Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Đảng bộ tỉnh thái nguyên lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.21 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG
BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN VỀ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 10
1.1. Yêu cầu khách quan lãnh đạo phát triển công nghiệp
của tỉnh Thái Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010 10
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về phát
triển công nghiệp (2001-2010) 24
1.3 Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên chỉ đạo phát triển công
nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010 37
Chương 2 KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ
TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỪ
NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 55
2.1. Kết quả Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo phát
triển công nghiệp trong những năm 2001 - 2010 56
2.2. Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
lãnh đạo phát triển công nghiệp (2001 - 2010) 66
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
PHỤ LỤC 89
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, quy định
trình độ phát triển kinh tế của quốc gia. Do đó, phát triển công nghiệp ở Việt
Nam có vai trò rất quan trọng, tạo ra khả năng nội sinh ngày càng cao và khẳng
định tính độc lập trong phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, ngành công
nghiệp của Việt Nam đã thực hiện tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
với hiệu quả cao, đóng góp vào tỷ trọng ngày càng tăng cho phát triển kinh tế -


xã hội. Nhiều sản phẩm công nghiệp của nước ta không những đã chiếm lĩnh thị
trường trong nước mà còn khẳng định chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng công nghiệp chưa cao,
trình độ quản lý và năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp thấp; công
nghiệp chủ yếu phát triển theo chiều rộng; tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm
công nghiệp chế tạo, chế biến còn thấp; sự liên kết giữa các ngành chưa chặt
chẽ; công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển…Do đó công nghiệp của nước ta đi
sau khá xa so với các nước phát triển và các nước trong khu vực như Thái
Lan, Singgapo, Malaixia, Inđônêxia.
Nằm trong xu thế chung của cả nước, Thái Nguyên, với truyền thống là
tỉnh đầu tiên của cả nước triển khai khu công nghiệp gang thép (năm 1959).
Đồng thời, là một tỉnh nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm vùng trung du Bắc
Bộ. Hiện tại, Thái Nguyên đã có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông,
lâm nghiệp, công nghiệp giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với những lợi thế về tự nhiên và xã hội như: vị trí
địa lý, tài nguyên khoáng sản, giáo dục và đào tạo, đã tạo nên tiền đề quan trọng
cho sự phát triển ngành công nghiệp của tỉnh. Vì thế, trong những năm qua, công
nghiệp Thái Nguyên đã có sự phát triển khá toàn diện và ổn định. Cơ cấu sản
xuất công nghiệp có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, qui mô và chất lượng
tổ chức sản xuất của các vùng từng bước được nâng cao, ngành công nghiệp trên
3
địa bàn tỉnh đã có những đổi mới và khởi sắc. Những kết quả đạt được trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung, công nghiệp nói riêng trong những
năm đổi mới là tiền đề rất quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của tỉnh.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu của đất nước về phát triển công nghiệp
toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
huy ưu thế của một tỉnh có ngành công nghiệp phát triển sớm gắn với giải
quyết tốt an sinh xã hội; vấn đề công nghiệp ở Thái Nguyên vẫn còn nhiều bất
cập, nhất là đầu tư phát triển còn chậm so với yêu cầu, việc ứng dụng tiến bộ

khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa theo kịp thực tế sản xuất, sự gắn kết giữa
sản xuất và tiêu dùng chưa thật chặt chẽ, việc phát triển lực lượng sản xuất
chưa đồng đều; đầu tư còn manh mún, phân tán, chưa tạo được môi trường
đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, chưa huy động tốt đầu tư phát triển của toàn xã
hội; đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều mặt khó khăn.
Tình hình trên, đòi hỏi Đảng bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên
phải chủ động nắm bắt xu thế phát triển, tận dụng các lợi thế vốn có của tỉnh để
phát huy tốt vai trò tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với phát
triển công nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội cơ bản lâu dài của tỉnh.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh
đạo phát triển công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010” làm luận văn Thạc
sỹ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Phát triển công nghiệp là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc
gia, dân tộc; là nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Chính vì vậy, trong những năm
qua đã có rất nhiều các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, đề cập dưới các
góc độ khác nhau, tiêu biểu là các nhóm nghiên cứu sau:
4
Nhóm các công trình đã xuất bản thành sách:
Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của Đỗ Mười (Nguyên Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1997; 45 năm xây dựng và phát triển công nghiệp Việt Nam, của
Thanh Sơn, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1990; Suy nghĩ về CNH,HĐH ở nước ta,
của GS,TS Ngô Đình Giao, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp ở nước ta hiện nay, của Tiến sĩ Nguyễn Xuân
Đông, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Vấn đề phát triển công nghiệp
nông thôn ở nước ta, của Đặng Ngọc Dinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1997; Công nghiệp hóa dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, của PGS, TS
Mạch Quang Thắng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000; Tổng hợp, phân
tích, quy hoạch, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam,
Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và đầu tư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997; Quy hoạch, quản lý và phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, Vụ
Kiến trúc Bộ Xây dựng, Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1998; Phát triển kinh tế tri
thức, đẩy nhanh quá trình CNH,HĐH ở Việt Nam, của GS.TS Nguyễn Kế
Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Bác Hồ với Bắc Thái, tập 1, Ty
Văn hóa và Thông tin tỉnh Bắc Thái, 1978; Thái Nguyên đất và người, Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Nguyên, 2007.
Các công trình khoa học trên đây đã đi sâu nghiên cứu làm rõ sự lãnh
đạo của Đảng trước yêu cầu khách quan của quá trình phát triển công nghiệp
nước ta; khẳng định vai trò của công nghiệp trong phát triển đất nước; nêu lên
một số xu hướng biến đổi, vận động của kinh tế công nghiệp của nước ta
trong những năm đầu thế kỷ XXI; làm rõ nội dung, chủ trương, giải pháp chủ
yếu về phát triển công nghiệp; nghiên cứu về công nghiệp dưới khía cạnh đầu
tư, lao động và tạo việc làm ở các khu công nghiêp, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, sử dụng và quản lý tài nguyên đất và nước, sự phân tầng xã hội và việc xoá
đói, giảm nghèo trong điều kiện mới; tổng kết sự lãnh đạo của Đảng về đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển công nghiệp; rút ra những
5
kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; cung cấp một số tư liệu tham khảo về lĩnh vực
công nghiệp trong tình hình hiện nay.
Nhóm các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí:
Thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu để vùng dân tộc và miền núi đi
lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của Hoàng Đức Nghi, Tạp chí Cộng sản,
số (18/1997); Đẩy manh thu hút đầu tư nước ngoài để công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, của Trịnh Dân, Tạp chí Cộng sản số (6/1996); Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, của PGS, TSKH

Vũ Đình Cự, Tạp chí Cộng sản số (78/2007); Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở một số nước Đông nam Á - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam của
Hoàng Thị Bích Loan, Tạp chí Lý luận chính trị (số 1/2006); Một số vấn đề
về phương pháp luận phát triển công nghiệp gắn với phát triển vùng, của
Nguyễn Hồng Linh, Tạp chí Công nghiệp tiếp thị, Số tháng 1+2 (2007); Xây
dựng con người mới trong sự nghiệp CNH – HĐH, của PGS, TS Đoàn Ngọc
Hải, Tạp chí Lịch sử Đảng, số (7/1996); Khủng hoảng kinh tế thế giới và
những giải pháp kích cầu ở nước ta, PGS, TS Lê Quốc Lý, Tạp chí lý luận
Chính trị số (7/2009); Tập trung sức đẩy mạnh CNH, HĐH nước nhà, Đỗ
Mười - 21/9/2006 - Báo Nhân dân; Chủ trương của Đảng về giải quyết các
vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới, của GS, TS Đinh Xuân Lý, Tạp chí
Lịch sử Đảng, (số 244/2009); Thái Nguyên, vùng đất giàu truyền thống và
tiềm năng, của TS Nguyễn Bắc Son - Ủy viên BCHTW Đảng, Bí thư tỉnh ủy
Thái Nguyên (Nay là Bộ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông), Tạp chí sinh
hoạt chi bộ Thái Nguyên (2007), Nxb Thái Nguyên; Đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH xây dựng quê hương Thái Nguyên giàu đẹp, văn minh, của
Nguyễn Ngọc Kim - Nguyên Phó Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thái
Nguyên, Tạp chí sinh hoạt chi bộ Thái Nguyên (2007), Nxb Thái Nguyên.
Các tác giả trên đã đưa ra các nhận định, đánh giá về phát triển công
nghiệp ở Việt Nam; nêu lên yêu cầu tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa,
6
hiện đại hóa trong tình hình hiện nay để tạo ra nền tảng vật chất, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; khái quát các
vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, từ đó đưa ra các phương pháp tiếp cận
ngành công nghiệp một cách toàn diện và xác định chủ trương, giải pháp cơ
bản đáp ứng nhu cầu cho phát triển công nghiệp ở nước ta nói chung và tỉnh
Thái Nguyên nói riêng trong tình hình mới.
Nhóm các luận văn, luận án:
Đinh Thị Điều, “Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình hình thành và
phát triển chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp 1986-

1994”, Luận văn Thạc sỹ khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội,1996; Đinh Hữu Nghị, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo giải quyết mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và công nghiệp từ
năm 1986 đến năm 1996”, Luận văn Thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị,
Quân sự, Hà Nội,2004 Những công trình trên đã đi sâu vào nghiên cứu
đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp trong thời kỳ đổi
mới.
Đồng thời, dưới góc độ kinh tế, một số luận văn, luận án đã đưa ra
những giải pháp nhằm phát triển công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên như:
Nguyễn Minh Hiếu, “Nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.2011; Nguyễn Hà Minh, “Chính sách phát triển công
nghiệp tỉnh Thái Nguyên”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế và Quản
trị kinh doanh Thái Nguyên, 2011; Nguyễn Thế Nam, “Những giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp thành phố Thái
Nguyên”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh
Thái Nguyên, 2011 Đây là những tài liệu có giá trị tham khảo để bổ sung,
kiểm chứng và đối chiếu với những tài liệu mà tác giả sử dụng trong luận văn.
Như vậy, có thể nói những công trình đề cập đến phát triển công
nghiệp là rất đa dạng và phong phú, nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh
7
khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu về quá trình Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010, dưới góc
độ lịch sử Đảng thì chưa có một công trình nào đề cập một cách đầy đủ, hệ
thống. Các công trình nghiên cứu liên quan là những tư liệu quý để tác giả
tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn.
Luận văn này kế thừa có chọn lọc các tài liệu trên, đồng thời trên cơ sở tiếp
cận các tư liệu, tài liệu về phát triển công nghiệp tỉnh Thái Nguyên tại các nguồn
văn phòng Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, thư viện tỉnh…, để làm rõ Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên đã lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo phát triển
công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010. Đánh giá những thành tựu, hạn chế,
làm rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm để vận dụng vào hiện tại.
* Nhiệm vụ
Luận giải yêu cầu khách quan lãnh đạo phát triển công nghiệp tỉnh
Thái Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
Trình bày quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo phát triển
công nghiệp tỉnh Thái Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
Đánh giá thành tựu, hạn chế, làm rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm về phát triển công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng:
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về phát
triển công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
* Phạm vi:
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên về phát triển công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2010.
8
Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển công nghiệp.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, các số liệu,
báo cáo thống kê, báo cáo của các cơ quan chức năng thuộc Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Thái Nguyên.

*Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp chuyên ngành Lịch sử Đảng, trong đó
chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp
phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic trong nghiên cứu và trình bày luận
văn. Đồng thời có kết hợp với các phương pháp khác như: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh để làm rõ những vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần tổng kết quá trình Đảng bộ Thái Nguyên lãnh đạo phát triển
công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
Luận văn là nguồn tư liệu để các cấp uỷ đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội ở địa phương tỉnh nghiên cứu, vận dụng trong lãnh đạo
phát triển công nghiệp trên địa bàn.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các học viện, nhà trường
trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH THÁI NGUYÊN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
1.1. Yêu cầu khách quan lãnh đạo phát triển công nghiệp của tỉnh
Thái Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên
Đặc điểm tự nhiên: Thái Nguyên là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi
Bắc Bộ, liền kề với thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên có diện tích 3.541,67 km
2
,

nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: tứ giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Dương -
Hải Phòng - Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu
kinh tế mạnh. Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế,
giáo dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi Đông Bắc
nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung
du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao lưu đã được thực hiện
thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông tạo thành hình rẻ quạt
mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút.
Về địa giới hành chính: Thái Nguyên, phía Bắc tiếp giáp với tỉnh
Bắc Kạn

; phía Tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc

, Tuyên Quang

, phía Đông
giáp với các tỉnh Lạng Sơn

, Bắc Giang

và phía Nam tiếp giáp với Thủ đô
Hà Nội

, cách sân bay quốc tế Nội Bài

50 km, cách biên giới Trung Quốc
200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cảng Hải Phòng 200 km. Tỉnh Thái
Nguyên có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện. Các đơn vị hành chính này được chia
thành 180 xã, trong đó có 123 xã vùng cao và miền núi, còn lại là các xã đồng
bằng và trung du.

10
Bước vào thời kỳ đổi mới, Thái Nguyên đứng trước những thời cơ và
thách thức mới. Với vị trí như thế, xét ở tầm không gian lãnh thổ vĩ mô, Thái
Nguyên có nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Về địa hình, địa chất: Tam Đảo là dãy núi tạo thành ranh giới giữa
ba tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. Thái Nguyên có nhiều dãy
núi cao chạy theo hướng Bắc - Nam và thấp dần xuống phía Nam. Cấu trúc
vùng núi phía Bắc chủ yếu là đa phong hóa mạnh, tạo thành nhiều hang
động và thung lũng nhỏ. Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nhưng
địa hình lại không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác. Đây
là một thuận lợi của Thái Nguyên cho canh tác nông, lâm nghiệp và phát triển
kinh tế - xã hội nói chung so với các tỉnh trung du miền núi khác.
Về tài nguyên khoáng sản: Thái Nguyên có tài nguyên khoáng sản
phong phú về chủng loại, là một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các
ngành công nghiệp luyện kim, khai khoáng.
Thái Nguyên nằm trong vùng sinh khoáng Đông Bắc Việt Nam, thuộc
vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương. Khoáng sản đa dạng với 34 loại, phân
bố ở Đại Từ, thành phố Thái Nguyên, Trại Cau (Đồng Hỷ), Thần Sa (Võ Nhai) .
Nhóm nguyên liệu cháy gồm than mỡ, than đá, phân bố tập trung ở
vùng Đại Từ, Phú Lương Than mỡ chất lượng tương đối tốt, có trữ lượng
tiềm năng khoảng trên 15 triệu tấn, trong đó trữ lượng thăm dò 8,5 triệu
tấn (lớn nhất ở Việt Nam). Thái Nguyên là tỉnh có trữ lượng than đá lớn
thứ hai cả nước (sau tỉnh Quảng Ninh) với trữ lượng thăm dò khoảng 90
triệu tấn. Nhóm khoáng sản kim loại đen như sắt, mangan, titan và kim loại
màu như: chì, kẽm, đồng, niken, nhôm, thiếc, vonfram, antimoan, thuỷ ngân,
vàng , khoáng sản kim loại của Thái Nguyên là một trong nhiều ưu thế so
với các tỉnh khác trong vùng, đồng thời có ý nghĩa đối với cả nước.
11
Về kim loại đen: Sắt với 41 mỏ và điểm quặng (18 mỏ nhỏ và vừa, 23
điểm quặng) có trữ lượng và tiềm năng lớn, phân bố chủ yếu dọc tuyến Đại

Từ, Thái Nguyên. Cụm mỏ sắt Trại Cau có trữ lượng khoảng 20 triệu tấn với
hàm lượng Fe 58,8 đến 61,8%, được xếp vào loại chất lượng tốt.
Cụm mỏ sắt Tiến Bộ nằm trên trục đường 259, gồm các mốc quy mô
nhỏ từ 1 đến 3 triệu tấn, tổng trữ lượng quặng phong hoá đạt trên 30 triệu
tấn. Titan phát hiện có 21 mỏ và điểm quặng (1 mỏ vừa, 2 mỏ nhỏ, 18 điểm
quặng), phân bố chủ yếu ở phía bắc Đại Từ. Khoáng sản titan với thành phần
chính của quặng là limônhit có hàm lượng 30 đến 80% tổng trữ lượng titan đã
thăm dò đạt xấp xỉ 18 triệu tấn. Ngoài ra có nhiều mỏ và điểm quặng mangan,
sắt có hàm lượng 40 đến 60%, trữ lượng thăm dò khoảng 5 triệu tấn, phân bố
rải rác ở nhiều nơi.
Kim loại màu: Thiếc, vonfram là khoáng sản tiềm năng của Thái Nguyên,
thiếc có ở Đại Từ, tổng trữ lượng Sn02 của các mỏ chính này là 13.600 tấn.
Vonfram ở khu vực Đá Liền được đánh giá là có quy mô với trữ lượng khoảng
28.000 tấn.
Nhóm khoáng sản phi kim loại có pyrit, barit, phôtphorit Trong đó
đáng chú ý nhất là phôtphorit với 2 mỏ nhỏ và một điểm quặng La Hiên,
Núi Vân, Làng Mới, tổng trữ lượng đạt khoảng 60.000 tấn. Khoáng sản vật
liệu có sét xi măng trữ lượng khoảng 84,6 triệu tấn, đá vôi xây dựng có trữ l-
ượng xấp xỉ gần 100 tỉ mét khối.
Khoáng sản của Thái Nguyên phong phú, tạo điều kiện cho sự phát triển
các ngành công nghiệp, góp phần đưa tỉnh trở thành một trong những trung tâm
công nghiệp lớn của vùng trung du miền núi Bắc Bộ.
Về hạ tầng giao thông: Thái Nguyên hiện có 3 tuyến quốc lộ đi qua là
Quốc lộ 3, Quốc lộ 1B và Quốc lộ 37. Tuyến Quốc lộ 3 vốn chỉ có 2 làn xe và
hiện được cho là quá tải, tuyến đường này đang được đầu tư để mở rộng song
12
song với việc xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên với 4 làn
xe dự kiến hoàn thành vào năm 2013. Đường cao tốc có mặt đường rộng
34,5m và dài hơn 61km có điểm đầu là Quốc lộ 1A mới thuộc xã Ninh Hiệp
(Gia Lâm, Hà Nội) và điểm cuối là tuyến đường tránh thành phố Thái

Nguyên, tuyến đường này sẽ nằm về bên phải quốc lộ 3 cũ trừ đoạn từ xã
Lương Sơn (thành phố Thái Nguyên) đến tuyến đường tránh thành phố. Theo
quy hoạch thì sẽ có đường hầm Tam Đảo nối giữa hai tỉnh Thái Nguyên -
Vĩnh Phúc, nếu dự án được khởi công và hoàn thành sẽ giảm bớt thời gian di
chuyển từ tỉnh Thái Nguyên tới Vĩnh Phúc và một số tỉnh thành khác.
Về đường sắt, tỉnh có tuyến đường sắt Hà Nội - Quan Triều, hay còn
gọi là tuyến đường sắt Hà Thái; tuyến đường sắt Quan Triều - Núi Hồng dài
33,5 km chỉ sử dụng để chuyên chở khoáng sản, cộng thêm hệ thống đường
sắt nội bộ trong khu Gang Thép.
Do là tỉnh trung du nên giao thông đường sông của tỉnh chủ yếu chỉ
phát triển ở sông Cầu và sông Công đoạn cuối nguồn thuộc tỉnh, dự án Cụm
cảng Đa Phúc đang được xây dựng tại huyện Phổ Yên và được mong đợi có
thể kết nối đến cảng Hải Phòng.
Đặc điểm về dân số: Theo số liệu điều tra dân số 01/04/2009, dân số
tỉnh Thái Nguyên là 1.123.116 người thuộc 325.680 hộ gia đình, trong đó
nam có 555.371 người chiếm 49,45% và nữ là 567.745 người chiếm 50,55%,
tỉ số giới tính nam/nữ là 97,8/100. Tổng dân số đô thị là 287.265 người
(25,6%) thuộc 97.300 hộ và tổng dân cư nông thôn là 835.851 người (74,4%)
thuộc 228.380 hộ. Cũng như toàn quốc, Thái Nguyên có dân số trẻ với nhóm
tuổi lao động từ 15 đến 60 là 779.261 người, chiếm 69,38% tổng dân số.
Nhóm tuổi dưới 15 có 249.001 người, chiếm 22,17% tổng dân số, còn nhóm
người trên 60 tuổi có 94.854 người, tức chiếm 8,45%. Thái Nguyên là một
miền đất văn hoá đa sắc tộc, vừa là cái nôi, điểm hội tụ nền văn hoá đặc sắc
13
của các dân tộc thiểu số cư trú trong vùng vừa là nơi giao lưu, hội nhập với
nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc khác tạo nên một nền văn hoá phong
phú đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc.
Đặc điểm về Giáo dục và đào tạo: Tỉnh Thái Nguyên được coi là một
trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Thủ đô Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh.


Trên địa bàn tỉnh hiện có Đại học Thái Nguyên, đây là một
trường đại học cấp vùng của khu vực trung du, miền núi phía Bắc và được
thành lập vào năm 1994, đại học bao gồm nhiều đơn vị thành viên như:
Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học Nông lâm, Trường Đại học Y
dược, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Trường Đại học Kinh tế và
Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Khoa học, Trường Cao đẳng Kinh tế
Kỹ thuật, Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Khoa Ngoại
ngữ, Trung tâm học liệu, Trung tâm giáo dục quốc phòng và một số đơn vị
trực thuộc. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn có 18 trường cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp, dạy nghề.

Tổng số sinh viên trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên ước tính vào khoảng trên 150.000 người. Ngoài ra, Trường
Đại học Việt Bắc- một trường đại học tư thục cũng đã được thành lập trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên vào tháng 8 năm 2011.

Đây là nguồn lực rất quan trọng
phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh.
Đặc điểm về kinh tế - xã hội: Thái Nguyên là trung tâm chính trị,
kinh tế của Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi Đông Bắc nói
chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa trung du, miền núi với vùng
đồng bằng Bắc Bộ.
Kinh tế Thái Nguyên với đặc điểm là không có độ mở cao, phụ thuộc
không nhiều vào xuất khẩu và tỷ trọng sản xuất của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn so với bình quân chung cả nước nên khi
kinh tế suy thoái bởi ảnh hưởng khủng hoảng trên thế giới, tỉnh ít bị ảnh
14
hưởng hơn so với bình quân cả nước. Mặt khác, với sự năng động của các
cấp chính quyền trong chủ động theo sát tình hình, phân tích các diễn biến,

tiếp thu các ý kiến chỉ đạo, đóng góp, đề cao trách nhiệm, quyết liệt chỉ đạo
điều hành thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra và với nhiều nỗ lực cố
gắng, đoàn kết phấn đấu của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân các
dân tộc trong tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội và
duy trì được nhịp độ phát triển.
Trong cơ chế kinh tế mới, kể từ khi tái lập (năm 1997) đến nay, nền kinh
tế của tỉnh phát triển và có mức tăng trưởng khá. Tuy nhiên, cho đến trước năm
2001 kinh tế Thái Nguyên vẫn là một nền kinh tế theo cơ cấu nông, lâm, công
nghiệp. Ngành công nghiệp Thái Nguyên đã được hình thành từ những năm
đầu thập niên 60 của thế kỷ XX. Trải qua 4 thập kỷ thăng trầm do hậu quả của
chiến tranh, do sự thay đổi cơ chế quản lý , đến nay ngành công nghiệp của
Thái Nguyên đã có một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh với sự có mặt của hầu hết
các ngành công nghiệp như năng lượng, luyện kim, cơ khí, hoá chất Trong đó
công nghiệp luyện kim và sản suất sắt thép, phôi thép là ngành công nghiệp
chủ yếu của Thái Nguyên. Công nghiệp đóng góp khoảng 30 - 40% vào GDP
của tỉnh. Trong các cơ sở công nghiệp trong nước, có 8 cơ sở do Trung ương
quản lý (Công ty chè Thái Nguyên, Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, Công ty
gang thép Thái Nguyên, Công ty kim loại màu, Công ty điêzen Sông Công,
Công ty phụ tùng máy số 1, Nhà máy cơ khí Phổ Yên, Nhà máy y cụ số 2) và
17 cơ sở công nghiệp quốc doanh do địa phương quản lý. Các cơ sở công
nghiệp này đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển công nghiệp của tỉnh.
Cho đến thời điểm này, ngành công nghiệp Thái Nguyên đã được đầu tư đổi
mới về máy móc thiết bị, “Sản phẩm công nghiệp chủ yếu của Thái Nguyên là
than sạch, thiếc thỏi, xi măng, thép cán, gỗ xẻ và các sản phẩm nông, lâm sản
chế biến khác. Nhiều sản phẩm hàng hoá mới cũng được thị trường chấp nhận
như giấy, thép, đồ uống, hàng may mặc, vật liệu xây dựng” [63, tr.39].
15
Trong bảng xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt
Nam năm 2010, tỉnh Thái Nguyên đạt 56,54 điểm, xếp thứ 42 trên tổng số 63
tỉnh thành, tuy nhiên thứ hạng của Thái Nguyên lại cao hơn hai trung tâm

kinh tế lớn nhất của miền Bắc là Hà Nội (thứ 43) và Hải Phòng (thứ 48).
Công tác an sinh xã hội cũng đạt những kết quả đáng khích lệ: Thái
Nguyên là một trong những địa phương đạt kết quả cao nhất toàn quốc trong
chương trình xây dựng nhà ở cho người nghèo theo Quyết định số 167/QĐ-
CP của Chính phủ; là địa phương về đích đầu tiên trong chương trình xây
dựng nhà ở cho sinh viên, với 52 công trình cao tầng đã hoàn thành; tỷ lệ hộ
nghèo trong toàn tỉnh năm 2010 là 10,8%, giảm 5,19% so với năm 2005, vượt
mục tiêu kế hoạch Nghị quyết. Kinh tế phát triển cao cũng đã tạo điều kiện để
việc thực hiện các mục tiêu văn hoá - xã hội trên địa bàn đạt và vượt kế
hoạch; đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao.
Các thiết chế văn hoá, giáo dục, y tế được đầu tư xây dựng. Thái Nguyên
đang từng bước xứng đáng với vai trò trung tâm vùng về kinh tế, giáo dục -
đào tạo, y tế, văn hoá của khu vực trung du miền núi Bắc Bộ.
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội nói trên đã đem lại
cho Thái Nguyên những lợi thế và tiềm năng trong việc phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng. Tuy vậy, để Thái Nguyên
thực sự là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế của miền Bắc nói chung,
của vùng trung du miền núi nói riêng, một trung tâm công nghiệp hỗ trợ của
miền Bắc, cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng Bắc Bộ, đòi hỏi
nhân dân tỉnh Thái Nguyên phải đoàn kết và nỗ lực hơn nữa, tận dụng tối đa
những thuận lợi, vượt qua khó khăn, khẳng định vị thế là trung tâm kinh tế, giáo
dục và đào tạo, y tế, văn hóa của khu vực trung du miền núi Bắc Bộ.
16
1.1.2. Thực trạng phát triển công nghiệp tỉnh Thái Nguyên trước
năm 2001
Trước năm 2001, cùng với sự phát triển cả nước, kinh tế Thái
Nguyên đã có bước tăng trưởng khá. Xuất phát điểm từ một tỉnh có nền
kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp, các cơ sở sản xuất công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp hiện đại hầu như không đáng kể. Do đó,
thực trạng phát triển công nghiệp của tỉnh trước năm 2001 nổi nên những nét

cơ bản sau:
* Thành tựu:
Trước năm 2001, cùng với những thành công của sự nghiệp đổi mới
đất nước, các ngành kinh tế của Thái Nguyên cũng từng bước khẳng định và
phát triển.
Kinh tế tiếp tục phát triển. Nổi bật là sản xuất nông, lâm nghiệp phát
triển khá…, sản xuất công nghiệp tuy còn gặp nhiều trở ngại nhưng đã
được tổ chức lại, cố gắng vượt qua nhiều thách thức để ổn định và từng
bước vươn lên; một số sản phẩm như xi măng, tấm lợp, gạch tuynen,
giấy, bao bì…tăng thêm sức sản xuất; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp địa phương tăng bình quân hàng năm 13% [25, tr.8].
Tỷ trọng hàng công nghiệp phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế
biến hàng xuất khẩu được quan tâm, bước đầu tổ chức thực hiện có hiệu quả
việc gắn công nghiệp chế biến với vùng nguyên liệu đối với một số cây trồng
như: Chè, gỗ, nhãn, vải và các sản phẩm nông sản làm thức ăn gia súc…Định
hướng qui hoạch và thực hiện một bước qui hoạch các khu công nghiệp tập
trung trên các địa bàn dân cư.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, tổ
chức lại sản xuất, tiếp tục nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh cho doanh
nghiệp. Đến tháng 6 năm 2001 đã có 53 doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi
17
thành công ty cổ phần thuộc tỉnh quản lý, trong đó có 23 doanh nghiệp thuộc
ngành công nghiệp và xây dựng. Khu vực dân doanh có 313 doanh nghiệp
được thành lập (theo Luật doanh nghiệp) và 8540 hộ kinh doanh cá thể và 92
hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh.
Với chính sách và chủ trương phát triển các thành phần kinh tế, đặc biệt
là từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp, khu vực dân doanh phát triển với tốc
độ khá nhanh, giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao nhất trong các loại hình
doanh nghiệp, ngoài việc tạo ra các sản phẩm, mặt hàng mới đã thu hút khoảng
20.000 lao động, góp phần đáng kể vào việc tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo

và thực hiện chuyển đổi cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn.
Tích cực đẩy mạnh cơ khí hoá, điện khí hoá, phát triển công - nông
nghiệp, cây công nghiệp, “Nhịp độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp - xây
dựng bình quân hàng năm tăng: 14,5%, làm tăng tỉ trọng của công nghiệp
trong GDP của tỉnh, khẳng định tính đúng đắn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của tỉnh” [26, tr.16].
Được sự quan tâm của Trung ương, các doanh nghiệp đã được đầu tư
phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ để có sản phẩm đạt chất lượng cao
hơn, phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách Nhà
nước, tạo được vị thế mới trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Không
ngừng áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, đổi mới
thiết bị công nghệ theo hướng lựa chọn, ứng dụng công nghệ hoặc chuyển
giao. Đã khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký tham gia dự án hỗ trợ áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO. Đã quy hoạch và từng bước
hình thành các khu công nghiệp trong tỉnh theo Quyết định số 3044/2001/QĐ-
UBND ngày 8/8/2001 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành quy định về
tiếp nhận, thẩm định, cấp giấy chứng nhận đầu tư và giấy phép đầu tư vào các
khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Theo đó đã hình thành mới 4 khu, cụm
công nghiệp với hàng chục cơ sở công nghiệp đi vào hoạt động.
18
Những kết quả đạt được trong phát triển công nghiệp đã góp phần
quan trọng vào việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trước những
năm 2001. Với chủ trương, chính sách đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nói chung và công nghiệp nói riêng, đã tạo bước phát triển mới trong quá
trình quy hoạch, đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất công
nghiệp của tỉnh Thái Nguyên.
* Nguyên nhân của những thành tựu:
Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh đã
nắm chắc yêu cầu của thực tiễn, tích cực đổi mới tư duy lãnh đạo, do đó đã có
những đột phá về cơ chế chính sách, mở đường cho sản xuất phát triển,

“Trong phát triển các ngành công nghiệp luôn gắn kết chặt chẽ giữa chính
sách của Trung ương với điều kiện cụ thể của tỉnh; có nhiều cơ chế thu hút
các nguồn lực về vốn và lao động ” [55, tr.7].
Cơ cấu kinh tế được xác lập theo đúng hướng công nghiệp - dịch vụ và khai
thác bước đầu có hiệu quả, về điều kiện, tiềm năng của tỉnh, cơ cấu trong ngành
công nghiệp thay đổi theo xu hướng chất lượng và giá trị sản phẩm, sản xuất gắn
với thị trường. Tập trung phát triển kinh tế công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng
thương mại dịch vụ, du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng và tiến độ các công trình, dự án trọng điểm.
Các nguồn vốn được quan tâm và tập trung khai thác, trong đó có
nguồn vốn đất là nguồn vốn thu hút từ nội lực của tỉnh cũng như các nguồn
lực bên ngoài, “Môi trường đầu tư được cải thiện rõ rệt, các quan hệ vùng
được xác lập rõ ràng hơn, liên kết kinh tế giữa Thái Nguyên với các tỉnh bạn
được hình thành. Sức ép phải phát triển nhanh hơn, đột phá hơn ngày càng rõ,
các thành phần kinh tế ngày càng được chú trọng” [60, tr.7].
Doanh nhân được quan tâm và tạo điều kiện để phát triển; cải cách
doanh nghiệp nhà nước được tiến hành quyết liệt, do đó đã tạo được môi
trường và tâm lý tốt cho doanh nghiệp.
19
Hoạt động văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, quốc
phòng - an ninh được quan tâm và thực hiện đạt kết quả khá tốt, ổn định chính
trị luôn được được giữ vững.
* Hạn chế:
Bên cạnh thành tựu đã đạt được, ngành công nghiệp Thái Nguyên
còn những hạn chế, đó là: “Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch
vụ đạt thấp so với chỉ tiêu Đại hội XV (năm 1996) đề ra và mức trung bình
của cả nước (tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm là 4,1% so với chỉ tiêu
Đại hội XV là 9 đến 10%). Trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh,
khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp, từng ngành còn
thấp” [25, tr.17].

Hoạt động của Công ty gang thép Thái Nguyên và nhiều đơn vị sản
xuất công nghiệp Trung ương chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công
nghiệp trên địa bàn bị đình trệ, sa sút trong những năm 1997 - 1998, làm hạn
chế và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Lãnh đạo và chính quyền tỉnh còn lúng túng trong việc sắp xếp, củng
cố, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và chậm chuyển đổi hợp tác xã theo Luật;
đầu tư còn manh mún, phân tán, chưa tạo được môi trường đầu tư thông
thoáng, hấp dẫn, chưa huy động tốt đầu tư phát triển của toàn xã hội….
Đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp chưa có bài bản, năng lực, trình
độ của đội ngũ cán bộ quản lý của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế; chưa
năng động trong sản xuất kinh doanh và tìm kiếm thị trường, ngại đầu tư đổi
mới nên sản phẩm kém sức cạnh tranh, “Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản
lý doanh nghiệp vẫn còn tư tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, vào
sự can thiệp của tỉnh để tháo gỡ khó khăn hoặc tạo ưu thế để hưởng những ưu
đãi và độc quyền” [ 60, tr.9].
20
* Nguyên nhân của hạn chế:
Những khuyết điểm, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan
là do điểm xuất phát về kinh tế của tỉnh thấp, nguồn vốn để phát triển hạn
hẹp, lại chịu tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực,
ảnh hưởng của thiên tai.
Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan là chính, trong đó có trách nhiệm
của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Việc nhận thức và vận dung
đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng chưa sâu sắc, chưa sáng tạo,
còn thụ động, thỏa mãn với kết quả ban đầu, “Đầu tư nước ngoài vào tỉnh
tăng chậm, quy mô nhỏ. Đầu tư trong tỉnh dàn trải, còn để thất thoát và tiêu
cực; tình trạng nợ đọng vốn kéo dài. Một số lợi thế như nguồn nhân lực, tài
nguyên khoáng sản, kinh tế đồi rừng, mặt nước…khai thác chưa có hiệu
quả” [26, tr.26].

Quá trình triển khai, chỉ đạo, điều hành còn thiếu tập trung, thống nhất,
chưa phát huy hết khả năng sức mạnh của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức
trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển công nghiệp.
Chưa kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chủ trương,
chính sách, chậm tổng kết, rút kinh nghiệm để phát huy những nhân tố mới.
Việc qui hoạch, định hướng phát triển khu công nghiệp còn lúng túng,
triển khai phát triển chưa toàn diện, thiếu vững chắc. Chưa khuyến khích các
ngành nghề phát triển, thị trường tiểu thủ công, mỹ nghệ và chất lượng sản
phẩm chưa được mở rộng và nâng cao.
Năng lực và hệ thống quản lý, đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành phát
triển ngành công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đây là
vấn đề hết sức cấp bách, nếu không được quan tâm giải quyết, sẽ là một yếu
tố hạn chế đến quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
21
Từ những nguyên nhân nêu trên, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh phải vận dụng
đúng đắn, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng cũng như yêu cầu của
công cuộc đổi mới vào thực tiễn của địa phương.
Từ tình hình thực trạng phát triển công nghiệp Thái Nguyên trước năm
2001 cho thấy, tỉnh Thái Nguyên có những thuận lợi cơ bản để địa phương
phát triển công nghiệp tốt hơn, song trước yêu cầu mới và những tồn tại trong
tổ chức thực hiện phát triển công nghiệp tỉnh nhà cần có bước đi và cách làm
phù hợp, rút ra trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ cụ thể hơn để công
nghiệp phát triển một cách bền vững, đồng thời nghiên cứu đúc rút kinh
nghiệm góp phần bổ sung, hoàn thiện chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh về phát triển công nghiệp tỉnh Thái Nguyên, địa chỉ tham khảo cho một
số tỉnh khác và cả nước để tiến tới mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong cả nước.
1.1.3. Yêu cầu về phát triển công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên trong
những năm 2001 - 2010
Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát

triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học, công nghệ và thực trạng về phát triển
công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên trước năm 2001 đặt ra những yêu cầu phải
phát triển công nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Yêu cầu phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó phát triển
công nghiệp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để đưa Thái Nguyên trở thành
tỉnh công nghiệp trước năm 2020.
Yêu cầu về huy động nguồn lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để
phát triển công nghiệp nhanh, hiệu quả và bền vững gắn với phát triển thương mại,
dịch vụ. Yêu cầu chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo chỉ tiêu đến năm 2010: "Phấn đấu đạt cơ cấu kinh tế công
nghiệp - dịch vụ - nông, lâm nghiệp với tỷ trọng GDP là công nghiệp: 45%;
dịch vụ: 38,5%; nông lâm nghiệp: 16,5% " [26, tr.35].
22
Một số cơ sở công nghiệp của Trung ương và địa phương, chủ yếu là
công nghiệp nặng, được xây dựng từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, thiết
bị, công nghệ đã lạc hậu, yêu cầu cần phải đầu tư đổi mới để tăng hiệu quả
kinh tế và sức cạnh tranh trên thị trường, “Việc chuẩn bị các dự án thu hút đầu
tư vốn của nước ngoài, tổ chức khu công nghiệp tập trung trên địa bàn thực
hiện đạt kết quả thấp, chưa có chính sách tích cực hỗ trợ kinh tế ngoài quốc
doanh phát triển " [61, tr.14] .
Rà soát lại quy hoạch và cơ cấu phát triển công nghiệp của tỉnh nhằm
phát huy có hiệu quả thế mạnh về tài nguyên khoáng sản, vị trí địa chính trị,
địa kinh tế và những cơ sở công nghiệp hiện có. Đồng thời, phát huy năng lực
khoa học công nghệ của Đại học Thái Nguyên và các trung tâm nghiên cứu,
ứng dụng, các trường đào tạo trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao và ứng dụng khoa học công nghệ cho phát triển công nghiệp của tỉnh.
Phải củng cố và sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp hiện có trên cơ sở
đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại hóa
từng phần, cải tiến công tác quản lý nhằm hạ giá thành, nâng cao năng suất,
chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, mở rộng thị trường trong

nước và xuất khẩu.
Trong giai đoạn mới yêu cầu phải khuyến khích mọi thành phần kinh
tế trong tỉnh, trong nước và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển sản xuất
công nghiệp. Lựa chọn phát triển mới một số cơ sở sản xuất công nghiệp
với quy mô và trình độ thích hợp, chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
phù hợp với tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, lợi thế so sánh của tỉnh và
có thị trường tiêu thụ.
Ưu tiên kêu gọi đầu tư phát triển các ngành: Công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng; khai thác và chế biến khoáng sản; công nghiệp bảo quản và
chế biến nông, lâm sản, thực phẩm; cơ khí phục vụ nông, lâm nghiệp; công
23
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng có thị trường và sử dụng nhiều lao động như:
may mặc, da giầy
Tiếp tục hình thành và nâng cao chất lượng mạng lưới các cơ sở sản
xuất kinh doanh gắn kết với Gang thép Thái Nguyên và Khu công nghiệp
Sông Công. Phát triển các cụm, điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở
tỉnh. Lựa chọn các sản phẩm, nhóm sản phẩm có lợi thế so sánh, sản phẩm
mũi nhọn, chiếm tỷ trọng lớn để phát triển.
Đầu tư phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, ưu tiên cho công
nghiệp luyện kim truyền thống. Đồng thời đầu tư cho công nghệ thông tin,
điện tử, viễn thông.
Xây dựng có chọn lọc và đầu tư về vốn, công nghệ, thị trường cho một
số cơ sở công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất như luyện kim, cơ khí, điện
tử, hóa chất cơ bản. Đây cũng là một trong những thế mạnh của tỉnh cần được
quan tâm đầu tư phát triển.
Tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng bộ và toàn thể nhân dân trong
tỉnh quyết tâm thực hiện chủ trương phát triển công nghiệp trong tỉnh.
Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị vào cuộc đẩy mạnh phát triển
công nghiệp của tỉnh.
Những yêu cầu nội tại trên đòi hỏi phải được nhận thức đầy đủ, từ đó

có kế hoạch định hướng cho giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát huy cao độ nội lực của tỉnh, đồng thời khai thác nguồn lực trong
nước và nước ngoài để phát triển công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về phát triển công
nghiệp (2001 - 2010)
1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển công
nghiệp trong những năm 2001-2010
Phát triển công nghiệp là quá trình phát triển của phân công lao động
gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ và kinh tế hàng hóa, với sự
24
hình thành và phát triển của thị trường trong nước và quốc tế. Đó là quá trình
phát triển các ngành công nghiệp riêng biệt nhằm từng bước điều chỉnh cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại, trong đó công nghiệp ngày càng chiếm tỷ
trọng cao, hướng tới xây dựng đất nước trở thành một quốc gia công nghiệp
theo các tiêu chí tương ứng.
Quan điểm phát triển công nghiệp: trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 10 năm 2001 - 2010 được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX (4-2001), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Coi phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là
yêu cầu cấp thiết” [21, tr.164].
Bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp các nguồn lực trong
nước và ngoài nước, tập trung sức phát triển kinh tế để xây dựng đồng bộ nền
tảng cho một nước công nghiệp theo hướng hiện đại với những nội dung chủ
yếu như sau: Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội; nền công nghiệp, trong đó có công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan
trọng, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng; nền nông nghiệp
hàng hoá lớn; các dịch vụ cơ bản; tiềm lực khoa học và công nghệ. Trên cơ sở
hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội, trước mắt và lâu dài, triển khai xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu và xây dựng có chọn lọc một số

cơ sở công nghiệp nặng quan trọng, cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ,
thị trường, phát huy nhanh tác dụng, đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành
kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Từ quan điểm trên Đại hội đưa ra định hướng phát triển công nghiệp
thời kỳ 2001 - 2005 là: “Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng
phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu, như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, điện tử - tin
học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng ” [21, tr.173].
25
Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí, luyện
kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng với bước
đi hợp lý, phù hợp điều kiện vốn, công nghệ, thị trường, phát huy được hiệu
quả. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ
thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hoá. Chú trọng phát triển công nghiệp sản
xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng vượt trội.
Phát triển các cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết, kết hợp công
nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng. Quy hoạch phân bố hợp lý
công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu
chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công
nghiệp lớn và khu kinh tế mở.
Phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với
ngành, nghề đa dạng. Đổi mới, nâng cấp công nghệ trong các cơ sở hiện có để
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Sử dụng phù hợp các công nghệ có
khả năng thu hút nhiều lao động. Phát triển nhiều hình thức liên kết giữa các
doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ
sản phẩm trên cơ sở đảm bảo hài hoà về lợi ích. Tăng tỷ lệ nội địa hoá trong
công nghiệp gia công, lắp ráp. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản
phẩm, bảo hộ sở hữu công nghiệp, bảo vệ môi trường.
Trên cơ sở phương hướng đã xác định Đại hội đề ra mục tiêu phấn đấu:
Nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (kể cả xây dựng) bình quân

trong 10 năm tới đạt khoảng 10 - 10,5%/năm. Đến năm 2010, công nghiệp và
xây dựng chiếm 40 - 41% GDP và sử dụng 23 - 24% lao động. Giá trị xuất
khẩu công nghiệp chiếm 70 - 75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảo đảm cung
cấp đủ và an toàn năng lượng (điện, dầu khí, than); đáp ứng đủ nhu cầu về
thép xây dựng, phân lân, một phần phân đạm; cơ khí chế tạo đáp ứng 40%
nhu cầu trong nước, tỷ lệ nội địa hoá trong sản xuất xe cơ giới, máy và thiết bị
26

×