Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Chi phí đại diện trong công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.96 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TỀ TP HỒ CHÍ MINH
MÔN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Tên đề tài:

CHI PHÍ ĐẠI DIỆN TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN

GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa
SVTH : Nguyễn Thị Thanh Trà, Lớp TCDN6 – K32
Hồ Thị Thảo, Lớp TCDN6 – K32
Bùi Thị Ánh Tuyết, Lớp TCDN6 – K32

TP. Hồ Chí Minh


Lời mở đầu


Trong nhưng công ty lớn, đặc biệt là công ty cổ phần sự phân định giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý là rất cần thiết. Những công ty này có hàng
chục, hàng trăm cổ đông vì vậy không thể nào cùng một lúc mà tất cả cổ đông
cùng tham gia quản lý công ty. Vì vậy mà trong các công ty cổ phân quyền sở
hữu và quyền quản lý được tách bạch một cách rõ ràng. Sự tách biệt quyền sở
hữu và quản lý một mặt giải quyết mâu thuẫn giữa vốn và năng lực điều hành,
mặt khác nó cũng làm nảy sinh những nguy cơ khiến cho hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp không đạt mức tối ưu, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Rõ
ràng sự phân định giữa người chủ và người quản lý có những thuận lợi xong
cũng đem lại cho doanh nghiệp không ít những khó khăn trong vấn đề quản lý
đặc biệt là làm phát sinh chi phí đại diện. Vậy chi phí đại diện là gì, chi phí đại
diện ảnh hưởng đến doanh nghiệp như thế nào, nguyên nhân làm phát sinh chi


phí đại diện, doanh nghiệp phải làm gì để khắc phục sự phát sinh chi phí đại
diện, chi phí đại diện trong các công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay như thế
nào? Đây là một trong những vấn đề mà các công ty cổ phần rất quan tâm.
Trong bài viết này chúng tôi xin trình bày một vài vấn đề về chi phí đại diện và
chúng tôi sẽ lấy chi phí đại diện phát sinh của công ty cổ phần Bông Bạch
Tuyết làm ví dụ minh hoạ để làm rõ thêm.

Chi phí đại diện là gì ?


Theo Jensen – Meckling, vấn đề nhà quản lý trốn tránh nhiệm vụ của
mình sẽ được xem như một loại chi phí, các nhà quản lý không thể hiện năng
lực lãnh đạo của họ cũng được xem là một loại chi phí.
Jensen – Meckling định nghĩa chi phí đại diện như là sự tổng hợp các
chi phí của một hợp đồng có tổ chức. Hợp đồng này gồm, một người (người
chủ) thuê một người khác (người đại diện) làm nhiệm vụ thay thế cho mình
(người chủ). Người chủ đưa ra quyết định - ủy quyền cho người đại diện
Chi phí đại diện là thiệt hại khi nhà quản lý không cố gắng làm tối đa
hoá giá trị doanh nghiệp.
Chi phí đại diện bao gồm các yếu tố sau:
ƒ Chi phí theo dõi bởi người chủ: Đây là chi phí mà người chủ sở
hữu vốn bỏ ra để thực hiện giám sát những người quản lý để bảo vệ lợi ích của
người chủ sở hữu vốn, tránh hiện tượng bất cân xứng thông tin do có sự phân
định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý tạo ra.
ƒ Chi phí ràng buộc bởi người đại diện: Người đại diện gánh chịu
chi phí để cam kết rằng bản thân họ không xâm phạm đến lợi ích của người
chủ.
ƒ Sự mất mát- những chi phí được kết hợp với một kết quả mà kết
quả đó không hoàn toàn phục vụ lợi ích của người chủ.
Cách tính chi phí đại diện trong doanh nghiệp:

Chi phí đại diện = M + B + R
M: chi phí theo dõi bởi chủ sở hữu
B: chi phí ràng buộc bởi người đại diện
R: sự mất mát
Ta có thể tính được chi phí theo dõi bởi chủ sở hữu và chi phí ràng buộc
bởi người đại diện nhưng không thể tính được sự mất mát nên chi phí đại diện
không thể định lượng một bằng những con số cụ thể.
Có thể chia chi phí đại diện thành chi phí đại diện của nợ và chi phí đại
diện vốn cổ phần.
Chi phí đại diện vốn cổ phần: Có nguồn gốc từ mâu thuẫn lợi ích giữa
cổ đông và các nhà quản lý. Khi cổ đông bị giới hạn hoặc mất kiểm soát đối


với người quản lý thì phía quản lý sẽ có động cơ tiến hành những hoạt động có
lợi cho bản thân và có thể làm nguy hại đến quyền lợi của cổ đông. Chi phí đại
diện vốn cổ phần xuất hiện trong tính huống các nhà quản lý thường xuyên
thực hiện những chiến lược đầu tư khiến công ty phát triển vượt mức tối ưu
hoặc tham gia vào những lĩnh vực kinh doanh mà công ty không có lợi thế cạnh
tranh.
Chi phí đại diện của nợ: Theo Myers (1977) đó là sự hiện diện của nợ có
thể khiến những dự án có NPV dương bị từ chối. Do nếu chấp nhận dự án này
thì rủi ro tài chính sẽ tăng (rủi ro phá sản) và giá trị sẽ chuyển từ cổ đông sang
trái chủ.

Nguyên nhân gây ra chi phí đại diện?
Như chúng ta đã biết, chi phí đại diện tồn tại ở tất cả các lĩnh vực đặc
biệt là trong lĩnh vực tài chính. Chi phí đại diện xuất hiện rõ nét nhất là chi phí
đại diện trong công ty cổ phần. Vậy nguyên nhân nào gây nên chi phí đại diện
trong công ty cổ phần mà không phải là doanh nghiệp tư nhân?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi phân tích dựa trên mô hình của công ty

cổ phần Bông Bạch Tuyết.
Bộ máy tổ chức của công ty Bông Bạch Tuyết được cơ cấu như sau:


Nhìn vào sơ đồ chúng ta có thể thấy rõ sự tách bạch giữa quyền sở hữu
(Đại hội đồng cổ đông) và quyền quản lí (Ban tổng giám đốc). Sự phân định
giữa quyền sở hữu và quyền quản lý tạo nên không ít ưu điểm cho công ty cổ
phần như: quản lí chuyên nghiệp hơn, sự thay đổi quyền sở hữu không ảnh
hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp giúp công ty dễ dàng huy động vốn từ
bên ngoài. Tuy nhiên cũng chính sự tách bạch rõ ràng này cùng với vấn đề rủi
ro về đạo đức của các nhà quản trị đã gây nên chi phí đại diện trong công ty cổ
phần. Bởi lẽ:
ƒ

Khi có sự phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền quản lí

ắt hẳn sẽ gây nên vấn đề người chủ - người đại diện. Cả nhà quản trị và cổ
đông đều theo đuổi một mục tiêu - đó là tối đa hoá lợi ích của mình. Tuy nhiên
lợi ích của các cổ đông gắn liền với việc tối đa hoá giá trị doanh nghiệp; trong
khi đó các nhà quản trị lại mong muốn tối đa hoá lợi ích của bản thân. Các nhà
quản trị sẽ không quyết định đầu tư vào những dự án có tỷ suất sinh lợi cao.
Bởi vì những dự án có tỷ suất sinh lợi cao thường đi kèm với rủi ro cao. Họ sẽ


không chọn dự án đó vì lợi ích của chính bản thân họ. Như vậy, họ đã không
thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cho công ty như các cổ đông mong đợi
ở họ.
ƒ

Thứ hai, chính sự tách bạch rõ ràng gây nên một vấn đề bất cân


xứng thông tin giữa các nhà quản trị và chủ sở hữu công ty. Các cổ đông
không nắm rõ cấu trúc vốn của công ty, các chiến lược kinh doanh hay các cơ
hội kinh doanh như nhà quản trị. Chính vì vậy, các nhà quản trị có thể lựa chọn
những dự án không vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Họ sẽ lựa chọn những dự
án có tỉ suất sinh lợi thấp và mức độ an toàn cao chỉ để giữ vững chức vị của
mình. Họ sẽ không đầu tư nguồn lực vào những dự án có khả năng sinh lợi cao
trong tương lai vì làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận trong ngắn hạn làm
ảnh hưởng đến uy tín cũng như thu nhập thực tế của họ. Họ sẵn sàng làm điều
đó mà không sợ bị trừng phạt vì họ là những người trực tiếp điều hành doanh
nghiệp nên có những thông tin mà nhà đầu tư không được biết hoặc biết nhưng
không hiểu đầy đủ. Các cổ đông chỉ biết được kết quả hoạt động kinh doanh
dựa trên những báo cáo kế toán như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh…Những báo cáo này dễ dàng được thay đổi bằng các
bút toán kế toán để chuyển lỗ thành lãi, dòng tiền âm thành dòng tiền
dương….nhằm đạt được mức lợi nhuận kế hoạch.
ƒ

Sự bất cân xứng thông tin không chỉ khiến cho các nhà quản trị

che giấu kết quả hoạt động kinh doanh thật sự, không vì mục đích tối đa hoá
giá trị doanh nghiệp mà đôi khi vì rủi ro đạo đức mà các nhà quản trị có thể
chiếm dụng tài sản của công ty vì mục đích làm giàu cá nhân. Họ có thể dùng
danh nghĩa của công ty để vay nợ và dùng số tiền này vào việc tiêu xài của cá
nhân…. Và hậu quả là công ty không được tối đa hoá giá trị, các nhà đầu tư
phải gánh chịu tổn thất này do ban giám đốc gây ra.
Chính vì những lí do trên mà các cổ đông phải gánh chịu phí tổn do
người đại diện gây nên. những phí tổn đó chính là chi phí đại diện.



Những biểu hiện chi phí đại diện trong Công ty cổ phần
Bông Bạch Tuyết?
Thứ nhất Công ty Bông Bạch Tuyết đã có những sai phạm trong việc công
bố thông tin, gây bất cân xứng thông tin giữa người quản lí và các nhà đầu tư là
cổ đông của công ty.
Về nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ và bất thường công ty Bông Bạch
Tuyết không thực hiện đúng theo các quy định pháp luật, vi phạm quy chế
công bố thông tin. Cụ thể, công ty không nộp báo cáo thường niên các năm
2004, 2005. Riêng năm 2006, 2007 doanh nghiệp có nộp báo cáo cho Sở Giao
dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nhưng không nộp cho Uỷ Ban
Chứng khoán. Trong Báo cáo tài chính của công ty Bông Bạch Tuyết có nhiều
khoản mục hoạch toán sai chuẩn mực, chưa phản ánh chính xác các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự thiếu minh bạch của
Báo cáo tài chính dẫn đến phản ánh không trung thực tình hình tài chính. Như
kết quả kinh doanh năm 2006 có sự chênh lệch trước và sau khi thực hiện kiểm
toán. Việc công ty liên tục xin gia hạn chậm công bố thông tin báo cáo tài
chính kiểm toán năm 2007 cũng như liên tục chậm nộp báo cáo tài chính quý 2,
3, 4/2007 và quý 1/2008 là vi phạm quy định. Công ty đã sử dụng các kỹ thuật
để thay đổi Báo cáo tài chính, có nhiều điều ẩn sau những khoản lỗ lãi của công
ty tuy nhiên không phải nhà đầu tư nào cũng biết cách đọc và hiểu Báo cáo tài
chính. Vì vậy mà thông tin họ nhận được sai lệch so với thông tin mà các nhà
quản lí có.
Cụ thể, trong báo cáo tài chính năm 2007 mới được kiểm toán lại, công
ty đã hồi tố một số khoản mục của Báo cáo tài chính 2007 đã công bố trước đây
làm công ty từ lãi 2,2 tỷ đồng thành lỗ 8,48 tỷ đồng. Một số khoản tiêu biểu:
Công ty đã điều chỉnh hồi tố giảm 5.3 tỷ đồng doanh thu năm 2006 do
chưa giao hàng trong năm 2006 (còn gọi là doanh thu khống). Số hàng này giao
trong năm 2007 và doanh thu được ghi nhận vào năm 2007.



Điều chỉnh hồi tố tăng giá vốn hàng bán 4,2 tỷ đồng do điều chỉnh hồi tố
tăng chi phí khấu hao Tài sản cố định với số tiền 676 triệu đồng - đây là điểm
lưu ý trong Báo cáo kiểm toán năm 2006.
Điều chỉnh hối tố tăng chi phí quản lý 447 triệu đồng do điều chỉnh hồi tố
trích dự phòng phải thu khó đòi 284.898.556 đồng – Báo cáo tài chính năm
2006 không trích khoản này.
Điều chỉnh hối tố tăng chi phí quản lý 447 triệu đồng do điều chỉnh hồi tố
trích dự phòng phải thu khó đòi 284.898.556 đồng – Báo cáo tài chính năm
2006 không trích khoản này.
Phần hàng tồn kho tính sai và chi phí phát sinh trong kỳ không tính hết,
các con số phát sinh này được chuyển sang kỳ kế tiếp là năm 2007. Tuy nhiên
đến năm 2007, nếu Bông Bạch Tuyết tính cả số dư kỳ trước thì con số lỗ trở
nên quá lớn, công ty quyết định hồi tố và điều chỉnh kết quả kinh doanh năm
2006 từ lãi thành lỗ. Sự việc vỡ lở đã gây bức xúc cho không ít người, đặc biệt
là các nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu Bông Bạch Tuyết bởi bản báo cáo tài chính
“đã kiểm toán” năm 2006, cơ sở để họ đầu tư và cổ phiếu Bông Bạch Tuyết đột
nhiên thay đổi. Bởi thế, mới có điệp khúc “lỗ - lãi, lãi - lỗ” ở doanh nghiệp này.
Trong năm 2008, công ty cũng liên tục chậm công bố thông tin báo cáo tài
chính các quý trong năm. Chưa thực hiện đầy đủ biệc báo cáo

và công bố

thông tin bất thường, vi phạm các quy định tại điểm 1.1, điểm 1.2 Khoản 1 và
Khoản 2 Mục IV Thông tư số 38/2007/TT-BTC.
Sau đây là Báo cáo tài chính của công ty Bông Bạch Tuyết Quý III năm
2006 và Quý IV năm 2007:


BÁO CÁO TÀI CHÍNH TÓM TẮT
(QUÝ III NĂM 2006)

I. BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
ST
NỘI DUNG
T

SỐ DƯ ĐẦU KỲ

SỐ DƯ CUỐI KỲ

I

Tài sản ngắn hạn

28,177,091,969

28,031,155,388

1

Tiền và các khoan tương đương tiền

1,497,436,402

959,411,276

2

Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn

3


Các khoản phai thu ngắn han

7,372,802,893

9,948,815,798

4

Hàng tồn kho

14,584,370,201

13,965,544,994

5

Tài sản ngắn hạn khác

4,722,482,473

3,157,383,320

II

Tài sản dài hạn

91,036,469,193

87,054,377,945


1

Các khoản phải thu dài hạn

2

Tài sản cố định
- TSCĐ hữu hình
- TSCĐ vô hình

13,900,000
111,793,731,35
0
-27,106,252,457

111,877,755,963
-30,995,613,071


BÁO CÁO TÀI CHÍNH TÓM TẮT QUÝ
IV NĂM 2007
I. BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
ST
NỘI DUNG
T

SỐ DƯ CUỐI KỲ

SỐ DƯ ĐẦU KỲ


I

Tài sản ngắn hạn

39,031,285,231

31,152,931,426

1

Tiền và các khoan tương đương tiền

5,306,215,108

2,623,431,232

2

Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn

1,564,224,600

3,025,522,100

3

Các khoản phai thu ngắn han

21,387,946,555


14,674,105,847

4

Hàng tồn kho

9,311,271,744

8,894,499,701

5

Tài sản ngắn hạn khác

1,461,627,224

1,935,372,546

II

Tài sản dài hạn

83,518,486,009

83,931,808,358

1

Các khoản phai thu dài hạn


0

0

2

Tài sản cố định

76,928,652,905

77,416,571,826

- TSCĐ hữu hình

74,506,692,146

75,773,598,296

2,421,960,759

1,642,973,530

6,589,833,104

- TSCĐ vô hình
- TSCĐ thuê tai chánh
- Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
3


Bất động sản đầu tư

4

Các khoãn đầu tư tài chính dài hạn

5

Tài sản dài hạn khác

III

Tổng tài sản

IV

Nợ phải trả

46,558,026,139

6,515,236,532
115,084,739,78
4
41,707,754,166

1

Nợ ngan hạn

35,357,758,616


30,608,456,922

2

Nợ dài hạn

11,200,267,523

11,099,297,244

V

Vốn chủ sở hữu

75,991,745,101

73,376,985,618

1

Vốn chủ sở hữu
68,400,000,000

68,400,000,000

- Vốn đầu tư của chủ sở hữu
- Thặng dư vốn cổ phần
- Cổ phiếu quỹ
- Chênh lệch đánh giá lại tài sản


122,549,771,240


- Chênh lệch tỉ giá hối đoái
- Các quỹ
- Lợi nhuan sau thuế chưa phan phối

6,837,482,707

6,557,658,471

881,430,576

-1,580,672,853

- Nguồn vốn đầu tư XDCB
2

Nguồn kinh phí và quỹ khác

-127,168,182

- Quỹ khen thưởng phúc lợi
- Nguồn kinh phí
- Nguồn kinh phí đã hình thành
TSCĐ
VI

Tổng nguồn vốn


122,549,771,240

115,084,739,78
4

Việc duy trì điều kiện niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch chứng khoán
TPHCM thì công ty Bông Bạch Tuyết không đạt yêu cầu (theo quy định của
Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, công ty phải kinh doanh có
lãi mới đủ điều kiện niêm yết ). Nhưng từ khi niêm yết (năm 2004) đến nay,
Bông Bạch Tuyết không duy trì được điều kiện hoạt động kinh doanh có lãi
trong các năm 2004, 2006, 2007 và 6 tháng đầu năm 2008. Cụ thể, năm 2004,
báo cáo tài chính được kiểm toán cho thấy Bông Bạch Tuyết lỗ 2,121 tỷ đồng.
Năm 2005, Báo cáo tài chính do Công ty Kiểm toán A&C thực hiện cho thấy
Bông Bạch Tuyết có lợi nhuận sau thuế là 982 triệu đồng. Tuy nhiên, kiểm toán
viên của A&C có nêu ý kiến loại trừ nhiều khoản mục như chưa trính lập dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, làm Báo cáo tài chính năm 2005 chưa thể hiện
chính xác và phù hợp với chuẩn mực kế toán; Bông Bạch Tuyết thay đổi chính
sách khấu hao đã làm giảm chi phí khấu hao so với năm 2004 một con số ước
tính là 1,253 tỷ đồng; Bông Bạch tuyết sử dụng khoản lương dự phòng để nộp
BHXH và BHYT số tiền 147 triệu đồng… Ngoài ra, theo báo cáo kiểm toán
năm 2006 thì trong năm 2005, Bông Bạch Tuyết đã thực hiện chương trình
quảng cáo sản phẩm mới nhưng không hạch toán chi phí vào năm đó, kiểm
toán viên của A&C đã không lưu ý điều này trong báo cáo kiểm toán.


Thứ hai, bên cạnh những sai phạm trong việc công bố thông tin, một biểu
hiện nữa của chi phí đại diện ở Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết là rủi ro về
đạo đức của người quản lí. Điều này biểu hiện qua các sai phạm của Hội đồng
quản trị, Ban Tổng giám đốc, Ban kiểm soát và kế toán trưởng trong lĩnh vực

chứng khoán và thị trường chứng khoán, không hướng theo mục tiêu chung của
công ty, cụ thể đã để giám đốc hành chính – nhân sự chiếm dụng tiền của công
ty để mua đất…
Đoàn kiểm tra của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Sở Giao dịch chứng
khoán TPHCM đã kiểm tra Công ty Bông Bạch Tuyết và phát hiện trong thời
gian dài, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành Bông Bạch Tuyết đã
không làm tròn trách nhiệm trong việc điều hành, lãnh đạo công ty, thiếu trách
nhiệm trong việc công bố thông tin, không minh bạch trong các báo cáo tài
chính của công ty này. Ban giám đốc Bông Bạch Tuyết đã có những biểu hiện
sai phạm như để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ, lập báo cáo tài chính
quý và năm sai lệch để công bố ra thị trường, dù đã có ý kiến của kiểm toán
nhưng vẫn không sửa đổi.
Ban điều hành Bông Bạch Tuyết còn lập hoá đơn khống làm tăng doanh
thu, lợi nhuận của công ty, không công khai thông tin về những sai sót trong
hạch toán doanh thu, quản lý tài chính lỏng lẻo dẫn đến việc nhân viên lợi dụng
việc thanh lý tài sản lấy tiền mua đất. Nghiêm trọng hơn, Ban điều hành công
ty ra quyết định ngưng sản xuất mặt hàng đang kinh doanh có lãi nhưng không
có văn bản báo cáo với Hội đồng quản trị, không lưu giữ đầy đủ các tài liệu kế
toán quan trọng, để thất lạc hồ sơ kiểm kê...làm cho hoạt động của công ty
ngày càng xấu đi.
Một sai phạm nghiêm trọng về phát hành chứng khoán tại công ty này mà
lâu nay nhiều cổ đông thắc mắc đã được đoàn kiểm tra phát hiện. Đó là, trong
báo cáo tài chính phát cho đại biểu dự đại hội cổ đông vào tháng 4-2008 vừa
qua có một số khoản công ty nợ của cá nhân lên đến 7 tỉ đồng nhưng không ai
biết nợ vì lý do gì. Đó là khoản tiền Ban điều hành đã thu tiền cọc mua cổ
phiếu của một số cổ đông nhằm phát hành cổ phiếu cho họ nhưng sau nhiều


năm đã không thực hiện được việc phát hành trên. Tiền đã xài hết mà cổ phiếu
thì chưa phát hành được nên công ty “chuyển” số tiền trên thành nợ phải trả

của công ty. Việc phát hành cổ phiếu được đưa ra bàn bạc trong đại hội cổ
đông hai năm liền nhưng công ty này vẫn chưa thể thực hiện được. Thế nhưng
Ban điều hành công ty này đã “mạnh dạn” thu tiền từ các cá nhân trong khi
chưa đăng ký phát hành với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Đây là một nước
cờ liều mà chỉ có Ban điều hành Bông Bạch Tuyết mới dám thực hiện. Đến nay
vẫn chưa biết khi nào cổ đông mới được nhận cổ phiếu như công ty đã hứa, chỉ
biết tiền của họ đã “ngâm” vào đó và trở thành những khoản nợ khó đòi.
Vào thời điểm giữa năm 2007 trong khi tình hình tài chính của công ty
đang hết sức bi đát thì Tổng giám đốc của BBT vẫn “chơi sang” là ký hợp đồng
làm phim quảng cáo với hai công ty và một diễn viên điện ảnh nhằm giới thiệu
hình ảnh “mới” của Bông Bạch Tuyết. Trị giá của ba bản hợp đồng này là
52.000USD (tức hơn 800 triệu đồng).
Để hợp pháp hoá việc điều chỉnh các báo cáo kế toán và che đậy sự gian
dối truớc các cố đông, Ban giám đốc đã thuê hai công ty kiểm toán nhỏ, không
đáng tin cậy làm công tác kiểm toán là Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn
(A&C) và Công ty TNHH Kiểm toán và Dịch vụ Tin học (AISC). Kết quả kinh
doanh năm 2006 của Bông Bạch Tuyết sau khi hồi tố chênh lệch rất lớn, từ lãi
sang lỗ, kiểm toán viên ước lượng ảnh hưởng các khoản ngoại trừ đều có thể
ảnh hưởng trọng yếu đến kết quả kinh doanh, nhưng chưa nêu rõ trong báo cáo
kiểm toán. Ngoài ra, Đoàn thanh tra cũng đánh giá một số khiếm khuyết khác
như: Báo cáo tài chính được kiểm toán năm 2007 có một số khoản điều chỉnh
hồi tố từ năm 2006, nhưng thư kiểm toán đã không nêu rõ vấn đề này; AISC
không cung cấp thư quản lý theo hợp đồng kiểm toán năm 2006; AISC không
thông báo ngay cho Uỷ ban chứng khoán khi phát hiện tại Bông Bạch Tuyết có
những sai phạm trọng yếu.


Biện pháp khắc phục?
Sự phát sinh chi phí đại chủ yếu là do có sự phân định giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý vì vậy để khắc phục chi phí đại diện chúng ta phải làm có

những giải pháp gắn chặt quyền lợi của người quản lý với quyền lợi công ty
hay cần có một cơ chế tiền lương cho người quản lý (giám đốc) phù hợp. Để có
một cơ chế thù lao hợp lý cho giám đốc phải bảo đảm được tối thiểu ba yêu
cầu:
Thứ nhất, mức thù lao phải tương xứng với những nỗ lực mà các giám
đốc đã bỏ ra.
Thứ hai, cơ chế thù lao phải khuyến khích nhà quản lý đồng thời quan
tâm tới lợi ích ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ ba, phải bảo đảm kiểm soát được mức độ rủi ro đối với doanh
nghiệp.
Một trong những giải pháp để hạn chế phát sinh chi phí đại diện là trả
lương cho các giám đốc dựa vào lợi nhuận, dòng tiền, giá trị trị trường của
doanh nghiệp. Khi mà các giám đốc làm tăng lợi nhuận của công ty thì sẽ được
sẽ trả lương đúng như nỗ lực mà các giám đốc đã bỏ ra để khuyến khích động
viên. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định bởi lẽ các
nhà đầu tư chỉ có thể biết được lợi nhuận công ty đạt được thông qua các báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng báo cáo kế toán . . . mà trên thực tế
những báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hay các báo cáo kế toán có thể
mang tính chủ quan, thông tin có thể bị các kế toán làm sai lệch.
Trả thù lao cho các giám đốc dựa trên mức độ gia tăng giá trị doanh
nghiệp hay chính là gia tăng giá trị cổ phiếu. Phương pháp này khắc phục được
nhược điểm của phương pháp trả lương cho giám đốc dựa vào lợi nhuận của
công ty vì giá trị của cổ phiếu không phụ thuộc vào bảng cân đói kế toán. Tuy
nhiên giá cổ phiếu lại phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố khác như sự biến động


của thị trường, khủng hoảng kinh tế . . . nên có thể nói đó là một giả pháp
không hoàn hảo lắm.
Doanh nghiệp phải quan tâm đến cả lợi ích ngắn hạn cũng như lợi ích
dài hạn. Vì thực tế trong ngắn hạn các nhà quản lý có thể dùng những thủ thuật

làm làm sai lệch lợi nhuận của công ty hay làm sai thông tin về giá trị cổ phiếu
làm bóp méo bảng cân đối kế toán đánh lừa các nhà đầu tư. Vì vậy để khắc
phục thì công ty trả thù lao cho các nhà quản lý căn cứ vào kết quả hoạt động
của doanh nghiệp qua một số năm.
Doanh nghiệp trả thù lao cho nhà quản lý bằng cổ phiếu như vây có thể
gắn được lợi ích của giám đốc với lợi ích của doanh nghiệp, tạo cho nhà quản
lý động lực làm việc làm gia tăng giá trị công ty.
Trả thù lao cho nhà quản lý dựa vào kết quả kinh doanh của công ty.
Nếu thù lao của nhà quản lý phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả kinh doanh của
công ty thi rất dễ dẫn đến hiện tượng các nhà quản lý có khuynh hướng hạn chế
rủi ro tới mức vừa phải để đảm bảo an toàn cho bản thân, các nhà quản lý có
thể bỏ qua những dự án có khả năng sinh lợi cao mà chọn những dự án có mức
sinh lời hay rủi ro vừa phải. Điều này ngược với mong muốn của nhà đầu tư vì
các nhà đầu tư có xu hướng chấp nhận rủi ra cao vì một lẽ rủi ro cao thì sẽ ẩn
chứa một mức lợi nhuận cao. Chính vì vậy để khắc phục vấn đề này các doanh
nghiệp cần trả lương cho các giám đốc theo phương thức sau: trả cho các giám
đốc một mức lương cơ bản, mức lương cơ bản này không phụ thuộc vào kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp và khi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
vượt một mức nào đó (do doanh nghiệp đặt ra) thì sẽ thưởng cho các nhà quản
lý của doanh nghiệp. Đây có thể nói là một giải pháp tốt để làm tăng kết quả
của doanh nghiệp, tuy nhiên cũng dễ dẫn đến trường hợp các nhà quản lý vì
muốn đạt được mức thưởng cao mà bất chấp chọn dự án có rủi ro quá cao. Vì
vậy doanh nghiệp nên đưa ra một mức thưởng hợp lý và khi mức lương của các
nhà quản lý đạt tới một mức nào đó thì sẽ không được tăng nữa. Trường hợp
lợi nhuận của doanh nghiệp đạt được không cao nhưng không phải do lỗi của
nhà quản lý thì doanh nghiệp cũng phải thưởng cho nhà quản lý sao cho hợp lý.


Bên cạnh đó các doanh nghiệp cần thành lập một ban kiểm soát để kiểm
soát kiểm tra hoạt động của các nhà quản lý. Ban kiểm soát phải độc lập với

ban quản lý của công ty để tránh trường hợp bao che thông đồng với nhau gây
bất lợi cho công ty.



×