Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đảng bộ tỉnh bắc giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn trong những năm 1997 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.51 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ

NGUYỄN TUẤN THÀNH

ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TRONG NHỮNG NĂM 1997 – 2006
Chuyên ngành: Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học
PGS,TS. NGUYỄN ĐÌNH LÊ

Hà Nội – 2009


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền nông nghiệp, nông thôn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế của Quốc gia và được coi là một trong những ngành kinh tế trọng
điểm. Nông nghiệp phục vụ tất cả các mặt của đời sống xã hội, cung cấp
lương thực, thực phẩm, hàng nông lâm, thuỷ sản để chế biến xuất khẩu ... Đặc
biệt làm cho đời sống nông dân phát triển và thay đổi bộ mặt nền nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Mục tiêu kinh tế của Việt Nam là phấn đấu trở thành một nước
CNH, HĐH, chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn coi sản xuất nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu và dành cho nền nông nghiệp những lợi thế đặc biệt


để ưu tiên phát triển.
Sự nghiệp phát triển nông nghiệp tạo nền tảng quan trọng để xây dựng
nông thôn mới và nông nghiệp phát triển trên nhiều mặt. Xuất khẩu lúa gạo
đứng thứ 2 trên thế giới, cà phê đứng thứ 3 trên thế giới ... Những kết quả thu
được đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp ổn định và phát triển nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta, qua đó khẳng định tầm quan trọng của nền sản
xuất nông nghiệp.
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang sau khi đã quán triệt và vận dụng đường lối
sáng tạo của Đảng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về nông nghiệp
trong các năm gần đây. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được
trong việc thực hiện đường lối chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
địa phương còn tồn tại nhiều vấn đề cần tiếp tục giải quyết, nghiên cứu, nhiều
nguồn lực chưa được khai thác sử dụng hiệu quả ...
Bắc Giang thuộc vùng trung du miền núi, diện tích đất nông nghiệp và
diện tích đất rừng tương đối lớn, là tỉnh có tiềm năng phát triển nông nghiệp
1


và lâm nghiệp. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã chú trọng phát triển hai thế mạnh
này, nhưng vẫn tồn tại những khó khăn, yếu kém trong công tác chỉ đạo thực
hiện nên ngành nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
Việc nghiên cứu tình hình sản xuất nông nghiệp, nông thôn của tỉnh
Bắc Giang có ý nghĩa rất lớn, từ việc nghiên cứu rút ra những kinh nghiệm,
bài học thực tiễn để góp phần đẩy mạnh nền sản xuất nông nghiệp, nông thôn
của tỉnh.
Với lý do trên, tôi xin chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo
phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1997 đến năm 2006” làm luận
văn thạc sỹ, chuyên ngành lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và

phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã coi
việc sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Chính vì vậy, đường lối, chủ
trương của Đảng về chỉ đạo sản xuất đã được đề cập trong những công trình:
PTS Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam 1945 - 1975,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
PGS Nguyễn Văn Bích (1994), Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp thành tựu, vấn đề triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Chu Hữu Quý, Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn, nông
nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau 20 năm đổi mới
và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

2


Ở tỉnh Bắc Giang đã có một số công trình nghiên cứu về nông nghiệp,
nông thôn, một số tài liệu nghiên cứu phát triển giống và cây trồng như: tập
thể tác giả Phan Đại Doãn, Đinh Xuân Lâm: Bắc Giang- Những chặng đường
lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia (2005); Nguyễn Quang Ân, Ngô Quang Toản:
Địa chí Bắc Giang, Sở Văn hoá Thông tin Bắc Giang (2006) ; Nguyễn Công
Đồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Lục Ngạn (1998); Trần Văn Đức: Lịch sử Đảng
bộ huyện Sơn Động, Nxb Chính trị quốc gia; Nguyễn Văn Vượng, LATS
nông nghiệp (2006): Nghiên cứu thực trạng sản xuất đặc tính nông sinh học
và một số biện pháp kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất xoài ở tỉnh Bắc
Giang; Hoàng Đăng Huyến, LATS: Nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ, các yếu
tố ảnh hưởng đến bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại Bắc Giang, (2004), Hà
Nội…
Nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng quát và
chuyên sâu về tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Bắc Giang

trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ đề tài.
* Mục đích
Góp phần tình hiểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã vận dụng đường lối
phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng vào phát triển nông nghiệp, nông
thôn của tỉnh trong những năm 1997 - 2006.
Rút ra những thành tựu và một số bài học kinh nghiệm trong quá trình
phát triển nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Giang.
* Nhiệm vụ
Phân tích, đánh giá kết quả phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh
Bắc Giang 1997 - 2006. Từ đó rút ra những kinh nghiệm để phát triển nông
nghiệp, nông thôn ở giai đoạn sau.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng là quá trình chỉ đạo xây dựng nông nghiệp, nông thôn giai
đoạn 1997 - 2006 của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu từ năm 1997 đến năm 2006
(năm 1997 là năm tỉnh Bắc Giang tái lập đến 2006 Đảng bộ tỉnh tổng kết,
đánh giá tình hình sản xuất nông nghiệp, nông thôn).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và những quan điểm của Đảng về xây dựng nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp logic, phương pháp so sánh, thống kê là chủ yếu. Ngoài ra còn
sử dụng phương pháp biện chứng, điều tra chọn mẫu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã góp phần khái quát lại tình hình nông nghiệp, nông thôn

của tỉnh Bắc Giang trước năm 1997, khi tỉnh chưa được tái lập. Bên cạnh đó
còn hệ thống quá trình chỉ đạo xây dựng nông nghiệp, nông thôn của Đảng bộ
Bắc Giang.Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh. Đồng thời luận văn còn cung cấp tư liệu cho việc
nghiên cứu và giảng dạy lịch sử Đảng bộ địa phương trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Đặc điểm, tình hình nông nghiệp, nông thôn Bắc Giang
trước năm 1997
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo nông nghiệp, nông thôn
giai đoạn 1997 - 2006
Chương 3: Một số hạn chế chính trong phát triển nông nghiệp – nông
thôn và kinh nghiệm lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng bộ
Bắc Giang
4


Ch-¬ng 1
ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN BẮC GIANG TRƯỚC NĂM 1997
1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là một miền đất cổ, có truyền thống lịch sử gắn bó cùng với
cả nước trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Kể từ khi Thục Phán
sáng lập nước Âu Lạc, kế tục nước Văn Lang của Vua Hùng, vùng đất này đã
xuất hiện trên bản đồ đất nước. Qua các thời kỳ lịch sử, tỉnh Bắc Giang ngày
nay đã có nhiều tên gọi và địa giới hành chính khác nhau. Do yêu cầu của lịch
sử cũng như về kinh tế - xã hội, tỉnh Bắc Giang đã trải qua nhiều lần sáp nhập
và chia tách với Bắc Ninh. Năm 1962, theo quyết định của Quốc hội nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh được sáp nhập

thành tỉnh Hà Bắc, tỉnh lỵ đóng ở thị xã Bắc Giang. Đến Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Hà Bắc (khoá IX), kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá IX (tháng
4/1996 tới tháng 11/1996) đã quyết định chia tỉnh Hà Bắc thành 2 tỉnh Bắc
Giang và Bắc Ninh. Như vậy, sau gần 34 năm hợp nhất tỉnh Bắc Giang được
tái lập lại và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997, mở ra một giai
đoạn mới trong quá trình phát triển của tỉnh.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi có diện tích là 3.822 km2 với dân số
(năm 2005) là 1.563,9 nghìn người, đứng thứ 33 về diện tích và thứ 15 về dân
số trong 63 tỉnh, thành phố cả nước. Tỉnh Bắc Giang có 9 huyện và 1 thành
phố. Phía Bắc và Đông Bắc giáp với Lạng Sơn; phía Tây và Tây Bắc giáp với
Thái Nguyên; phía Nam và Tây Nam giáp Hải Dương, Bắc Ninh và thành phố
Hà Nội; phía Đông giáp Quảng Ninh.
Bắc Giang có một số trục giao thông quan trọng của quốc gia chạy qua
như đường quốc lộ 1A, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn… và nằm không xa các
5


trung tâm công nghiệp, đô thị lớn của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Thành
phố Bắc Giang cách thủ đô Hà Nội khoảng 50km và cách cửa khẩu quốc tế
Đồng Đăng, Tân Thanh khoảng 90 – 100km.
Vị trí địa lý đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Bắc Giang trong phát
triển kinh tế liên vùng, giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng, các tỉnh Đông bắc Việt Nam và với các tỉnh của Trung Quốc.
Cũng nhờ vị trí địa lý đó, Bắc Giang có thể phát huy lợi thế sẵn có của một
tỉnh nhiều tiềm năng về đất, rừng và nguồn lực con người, đưa lãnh thổ này
trở thành một đầu mối kinh tế quan trọng nối khu kinh tế cửa khẩu quốc tế
Đồng Đăng, Lạng Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh ở Đông
bắc nước ta.
Địa hình Bắc Giang khá độc đáo, là tụ điểm cuối cùng của các cánh
cung Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn, Đông Triều và cũng là khởi điểm trong

“dải đất chuyển tiếp bắc Châu thổ” [32, tr.125]. Phía Đông nghiêng 300 –
500m, vùng núi phía Tây bắc (phía Bắc huyện Yên Thế) là chân của đồi núi
thuộc địa phận Thái Nguyên đã thoải dần xuống phía Nam. Khu vực này
không có núi cao như phía Đông của tỉnh mà hầu hết là những đồi tròn có độ
cao từ 100 – 200m, thấp dần xuống phía nam thành miền núi thấp trung du
của Bắc Giang với độ dốc phổ biến dưới 50m. Vùng trung du chủ yếu là đồi
thấp xen kẽ với đồng bằng có độ cao trung bình dưới 100m gồm thành phố
Bắc Giang, một phần huyện Hiệp Hoà, Việt Yên, Tân Yên bị cắt xẻ. Đây là
khu vực thuận lợi để phát triển cây ăn quả cũng như các cây lâu năm. Vùng
đồng bằng phù sa cổ ven sông Cầu, sông Thương… thuộc địa phận các huyện
Việt Yên, Tân Yên, Hiệp Hoà, Yên Dũng, Lạng Giang không chỉ là địa bàn
của cây lúa mà còn là nơi thuận lợi cho việc trồng một số cây ăn quả mũi
nhọn của tỉnh. Như vậy, địa hình đa dạng đã tạo điều kiện để Bắc Giang
6


phát triển nông lâm nghiệp theo hướng đa dạng hoá với nhiều cây trồng,
vật nuôi có giá trị hàng hoá phong phú, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khí hậu Bắc Giang cũng mang những đặc trưng chuyển tiếp, vừa có
tính chất nhiệt đới nóng ẩm, vừa có tính chất á nhiệt đới. Nhiệt độ bình quân
hàng năm là 23oC, lượng mưa trung bình là 1.500 – 1.700mm, đáp ứng nhu
cầu trồng trọt nhiều vụ trong năm. Bắc Giang nằm sâu trong đất liền nên
những cơn bão và áp thấp nhiệt đới từ biển Đông chuyển vào đã bị núi rừng
chặn bớt, ít gây tác hại. Như vậy, cùng với địa hình, khí hậu Bắc Giang đã tạo
ra nhiều thuận lợi cho một nền kinh tế nông nghiệp đa dạng về cơ cấu cây
trồng và vật nuôi.
Bắc Giang còn có nguồn tài nguyên đất đai lớn với hai nhóm đất chính
là nhóm phát sinh tại chỗ do quá trình phong hoá hình thành và nhóm đất bồi
tích do quá trình bồi tụ phù sa hình thành. Đất feralit màu vàng, đỏ vàng thuộc
vùng gò đồi phát triển trên đá phiến sét, phiến sa và biến chất. Loại đất này

phân bố chủ yếu ở các huyện Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế rất
thích hợp với cây công nghiệp (chè), cây ăn quả (vải thiều, nhãn, na, cam…).
Đất phù sa cổ phân bố ở Sơn Động, Yên Thế, phù hợp với việc canh tác cây
lương thực, thực phẩm. Ngoài ra, ở tỉnh Bắc Giang diện tích đất đai chưa sử
dụng còn rất lớn, khoảng 80 – 90 nghìn ha, trong đó đất có khả năng nông
nghiệp khoảng 4,2 nghìn ha, đất có khả năng lâm nghiệp khoảng 70,5 nghìn
ha còn lại đất cho các mục đích khác (công nghiệp, du lịch, xây dựng đô thị).
Về mặt xã hội, Bắc Giang là nơi hội tụ của cư dân gần 20 tỉnh thành
trong cả nước với nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, dân tộc
Kinh chiếm đa số, khoảng 87,9% còn lại là dân tộc Nùng, Tày, Sán chỉ, Cao
Lan, Dao, Hoa... Người Kinh sống tập trung ở các huyện trung du. Các dân
tộc thiểu số sống chủ yếu ở các huyện miền núi. Người Sán Dìu tập trung ở
7


Lục Nam, Lục Ngạn; người Cao Lan – Sán Chí ở Lục Ngạn, Sơn Động, Yên
Thế, người Dao rải rác ở các huyện miền núi. Nhiều nơi, đồng bào xen canh
xen cư trong từng cộng đồng làng bản.
Người Bắc Giang có cuộc sống tinh thần phong phú, đa dạng: hát quan
họ cổ ở Việt Yên, hát ví hát chèo phổ biến trong tỉnh. Đồng bào dân tộc thiểu
số có dân ca riêng của mình như hát soong hao, sli, lượn, soong cô… Vào dịp
sang xuân hoặc lập thu, có rất nhiều lễ hội được tổ chức: hội đền Hả (Lục
Ngạn), hội chùa Bổ Đà, hội nghè Nếnh (Việt Yên), hội Đa Mai (thành phố
Bắc Giang)… Lễ hội dân gian gắn liền với tục cầu mưa, cầu mùa màng tươi
tốt, cầu cuộc sống bình yên. Lễ hội có phần lễ gắn với liền với cúng tế thần
linh, phần hội có rước kiệu, vật, bơi chải, chạy chữ… Niềm cộng cảm của
làng quê trong ngày hội được nâng cao, cá nhân và cộng đồng, địa phương và
khu vực hoà nhập vào nhau vừa thế tục vừa thiêng liêng, góp phần gắn kết
cộng đồng làng và liên làng.
Làng quê Bắc Giang có tục kết chạ - một liên làng đặc biệt, tạo thế liên

kết các làng cùng nhau chia sẻ niềm vui, giao lưu văn hoá, giúp đỡ lẫn nhau
khi gặp khó khăn hoạn nạn [37, tr.22]. Ở các làng quê thường có đình, đền,
chùa, là nơi sinh hoạt của cộng đồng thôn xóm để bàn luận việc nước, việc
làng và để tiến hành lễ hội. Tuy nhiều đình, chùa, đền miếu nhưng con người
Bắc Giang không mang tính thần bí mà đậm đà tính nhân văn thấm sâu trong
từng câu ví, điệu chèo, trong các hình tượng điêu khắc.
Tốc độ tăng dân số của Bắc Giang trong mấy thập kỷ qua khá cao, từ
khoảng 2% đến 3% [37, tr.23]. Vào thập kỷ 90, công tác dân số và kế hoạch
hoá gia đình được đẩy mạnh nên tỷ lệ phát triển dân số đã được hạ xuống còn
1,60% (năm 1997). Trong cơ cấu Bắc Giang, dân số nông thôn chiếm tỷ lệ

8


hơn 80%. Trong thập kỷ 90, cơ cấu dân số đang có những chuyển biến theo
sự chuyển dịch của cơ cấu theo hướng CNH, HĐH.
Kết cấu dân cư nhiều thành phần dân tộc đã tạo cho Bắc Giang có một
truyền thống văn hoá vừa phong phú vừa đa dạng, đặc biệt là trong truyền
thống, phong tục canh tác khiến cho nông nghiệp Bắc Giang mang nhiều màu
sắc, phong thái hơn.
Như vậy, với những đặc điểm về tự nhiên và xã hội, Bắc Giang đã có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp đa dạng và phong phú.
Trên thực tế, nông nghiệp của Bắc Giang có một vị trí quan trọng đối với kinh
tế cả nước nói chung và kinh tế Bắc Giang nói riêng. Đặc biệt là từ khi tái lập
tỉnh cho tới nay, nền kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực, mở ra
một thời kỳ phát triển mới của tỉnh Bắc Giang.
1.2 Chủ trương xây dựng nông nghiệp, nông thôn của Đảng bộ
Bắc Giang và những thành tựu nông nghiệp trước năm 1997
1.2.1 Thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1986
Sau thắng lợi mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải

phóng, đất nước độc lập thống nhất và đi lên chủ nghĩ xã hội. Nghị quyết lần
thứ 24 của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá III) chỉ rõ nhiệm vụ của
cách mạng nước ta lúc này là: “Với thắng lợi rực rỡ của mùa xuân năm 1975,
cách mạng Việt Nam đã chuyển sang hoà bình, từ một nửa nước bị chủ nghĩa
thực dân mới chia cắt và thống trị, sang cả nước độc lập thống nhất, từ hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa sang một nhiệm vụ chiến lược là làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước”. Thực hiện theo chủ
trương của quyết định, Đảng bộ tỉnh Hà Bắc đã tiến hành liên tiếp các đại
hội: Đại hội đại biểu lần thứ III (tháng 6/1976), Đại hội đại biểu lần thứ IV
9


(tháng 11/1979) để đề ra những mục tiêu, phương hướng cho kinh tế toàn
tỉnh, cùng quân dân cả nước thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai và chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 -1980), cấp
uỷ Đảng và chính quyền các cấp đã tập trung nhiều công sức xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đến năm 1978, gần 50% số hợp
tác xã nông nghiệp của tỉnh có quy mô toàn xã. Nhiều hợp tác xã có máy
động lực, máy công tác và trong nhiều hợp tác xã đã thực hiện chế độ quản lý
tổ chức sản xuất đạt kết quả cao. Trong toàn tỉnh đã có nhiều hợp tác xã nông
nghiệp xây dựng được quỹ dự trữ để giải quyết khó khăn cho xã viên khi gặp
thiên tai, khi giáp hạt. Nhiều hợp tác xã trở thành hợp tác xã tiêu biểu với
phong trào làm ăn tập thể như: hợp tác xã nông nghiệp Tân Mộc (Lục Ngạn),
Cảnh Thuỵ (Yên Dũng) và Ngọc Thiện (Tân Yên).
Trong 5 năm 1976 - 1980 tỉnh Bắc Giang thực hiện 7 chiến dịch làm
thuỷ lợi, cải tạo đất đạt hiệu quả tốt. Nhiều công trình thuỷ lợi lớn như
Cầu Sơn, Quang Hiển, Bảo Sơn, Đồng Thuỷ ... đã được xây dựng. Các
hợp tác xã nông nghiệp được củng cố và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào

sản xuất. Do đó, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn song sản xuất nông
nghiệp tỉnh Bắc Giang vẫn đạt được những thành tựu đáng kể.
Tuy nhiên, mô hình tổ chức và quản lý kinh tế nông nghiệp cùng với cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp ở cả tầm vĩ mô và vi mô đã triệt tiêu tính tích
cực, chủ động của người lao động, của hộ gia đình và của bản thân các hợp
tác xã, các nông trường quốc doanh, làm mất động lực của sự phát triển. Do
đó, những năm cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỷ XIX, nền
kinh tế miền Bắc cũng như cả nước đã bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu khủng
hoảng. Nền kinh tế đất nước nói chung, Bắc Giang nói riêng, đặc biệt là kinh

10


tế nông nghiệp - nông thôn đòi hỏi cần phải có sự thay đổi trong cơ chế quản
lý. Chính vì vậy, ở kế hoạch 5 năm tiếp theo, Đảng ta đã có những đổi mới
cục bộ trong cơ chế quản lý trong nông nghiệp: chỉ thị 100CT/TW của Ban bí
thư Trung ương (1979) và Nghị quyết số 10 “về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp” (hay còn gọi là khoán 10 năm 1988). Hai hình thức khoán mới của
Đảng đã tạo ra một bước phát triển mới trong sản xuất nông nghiệp do cơ chế
quản lý trong các hợp tác xã được nới lỏng, ruộng đất được khoán tới từng hộ
gia đình xã viên, người nông dân tự chủ hơn trong sản xuất.
Bắc Giang là một trong những tỉnh đi đầu trong việc thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng. Nếu như tháng 1/1981 Ban bí thư Trung ương đã
ban chỉ thị 100CT/TW, chính thức quyết định chủ trương thực hiện cơ chế
khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động thì cũng ngay trong
năm đó, các hợp tác xã nông nghiệp Bắc Giang đã tiến hành giao đất; giao
rừng; giao sức kéo cho xã viên; tập thể chỉ tập trung làm nhiệm vụ điều
hành các khâu: làm đất, thuỷ lợi, bảo vệ cây trồng, vật nuôi và quản lý sản
phẩm theo mức khoán. Từ đó, sức sản xuất được giải phóng, tư liệu sản
xuất được sử dụng có hiệu quả hơn, kinh tế hộ gia đình chuyển biến tiến

bộ, kinh tế nông nghiệp có những bước phát triển nhất định.
Như vậy, khoán 100 đã tạo ra một bước đột phát trong sản xuất nông
nghiệp, phần nào khắc phục được những hạn chế trong cơ chế quản lý tập
trung trước đây. Song cơ chế khoán sản phẩm theo tinh thần của chị thị
100CT/TW vẫn còn thực hiện trên cơ sở sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và
nhiều yếu tố của cơ chế quản lý cũ, hợp tác xã vẫn là đơn vị sản xuất kinh
doanh chủ yếu nên sau một thời gian phát huy tác dụng tích cực, cơ chế khoán
100 đã bộc lộ những nhược điểm, hạn chế của nó. Yêu cầu về một công cuộc
đổi mới thực sự ngày càng trở nên cấp thiết.

11


1.2.2 Thời kỳ thực hiện đổi mới từ 1986 tới 1997
Thời kỳ này Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc
 Đường lối đổi mới của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam là một nước nông nghiệp, phần lớn dân số là nông dân sống
ở nông thôn. Vì vậy lãnh đạo nông dân cũng chủ yếu là phát triển sản xuất
nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nước
ta là môt nước nông nghiệp, muốn phát triển công nghiệp cũng như phát triển
kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”
[27, tr.14]. Theo Người, “Nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và
nguyên liệu, đồng thời là một nguồn xuất khẩu quan trọng; nông thôn là thị
trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải cải tạo và phát triển nông
nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác. Phải cải tạo và
phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác. Phải cải
tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước
nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát
triển mạnh” [26, tr.14-15].
Lãnh đạo nông dân, phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông

thôn luôn là nhiệm vụ trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử.
Mười năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, sản xuất nông
nghiệp và xã hội nông thôn Việt Nam đã có những chuyển biến quan trọng,
nhất là sau khi có chỉ thị số 100CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng
(khoá IV). Nhưng do những sai lầm chủ quan, duy ý chí và sự trì trệ của cơ
chế quản lý quan liêu, bao cấp kéo dài, làm cho sản xuất nông nghiệp cũng
như các lĩnh vực khác đã lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trước
nhu cầu bức xúc của đời sống xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước mà
12


trước hết là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Đại hội nhấn mạnh: “Muốn
đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát
sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý” [13, tr.47], Đại hội chỉ
rõ: “Nhiệm vụ trước mắt của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên
(1986 - 1990) là phải tập trung sức người, sức của thực hiện cho được 3
chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu”[13, tr.48]. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục được coi là mặt trận hàng
đầu, vì vậy cũng phải được đổi mới từ nhận thức đến cơ chế, từ chính sách
đến điều hành, làm cho sản xuất nông nghiệp vận hành đúng quy luật khách
quan, đưa nông nghiệp từ tình trạng tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá,
phải đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn, nhằm yêu cầu
chủ yếu là tăng nhanh khối lượng và tỷ trọng hàng hoá nông sản. Nông
nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật, về vật tư, về lao động kỹ thuật; những nguồn đầu tư phải
được sử dụng có hiệu quả. Đầu tư cho nông nghiệp phải đồng bộ từ sản xuất
đến chế biến vận chuyển, bảo quản để có nhiều sản phẩm cuối cùng. Đảng ta
cho rằng: “Củng cố, tăng cường kinh tế tập thể trên cả 2 mặt: nâng cao trình

độ tổ chức quản lý và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đi đôi với việc thực
hiện quan hệ trao đổi, liên kết kinh tế quốc doanh, kinh tế gia đình trước hết là
việc cung ứng vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm. Điều quan trọng nhất
hiện nay là một mặt phải cải tiến, nâng cao trình độ quản lý của hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất, mặt khác phải từng bước hoàn thiện phương thức khoán
sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, tích cực xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế Nhà nước, kinh tế quốc
doanh và hợp tác xã nông nghiệp. Phát huy vai trò chủ động trong sản xuất
kinh doanh của hợp tác xã nông nghiệp” [13, tr.52].
13


Năm 1987, ngay sau khi tiến hành Đại hội VI, Đảng và Nhà nước đã
ban hành nhiều văn kiện quan trọng nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách
đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã liên tiếp họp bàn về những giải pháp cho vấn đề phân phối, lưu động.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (Khoá VI) tháng 4/1987, Hội nghị Trung
ương lần thứ 3 (Khoá VI) tháng 8/1987, tiếp tục khẳng định Nghị quyết của
Đại hội VI của Đảng và đưa ra định hướng cho một số chính sách đổi mới về
ruộng đất. Ban chấp hành Trung ương Đảng còn chỉ ra những quy định về giá
cả và lưu thông hàng hoá; thực hiện chính sách thu mua nông sản theo giá
thoả thuận đã ban hành từ trước, phấn đấu thực hiện cơ chế một giá.
Đầu năm 1988, Quốc hội thông qua Luật đất đai, đánh dấu một bước
phát triển mới trong sản xuất nông nghiệp. Nhà nước giao quyền sử dụng
ruộng đất ổn định, lâu dài cho các đơn vị và hộ xã viên, cho phép hộ xã viên
có quyền chuyển nhượng, sang bán thành quả lao động và kết quả đầu tư trên
mảnh đất đã giao khoán; nghiêm cấm việc mua bán ruộng đất trái phép.
Nghị quyết của Đại hội VI đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, khuyến
khích người nông dân đã đổi mới cách nghĩ, cách làm cho phù hợp với yêu

cầu phát triển sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường. Chính đường
lối đổi mới của Đảng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã khuyến
khích, tạo điệu kiện cho sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Đã cụ thể hoá nội dung đổi mới trong nông nghiệp theo Nghị quyết Đại
hội VI của Đảng, ngày 5/4/1988 Bộ chính trị (khoá VI) ra Nghị quyết
10NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Quan điểm cơ bản của
Đảng về quản lý nông nghiệp là coi Hợp tác xã như đơn vị kinh tế tự quản,
hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán với Hợp tác xã. Nghị
quyết 10 chỉ rõ: Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm khắc phục các
14


nhược điểm, sai lầm trong các chính sách lớn đối với nông nghiệp và phải đạt
yêu cầu:
- Thực sự giải phóng sức sản xuất; gắn sắp xếp, tổ chức lại sản xuất với cải
tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đưa tiến bộ khoa học
vào sản xuất nông nghiệp. Phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế.
- Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích, nhất là bảo đảm lợi
ích chính đáng của người sản xuất, trước hết là đối với người trồng lúa ...
- Mở rộng dân chủ, đề cao pháp chế, xây dựng nông thôn mới XHCN
- Đổi mới về tổ chức và cán bộ phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ chế
quản lý mới.
Nghị quyết 10NQ/TW đã thể hiện sự chuyển biến căn bản, rõ nét nhất
của tư duy kinh tế, đổi mới chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông
thôn. Từ đây sản xuất nông nghiệp và đời sống của nông dân có những thay
đổi rõ rệt: người nông dân do tác động của cơ chế mới đã gắn bó với quá trình
sản xuất, chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của mình.
Tháng 3/1989, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khoá VI)

đã khẳng định những chuyển biến rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp từ khi thực
hiện Nghị quyết 10. Hội nghị bổ sung làm rõ thêm tư tưởng đổi mới ở 3 quan
điểm lớn:
- Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự động góp vốn,
góp sức và được quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân biệt quy mô,
trình độ kỹ thuật, mức độ tập thể hoá là Hợp tác xã.
- Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất là đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ, ngoài việc
nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng với Hợp tác xã, còn
15


chủ động phát triển sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức, khuyến khích
xã viên làm giàu, đồng thời có chính sách, biện pháp cụ thể để giúp các hộ
nghèo túng có thêm điều kiện để vươn lên làm ăn tốt.
Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) còn chỉ rõ, những phương hướng và
cụ thể hoá đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm kiên quyết xoá
bỏ bao cấp, xác lập đầy đủ chế độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các
đơn vị kinh tế, xoá bỏ độc quyền trong kinh doanh, tạo môi trường và hành
lang pháp lý cho các đơn vị sản xuất kinh doanh năng động.
Như vậy, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Nghị quyết Trung ương lần
thứ 6 (khoá VI) đã có sự điều chỉnh lớn trong đường lối, chính sách phát triển
nông nghiệp và cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp. Những vấn đề cơ bản
trong đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã được xác định, trong đó mũi đột
phá vào khâu quyết định nhất là sở hữu tập thể. Từ đó xác định rõ vai trò, vị
trí của kinh tế hộ nông dân, coi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, tạo điều
kiện phát triển kinh tế hộ nông dân; hình thành nhận thức đúng đắn về kinh tế
hợp tác, mở ra các mối quan hệ mới giữa kinh tế hộ nông dân tự chủ với Hợp
tác xã; các đơn vị kinh tế quốc doanh, kinh tế tư nhân cũng tồn tại và phát

triển thống nhất trong nền kinh tế thị trường. Mặt quan trọng nữa là đổi mới
chính sách vĩ mô của Nhà nước, tạo tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh, lưu thông trao đổi. Những vấn đề cơ bản trên đây, đặc biệt là nhận
thức đúng đắn về kinh tế hợp tác, về vị trí, vai trò kinh tế hộ tạo ra động lực
to lớn trong nông thôn. Nông nghiệp, nông thôn tìm lại chỗ đứng của mình để
phát triển trong xu thế đổi mới.
Tháng 6/ 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng được
triệu tập. Đánh giá tổng quát thành tựu đổi mới, Đại hội nêu rõ, sau hơn 4
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công cuộc đổi mới đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng. Thành tựu nổi bật là tình hình chính trị của
16


nước ta ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực song đất nước ta
vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, công cuộc đổi mới còn
những mặt hạn chế, những vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải
quyết ... Đại hội xác định mục tiêu tổng quát trong 5 năm (1991 - 1995) là
phải đưa đất nước ta cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đại hội vẫn tiếp tục xem nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đại hội VII thông qua văn kiện quan trọng
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh nêu rõ: “phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn
định tình hình kinh tế - xã hội” [14, tr.12].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chủ trương tiếp tục
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tiếp tục đổi mới quản lý
kinh tế và khẳng định: “Để phát huy và kế hợp sức mạnh của tập thể và của
xã viên trong các hợp tác xã nông nghiệp, chúng ta chủ trương các hộ xã viên
là những đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời tăng cường vai trò của ban quản trị
hợp tác xã trong việc quản lý, điều hành sản xuất và tổ chức dịch vụ ở những

khâu và lĩnh vực mà hộ xã viên không có điều kiện làm hoặc làm không hiệu
quả bằng tập thể. Cùng với chính quyền và các đoàn thể, hợp tác xã góp phần
thực hiện các chính sách xã hội và xây dựng nông thôn mới” [16, tr. 111].
Tháng 6/ 1993, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VII), đã ra Nghị quyết về Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn. Trung ương đã đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước
ta, xác định mục tiêu, quan điểm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn từ năm 1993 đến năm 2000 đồng thời đề ra phương hướng và giải pháp
cụ thể để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội nông thôn, xây dựng nông
thôn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
17


Về mục tiêu, Nghị quyết ghi rõ: Một là, phát triển nhanh, vững chắc
nông - lâm - ngư, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn,
nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh để thu hút đại bộ phận lao động
dư thừa, tăng năng suất lao động, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực
thực phẩm; đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp và tăng nhanh kim
ngạch xuất khẩu, bảo vệ môi trường sinh thái. Hai là, cải thiện một bước đười
sống văn hoá của nông dân, tăng diện giàu và đủ ăn, xoá đói giảm nghèo. Ba
là, xây dựng nông thôn mới.
Trên cơ sở xác định các quan điểm phát triển kinh tế xã hội nông thôn
trong thời kỳ mới, Hội nghị đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn, thể hiện trên những điểm chủ yếu là: Đổi mới cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng coi trọng đúng mực sản xuất lương thực; tăng
nhanh sản lượng, năng suất, nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến lương
thực. Tăng tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản phẩm nông nghiệp. Thâm canh
mở rộng diện tích một số cây công nghiệp, mở rộng phát triển cây ăn quá và
xây dựng thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn ... Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc có hiệu quả công nghiệp

- dịch vụ nông thôn. Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, xây
dựng những cơ sở thiết yếu phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn
(tăng nhanh tỷ trọng của những ngành này trong cơ cấu công - nông - dịch
vụ). Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trên cơ sở tiếp tục phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ mà đổi mới
hình thức, nội dung kinh doanh và cơ chế hoạt động của Hợp tác xã. Đổi mới
doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh doanh và làm tốt chức năng
chủ đạo về vốn, khoa học công nghệ, thị trường, khuyến khích phát triển kinh

18


tế cá thể, kinh tế tư nhân trong công nghiệp nông thôn. Thực hiện chính sách
giao quyền tự chủ ruộng đất cho nông dân...
Nghị quyết Trung ương 5 là một bước phát triển mới về đường lối đổi
mới trong nông nghiệp. Đảng ta đã đưa ra một hệ thống quan điểm đồng bộ
về ba vấn đề lớn: nông nghiệp, nông thôn và nông dân; gắn phát triển sản xuất
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới với nâng cao đời sống của nông dân.
Trong đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế hộ, phát triển một
bước quan điểm về kinh tế hợp tác, chính sách kinh tế nhiều thành phần;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH; giải quyết
vấn đề công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo ... Trong đó, nổi bật là sự đổi
mới về chính sách ruộng đất, điều này tác động đến nhiều vấn đề kinh tế xã
hội nông thôn trong quá trình đổi mới.
Từ sau Nghị quyết Trung ương 5, các Nghị quyết của Đảng tiếp tục
được phát triển, bổ sung thêm đường lối đổi mới nông nghiệp, nông thôn.
Đường lối đổi mới của Đảng được hoạch định, phát triển ở Đại hội VI, VII,
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ và các Hội nghị Trung ương
thực sự có tác dụng tháo gỡ những cản trở, trì trệ của cơ chế cũ và mở ra

hướng phát triển mới cho nông nghiệp, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn cho cả nước nói chung và cho nông nghiệp tỉnh Hà Bắc, Bắc
Giang nói riêng.
 Đảng bộ Hà Bắc lãnh đạo nông dân thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn
Theo chủ trương của Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Nghị quyết Trung
ương lần thứ 6 (Khoá VI), Nghị quyết Trung ương 5 của Trung ương Đảng,
Đảng bộ tỉnh Hà Bắc đã nhanh chóng có những Quyết định quan trọng nhằm
thực hiện đổi mới nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
19


Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp Tỉnh uỷ và Uỷ ban Nhân dân Hà Bắc đã ra Quyết định số 678
cùng với Luật đất đai năm 1993 về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Tỉnh uỷ Hà Bắc đã tiến hành giao đất nông nghiệp cho hộ nông dân sử
dụng ổn định lâu dài. Đồng thời, tỉnh còn khuyến khích mạnh mẽ các hộ
nông dân nhận đất trống đồi núi trọc, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa để
thực hiện trồng rừng. Thậm chí, những cá nhân và tổ chức ngoài tỉnh có đủ
điều kiện, tự nguyện đến nhận đất trống đồi núi trọc để đầu tư khai thác
cũng được giao đất để phát triển kinh tế bằng những hình thức như kinh tế
tự chủ, nông trại gia đình hoặc trang trại.
Để triển khai Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Đảng bộ tỉnh Hà Bắc đã
ra quyết định 63 -64 với nội dung: chia đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho
các hộ nông dân. Với quyết định này, người nông dân đã tự chủ hơn trong sản
xuất, mạnh dạn áp dụng khoa học - kinh tế vì thế mà năng suất gieo trồng tăng
cao, sản lượng lương thực tăng nhanh. Từ năm 1986 đến năm 1996, tổng sản
lượng lương thực quy thóc tăng từ 306 nghìn tấn lên 455,4 nghìn tấn, bình
quân lương thực đầu người tăng từ 270,4kg năm 1986 lên 314 kg năm 1996.

Sản lượng các cây công nghiệp cũng tăng cao: sản lượng lạc vỏ năm 1986 đạt
5.632 tấn, năm 1995 đạt 7.478 tấn; sản lượng đỗ tương từ 4.530 tấn năm 1986
tăng lên 5.974 tấn năm 1995 [3, tr.26].
Trong sản xuất lâm nghiệp, việc giao đất khoán rừng tới từng hộ gia
đình đã mang lại nhiều thanh đổi đối với công tác bảo vệ rừng. Việc trồng cây
gây rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, việc chăm sóc, bảo vệ rừng, bảo vệ
cây mới trồng đạt kết quả tốt. Trong những năm 1986 - 1990, diện tích rừng
bị cháy giảm 85%; diện tích rừng bị phá giảm 35%. Bên cạnh đó, cán bộ tỉnh
còn hướng dẫn tổ chức nông dân thực hiện các dự án của của Nhà nước và
20


các dự án 327, dự án PAM, dự án đầu tư của các nước Ôxtrâylia, dự án Đức,
dự án của Hoàng Gia Thái Lan. Vì thế, diện tích trồng rừng ngày càng tăng:
năm 1995 là 5.575 ha, đến năm 1996 đạt 4.613 ha, trong đó trồng rừng theo
dự án 327 năm 1995 đạt 3.510 ha, năm 1996 đạt 2.891ha [37, tr.42].
Một trong những thế mạnh của tỉnh cũng được Đảng quan tâm phát
huy, đẩy mạnh phát triển là cây ăn quả. Các cấp uỷ từ tỉnh tới cơ sở đã tập
trung chỉ đạo việc trồng các loại cây ăn quả như: vải thiều, na dai, hồng, dứa
... và bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Bà con nông dân trong
tỉnh hưởng ứng mạnh mẽ chủ trương đó nên diện tích và sản lượng cây ăn
quả không ngừng tăng nhanh. Đến năm 1996, toàn tỉnh đã trồng được
13.000 ha cây ăn quả, trong đó có trên 8.000 ha cây vải thiều với sản
lượng hàng năm đạt trên 5.00 tấn quả tươi, tạo thành vùng chuyên canh
cây ăn quả có giá trị. Cho tới nay, cây vải vẫn giữ được vị trí, vai trò của
mình đối với nền kinh tế nông nghiệp của cả tỉnh. Hà Bắc trở thàng tỉnh
đứng đầu về sản lượng cũng như chất lượng vải của cả nước [41, tr.67].
Cùng với sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế ở nông
thôn cũng đã có bước chuyển đổi, bước đầu hình thành các vùng sản xuất
hàng hoá tập trung. Lượng hàng hoá nông lâm sản ngày càng lớn nên nhiều

cơ sở chế biến được hình thành như: chế biến quả vải thiều, chế biến lợn sữa
đông lạnh xuất khẩu ... Các loại hình dịch vụ của quốc doanh, tập thể, tư nhân
hoạt động phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp cũng phát triển.
Như vậy, so với thời kỳ Khoán 100, giai đoạn này vai trò tự chủ của hộ
nông dân đã được khẳng định và được xác lập trên thực tế. Trên cơ sở đó,
kinh tế nông hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, mô hình hợp tác hoá - tập thể
hoá tư liệu sản xuất không còn cơ sở để tồn tại. Tuy nhiên, những thành tựu
trên mới chỉ là bước đầu, từ thực tế lại nảy sinh những mâu thuẫn mới cần
giải quyết. Cũng giống như hầu hết các tỉnh khác trong cả nước, mâu thuẫn
21


trong quan hệ ruộng đất ở nông thôn Hà Bắc vẫn tồn tại. Cách khoán theo
Nghị quyết 10 đã dẫn tới việc chia nhỏ quỹ đất ở nông thôn, mâu thuẫn với
yêu cầu tích tụ và tập trung rộng đất theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá.
Chính sách chi quân bình về ruộng đất đảm bảo được công bằng về xã
hội nhưng với quy mô ruộng đất của các hộ nông dân sau Khoán 10 thì chỉ có
thể tiếp tục khuynh hướng tự cung tự cấp. Nhiều hộ gia đình có tới 17 mảnh
ruộng, thậm chí lên tới 30 mảnh. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng
manh mún, nhỏ lẻ của ruộng đất trong các tỉnh miền Bắc nói chung và Hà Bắc nói
riêng. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới năng suất lương thực - thực phẩm do việc áp
dụng cơ giới hoá ở những mảnh ruộng nhỏ như vậy gặp rất nhiều khó khăn.
Cùng với mâu thuẫn về vấn đề ruộng đất, vấn đề phân công lại lao động ở
nông thôn, vấn đề chế biến nông sản, những mặt trái của cơ chế thị trường ... đã cản
trở sự phát triển lành mạnh của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Trước thực
trạng đó, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang cần có sự quản lý và quan tâm để khắc phục dần
những khó khăn còn tồn tại.

Tóm lại, với địa thế, địa hình đặc biệt, Hà Bắc dần trở thành vùng đất có
nhiều tiềm năng để phát triển mạnh kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong những

thời điểm đất nước còn nhiều khó khăn do tàn dư chiến tranh để lại cũng như trong
giai đoạn tiến hành đổi mới đất nước, Hà Bắc luôn chủ động, linh hoạt triển khai
những chính sách của Trung ương Đảng và Bộ chính trị vào tình hình cụ thể của địa
phương. Nhờ đó, Hà Bắc đã nhanh chóng khắc phục những khó khăn, hạn chế của
nền kinh tế tập trung, cùng với cả nước hướng tới nền kinh tế thị trường, hàng hoá.
Là một trong những tỉnh đầu tiên thực hiện những chính sách nông nghiệp
tiến bộ (Khoán 100, khoán 10) vào thực tiễn sản xuất nên Hà Bắc đã sớm tạo ra
những tiền đề kinh tế mạnh để phát triển nông nghiệp – nông thôn. Trong sản xuất
có những thay đổi căn bản: quyền sở hữu của người nông dân đối với tư liệu sản
22


xuất được củng cố, kinh tế cá thể được coi trọng và phát huy mạnh mẽ, cơ chế quản
lý nới lỏng theo hướng thị trường. Những thay đổi đó đã mở ra một thời kỳ phát
triển mới của Hà Bắc.
Những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Hà Bắc đạt được trong giai
đoạn này đã đặt nền tảng, cơ sở cho nền kinh tế Hà Bắc nói chung và kinh tế
nông nghiệp – nông thôn Bắc Giang nói riêng ở những giai đoạn sau.

23


Ch-¬ng 2
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN (1997 – 2006)
2.1 Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông
nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH (1997 -2000)
2.1.1 Đường lối của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Sau 10 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đã khởi sắc và
đạt những thành tựu to lớn, góp phần quyết định ổn định đời sống kinh tế của

người dân. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, cùng với kinh tế chung
cả nước, nông nghiệp bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước (1996 - 2000). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (Tháng
6/1996) của Đảng đã chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH trong đó trọng tâm là
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. “Nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong
những năm còn lại của thập kỷ 90 là: đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư, nghiệp gắn với
công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển các ngành nghề, làng nghề
truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất và đời
sống nông dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tiến bước
hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại” [18, tr.86]
Với nội dung đó, có thể thấy Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát và
lâu dài của CNH, HĐH là xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn
phát triển và tăng trưởng bền vững với nhịp độ cao trên cơ sở kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp nhằm giải phóng
mạnh mẽ sức sản xuất, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm tăng thu

24


×