
chu trình sản xuất - tiêu thụ- phân hủy một cách vô hạn. Hay nói cách khác,
một thực thể tồn tại độc lập nhỏ nhất cũng là một hệ sinh thái.
Trong các hệ công nghiệp, hoạt động sản xuất bao gồm tạo ra năng lượng và

những sản phẩm khác. Nhóm tiêu thụ sản phẩm có thể là những nhà máy khác,
con người (thị trường) và động vật. Quá trình phân hủy bao gồm xử lý, thu hồi
và tái chế chất thải. Tuy nhiên, khác với hệ sinh thái tự nhiên, hệ công nghiệp
không thể dựa vào nhóm phân hủy để tái sản sinh hoàn toàn vật liệu đã sử dụng
trong quá trình sản xuất. Hiện tại, hệ công nghiệp vẫn thiếu nhóm phân hủy và
tái chế hiệu quả. Cả chất thải và phế phẩm được thải ra môi trường xung quanh.
Xét theo khía cạnh này, hệ công nghiệp là một hệ thống không hoặc ít khép
kín. Để đạt tiêu chuẩn của một hệ STCN, các sản phẩm phụ và chất thải phải
được tái sử dụng và tái chế.
Hệ thống thích hợp nhất là mô hình cải tiến, tạo dòng vật chất khép kín trong
hệ công nghiệp nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất. Điều này có thể đạt được


bằng các phương thức trao đổi, tái sinh, tái chế nguyên liệu và năng lượng giữa
các cơ sở sản xuất khác nhau trong hệ STCN.
Đặc điểm quá trình trao đổi chất của hệ sinh thái tự nhiên
và hệ công nghiệp hiện tại
Đặc tính

Hệ sinh thái tự nhiên

Hệ công nghịêp hiện đại

Đơn vị cơ bản

Sinh vật

Nhà máy

Dòng vật chất


Hệ khép kín

Chủ yếu là biến đổi theo một chiều

Tái sử dụng

Hầu như hoàn toàn

Thường rất thấp

Vật liệu

Có khuynh hướng cô đặc,
chẳng hạn CO2 trong không
khí được chuyển hóa thŕnh
sinh khối qua quá trình quang
hợp

Hầu như được sử dụng một cách
phung phí để chế tạo ra vật liệu
khác, vật liệu bị pha loăng quá mức
có thể tái sử dụng, nhưng lại bị cô
đặc đủ để gat ô nhiễm

Quá trình tái
tạo

Một trong những chức năng
chính của sinh vật là sự tự

sinh sản

Sản xuất ra sản phẩm và cung cấp
dịch vụ là mục đích chủ yếu của hệ
công nghiệp nhưng tái sản xuất
không phải là bản chất của hệ công
nghiệp

2.3. Hệ sinh thái công nghiệp
Cơ sở hình thành khái niệm STCN là dựa trên hiện tượng trao đổi chất công
nghiệp (Industrial metabolism). Đó là toàn bộ các quá trình vật lý chuyển hóa
nguyên liệu và năng lượng cùng với sức lao động của con người thành sản
phẩm, phế phẩm và chất thải ở điều kiện ổn định. Khái niệm này giúp chúng ta
hiểu được hoạt động của hệ công nghiệp và mối quan hệ tương hỗ của chúng
đối với môi trường xung quanh. Trên cơ sở đó, cũng với những hiểu biết về hệ
sinh thái, con người có thể hiệu chỉnh hệ công nghiệp sao cho tương thích với
hoạt động của hệ sinh thái tự nhiên. Bằng cách làm như vậy, các cơ sở sản xuất


công nghiệp có thể được tổ hợp thành những hệ STCN (Industrial Ecosystem).
Những hệ STCN này sẽ bao gồm nhiều cơ sở sản xuất được tập hợp sao cho
chúng sử dụng sản phẩm và chất thải của nhau. Những kiến thức cơ bản về quá
trình trao đổi chất công nghiệp và hệ STCN là cơ sở để hiểu rõ và ứng dụng
những nguyên lý cơ bản của khái niệm STCN.
Hệ STCN được tạo thành từ tất cả các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, kết hợp
cả sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Bốn thành phần chính của hệ STCN
bao gồm: (1) cơ sở sản xuất nguyên vật liệu và năng lượng ban đầu, (2) nhà
máy chế biến nguyên liệu, (3) nhà máy xử lý/tái chế chất thải và (4) tiêu thụ
thành phẩm.
Bộ phận chế biến/ sản xuất

nguyên liệu & năng lượng
Bộ phận tiêu thụ
sản phẩm

Bộ phận sản xuất nguyên
liệu & năng lượng ban đầu

Bộ phận xử lý
chất thải

Cơ sở sản xuất nguyên liệu và năng lượng ban đầu có thể gồm một hoặc nhiều
nhà máy cung cấp nguyên liệu ổn định cho hệ STCN. Qua nhiều quá trình chế
biến, ví dụ trích ly, cô đặc, phân loại, tinh chế... các nguyên liệu thô sẽ được
chuyển hóa thành nguyên liệu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tái sinh
tái chế (trong chính dây chuyền sản xuất hiện tại của nhà máy hoặc ở những
nhà máy khác). Sản phẩm, phế phẩm, sản phẩm phụ... sẽ được chuyển đến
người tiêu dùng. Trong tất cả các trường hợp, sản phẩm sau khi sử dụng sẽ
được thải bỏ hoặc tái chế. Cuối cùng, nhà máy xử lý chất thải sẽ thực hiện công
tác thu gom, phân loại và xử lý các vật liệu có khả năng tái chế cũng như chất
thải.


Một hệ STCN sẽ tận dụng nguyên vật liệu và năng lượng thải bỏ của các nhà
máy khác nhau trong hệ thống và cả các thành phần không phải là cơ sở sản
xuất, ví dụ từ các hộ gia đình thuộc khu dân cư nằm trong khuôn viên của hệ
thống đang xét. Bằng cách này, lượng nguyên liệu và năng lượng tiêu thụ cũng
như lượng chất thải phát sinh sẽ giảm do chất thải/phế phẩm được sử dụng để
thay thế một phần nguyên liệu và năng lượng cần thiết.
Có thể phân chia hệ STCN theo 5 dạng khác nhau dựa trên ranh giới của hệ
thống. Tiêu chí để xác định ranh giới của hệ STCN là dựa trên vị trí địa lý hoặc

chuỗi sản phẩm/nguyên liệu. Các loại hình hệ STCN này có thể mô tả như sau:
- Hệ STCN theo chu trình vòng đời sản phẩm. Trong trường hợp này, ranh giới
của hệ STCN được xác định theo các thŕnh phần kinh tế (cả nhà sản xuất và
người tiêu dùng) liên quan đến một loại sản phẩm cụ thể.
- Hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu. Tương tự hệ sinh thái theo chu
trình vòng đời sản phẩm, ranh giới của hệ STCN theo chu trình vòng đời
nguyên liệu được xác định bởi các thŕnh phần liên quan đến một loại nguyên
liệu cụ thể.
- Hệ STCN theo diện tích/vị trí địa lý. KCN Burnside ở Halifax (Canada),
KCN Kalunborg (Đan Mạch) là những thí dụ điển hình về loại hình hệ STCN
này. Trong trường hợp này, ranh giới địa lý không kể đến khu vực tiêu thụ sản
phẩm.
- Hệ STCN theo loại hình công nghiệp. Theo cách phân loại này, một nhóm các
cơ sở sản xuất thuộc cùng loại hình công nghiệp hợp thành hệ STCN. Trong
thực tế, loại hình hệ STCN này được xây dựng theo định hướng môi trường
chung của từng loại hình công nghiệp.
- Hệ STCN hỗn hợp. Trong trường hợp này, khái niệm hệ STCN không đề cập
đến một ranh giới cụ thể mà chỉ xem xét mối tương quan giữa các nhà máy có
thể sử dụng phế phẩm/phế liệu của nhau. Đây là loại hình thông dụng nhất.
3. Khu công nghiệp sinh thái
3.1. Khái niệm


Khu công nghiệp sinh thái (KCNST - Eco-Industrial Park) là một cộng đồng
các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ có mối liên hệ mật thiết trên cùng một lợi
ích là hướng tới một hoạt động mang tính xã hội, kinh tế và môi trường chất
lượng cao, thông qua sự hợp tác trong việc quản lý các vấn đề về môi trường và
nguồn tài nguyên. Bằng các hoạt động hợp tác chặt chẽ với nhau, cộng đồng
KCNST sẽ đạt được một hiệu quả tổng thể lớn hơn nhiều so với tổng các hiệu
quả mà từng doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ gộp lại. Trong KCNST cơ sở hạ

tầng công nghiệp được thiết kế sao cho chúng có thể tạo thành một chuỗi hệ
sinh thái hòa hợp với hệ sinh thái tự nhiên trên toàn cầu. KCNST hình thành
trên cơ sở Sinh thái học Công nghiệp (STHCN), sản xuất sạch, quy hoạch, kiến
trúc và xây dựng bền vững, tiết kiệm năng lượng và hợp tác các doanh nghiệp.
Khái niệm KCNST bắt đầu được phát triển từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20
trên cơ sở của Sinh thái học công nghiệp. Hệ công nghiệp không phải là các
thực thể riêng rẽ mà là một tổng thể các hệ thống liên quan giống như hệ sinh
thái; STHCN tìm cách loại trừ khái niệm “chất thải” trong sản xuất công
nghiệp. Mục tiêu cơ bản là tăng cường hiệu quả của hoạt động công nghiệp và
cải thiện môi trường: giảm thiểu sử dụng tài nguyên thiên nhiên không thể tái
tạo, giảm thiểu các tác động xấu môi trường, duy trì hệ sinh thái tự nhiên của
khu vực...

KCN Kalundborg, Đan Mạch được coi là KCN điển hình đầu tiên trên thế giới
ứng dụng Cộng sinh công nghiệp, một trong những nghiên cứu của STHCN,
vào việc phát triển một hệ thống trao đổi năng lượng và nguyên vật liệu giữa


các công ty từ năm 1972. Trong vòng 15 năm (từ 1982-1997), lượng tiêu thụ
tài nguyên của KCN này giảm được 19.000 tấn dầu, 30.000 tấn than, 600.000
m3 nước, và giảm 130.000 tấn cácbon dioxide thải ra. Theo thống kê năm
2001, các công ty trong KCN này thu được 160 triệu USD lợi nhuận trên tổng
đầu tư 75 triệu USD. Mô hình hoạt động KCN này là cơ sở quan trọng để hình
thành hệ thống lý luận STHCN và các KCNST trên thế giới. Hiện nay trên thế
giới có khoảng hơn 30 KCNST, phần lớn nằm ở nước Mỹ và châu Âu. Tại
châu Á, mạng lưới công nghiệp sinh thái với một số các KCNST đã được thành
lập và phát triển ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước khác. Với sự
nghiên cứu ngày càng sâu về STHCN và các lĩnh vực liên quan khác, với các
tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ, KCNST đã trở thành một
mô hình mới cho phát triển công nghiệp, kinh tế và xã hội phù hợp với tiến

trình phát triển bền vững toàn cầu.
KCNST được hình thành dựa trên các nghiên cứu và thử nghiệm trong các lĩnh
vực cấp thiết hiện nay như: sinh thái học công nghiệp, sản xuất sạch; quy
hoạch, kiến trúc và xây dựng bền vững; tiết kiện năng lượng; hợp tác doanh
nghiệp. Các lĩnh vực này đang tạo nên một trào lưu rộng khắp bằng các nghiên
cứu, chính sách và dự án cụ thể nhằm chứng tỏ các nguyên tắc của phát triển
bền vững.
3.2. Mục tiêu của Khu công nghiệp sinh thái
Mục đích của KCNST là nhằm xây dựng một hệ công nghiệp gồm nhiều nhà
máy hoạt động độc lập nhưng kết hợp với nhau một cách tự nguyện, hình thành
quan hệ cộng sinh giữa các nhà máy với nhau và với môi trường. Như vậy, các
nhà máy trong KCNST cố gắng đạt được những lợi ích kinh tế và hiệu quả bảo
vệ môi trường chung thông qua việc quản lý hiệu quả năng lượng, nước và
nguyên liệu sử dụng. Theo nghiên cứu của trường Đại học Cornell, một
KCNST phải bao gồm các nhà máy cộng tác với nhau trên cơ sở phối hợp:
- Trao đổi các loại sản phẩm phụ.


- Tái sinh, tái chế, tái sử dụng sản phẩm phụ tại nhà máy, với các nhà máy khác
và theo hướng bảo toàn tài nguyên thiên nhiên.
- Các nhà máy phấn đấu sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường (sản
phẩm sạch).
- Xử lý chất thải tập trung.
- Các loại hình công nghiệp phát triển trong KCN được quy hoạch theo định
hướng bảo vệ môi trường của KCNST.
- Kết hợp giữa phát triển công nghiệp với các khu vực lân cận (vùng nông
nghiệp, khu dân cư...) trong chu trình trao đổi vật chất (nguyên liệu, sản phẩm,
phế phẩm, chất thải).
Mục tiêu của KCNST là cải thiện hoạt động kinh tế đồng thời giảm thiểu các
tác động tới môi trường của các doanh nghiệp thành viên (DNTV) trong

KCNST.
Một KCNST thực sự cần phải là:


Một mạng lưới hay một nhóm các doanh nghiệp sử dụng các phế phẩm,

phụ phẩm của nhau.


Một tập hợp các doanh nghiệp tái chế.



Một tập hợp các công ty có công nghệ sản xuất bảo vệ môi trường.



Một tập hợp các công ty sản xuất sản phẩm sạch.



KCN được thiết kế theo một chủ đề môi trường nhất định (ví dụ KCNST

năng lượng tái sinh, tái tạo tài nguyên).


KCN với hệ thống hạ tầng kỹ thuật (HTKT) và công trình xây dựng bảo vệ

môi trường.



Khu vực phát triển hỗn hợp (công nghiệp, thương mại, ở…).
Bảng so sánh các mô hình KCN
Mô hình
KCN

Quá trình
Công nghệ

KCN
truyền
Theo tuyến
thống
KCN thân
thiện môi Theo tuyến
trường
KCNST

Hệ thống

Sử dụng
Tài
nguyên

Chất thải

Giải pháp
Xử lý

Mục tiêu

Môi trường

Không
chọn lọc

Tăng theo
phát triển
CN

Thải vào
môi trường

Ô nhiễm
môi trường

Tối ưu hoá

Giảm
phát sinh

Có chọn
lọc

Giảm tối
đa

Phối hợp
các giải
pháp
Tuần hoàn,

tái chế

Bảo tồn tài
nguyên
Giảm tác
động MT


So sánh mô hình KCN truyền thống với mô hình KCNST cho thấy: mô hình
KCN truyền thống vận hành theo quy trình, phát sinh nhiều chất thải là điều
khó tránh khỏi. Trong khi đó, mô hình KCNST vận hành theo hệ thống khép
kín trên nguyên tắc: cộng sinh CN, thực hiện trao đổi chất, tái sinh tái chế, tuần
hoàn năng lượng và vật chất nhằm giảm thiểu chất thải, đem lại lợi ích kinh tế
đồng thời đạt được hiệu quả môi trường là không phủ nhận.
Phân tích và tổng hợp các quan điểm về STCN của nhiều nhà khoa học từ
nhiều quốc gia, nhận thấy có sự đồng thuận: Các nhà khoa học không nhìn
nhận sản xuất công nghiệp (SXCN) thông qua một công ty riêng lẻ hoặc viễn
cảnh một dây chuyền sản xuất đơn lập, mà nhận thức SXCN như là Hệ sinh
thái của mọi tổ chức - trao đổi thông tin, năng lượng và vật chất với nhau và
với môi trường của chúng.
Mục đích của KCNST là xây dựng một hệ công nghiệp gồm nhiều nhà máy
hoạt động độc lập nhưng có quan hệ cộng sinh nhằm giải quyết các chất thải
gây ô nhiễm môi trường. Qua đó, các nhà máy trong KCNST vừa đạt được
những lợi ích kinh tế, vừa đạt hiệu quả bảo vệ môi trường chung thông qua việc
quản lý hiệu quả năng lượng, nước và nguyên liệu sử dụng.
3.3. Lợi ích của việc phát triển KCNST
Mô hình KCNST là hướng phát triển hiện đại, bền vững đối với các quốc gia.
Các KCNST đem lại lợi ích nhiều mặt, thiết thực, cụ thể:
3.3.1. Đối với các doanh nghiệp thành viên và chủ đầu tư KCNST
- Giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất bằng cách tiết kiệm, tái chế, tái sử dụng

nguyên - vật liệu và năng lượng: tái chế và tái sử dụng chất thải.
- Đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nhờ chia sẻ chi phí cho các dịch vụ chung: quản
lý chất thải, đào tạo nhân lực, nguồn cung cấp và hệ thống thông tin môi trường
cùng các dịch vụ hỗ trợ khác.
- Những lợi ích cho các doanh nghiệp thành viên là làm tăng giá trị bất động
sản và lợi nhuận cho chủ đầu tư KCNST.


3.3.2. Đối với sản xuất công nghiệp
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế Công nghiệp của toàn khu vực:
tăng giá trị sản xuất Công nghiệp, dịch vụ, thu hút đầu tư, cơ hội tạo việc làm
cho người lao động.
- Tạo điều kiện hỗ trợ và phát triển các ngành Công nghiệp nhỏ địa phương,
làng nghề truyền thống cùng tồn tại và phát triển.
- Thúc đẩy quá trình đổi mới, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học,
tăng nhanh tốc độ triển khai công nghệ mới.
3.3.3. Đối với xã hội
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế - xã hội mạnh của khu vực lân cận,
thu hút các tập đoàn lớn trong nước và nước ngoài. Tạo việc làm mới trong các
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
- Tạo động lực hỗ trợ các dự án phát triển mở rộng của địa phương về: đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực, phát triển nhà ở, cải tạo và nâng cấp hệ thống kỹ
thuật.
- Tạo một bộ mặt mới, một môi trường trong sạch và hấp dẫn cho toàn khu
vực, làm thay đổi cách nhìn thiếu thiện cảm cố hữu của cộng đồng đối với sản
xuất công nghiệp lâu nay.
- KCNST tạo điều kiện hợp tác với các cơ quan nhà nước trong việc thiết lập
các chính sách, luật lệ về môi trường và kinh doanh ngày càng thích ứng với xu
thế hội nhập và phát triển bền vững.
3.3.4. Đối với môi trường

KCNST là một sự cộng sinh công nghiệp, hay nói cách khác, các cơ sở sản
xuất công nghiệp phải sử dụng các sản phẩm phụ của cơ sở khác làm nguyên
liệu sản xuất, thay vì liên tục khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên mới và đổ
chất thải vào môi trường.
- Giảm các nguồn gây ô nhiễm cho môi trường, giảm lượng chất thải cũng như
giảm nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên thông qua các nghiên cứu mới


nhất về sản xuất sạch, bao gồm: hạn chế ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng, quản lý
chất thải, tái tạo tài nguyên và các phương pháp quản lý môi trường và công
nghệ mới khác.
- Đảm bảo cân bằng sinh thái. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển
KCNST: từ việc chọn địa điểm, quy hoạch, xây dựng, tổ chức hệ thống hợp tác
khoa học, lựa chọn doanh nghiệp, quá trình hoạt động, quản lý,... đều phù hợp
với các điều kiện thực tế và đặc điểm sinh thái của khu đất xây dựng và khu
vực xung quanh.
- Tất cả vì mục tiêu môi trường, mỗi KCNST có một mô hình phát triển và
quản lý riêng để không ngừng nâng cao đặc trưng cơ bản của nó về bảo vệ môi
trường.
- Mô hình KCNST ngày càng khẳng định vai trò quan trọng không chỉ trong
tăng trưởng kinh tế bền vững mà còn là công cụ bảo vệ môi trường hữu hiệu
mang tính toàn cầu.
Việc đề xuất xây dựng mô hình KCNST là một đòi hỏi cần thiết trước thực
trạng ô nhiễm từ các KCN hiện nay. Mục đích của KCNST là xây dựng một hệ
công nghiệp gồm nhiều nhà máy hoạt động độc lập nhưng có quan hệ cộng
sinh nhằm giải quyết các chất thải gây ô nhiễm môi trường. Qua đó, các nhà
máy trong KCNST vừa đạt được những lợi ích kinh tế, vừa đạt hiệu quả bảo vệ
môi trường chung thông qua việc quản lý hiệu quả năng lượng, nước và nguyên
liệu sử dụng.



II. HIỆN TRẠNG XÂY DỰNG KHU CÔNG NGHIỆP SINH THÁI
1. Khu công nghiệp sinh thái trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có khoảng 30 KCNST, phần lớn nằm ở nước Mỹ và châu
Âu, các nước như Canada, Mehico, Anh, Pháp, Đức, Áo, Đan Mạch, Nauy..
Tại châu Á, mạng lưới công nghiệp sinh thái với một số các KCNST đã được
thành lập và phát triển ở Australia, Indonesia, Philipine, Ấn Độ, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác Algieire, Nam Phi... Tuy các
KCNST thành công không nhiều nhưng đã đem lai tính khả quan thiết thực tạo
tiền đề cho việc phát triển các KCNST trong tương lai.
KCN Kalundborg (Đan Mạch)
Một thí dụ điển hình nhất về sự cộng sinh công nghiệp là KCN Kalundborg ở
Đan Mạch. Thành phần chính trong hệ sinh thái công nghiệp này là Nhà Máy
Điện Asnaes công suất 1.500 MW. Hầu hết các trạm phát điện sử dụng nhiên
liệu hóa thạch, hiệu suất cực đại để chuyển hóa năng lượng từ quá trình đốt
than thành điện năng chỉ đạt 40%. 60% năng lượng còn lại được thải ra môi
trường bên ngoài dưới dạng nhiệt và phần lớn ở dạng hơi nước. Bằng cách sử
dụng năng lượng thất thoát sẵn có này vào những mục đích khác, Nhà Máy
Điện Asnaes đã sử dụng 90% năng lượng có từ than. 225.000 tấn hơi sinh ra
hàng năm được tái sử dụng trong hệ thống cấp nhiệt của khu vực, nhờ đó giảm
được nhu cầu cung cấp nhiên liệu tương ứng với 19.000 tấn dầu/năm. Nhà Máy
Điện Asnaes còn tái sử dụng nhiệt thừa để vận hành các trang trại nuôi cá. Bùn
từ các bể nuôi cá được thu hồi và bán làm phân bón. 14.000 tấn hơi/năm cung
cấp cho Nhà Máy Lọc Dầu Statoil đã giảm được 40% nhiệt lượng cần cung cấp
cho các bể và đường ống. 215.000 tấn hơi/năm cung cấp cho Nhà Máy Sản
Xuất Dược Phẩm Và Enzyme Novo Nordisk. Các sản phẩm phụ cũng được thu
hồi và tái sử dụng khá hữu hiệu. 80.000 tấn thạch cao (calcium sulphate)/năm
từ hệ thống hấp thu khí SO2 của Nhà Máy Điện Asnaes được thu hồi và cung
cấp cho Gyproc - một công ty sản xuất ván lát tường. Hàng năm, nhà máy Điện
này còn bán 170.000 tấn tro và xỉ sinh ra từ quá trình đốt than làm vật liệu xây

dựng và làm đường. Ethane và Methane sinh ra từ Nhà Máy Lọc Dầu Statoil là


nhiên liệu cho lò sấy của Công Ty Gyproc và các lò hơi của Nhà Máy Điện
Asnaes. Công Ty Gyproc tiêu thụ 900 kg methane và ethane/giờ và Nhà Máy
Điện Asnaes có thể giảm được 30.000 tấn than cần sử dụng hàng năm. Phần
cặn từ hệ thống hấp thu lưu huỳnh của Nhà Máy Lọc Dầu Statoil được dùng để
sản xuất acid sulphuric. Bùn giàu chất dinh dưỡng từ Nhà Máy Novo Nordisk
được tái sử dụng làm phân bón cho các nông trường xung quanh.
Theo Jorgen Christensen, những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho sự hình
thành quan hệ cộng sinh trong KCN Kalundborg bao gồm:
- Sự phù hợp giữa các ngành công nghiệp trên phương diện trao đổi chất thải
(waste exchange).
- Khoảng cách (về vị trí địa lý) giữa các nhà máy không quá lớn.
- Mỗi nhà máy đều nắm được thông tin liên quan đến các nhà máy khác
trong KCN.
- Động cơ thúc đẩy các nhà máy tham gia vào KCNST là sự phát triển kinh
tế bền vững.
- Sự phối hợp giữa các nhà máy là trên tinh thần tự nguyện và phù hợp với
quy định của cơ quan chức năng.
Thực tế vận hành KCNST Kalundborg- Đan Mạch từ những năm 1970 đến nay
cho thấy mang lại những lợi ích thiết thực.
- Giảm sự tiêu thụ nguồn tài nguyên
+ Dầu : 19.000 tấn/năm.
+ Than đá : 30.000 tấn/năm.
+ Nước : 600.000 m3/năm.
- Giảm tải lượng khí thải phát sinh
+ CO2 : 130.000 taán/naêm.
+ SO2 : 3.700 taán/naêm.
- Tái sử dụng phế phẩm

+ Tro : 135 tấn/năm.
+ Sulphua : 2.800 tấn/năm.


+ Thạch cao : 80.000 tấn/năm.
+ Nitơ trong bùn : 800.000 tấn/năm.

Hệ STCN - KCN Kalundborg, Đan Mạch (Cohen-Rosenthal 2003).
KCNST Burnside, Nova Scotia, Canada
KCN Burnside nằm ở Dartmouth, Nova Scotia (Côté và Hall, 1995), chiếm
diện tích khoảng 760 ha (Lambert và Boons, 2002). KCN này bắt đầu được gọi
là KCNST vào năm 1992. Đây là một trong năm KCN lớn nhất Canada với
khoảng 1.300 nhà máy và 17.000 công nhân (Côté, 2001). Các loại hình công
nghiệp đặc trưng của KCN Burnside được trình bày tóm tắt trong bảng dưới
đây.


Loại hình công nghiệp
Nhà ở
Keo dán
Máy lạnh
Sửa chữa máy móc
Sản phẩm nước giải khát
Vật liệu xây dựng

Loại hình công nghiệp
Phân phối
Sản xuất cửa
Thiết bị điện
Dịch vụ môi trường

Sản xuất đồ gia dụng
Thiết bị trong công nghệ thực

Trung tâm thương mại
Vật liệu làm thảm và sàn nhà
Sản xuất hóa chất
Máy hút bụi
Máy giặt
Thiết bị truyền thông
Lắp ráp và sửa chữa máy vi

phẩm
Thiết bị công nghiệp
Sản xuất thép
Xưởng cơ khí
Dụng cụ y tế
Tái sử dụng sơn
Sản phẩm giấy/carton
In

tính
Xây dựng
Bao bì, đóng gói
Sản phẩm bơ sữa

Xi mạ
Tủ lạnh
Kho hàng

Các loại hình công nghiệp đặc trưng của KCN Burnside

Chín năm qua, KCN Burnside được sử dụng như phòng thí nghiệm về công
nghiệp sinh thái. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu ứng dụng chiến lược
phát triển công nghiệp sinh thái, KCN này kết hợp với khu đô thị nhằm làm
biến đổi cơ sở hạ tầng và hoạt động của các cơ sở sản xuất hiện tại cũng như
trong tương lai. Sự cộng tác xảy ra ở các cấp khác nhau: (1) giữa trường đại
học và khu đô thị cùng tham gia nghiên cứu ứng dụng thuyết sinh thái công
nghiệp vào quá trình phát triển KCN; (2) giữa trường đại học, công ty cấp điện
tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình hình thành Trung Tâm
Hiệu Quả Sinh Thái (Eco-Efficiency Center); (3) trao đổi chất thải giữa hai
hoặc nhiều cơ sở sản xuất; (4) thành lập những cơ sở sản xuất mới có khả năng
tái sử dụng, cho thuê, sửa chữa, tái sinh và tái chế. Hai yếu tố quan trọng cần
được quan tâm trong tương lai là quản lý chuỗi nguyên liệu cung cấp trong
KCN và sự cộng tác trong quá trình thu hồi phế liệu. Sự phối hợp giữa các cơ


×