Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Hợp tác giáo dục giữa trung quốc và việt nam từ năm 1991 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------

TRẦN PHƢỢNG

HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA TRUNG QUỐC
VÀ VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------

TRẦN PHƢỢNG

HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA TRUNG QUỐC
VÀ VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60 31 02 06

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Quan hệ quốc tế

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thế Anh

HÀ NỘI – 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cảm đoan dây là công trình nghiên cứu khoa hoc cá nhân của tôi. Kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và không sao chép từ bất kỳ công trình nào khác.
Nếu có gì gian dối tôi xin hoan toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng

năm 2015

Học viên cao học

Trần Phƣợng


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả thầy, cô giáo
đã giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề
tài, Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến các thầy, cô
giáo trong Hội đồng chấm luận văn Thạy sỹ này của tôi- những người sẽ nhìn
nhận,đánh giá công trình nghiên cứu của tôi từ những góc độ khoa học và chắc chắn
sẽ cho tôi những nhận xét, đóng góp xác đáng nhất. Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời
cảm ơn chân thành nhất đến TS. Hoàng Thế Anh -người đã trực tiếp hướng dẫn và
tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn !

Học viên

Trần Phƣợng



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ..............................................................2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6
Chƣơng 1. CƠ SỞ HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT
NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY ..............................................................................8
1.1 Khái quát về mối quan hệ Trung- Việt từ sau khi bình thường hóa .....................8
1.2 Tình hình giáo dục hai nước ...............................................................................10
1.2.1Tình hình giáo dục của Trung Quốc .................................................................10
1.2.2 Tình hình giáo dục của Việt Nam.....................................................................16
1.3 Tầm quan trọng của việc hợp tác ........................................................................24
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA TRUNG QUỐC VÀ
VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY .................................................................31
2.1 Chủ trương đường lối tăng cường hợp tác giáo dục giữa hai nước ....................31
2.1.1 Các thông cáo chung, tuyên bố chung của nhà nước ......................................31
2.1.2 Thể hiện trong các hiệp định giữa Việt Nam và Trung Quốc ở hai cấp Trung
ương và địa phương ..................................................................................................40
2.2 Thực trạng và các loại hình hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc và Việt Nam ...45
2.2.1.Các loại hình hợp tác đào tạo ..........................................................................48
2.2.2 Thực trạng hợp tác giáo dục giữa Trung-Việt .................................................53
2.2.3 Một số trường hợp tiêu biểu .............................................................................63
Chƣơng 3. ĐÁNH GIÁ VÀ TRIỂN VỌNG HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA
HAI NƢỚC .............................................................................................................73
3.1 Một vài nhận xét về hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc và Việt Nam ...............73
3.1.1 Thành công .......................................................................................................75



3.1.2 Hạn chế ............................................................................................................79
3.2 Kiến nghị .............................................................................................................86
3.3 Triển vọng hợp tác giáo dục giữa hai nước trong thời gian tới ..........................95
KẾT LUẬN ............................................................................................................101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................104
PHỤ LỤC ...............................................................................................................108


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Thống kê số lượng giáo viên và sinh viên bậc đại học Việt Nam.. 21
Bảng1. 2: Bảng thống kê trình độ học vấn và số lượng giáo viên bậc đại học Việt
Nam ................................................................................................................. 23
Bảng 1.3: Bảng tóm tắt xếp hạng và tổng số lưu học sinh Việt Nam đến Trung
Quốc du học năm 2000- 2012 ......................................................................... 28


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng có quan hệ từ lâu đời. Do đặc
điểm về địa lý và lịch sử nên nền giáo dục hai nước có nhiều ảnh hưởng, giao lưu qua
lại. Mối quan hệ này lại được tăng cường ở mức độ cao hơn từ sau ngày 18 tháng 1
năm 1950 khi nước CHND Trung Hoa và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết
lập quan hệ ngoại giao. Thập niên 50-70 của thế kỷ XX với sự giúp đỡ và ủng hộ
của Trung Quốc, Việt Nam đã xây dựng được một số trường đại học để đào tạo cán
bộ cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng thời các trường đại học Bắc Kinh, đại
học Thanh hoa, đại học nhân dân Trung Quốc, đại học Vũ Hán… đã bồi dưỡng một
số lượng lớn nhân tài cho Việt Nam. Những sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp

ở Trung Quốc về nước đã trở thành những cán bộ ưu tú trong kháng chiến chống Mĩ
cứu nước và xây dựng kinh tế, nhiều người đã trở thành những cán bộ lãnh đạo cao
cấp của Việt Nam.
Cũng trong thời gian này trường đại học tổng hợp Hà Nội cũng đã bồi dưỡng
rất nhiều nhân tài chuyên ngành tiếng Việt cho Trung Quốc. Hầu hết những sinh
viên này đã trở thành những cán bộ giảng dạy tiếng Việt trên khắp Trung Quốc và
một số đã trở thành những nhà ngoại giao ưu tú góp phần vào sự nghiệp xây dựng
quan hệ hữu nghị Trung - Việt. Đây chính là những hợp tác giáo dục trong giai đoạn
mới rất đáng ghi nhận.
Ngày nay, hai nước đang cùng tiến hành công cuộc cải cách kinh tế nhằm xây
dựng một nền kinh tế phát triển. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam và công cuộc cải
cách mở cửa ở Trung Quốc có nhiều nét tương đồng về mục tiêu cũng như tương tự
về cách làm, do vậy giáo dục hai nước cũng có nhiều vấn đề giống nhau. Trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay, Việt Nam xác định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
công nghệ là ―quốc sách hàng đầu‖, cũng thời gian này ở Trung Quốc đang thực hiện
chiến lược ―khoa giáo hưng quốc‖ (Khoa học giáo dục chấn hưng đất nước). Từ sau
khi bình thường hóa quan hệ Trung-Việt tháng 11 năm 1991 cho đến nay các

1


hình thức hợp tác giáo dục ngày càng đa dạng, nội dung ngày cang phong phú,
thành tích thu được ngày càng rõ rệt. Giáo dục hai nước Trung-Việt đi sâu vào
rất nhiều phương diện nhưng nổi bật nhất, dễ nhận thấy nhất vẫn là quan hệ hợp
tác giáo dục đại học. Chính vì thế luận văn nhằm mục đích tìm hiểu về hợp tác
giáo dục giữa Trung Quốc và Việt Nam từ năm 1991 đến nay nhưng lại ưu tiên
nghiên cứu kỹ hơn về hợp tác giữa hai nước trên lĩnh vực giáo dục đại học. Đi
sâu vào nghiên cứu hợp tác giáo dục hai nước thông qua tổng kết hiện trạng
giáo dục từ đó tìm ra ý nghĩa quan trọng của việc hợp tác giáo dục giữa hai
nước; những phương châm và quyết sách mà hai nước đã đưa ra trong phương

diện giáo dục. Luận văn cũng tổng kết những thành tựu trong hợp tác giáo dục
mà hai nước đã đạt được từ khi bình thường hóa quan hệ cho tới năm 2013;
phân tích những thiếu sót còn tồn tại, những vấn đề cần cải thiện và định hướng
tương lai hợp tác giáo dục giữa hai nước. Từ đó hy vọng tìm được những ý
nghĩa quan trọng để phát triển toàn diện hơn nữa quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa
hai nước như hiện nay.
Với tinh thần đó chúng tôi chọn Hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc và
Viêt Nam từ năm 1991 đến nay làm đề tài của luận văn.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Từ năm 1991, sau khi Trung Quốc - Việt Nam bình thường hóa quan hệ, hợp
tác giáo dục của hai nước được phát triển hơn, nội dung hợp tác càng ngày càng
phong phú và đa dạng. Cùng với việc xây dựng và phát triển của khu mậu dịch tự
do Trung Quốc - Đông Nam Á, kinh tế, mậu dịch, giao lưu và hợp tác văn hóa cũng
sẽ mở rộng hơn, hai bên đang rất cần nguồn nhân lực biết tiếng Trung và tiếng Việt.
Hiện nay, quá trình trao đổi lưu học sinh, giáo viên sang tham quan học hỏi
của các trường hợp tác rất thuận lợi, lưu học sinh hai nước tăng từng năm, đồng thời
Việt Nam cũng là nước nhận được học bổng lớn nhất từ chính phủ Trung Quốc.
Mặc dù quan hệ giáo dục của hai nước ngày càng phát triển hơn, nhưng mức độ hợp
tác vẫn còn có những vấn đề cần phải trao đổi thí dụ như: chưa toàn diện, đa số chỉ

2


là học ngôn ngữ và trao đổi lưu học sinh và giáo viên, có những lĩnh vực rất cần
thiết như hợp tác nghiên cứu khoa học, giáo dục từ xa, đầu tư giáo dục và chia sẻ tài
liệu vẫn còn hạn chế.
Mong muốn tìm hiểu những vấn đề trên, luận văn cố gắng phân tích làm
rõ thực trạng quan hệ hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc và Việt Nam, từ đó
nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của quan hệ hợp tác giáo dục và đề xuất
một số kiến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giáo dục giữa hai nước.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1 Nghiên cứu ở Trung Quốc
Hiện nay nghiên cứu về giao lưu và hợp tác giáo dục của các quốc gia trong
đó có quan hệ hợp giữa hai nước Trung-Việt được giới học thuật ở Trung quốc rất
quan tâm. Đã có nhiều công trình được công bố trên các báo và tạp chí. Có thể nêu
một số công bố sau:
Tác giả Nông Lập Phu thuộc Viện KHXH Quảng Tây có bài: ―Nhìn lại và
triển vọng hợp tác giáo dục hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam‖ tại Diễn đàn
học thuật năm 2012. Bài viết đã điểm lại sơ lược quá trình hợp tác giáo dục giữa
Trung Quốc và Việt Nam để đưa ra triển vọng về tăng cường đào tạo đội ngũ giảng
viên, tăng cường nghiên cứu và giao lưu nghiên cứu ngôn ngữ giữa hai nước nhất là
sau khi có hiệp định công nhận văn bằng của nhau.
Các tác giả Lưu Côn, Dư Minh Cửu có bài ―So sánh và thảo luận về chính
sách giáo dục vùng biên giới Trung-Việt dưới góc độ giáo dục học‖ năm 2011. Bài
viết đã đưa ra một số nhận định về các chính sách và ảnh hưởng của nó đối với
đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng biên.
Tác giả Lê Xảo Bình trong bài ―Giao lưu hợp tác giáo dục Quảng Tây và
Việt Nam‖ năm 2010 đã nêu lên những hình thức biểu hiện trong giao lưu hợp tác
giáo dục giữa Quảng Tây và Việt Nam. Đã khái quát 3 phương diện chủ yếu đó là
trao đổi sinh viên, trao đổi giảng viên và cử các đoàn đại biểu sang giao lưu học hỏi
lẫn nhau, đồng thời đưa ra những thiếu sót còn tồn tại như nguồn sinh viên không

3


cân bằng, chiêu sinh còn hạn hẹp, phương pháp dạy và học, thiếu sót trong quản lý
sinh viên.
Tác giả Phạm Kim Ngọc trong luận văn tốt nghiệp Đại học dân tộc Quảng
Tây năm 2010 với công trình ―Lựa chọn chiến lược và phân tích SWOT hợp tác
giáo dục thể chất Quảng Tây và Việt Nam‖ đã vận dụng phương pháp tổng kết tài

liệu, phương pháp phỏng vấn, phương pháp điều tra bảng hỏi, phân tích SWOT tiến
hành phân tích ưu thế, yếu thế trong hiện trạng xây dựng chuyên ngành giáo dục
học giữa các trường đại học của Quảng Tây và Việt Nam, đưa ra con đường lựa
chọn chiến lược hợp tác giáo dục thể chất giữa các trường đại học của Quảng Tây
và Việt Nam.
Ngoài ra còn có những học giả quan tâm chú ý tới giáo dục của lưu học sinh
Việt Nam tại Trung Quốc như Sát Cương với ―Nghiên cứu giáo dục lưu học sinh
Việt Nam tại trường đại học Dân tộc Quảng Tây‖ năm 2011; Trần Tuyết Quân ―Bàn
về giáo dục thẩm mỹ của lưu học sinh Việt Nam tại các trường đại học‖ năm 2007.
Cũng có không ít học giả đặc biệt quan tâm chú ý đến hợp tác giáo dục giữa Quảng
Tây và Việt Nam như: Lý Ngọc Hoa, Mạc Thiếu Cường, Tưởng Tâm Bình, Hoàng
Hà ―Nghiên cứu cơ hội hợp tác giáo dục thể chất giữa các trường đại học Quảng
Tây và Việt Nam‖ (giáo dục Quảng Tây) năm 2011. Các tác giả đã tiến hành phân
tích từ 4 phương diện trong hợp tác giáo dục thể chất giữa các trường đại học của
Quảng Tây và Việt Nam đó là cơ hội thuận lợi do chính sách, lợi thế địa lý, ưu thế
văn hóa, cơ hội hợp tác đồng thời thông qua việc mở rộng con đường hợp tác như
hợp tác giảng dạy thể chất, hợp tác rèn luyện, hợp tác nghiên cứu và hợp tác giáo
dục thể chất giữa những trường đại học hang đầu của Quảng Tây và Việt Nam từ đó
tận dụng hết sức nguồn tài nguyên giáo dục thực hiện bổ sung và cùng chia sẻ
nguồn tài nguyên quốc tế.
Có thể nhận thấy những bài viết nghiên cứu về hợp tác giáo dục Trung-Việt
ở Trung Quốc tương đối nhiều nhưng phần lớn chỉ là khái quát quá trình hợp tác
hoặc là hợp tác giáo dục giữa Quảng Tây và Việt Nam. Trên phương diện nghiên

4


cứu hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc và Việt Nam từ sau khi bình thường hóa
quan hệ cho đến nay rất ít và cũng chưa phân tích cụ thể những thành quả đã đạt
được. Cũng chưa có nhiều nhận xét về những hạn chế và dự báo khả năng tương lai

trong hợp tác giáo dục giữa hai nước. Đây chính là những khoảng trống mà luận
văn có thể khai thác.
3.2 Nghiên cứu ở Việt Nam
Cũng như ở Trung Quốc, nghiên cứu về giáo dục nói chung và giáo dục ở
Trung Quốc và các nước khác là đề tài được nhiều các nhà nghiên cứu giáo dục đầu
ngành cũng như các học giả tâm huyết quan tâm. Các tác giả tiêu biểu như GS Phạm
Minh Hạc, GS Vũ Ngọc Hải, GS Hoàng Tụy… trong các công trình của mình đã
phân tích thực trạng nhằm tìm ra phương hướng phát triển cho giáo dục Việt Nam.
GS.VS Phạm Minh Hạc (chủ biên) cuốn sách ―Giáo dục thế giới đi vào thế
kỷ XXI‖. Cuốn sách tập trung trình bày xu thế phát triển giáo dục trên thế giới, giới
thiệu một số nét đặc trưng về cải cách giáo dục, kinh nghiệm quản lý giáo dục…từ
đó rút ra bài học kinh nghiệm cho giáo dục Việt Nam.
GS.TSKH Vũ Ngọc Hải trong công trình ―Về quyền tự chủ và tính trách
nhiệm xã hội của các trường đại học ở nước ta‖ đã đề cập đến một trong những vấn
đề mà ngành giáo dục & đào tạo Việt Nam lung túng khi tiến hành đổi mới, đó
chính là vấn đề quản lý tập trung và phân cấp quản lý cho cơ sở giáo dục đại học,
trong đó có vấn đề trao quyền tự chủ và tính trách nhiệm cho các trường.
Nghiên cứu về giáo dục Trung Quốc cũng có nhiều công trình đã được công
bố. Có thể nêu ra một số thí dụ:
Tác giả Nguyễn Văn Căn trong cuốn sách ―Quá trình cải cách giáo dục của
CHND Trung Hoa thời kỳ 1978-2003‖ đã khái quát những diễn biến cụ thể, hệ
thống hóa quá trình phát triển và cải cách giáo dục ở Trung Quốc. Trên cơ sở
nghiên cứu những thành tựu và hạn chế cuốn sách gợi mở một số bài học cho những
người quan tâm đến giáo dục Trung Quốc và giáo dục việt Nam.

5


Tác giả Nguyễn Văn Hồng trong bài ―Bài học Minh Trị Duy tân và Trung
Quốc Khoa giáo hưng quốc chìa khóa phát triển và quản lý xã hội các nước Đông

Á‖ đã nhấn mạnh về việc chìa khóa giáo dục có ý nghĩa bắt đầu và không ngừng
tác dụng đối với một quốc gia hưng thịnh. Tác giả cũng đưa ra đôi điều suy nghĩ về
cải cách giáo dục và đào tạo sử dụng nhân tài ở Việt Nam.
Hoặc như luận văn thạc sĩ của Trần Thu Quỳnh Nga với chủ đề ―Chiến lược
khoa giáo hưng quốc và những tác động tích cực đối với vấn đề nâng cao chất
lượng giáo dục đại học Trung Quốc‖. v.v…
Những công trình trên chủ yếu nghiên cứu về những vấn đề đang được xã
hội quan tâm đối với giáo dục Việt Nam hoặc các nước khác. Các tác giả đều thông
qua những nghiên cứu của mình để tìm ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra
những kiến nghị đối với giáo dục Việt Nam. Trong các tìm hiểu chúng tôi chưa tiếp
cận được với công trình nào nghiên cứu về quan hệ hợp tác giáo dục Trung -Việt.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến hợp tác giáo dục giữa
Trung Quốc và Việt Nam từ năm 1991 đến nay
4.2 Phạm vi và nội dung nghiên cứu:
Về phạm vi nghiên cứu hợp tác giáo dục giữa nước CHND Trung Hoa và
Cộng hòa XHCN Việt Nam (không bao gồm Đài Loan, Hồng Kong, Ma Cao).
Về nội dung đề tài chủ yếu nghiên cứu về hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc
và Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2013 nhưng chú trọng hơn đến hợp tác giáo dục
ở bậc đại học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm chủ đạo, lựa chọn nghiên
cứu từ góc độ hiện thực và giao lưu hợp tác, vận dụng phương pháp so sánh, phân
tích với các ví dụ cụ thể. Thông qua nghiên cứu về bối cảnh, hiện trạng, các vấn đề
của hợp tác và giao lưu giáo dục đại học giữa hai nước Trung-Việt để đi sâu tìm

6



hiểu những kiến thức về giao lưu và hợp tác giáo dục giữa hai nước tìm ra những
vấn đề thiếu sót còn tồn tại từ đó đưa ra những kiến nghị cho sự phát triển trong hợp
tác giao lưu giáo dục Trung-Việt.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của Luận văn được chia làm 3 chương.
Chương I: Cơ sở hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc và Việt Nam từ năm
1991 đến nay
Chương II: Thực trạng hợp tác giáo dục giữa Trung Quốc và Việt Nam từ năm
1991 đến nay
Chương III: Đánh giá và triển vọng hợp tác giáo dục giữa hai nước

7


Chƣơng 1. CƠ SỞ HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA TRUNG QUỐC
VÀ VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY

1.1. Khái quát về mối quan hệ Trung- Việt từ sau khi bình thƣờng hóa
Hai nước Trung- Việt núi liền núi, sông liền sông, từ trước đến nay nhân dân
hai nước Trung-Việt luôn qua lại giao lưu và học hỏi lẫn nhau. Trong quá trình đấu
tranh thống nhất đất nước, Việt Nam luôn coi Trung Quốc là hậu phương tin cậy, vì
thế Trung Quốc và Việt Nam có sự hợp tác lâu dài trên rất nhiều phương diện như
kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, giáo dục, khoa học kĩ thuật v.v… Đảng và lãnh
đạo hai nước thường xuyên thực hiện các cuộc thăm viếng và thẳng thắn trao đổi
những vấn đề trọng đại của mỗi nước, của quốc tế và quan hệ giữa đôi bên. Những
trao đổi này đã thúc đẩy quan hệ hai nước không ngừng phát triển.
Từ khi Việt Nam tiến hành đổi mới nhằm đưa đất nước từ một nền kinh tế
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các bài học kinh
nghiệm của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách luôn là những kinh nghiệm bổ ích

đối với Việt Nam. Có thể nói, đến năm 1992 Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế bao
cấp sang nền kinh tế thị trường và ngày càng thu hút được các nhà đầu tư nước
ngoài, cổ vũ kinh doanh tư nhân, phát triển từ mô hình phát triển kinh tế phi công
hữu. Vì vậy không thể không thừa nhận quá trình phát triển của Việt Nam có sự
tương đồng với quá trình phát triển của Trung Quốc. Đây cũng là những yếu tố
quan trọng để năm 1999 hai nước Trung- Việt đặt thành phương châm 16 chữ:
"Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" đưa
hai nước bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Sau khi bình thường hóa quan hệ cho đến nay hai nước không ngừng đi sâu
và mở rộng giao lưu hợp tác giữa hai đảng, hai chính phủ, quân đội, các đoàn thể
quần chúng và các địa phương trên mọi lĩnh vực như khoa học kĩ thuật, văn hoá
quân sự và giáo dục… Hai nước đã kí kết gần 40 văn kiện hợp tác có liên quan đến
ngoại giao, an ninh, kinh tế thương mại, khoa học kĩ thuật, văn hóa, tư pháp, vận tải

8


hàng không, vận tải biển, vận tải đường sắt và còn tiến hành các hội thảo nghiên
cứu lí luận chủ nghĩa xã hội.
Thập niên 90 của thế kỉ 20 cho đến những năm đầu của thế kỉ 21 về tổng thể
quan hệ Trung- Việt thể hiện ở những mặt sau:
* Quan hệ Trung- Việt dần dần hồi phục và đồng thời có bước phát triển nhất
định. Có được bước phát triển nhanh chóng của quá trình bình thường hóa là do hai
nước Trung –Việt đã có mối quan hệ giao lưu hàng ngàn năm đồng thời cũng phù
hợp với bối cảnh hòa bình phát triển thế giới hiện nay. Việc lãnh đạo cấp cao hai
nước thường xuyên thăm hỏi và trao đổi với nhau cũng chính là thực hiện ý nguyện
của nhân dân hai nước cùng nhau phát triển
* Quan hệ của nước CHND Trung Hoa và nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ngay từ những năm đầu đã được xây dựng trên nền tảng 5 nguyên tắc chung
sống hòa bình và chuẩn tắc quan hệ trên phạm vị quốc tế.

* Trong những chuyến thăm hữu nghị của lãnh đạo hai nước Trung- Việt hai
bên đã thống nhất và ký các văn kiện hiệp thương có liên quan trên tinh thần tin
tưởng cùng nhau giải quyết những vấn đề ảnh hưởng tới sự phát triển của hai nước,
xây dựng cơ chế hợp tác. Ngoài cơ chế viếng thăm của lãnh đạo cấp cao, các ban
ngành hai nước còn tiến hành một vài cơ chế thúc đẩy quan hệ song phương với
mục tiêu hòa bình phát triển bao gồm : cơ chế đối thoại hàng năm chuyên viên cao
cấp về ngoại giao, những vấn đề biên giới trên bộ, trên biển, cơ chế liên quan khác,
v.v.. Việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế này là nền tảng vững chắc cho quan hệ
hữu nghị hai nước.
* Trong những năm qua quan hệ hai nước phục hồi và phát triển tương đối
toàn diện, liên quan đến kinh tế, văn hóa, chính trị nhưng quan hệ chính trị luôn
chiếm vị trí nòng cốt chủ đạo. Quan hệ chính trị cùng với sự phát triển về văn hóa,
kinh tế có sự tác động qua lại lẫn nhau rất rõ rệt. Trong quá trình phát triển chúng ta
có thể nhận thấy sự giao lưu về phương diện văn hóa và kinh tế thương mại giữa
nhân dân hai nước đóng vai trò vô cùng quan trọng nhưng dù sao các quan hệ văn

9


hóa và quan hệ kinh tế vẫn dưới sự chỉ đạo của chính trị, thể hiện rõ nhất từ thập
niên 90 thế kỷ XX đến nay.
* Quan hệ giữa hai nước Trung- Việt ngày càng mật thiết từ đó sự tác động
qua lại ngày càng nhiều, hợp tác của hai Đảng cho đến quan hệ hữu nghị luôn tuân
theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp nội bộ, độc lập tự
chủ, tiến hành giao lưu trên cơ sở này phấn đấu vì mục tiêu của mỗi bên. Hai Đảng
cũng sẽ thường xuyên trao đổi về những vấn đề liên quan để củng cố quan hệ tạo cơ
hội giao lưu về văn hóa kinh tế giữa hai nước.
Trong giai đoạn mới, thế kỉ mới xu thế phát triển quan hệ hai nước sẽ được
thể hiện với những đặc trưng chủ yếu sau:
* Trung Quốc và Việt Nam đã có lịch sử quan hệ giao lưu hàng ngàn năm

nhất là quan hệ giữa nhân dân hai nước. Vì vậy quan hệ hữu nghị Việt- Trung
không gì có thể ngăn cản được đúng theo tinh thần đồng chí tốt, láng giềng tốt.
* Cùng hợp tác phát triển đôi bên cùng có lợi. Xuất phát từ lợi ích lâu dài
không ngừng thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước. Xây dựng quan hệ hợp tác toàn
diện, láng giềng thân thiện, bổ sung cho nhau để đôi bên cùng có lợi, thực hiện tốt
mục tiêu phát triển của mỗi bên chính là cùng nhau phát triển và phồn vinh.
* Luôn kiên định tính nhất quán trong chính trị. Về mặt tính chất của nhà
nước Trung Quốc và Việt Nam đều thuộc chế độ xã hội chủ nghĩa, không chỉ cùng
nhau gánh vác sứ mệnh lịch sử mà còn có cùng lí tưởng và phương hướng phấn đấu.
Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hai nước học hỏi lẫn nhau, thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ
của quốc gia, làm phong phú thêm nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin, đẩy mạnh
cải cách và phát triển chủ nghĩa xã hội trên thế giới trong hoàn cảnh mới, thời kì
lịch sử mới.
1.2 Tình hình giáo dục hai nƣớc
1.2.1Tình hình giáo dục của Trung Quốc
Nghị quyết của Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (10 năm 1992), với

10


những chủ trương chính sách quan trọng đã mở đầu cho giai đoạn mới của cải cách
mở cửa ở Trung Quốc. Về phát triển giáo dục, Báo cáo Chính trị do Chủ tịch Giang
Trạch Dân trình bày xác định rõ:
Khoa học tiến bộ, kinh tế phồn vinh, xã hội phát triển về căn bản được quyết
định bởi chất lượng lao động và vấn đề đặt ra trước mắt là phải bồi dưỡng được một
lượng lớn nhân tài. Trung Quốc phải dốc sức phát triển giáo dục, phải đặt sự nghiệp
giáo dục vào vị trí chiến lược, ưu tiên phát triển trong nền kinh tế quốc dân. Hy vọng
chấn hưng đất nước đặt vào giáo dục. Chỉ có giáo dục mới có thể nâng cao được tố chất
con người và đào tạo ra những người lao động hiện đại mới.

Với tinh thần đó, trải qua hơn 10 năm thực hiện cải cách nền giáo dục Trung
Quốc đã thay đổi rất nhiều cả số lượng và chất lượng nhất là ở bậc đại học. Có thể
nói sự thay đổi trong giáo dục đại học của Trung Quốc là sự thay đổi sâu sắc và
rộng lớn thể hiện qua các phương diện như quy mô, đổi mới ngành học, phát triển
chức năng và nâng cao chất lượng. Về mở rộng quy mô, chỉ trong một thời gian
ngắn tiến hành tuyển sinh với quy mô lớn đã đưa giáo nền giáo dục đại học Trung
Quốc bước vào giai đoạn đại chúng hóa. Về các ngành học, không chỉ cải cách mà
Trung Quốc còn quan tâm khôi phục những chuyên ngành bị bỏ không hợp lí trước
kia như kinh tế học, chính trị học, luật, giáo dục học v.v… Về phát triển chức năng,
chú trọng cải cách mô hình đào tạo nhân tài, mở rộng hình thức kết hợp vừa học
vừa nghiên cứu, tăng cường bồi dưỡng toàn diện. Về nâng cao chất lượng Trung
Quốc thể hiện rõ quyết tâm xây dựng trường đại học đạt tầm cỡ quốc tế v.v… Nhìn
chung, những tiến bộ to lớn mà nền giáo dục Trung Quốc dành được từ những năm
90 thế kỉ 20 cho đến năm 2013 biểu hiện ở những mặt sau: mở rộng quy mô nhanh
chóng; chất lượng giáo dục có được sự quan tâm đúng mức; cải cách thể chế mang
tính đột phá, tiến triển tích cực; thành quả nghiên cứu khoa học phong phú.
Với mục đích nghiên cứu Hợp tác giáo dục Trung Quốc và Viêt Nam từ năm
1991 đến năm 2013 trong chương này chủ yếu là tìm hiểu sự thay đổi trong nền
giáo dục bậc đại học của Trung Quốc thông qua những phương diện sau : cơ chế

11


giáo dục đại học; mô hình bồi dưỡng nhân tài; xây dựng đội ngũ giáo viên, cải cách
phương pháp dạy và giao lưu với bên ngoài.
1.2.1.1 Cơ chế giáo dục đại học
Từ sau thập niên 90 của thế kỉ 20 nền giáo dục đại học Trung Quốc đã phát
triển và dành được những thành tựu to lớn, chủ yếu là trên những phương diện sau:
cơ chế tuyển sinh, cơ chế đầu tư kinh phí, cơ chế thu học phí, cơ chế quản lí vĩ mô,
cơ chế nhập học, cơ chế quản lí nội bộ và tìm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp.

Cơ chế nhập học giáo dục đại học Trung Quốc đã có bước đột phá. Trong
nền kinh tế bao cấp cơ chế nhập học giáo dục đại học tương đối đơn giản, quyền lực
của chính quyền nhà nước cho đến các cơ quan quản lí giáo dục rất tập trung. Cơ
chế nhập học này lấy nhà nước làm chủ thể, nhà nước và chính quyền các cấp có vai
trò quyết định, vừa là người thực hiện vừa là người quản lí. Đến nay số lượng các
trường dân lập tương đối nhiều và cũng có nhiều cống hiến cho nền giáo dục Trung
Quốc. Cơ chế nhập học và đa dạng hình thức nhập học là một trong những thành
quả trong cải cách giáo dục đại học Trung Quốc.
Cơ chế đầu tư kinh phí giáo dục đại học cũng rất đa dạng. Từ thập niên 90
của thế kỉ 20 cho đến nay nguồn kinh phí dành cho giáo dục đại học đã hoàn toàn
không phải là do nhà nước cung cấp mà trở thành cơ chế đầu tư giáo dục mới với
nhiều con đường khác nhau. Cơ chế đầu tư cho giáo dục đại học trải qua quá trình
phát triển từ chỉ đơn nhất chính phủ đầu tư đến nay là cá nhân, chính phủ và xã hội
đều có thể đầu tư.
Cơ chế tìm việc làm sau khi cơ chế kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường,
chế độ tìm việc làm của sinh viên Trung Quốc có sự thay đổi rất lớn. Từ cơ chế nhà
nước phân bổ chuyển thành tự bản thân sinh viên căn cứ theo chuyên ngành và
nguyện vọng của mình để tìm việc làm. Vì thế hiện nay sinh viên Trung Quốc sau
khi tốt nghiệp sẽ tự chủ tìm việc, coi thị trường lao động là nền tảng, lấy chính sách
của nhà trường và quốc gia làm phương hướng, sinh viên tự lựa chọn ngành nghề
mà mình muốn. Quyết sách này một khi thực hiện không chỉ tạo cơ sở thay đổi chế

12


độ tìm việc làm cho sinh viên mà còn tăng sự lựa chọn cho cả sinh viên và đơn vị
tuyển dụng. Thông qua hình thức lựa chọn đôi bên này có lợi cho cơ chế cạnh tranh
thị trường và lưu chuyển nhân tài.
Cơ chế quản lí nội bộ từ sau thập niên 90 của thế kỉ 20 cải cách giáo dục đại
học cho đến nay xuyên suốt quá trình cải cách giáo dục đại học. Có thể chia thành

hai giai đoạn quan trọng sau: năm 1993 đến năm 1997, đây là giai đoạn giáo dục đại
học Trung Quốc đi vào cải cách; từ năm 1997 đến năm 2013 cả nước Trung Quốc
thực thi công cuộc cải cách và đã đạt được những thành tựu nhất định. Trải qua hai
giai đoạn công cuộc cải cách cơ chế quản lí nội bộ đã đạt được rất nhiều thành tựu,
giảm biên chế nhân viên quản lí và cơ cấu nội bộ, bắt đầu xây dựng chế độ viên
chức giáo dục, điều chỉnh tổ chức dạy học, điều chỉnh chế độ trợ cấp chức vụ phổ
biến trong các trường đại học v.v…
1.2.1.2 Mô hình bồi dưỡng nhân tài
Mở rộng quy mô giáo dục, sau thập niên 90 của thế kỉ 20 quy mô giáo dục đại
học của Trung Quốc không ngừng được mở rộng, thể hiện ở số lượng trường học,
sinh viên, nghiên cứu sinh không ngừng gia tăng. Đầu tiên quy mô nhà trường của
giáo dục đại học có bước phát triển đặc biệt là về số lượng. Năm 2009 các trường đại
học phổ thông đã đạt tới 1.778 [21] trường. Số lượng sinh viên cũng dần dần tăng lên,
ví dụ năm 1980 cả nước có 1.140.000 sinh viên, đến năm 1996 đã là 5.680.000, tăng
gấp 4 lần; Năm 1998 số lượng sinh viên đang theo học tại các trường khoảng 3,4 triệu
sinh viên đến năm 2009 đã tăng lên đến khoảng 4,3 triệu sinh viên, con số này có thể
sẽ tăng lên mang tính đột phá. Số lượng sinh viên trong các trường đại học thông
thường tăng nhiều hơn so với số lượng số lượng nghiên cứu sinh. Năm 1996 số
nghiên cứu sinh là 160.000 tăng gấp 8 lần [22] so với năm 1980. Không những tăng
lên về số lượng nghiên cứu sinh mà chất lượng bồi dưỡng cũng phải dần dần nâng
cao. Năm 1998 quy mô bồi dưỡng nghiên cứu sinh trong nước đạt 198.000 [28]. Cho
đến cuối năm 2013 số lượng nghiên cứu sinh đạt 819.000, trong đó tiến sĩ là 165.000,
thạc sĩ là 650.000. Không tính 200.000 nghiên cứu sinh đã tốt nghiệp thì số lượng

13


nghiên cứu sinh đã vượt qua con số 900.000. Có thể nói sự tăng trưởng số lượng sinh
viên thực sự khiến mọi người khó có thể dự đoán trước.
Từ sau năm 2000 Trung Quốc cũng xây dựng các trường dành cho người lớn

tuổi và hiện có khoảng 297 trường đại học dạng này với số người theo học khoảng
gần 4,19 triệu. Trong hệ thống giáo dục Trung Quốc cũng xuất hiện một loại trường
mang tính chất độc lập. Sự hình thành của các trường này là do giáo dục đại học mở
rộng quá nhanh nhà nước không đủ kinh phí, hoặc có một số nơi tuy tiến hành mở
rộng nhưng kinh phí lại bị thu hẹp. Để giải quyết được những vấn đề này Trung
Quốc quyết định lấy khu vực Giang Tô đến Triết Giang thí điểm thành lập các
trường đại học độc lập mang tính chất dân dân lập. Những trường đại học này có
đặc thù riêng là có thể tự ban hành các qui định mà không cần phải xem xét ảnh
hưởng với các trường khác nhưng lại là những trường thu học phí cao. Năm 2010 số
lượng các trường này đạt tới con số 290.
Mở rộng quy mô giáo dục đại học, một mặt là nâng cao khả năng đào tạo của
hệ thống giáo dục đại học, bồi dưỡng nhân tài, tăng thêm quan hệ mật thiết và trực
tiếp giữa nhà trường và xã hội; một mặt thúc đẩy phát triển giáo dục phổ thông
giảm bớt áp lực đối với giáo dục cơ sở. Mặt khác mở rộng quy mô giáo dục đại học
làm cho tỉ lệ nhập học tăng lên rõ rệt. Sau thập niên 90 của thế kỉ 20 giáo dục đại
học Trung Quốc bước vào giai đoạn đại chúng hóa, tỉ lệ học sinh nhập học đạt mức
15%. Đến năm 2013 tổng quy mô học sinh đang theo học ở tất cả các loại hình đại
học đạt 34,6 triệu nâng tỉ lệ nhập học lên 34,5%. Vào thời gian này Trung Quốc có
2.788 trường đại học dành cho sinh viên và trường đại học phổ thông.
Đối với nhiệm vụ đào tạo sau đại học, ngay từ khi bắt đầu thực hiện công cuộc
cải cách mở cửa Trung Quốc đã có sự quan tâm thích đáng. Chế độ học vị của Trung
Quốc được xây dựng từ năm 1981 đã qui định sau khi tốt nghiệp đại học sinh viên có
thể tiếp tục được đào tạo sau đại học bao gồm 2 bậc, học viên đều gọi là nghiên cứu
sinh, NCS thạc sĩ và NCS tiến sĩ. Nếu như trước đây số lượng cơ sở được đào tạo sau
đại học và số người có trình độ sau đại học là rất ít thì đến giai đoạn này Trung Quốc

14


có chủ trương đẩy mạnh chế độ đào tạo và cũng tạo điều kiện thuận lợi để cho nhiều

trường đại học có khả năng đảm nhận được nhiệm vụ này. Tính đến hết năm 1997 tức
là sau 16 năm thực hiện điều lệ học vị, Trung Quốc đã đào tạo được trên 349.600 thạc
sĩ và 27.500 tiến sĩ. Trong năm học 1997 đang có 150 ngàn NCS trong đó có 30 ngàn
NCS làm luận án tiến sĩ. Từ sau năm 1985 Trung Quốc bắt đầu có chế độ đào tạo sau
tiến sĩ theo chương trình tập trung 2 năm [2, tr.224].
Bước vào giai đoạn mới, theo yêu cầu chung của tốc độ phát triển kinh tế xã
hội và đặc biệt là để đón nhận nền kinh tế tri thức mà theo các nhà khoa học sẽ xuất
hiện ở thế kỷ mới, nhiệm vụ đào tạo đại học và sau đại học lại càng được quan tâm hơn
nữa. Chính vì vậy, đến năm 2002 Trung Quốc đã có 728 đơn vị đào tạo NCS, trong đó
có 408 trường đại học, 320 cơ sở nghiên cứu khoa học. Cũng năm 2002 số NCS học tại
các cơ sở đào tạo là 501.000 người trong đó có 108.700 NCS tiến sĩ và 392.300 NCS
thạc sĩ. Ngoài ra, kể từ khi có chế độ đào tạo sau tiến sĩ cho đến năm 2001 là 16 năm
Trung Quốc đã có 14 ngàn tiến sĩ tham gia các khoá đào tạo tập trung 2 năm [2, tr.225].
Có thể nhận thấy rằng tỉ lệ bình quân tăng lên rõ rệt so với một vài năm trước.
Trước đây đối với giáo dục bậc đại học mà nói cơ hội nhập học tương đối thấp bởi
cơ sở giáo dục bậc đại học lúc đó còn nhiều hạn chế thậm chí là thiếu thốn. Từ khi
nước CHND Trung Hoa ra đời tỉ lệ nhập học mới không ngừng nâng cao, chỉ trong
thời gian vài năm số lượng sinh viên nhập học đã tăng lên vượt qua khả năng tiếp
nhận. Đối với đại đa số các nước đang phát triển và các nước phát triển mà nói tăng
cao tỉ lệ nhập học bậc đại học không phải là vấn đề đơn giản. Việc Trung Quốc chỉ
dùng khoảng thời gian vài năm đã giải quyết thành công cũng là một kì tích trong
nền giáo dục đại học. Trung Quốc muốn giáo dục đại học ngày càng phổ cập.
1.2.1.3 Xây dựng đội ngũ giáo viên
Từ thập niên 90 của thế kỉ 20 cho đến nay quy mô đội ngũ giáo viên bậc đại
học tăng tương đối lớn. Căn cứ theo thống kê có liên quan số lượng giáo viên bậc đại
học của Trung Quốc tính đến năm 2005 là gần 950.000 nhưng đến tháng 8 năm 2013
đã đạt gần 2.350.000 người [28]. Trong đó số lượng giáo viên đại học là 2.296.200,

15



số lượng giáo viên các trường đại học dành cho người lớn tuổi là 56.417 người [12].
1.2.1.4 Cải cách phương pháp dạy học, thay đổi hình thức dạy học
Phương pháp dạy học truyền thống là ―dạy đối phó‖. Dạy học theo ―dạy đối
phó‖ là phương pháp dạy một phía, giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh mà
không cần quan tâm học sinh có tiếp thu được hay không. Từ thập niên 90 của thế
kỉ 20 cho đến nay nhà nước đã nhiều lần ban hành những qui chế nhấn mạnh đổi
mới phương pháp dạy học. Mặt khác thực tiễn giảng dạy cũng có rất nhiều giáo viên
sáng tạo phương pháp dạy học mới như kết hợp khéo léo các phương pháp phấn
trắng bảng đen truyền thống với phương pháp dạy Slide, những khái niệm và hình
ảnh không thể biểu đạt trực tiếp bằng phương pháp dạy truyền thống thì phương
pháp dạy Slide sinh động có thể làm được, từ đó tạo được ấn tượng sâu sắc, tính
trực quan, tính tích cực cho học sinh. Có thể nói từ thập niên 90 của thế kỉ 20 đã bắt
đầu mở rộng sử dụng máy tính làm phương tiện trợ giảng. Cho đến năm 2013 máy
tính đã được phổ cập đến hầu hết các trường đai học lớn [12].
Giáo dục bậc đại học đối với giao lưu đối ngoại cũng phát triển nhanh chóng,
con đường giao lưu hợp tác càng ngày càng có nhiều hình thức, quy mô càng ngày
càng lớn, mức độ giao lưu càng ngày càng cao. Từ thập niên 90 của thế kỉ 20 cho
đến nay đã có một lượng lớn giáo viên được cử đi nước ngoài du học và tham gia
các hội nghị quốc tế, bên cạnh đó cũng có nhiều giáo viên của gần 150 quốc gia đến
Trung Quốc du học.
1.2.2 Tình hình giáo dục của Việt Nam
Để đáp ứng yêu cẩu phát triển kinh tế và xã hội trong quá trình đổi mới, từ
những năm 80, 90 của thế kỉ 20 giáo dục đại học Việt Nam đã trải qua những cải
cách rộng lớn. Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6 năm 1991 đã khẳng định 6 nghị
quyết lớn tiếp tục cải cách cơ chế quan lieu bao cấp về căn bản, chuyển biến từ mô
hình tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường, phát triển nhiều hình thức
khác nhau của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường. Trên cơ sở ― Đổi mới tư
duy giáo dục‖ giáo dục đại học, Việt Nam đã đưa ra kế hoạch phát triển, nhấn mạnh


16


giáo dục đại học phải gắn bó mật thiết với nghiên cứu khoa học và lao động sản
xuất; mở rộng quy mô, đa dạng hóa hình thức đào tạo; cải thiện điều kiện học, thực
hiện phân cấp hóa và dân chủ hóa trong quản lí. Từ khi bước vào thế kỉ mới cùng
với việc chính phủ coi trọng giáo dục đại học cao đẳng thì cải cách giáo dục bậc đại
học cũng phát triển sâu và rộng hơn. Chương này tìm hiểu về những biến đổi của
giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn từ thập niên 90 của thế kỉ 20 đến năm 2013
trên những phương diện sau : thể chế giáo dục; mô hình đào tạo; xây dựng đội ngũ
giáo viên và giao lưu đối ngoại.
1.2.2.1 Thể chế giáo dục đại học
Trọng điểm của chính sách cải cách mở cửa Việt Nam năm 1986 chính là sự
nghiệp cải cách giáo dục, giáo dục ngay lập tực được xác định là ―quốc sách hàng
đầu‖. Trong thập niên 90 cải cách thể chế giáo dục đại học với vai trò là trọng tâm
của sự nghiệp cải cách giáo dục với mục tiêu cuối cùng là làm cho giáo dục đại học
Việt Nam phù hợp hơn với nhu cầu phát triển của xã hội và đất nước.
Thứ nhất, hệ thống giáo dục. Từ sau thập niên 90 của thế kỉ 20 hệ thống giáo
dục giáo dục đại học Việt Nam đã có những chuyển biến rất lớn, cụ thể biểu hiện ở
những mặt sau :
Thực thi chế độ phân cấp quản lí tài chính và hành chính; Mặc dù chính phủ
tăng cường đầu tư cho giáo dục nhưng hệ thống giáo dục đại học lại có xu hướng
phổ biến và dân chủ hóa hơn. Thời kì này xuất hiện các trường dân lập, đưa giáo
dục đến gần hơn với xã hội. Phương thức đào tạo cũng đa dạng hóa đến gần hơn
với nền giáo dục thế giới, với mục tiêu cung cấp nhân tài cho thị trường lao động.
Có thể nói hình thức đào tạo giáo dục của Việt Nam rất đa dạng và mức độ xã hội
hóa, dân chủ hóa rất cao. Điều này làm cho quan hệ giữa xã hội và các trường đại
học cao đẳng ngày càng mật thiết, không những thúc đẩy tính công bằng xã hội
trong giáo dục mà còn nâng cao ý thức phục vụ và ý thức chủ thể của các trường.
Ngành giáo dục cũng không ngừng hoàn thiện hệ thống giáo dục đại học, làm


17


phong phú thêm hệ thống giáo dục với phương thức tiêu chuẩn hóa và đa nguyên
hóa, đồng thời kiên trì kết hợp ứng dụng và giáo dục, nghiên cứu khoa học và
giảng dạy với nhau, ưu tiên phát triển giáo dục đại học ở khu vực dân tộc thiểu số
và vùng sâu vùng xa.
Thứ hai, thành lập và củng cố cơ cấu giáo dục đại học. Sau thập niên 90 của
thế kỉ 20 giáo dục đại học Việt Nam đã có những thay đổi rất lớn. Trong đó thể
hiện rõ nét nhất chính là kết hợp những học viện mang tính chất đơn lẻ quy mô
nhỏ lại với nhau thành trường đại học mang tính tổng hợp, ví dụ đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, đại học quốc gia Hà Nội, đại học Huế đều do nhà nước
quản lí. Đây là 3 trường đại học có quy mô lớn nhất hiện nay và cũng là 3 trường
đại học trọng điểm của 3 vùng Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Các trường này trở
thành trung tâm nghiên cứu và giảng dạy lớn ở Việt Nam. Ngoài ra chính phủ Việt
Nam cũng chủ trương chuyển một số trường cao đẳng lên đại học, một số trường
cao dẳng khác thì mở rộng quy mô và chuyên ngành sau đó mới lên đại học, ví dụ :
đại học Hùng Vương ( trước đó là cao đẳng sư phạm Phú Thọ, căn cứ theo nghị
quyết số 81/2003/ĐQ-TTg của chính phủ, thời gian chuyển lên đại học năm 2003),
đại học công nghiệp Hà Nội ( trước đó là cao đẳng công nghiệp Hà Nội, căn cứ
theo nghị quyết số 315/2005/ĐQ-TTg của chính phủ, thời gian chuyển lên đại học
năm 2005), đại học ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh ( trước đó là cao đẳng ngân
hàng thành phố Hồ Chí Minh, cứ theo nghị quyết số 174/2003/ĐQ-TTg của chính
phủ, thời gian chuyển lên đại học năm 2003). Do đó có thể nói hình thức chủ yếu
để mở rộng cơ cấu giáo dục đại học Việt Nam chủ yếu là: nâng cấp cao đẳng lên
đại học, xây dựng cơ cấu giáo dục đại học mới, kết hợp các trường lại thành
trường qui mô lớn hơn.
Như vậy, thông qua cơ cấu lại các trường đại học, củng cố và chuyển đổi làm
cho nền giáo dục đại học Việt Nam từ chỗ phân bố rời rạc đã được giải quyết rất tốt,

đồng thời cũng làm cho các trường cao đẳng đại học phát triển theo hướng tổng hợp.

18


×