Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Đảng lãnh đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1996 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN HỮU TOÀN
ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ THỜI KỲ 1996 - 2006

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN VIẾT THẢO

LUẬN VĂN ThS LỊCH SỬ

HÀ NỘI 2006


MỤC LỤC
Mở đầu ...................................................................................................................... 2

Chương 1. Quá trình Đảng cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối hội
nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1996 - 2006 ...................................... 7
1.1. Quá trình nhận thức của Đảng về thế giới, xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế. ............................................................................... 7
1.2. Quá trình xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, phương hướng và
nhiệm vụ của đường lối hội nhập kinh tế quốc tế ............................ 31
Chương 2. Kết quả thực hiện đường lối hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ
1996 - 2006 .................................................................................... 48
2.1. Một số thành tựu nổi bật của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ
1996 - 2006. .......................................................................................... 48
2.2. Hạn chế, khó khăn, trở ngại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời
kỳ 1996 - 2006 ....................................................................................... 81
Chương 3. Một số kinh nghiệm và giải pháp quốc tế trong thời gian tới ........... 89
3.1. Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ


1996 - 2006. .......................................................................................... 89
3.2. Một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế trong thời gian tới .......................................................... 99
Kết luận ................................................................................................................. 109
Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................... 112
Phụ lục ................................................................................................................. 118


BẢNG QUY ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ADB
APEC
AFTA
ASEAN
ASEM
ARF
BTA
CAP
CNXH
ECOTECH
EU
FDI
FEALAC
FTA
FTAA
GATT
GDP
GSTP
đang
IAP
IMF

NAFTA
ODA
WB
WTO
SAFTA
SEV
TAFB
TNC
XHCN

Ngân hàng phát triển châu Á
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
Khu vực mậu dịch Tự do Đông Nam Á
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
Diễn đàn khu vực ASEAN
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ
Kế hoạch hành động tập thể
Chủ nghĩa xã hội
Chương trình Hợp tác kinh tế - kỹ thuật
Liên minh châu Âu
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ Latinh
Cam kết thành lập khu vực mậu dịch tự do
Khu vực Mậu dịch tự do toàn châu Mỹ
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
Tổng sản phẩm trong nước
Hệ thống toàn cầu về ưu đãi thương mại với các nước
phát triển
Kế hoạch hành động quốc gia

Quỹ tiền tệ Quốc tế
Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
Ngân hàng Thế giới
Tổ chức Thương mại Thế giới
Khu vực Mậu dịch tự do Nam Á
Hội đồng tương trợ kinh t ế
Kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại
Công ty xuyên quốc gia
Xã hội chủ nghĩa

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX, thế giới đứng trước những biến động
to lớn, phức tạp: Hệ thống các nước XHCN lâm vào khủng hoảng nghiêm
trọng dẫn đến sự sụp đổ của các chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, làm
thay đổi sâu sắc cục diện chính trị quốc tế. Khoa học, kỹ thuật phát triển đã và
đang có những tác động ở những mức độ khác nhau tới các quốc gia. Bên
cạnh đó, những vấn đề toàn cầu cấp bách ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển của thế giới. Toàn cầu hoá đã trở thành xu thế nổi bật trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội nhân loại. Quá trình ấy diễn ra đặc biệt sôi động trong
lĩnh vực kinh tế. Thực tiễn cho thấy rằng, đây chính là một quá trình tất yếu
khách quan, bắt nguồn từ sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học
công nghệ, một yếu tố chủ yếu tạo nên bước phát triển đột phá về chất của lực
lượng sản xuất. Cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ đã và đang là
nguồn lực thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá, phân công lao động
và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá

cao độ. Những tiến bộ về khoa học, đặc biệt là những phát triển vượt bậc
trong lĩnh vực tin học và viễn thông, đã thu hẹp khoảng cách không gian địa
lý giữa các quốc gia, châu lục, làm cho các nước gắn kết với nhau chặt chẽ
hơn. Do vậy các quốc gia trong cộng đồng thế giới đã có những điều chỉnh
trong quan hệ đối ngoại của mình nhằm thích ứng và phù hợp với tình hình
mới.
Những biến đổi to lớn về tình hình trong nước và quốc tế trong những
thập kỷ cuối của thế kỷ XX đã đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đòi
hỏi Đảng, Nhà nước ta phải xây dựng đường lối chiến lược đúng đắn, phù
hợp; tìm ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự nhạy
cảm về chính trị và kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng đã khởi xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong đó đổi mới về chủ

2


trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế là một bộ phận quan trọng tạo tiền
đề để nước ta tham gia tích cực vào cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
Thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới
là một trong những nhân tố quan trọng đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, phá thế bị bao vây cấm vận, củng cố và nâng cao vị thế của
dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “Đảng lãnh đạo quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế thời kỳ 1996-2006” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu
sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế được giới nghiên cứu
rất quan tâm, hàng loạt công trình nghiên cứu đã ra đời, đề cập đến nhiều
nội dung quan trọng.

Việc nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng, Nhà nước thời kỳ đổi mới đã được đề cập trong các
cuốn sách, báo, tạp chí, đề tài. Cụ thể như: Kim Ngọc: “Các khối kinh tế
trên thế giới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Võ Đại Lược: “Việc
xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3/1997;
Bộ Ngoại giao: “Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Lê Hữu Nghĩa: “Toàn cầu hóa:
Những vấn đề chính trị - xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 22,
tháng 11/1998; Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Lê Đăng Doanh: “Hội nhập quốc tế, cơ
hội và thách thức đối với nền kinh tế nước ta”, Tạp chí Cộng sản, 9/1999;
Bộ Ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh tế đa phương: “Tiến trình hội nhập kinh

3


tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Đề tài nghiên cứu
cấp Bộ, 2000; Nguyễn Mại: “Hội nhập kinh tế với thế giới: Vấn đề và giải
pháp”, Tạp chí Cộng sản, 5/2000; Hoàng Chí Bảo: “Toàn cầu hoá và sự
chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam - mấy vấn đề phương pháp luận
nghiên cứu”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Ban Tư tưởng - Văn
hóa Trung ương: “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế”, Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Nguyễn Thúy Anh: “Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 12, tháng 6/2001; Đảng Cộng
sản Việt Nam: “Nghị quyết của Bộ Chính trị số 07/NQ - TƯ về hội nhập
kinh tế quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Bộ Ngoại giao Vụ Hợp tác kinh tế đa phương: “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế
toàn cầu hoá: Vấn đề và giải pháp”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002; Nguyễn Tấn Dũng: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định

hướng xã hội chủ nghĩa”, Báo Nhân dân, ngày 13/9/2002; Đinh Xuân Lý:
“Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2002; Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê, Hà
Nội, 2003; Vũ Văn Hiền: “Một số vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế”,
Tạp chí Cộng sản, 10/2004; Kim Ngọc (chủ biên): “Kinh tế thế giới 2003:
Đặc điểm và triển vọng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004…
Nhìn chung các tác giả từ nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đề cập
đến chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nói chung và đường
lối hội nhập kinh tế nói riêng từ sau năm 1996. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử
Đảng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế thời kỳ 1996 - 2006.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:

4


Luận văn làm rõ quá trình Đảng ta xây dựng đường lối hội nhập
kinh tế quốc tế; các quan điểm, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của
Đảng từ 1996 - 2006; làm rõ quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện đường lối
hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó luận văn nêu lên một số bài học
kinh nghiệm chủ yếu.
* Nhiệm vụ:
+ Trình bày những cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo đường lối đổi mới.
+ Trình bày quá trình thực hiện đường lối hội nhập kinh tế quốc tế,
những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại.
+ Qua phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế về hội nhập
kinh tế quốc tế, rút ra một số kinh nghiệm và nêu ra một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là quan điểm, chủ
trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng.
- Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề trên trong
khoảng thời gian từ năm 1996 - 2006.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sẽ quán triệt phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những
quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế.
- Nguồn tư liệu chủ yếu của Luận văn gồm: Các văn kiện Đại hội
Đảng, nghị quyết Trung ương các khoá; chỉ thị, ý kiến của Bộ Chính trị và
Ban Bí thư Trung ương Đảng; các bài nói, viết của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước về lĩnh vực đối ngoại.

5


Luận văn kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước viết về hoạt động đối ngoại nói chung đã được in thành sách,
được công bố trên báo, tạp chí, luận án… Đồng thời tích cực khai thác
nguồn tư liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao; Ban đối ngoại Trung ương Đảng;
Trung tâm tư liệu của Viện Thông tin khoa học; Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh… viết về đối ngoại Việt Nam; về kinh tế - xã hội một số
nước trong khu vực; quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ; quan hệ Việt Nam Nhật Bản; quan hệ Việt Nam - Trung Quốc…
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thực hiện luận văn là phương
pháp lịch sử, lô gích, kết hợp với các phương pháp liên ngành như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề luận
văn đặt ra.
6. Những đóng góp của luận văn

- Trình bày và phân tích một cách hệ thống nội dung đường lối,
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình chỉ đạo của Đảng thời kỳ
1996 - 2006.
- Bước đầu nêu lên một vài kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất một số giải
pháp trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.

6


7


Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
XÂY DỰNG ĐƯỜNG LỐI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
THỜI KỲ 1996 - 2006

1.1. Quá trình nhận thức của Đảng về thế giới, xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Quá trình nhận thức của Đảng về một thế giới đang biến đổi và
xu thế toàn cầu hóa
Vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX, thế giới có nhiều biến động to lớn,
phức tạp. Sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã làm thay
đổi cơ bản hệ thống quan hệ chính trị, kinh tế của thế giới. Trước những diễn
biến mới của tình hình thế giới, các quốc gia, trong đó có các nước vừa và
nhỏ, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế đều thực hiện điều chỉnh chiến

lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ bên trong và xu thế phát triển của thế giới, nhằm giành được những
lợi ích cao nhất, hạn chế sự thua thiệt, sự đối xử bất bình đẳng. Biểu hiện nổi
bật của xu thế điều chỉnh chiến lược là các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự
chủ và tự lực tự cường, chủ động trong việc tìm kiếm con đường phát triển
của mình.
Cục diện chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, phức tạp, tạo ra một
bước ngoặt căn bản. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược mạnh mẽ, đẩy mạnh
hòa hoãn và cải thiện quan hệ với nhau. Các nước lớn chuyển hướng hoặc
điều chỉnh chiến lược, chú trọng phát triển nội lực, tăng cường cạnh tranh và
chạy đua kinh tế. Về đối nội, các nước này tích cực đẩy mạnh các chương
trình nhằm chấn hưng về kinh tế như “cải tổ”, “cải cách, mở cửa”. Về đối
ngoại, họ đi vào hòa hoãn, cải thiện quan hệ, vừa hợp tác vừa đấu tranh, kiềm
chế lẫn nhau. Những thay đổi to lớn và cơ bản trong đời sống kinh tế, chính

8


trị thế giới dẫn tới những tập hợp lực lượng mới trên thế giới. Sự kết thúc của
cục diện thế giới “hai cực” thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế. Kinh tế trở thành nhân tố hàng đầu quyết định sức
mạnh tổng hợp từng quốc gia và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Khoa học, kỹ thuật phát triển đã và đang có những tác động ở những
mức độ khác nhau tới các quốc gia. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã
thúc đẩy xã hội hóa sản xuất vật chất, tạo ra những bước nhảy vọt về tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất, đẩy mạnh việc cơ cấu lại các nền kinh tế,
tạo ra nhiều ngành kinh tế mới và thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển. Sự phổ
cập nhanh chóng của hệ thống Internet và các phương tiện hiện đại khác ngày
càng mở rộng giao lưu quốc tế. Đồng thời, xu thế khu vực hóa và toàn cầu

hóa được tăng cường, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia và làm gia tăng
các hoạt động thương mại quốc tế. Cải cách và mở cửa đã xuất hiện như một
trào lưu tại nhiều nước trên thế giới. Để đẩy mạnh cải cách kinh tế và hiện đại
hóa, một số nước đã tiến hành ở mức độ khác nhau quá trình dân chủ hóa và
cải cách chính trị. Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế tạo ra những cơ
hội và động lực cho quá trình phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách
thức đối với tất cả các nước, trước hết là các nước đang phát triển và chậm
phát triển: đe dọa đến chủ quyền quốc gia, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế xã hội, làm sâu sắc thêm chênh lệch giàu nghèo.
Bên cạnh đó rất nhiều vấn đề mang tính toàn cầu như: Dân số, môi
trường, tôn giáo, sắc tộc, bệnh dịch… cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của thế giới.
Tình hình châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói
riêng cũng có những biến đổi sâu sắc. Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX,
tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương có những diễn biến mới:

9


Thứ nhất, là sự nổi lên của tam giác chiến lược mới Mỹ - Trung - Nhật
trở thành nhân tố chủ yếu chi phối an ninh chính trị của khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Hai là, trong khu vực tuy vẫn còn tồn tại nhiều nguy cơ bùng nổ xung
đột như vấn đề hạt nhân ở Bán đảo Triều Tiên; vấn đề Đài Loan; vấn đề tranh
chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc các nước trong khu vực tăng
cường vũ trang, nhưng khu vực châu Á - Thái Bình Dương sau chiến tranh
lạnh vẫn được đánh giá là khu vực yên tĩnh và ổn định nhất của thế giới.
Ba là, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực có tiềm lực lớn và
năng động nhất về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực
phát triển mạnh, sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, quá
trình hợp tác phát triển kinh tế của khu vực cũng đang gặp phải những khó
khăn trở ngại. Đó là: Sự chênh lệch về trình độ và tốc độ tăng trưởng kinh tế

giữa các nền kinh tế; khoảng cách quá lớn giữa các nước giàu và nước nghèo.
Sau chiến tranh lạnh đã xuất hiện những nhân tố mới có thể gây mất ổn định
khu vực, trong đó có nhân tố xuất phát từ sự cạnh tranh giành lợi ích kinh tế,
ảnh hưởng chính trị của một số nước lớn (chủ yếu là giữa Mỹ, Nhật Bản và
Trung Quốc).
Nhận định về tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương sau khi các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô tan rã, Đảng ta đã chỉ rõ: “Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và tiếp tục phát
triển với tốc độ cao. Đồng thời khu vực này cũng tiềm ẩn một số nhân tố có
thể gây mất ổn định” [17, tr.77].
Trong sự phát triển đó, Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng
cao hàng đầu trên thế giới; một số quốc gia và vùng lãnh thổ vươn lên trở
thành những “con rồng”, “con hổ mới” về kinh tế. Các nước trong khu vực
đều có nguyện vọng cùng tồn tại trong hòa bình, hữu nghị và hợp tác để phát

10


triển. Sự hợp tác ngày càng tăng ở nhiều tầng, nhiều nấc và dưới nhiều hình
thức, như Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp
định thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
(SAARC), Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ Latinh (FEALAC)… cùng một
loạt hợp tác “tam giác”, “tứ giác” phát triển khác ra đời. Các quốc gia trong
khu vực đều có lợi ích muốn mở rộng thị trường, phối hợp các nguồn nhân
lực, tài lực, kết cấu hạ tầng và các nguồn tài nguyên trong khả năng sẵn có và
điều kiện của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ cho phép. Các nước đều điều
chỉnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược đối ngoại của mình
cho phù hợp các xu thế chung đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Quan hệ
giữa các nước lớn trong khu vực tuy còn nhiều trục trặc song nhìn chung vẫn
nằm trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, nhưng

tránh đối đầu.
Khu vực Đông Nam Á trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã trở thành
một khu vực phát triển năng động với những bước tiến triển lớn đầy hứa hẹn.
Sau khi Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết vào tháng 10 năm 1991,
quan hệ giữa các nước ASEAN đã thay đổi cơ bản, chuyển từ trạng thái đối
đầu sang đối thoại, thúc đẩy hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Nó đã trở thành
xu hướng chính ở Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh và bước sang thế kỷ mới.
Các nước trong khu vực phấn đấu hiện thực hóa ý tưởng biến Đông Nam Á
thành khu vực phi vũ khí hạt nhân, thống nhất trong đa dạng, hòa bình, ổn
định và hợp tác với tất cả các nước ngoài khu vực. Mặc dù vào cuối những
năm 1990, các nước trong khu vực đã phải trải qua cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ, dẫn đến khủng hoảng về kinh tế - xã hội nghiêm trọng, gây ra
nhiều khó khăn đối với các nước trong khu vực trước thềm của một thiên niên
kỷ mới, song đây vẫn là một khu vực với nhiều tiềm năng và được đánh giá là
một thị trường năng động bậc nhất thế giới.

11


Tuy vậy, môi trường hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực Đông
Nam Á chưa thật vững chắc, vẫn còn tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất
ổn định. Trong nội bộ của một số quốc gia còn tồn tại những mâu thuẫn, xung
đột về chính trị, sắc tộc, tôn giáo, kinh tế, xã hội, biên giới trên đất liền, hải
đảo và trên biển, đặc biệt là cuộc tranh chấp liên quan đến nhiều nước ở biển
Đông. Những diễn biến trong quan hệ giữa các nước lớn có liên quan đến khu
vực và sự dính líu, can thiệp dưới những hình thức mới có thể gây nên không
ít phức tạp cho các quốc gia và quan hệ giữa các nước trong khu vực với
nhau.
Phân tích sâu sắc diễn biến của tình hình giới và khu vực, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) nhận định, có năm xu thế chủ

yếu nổi lên trong quan hệ quốc tế:
“Thứ nhất, hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở
thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước đều
coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh
tổng hợp của quốc gia.
Thứ hai, các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình
hợp tác, liên kết khu vực và quốc tế. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh
tranh cũng rất gay gắt.
Thứ ba, các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường,
đấu tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài.
Thứ tư, các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân,
các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới đang kiên trì đấu tranh vì mục
tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ năm, các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác
vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình” [17, tr.77-78].

12


Từ việc phân tích tình hình thế giới và các xu thế chủ yếu trong quan hệ
quốc tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII kết luận: “Các đặc điểm và xu
thế nêu trên đã làm nảy sinh tính đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và
trong chính sách đối ngoại của các nước. Tình hình thế giới và khu vực tác
động sâu sắc đến các mặt đời sống xã hội nước ta, đưa đến những thuận lợi
đồng thời cũng làm xuất hiện những thách thức lớn” [17, tr.78], đòi hỏi Đảng
và Nhà nước ta phải kịp thời nắm bắt để có những chủ trương phù hợp với
đặc điểm mới của quốc tế.
Trên cơ sở phân tích những xu thế của thế giới những năm đầu thế kỷ
XXI, Đại hội IX của Đảng cho rằng xu thế toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh
mẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả các dân tộc trên thế giới. Toàn cầu

hóa kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ nền kinh tế
thị trường thế giới. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao
động quốc tế đã đạt tới trình độ ngày càng cao. Quá trình toàn cầu hóa về kinh
tế tác động đến lĩnh vực chính trị thông qua các tổ chức chính trị quốc tế như
Liên hợp quốc và các tổ chức của Liên hợp quốc và lan tỏa ra tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đại hội đã chỉ ra
toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhất là về kinh tế, gia tăng
các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý; thúc đẩy giao
lưu văn hóa, trí tuệ, thúc đẩy sự xích lại gần nhau của các dân tộc, tạo ra môi
trường thuận lợi để các nước phát triển kinh tế, văn hóa vì cuộc sống của con
người. Tuy vậy toàn cầu hóa cũng tạo ra những nguy cơ to lớn. Trong quá
trình toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản chi phối, sự bất bình đẳng giữa các
nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng, khoảng cách giàu
nghèo giữa các nước và trong từng nước ngày càng lớn. Toàn cầu hóa cũng
tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, mất độc lập chủ quyền quốc
gia… làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống của con người trở nên kém an
toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính, văn hóa cho đến an toàn về chính trị. Do

13


vậy, Đảng ta đã đề ra chiến lược chủ động hội nhập kinh tế, xuất phát từ việc
thừa nhận lợi ích to lớn của hội nhập, đồng thời là sự nhận thức về những
thách thức to lớn, những nguy cơ không thể xem nhẹ. Từ đó, Đại hội toàn
quốc lần thứ IX của Đảng nhận định “Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh” [19, tr.13].
Với những thành tựu quan trọng qua 20 năm thực hiện đường lối đổi
mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Từ đó, Đại hội đã đưa ra những nhận định về bối cảnh thế giới và trong nước
trong thời gian tới nhằm xây dựng đường lối lãnh đạo cho phù hợp. Đại hội
đã xác định trên thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là một xu thế chủ
yếu. Nền kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn
tiềm ẩn những yếu tố bất trắc, khó lường. “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội
phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn,
thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển” [21, tr.73]. Ở
khu vực Châu Á- Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, xu
thế hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định như: tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên
giới, lãnh thổ, biển đảo… Với những nhận định đó, Đại hội khẳng định trong
những năm tới đất nước ta có nhiều cơ hội lớn để tiến lên, tuy khó khăn còn
nhiều. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội,
vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát
triển nhanh và bền vững hơn.
Những thập niên cuối của thế kỷ XX, trong đời sống kinh tế thế giới đã
diễn ra một xu thế nổi bật: toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế. Thực tiễn cho
thấy, toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế lịch sử, bắt nguồn từ những nguyên
nhân khách quan, mà một trong số đó là sự phát triển như vũ bão của cuộc

14


cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo nên bước phát triển về chất của lực
lượng sản xuất. Với tư cách là bộ phận của lực lượng sản xuất trực tiếp, sự
phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất giữa các quốc
gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hóa cao độ, sự giao lưu kinh tế
đã vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của thị trường từng vùng, từng khu vực.
Hơn nữa, nhờ sự phát triển của khoa học - công nghệ và đi liền với nó là sự

bùng nổ của công nghệ thông tin, hệ thống Internet đã bao trùm toàn cầu, làm
cho quá trình toàn cầu hóa kinh tế ngày càng sâu rộng. Xét từ góc độ đó, cách
mạng khoa học và công nghệ không chỉ là nguyên nhân mà còn là điều kiện,
động lực của toàn cầu hóa.
Xu thế toàn cầu hóa đã tác động sâu sắc tới các mối quan hệ quốc tế và
quá trình hội nhập kinh tế của các nước. Trước xu thế khách quan đó, các
nước trên thế giới (kể cả những nước lâu nay vốn thực hiện chính sách kinh tế
khép kín) cũng từng bước điều chỉnh chính sách kinh tế của mình như điều
chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng mở cửa để đẩy mạnh xuất khẩu, giảm và
tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo môi trường thuận
lợi cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động công nghệ trên
phạm vi toàn cầu để khai thác tối đa lợi thế so sánh phục vụ cho sự phát triển.
Cho đến nay, trên thế giới có các tổ chức, các thể chế mang tính toàn cầu như:
Liên hợp quốc (thành lập ngày 24/10/1945) là tổ chức đa phương toàn cầu
đầu tiên trên thế giới; Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ra đời ngày 27/12/1945; Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại (GATT) ra đời năm 1948 đến năm
1995 được cải tổ thành WTO - Tổ chức Thương mại thế giới; Ngân hàng thế
giới (WB)… Có thể hiểu “Toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên
mạnh mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các
nước và các khu vực. Toàn cầu hóa kinh tế chính là kết quả của sự phát triển
cao độ của quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động quốc tế” [7,

15


tr.9]. Do vậy, toàn cầu hóa là một tất yếu khách quan không phụ thuộc vào bất
kỳ nước nào. Tiến trình toàn cầu hóa kinh tế xuất hiện và phát triển cùng với
sự phát triển của thị trường thế giới. Từ đó có thể nói, toàn cầu hóa kinh tế
chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt mọi biên giới
quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự

vận động và phát triển. Sự gia tăng xu hướng này được thể hiện ở sự mở rộng
mức độ và quy mô thương mại thế giới, ở sự luân chuyển của các dòng vốn và
lao động trên phạm vi toàn cầu. Nói cách khác, thực chất toàn cầu hóa kinh tế,
mà trước hết là tự do hóa thương mại, đầu tư, tài chính… là bước nhảy vọt
mới về chất của quá trình quốc tế hóa kinh tế, là sự chuyển hóa nền kinh tế
thế giới thành nền kinh tế toàn cầu, phù hợp với trình độ mới của lịch sử phát
triển lực lượng sản xuất và sự xã hội hóa của loài người. Thuộc lĩnh vực quan
hệ kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa kinh tế bị quy định bởi các lợi ích cá nhân,
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, quốc gia và quốc tế của các bên tham gia, chịu sự
tác động của quy tắc đối sách lực lượng vốn có trong quan hệ kinh tế quốc tế
nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung.
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ về sự tác động của toàn cầu hóa
đối với nền kinh tế của đất nước, Đại hội IX của Đảng đã nhận định: Toàn cầu
hóa kinh tế là xu thế khách quan. Tính khách quan ấy bắt nguồn từ một loạt
nhân tố khách quan như:
Thứ nhất, theo với đà phát triển của sản xuất hàng hóa, lực lượng lao
động có xu hướng phá bỏ các rào cản ngăn trở sự phát triển của nó, có sự giao
lưu kinh tế dần dần vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của thị trường từng vùng,
từng miền, từng nước, từng khu vực. Tới thời đại tư bản chủ nghĩa thì “đại
công nghiệp tạo ra thị trường thế giới” [30, tr.598].
Thứ hai, sự phát triển của khoa học và công nghệ. Vào thế kỷ XV XVI, sự phát triển của các phương tiện hàng hải đã giúp cho hàng hóa vượt
các châu lực, đại dương. Đường sắt phát triển mạnh ở châu Âu và Bắc Mỹ từ

16


giữa thế kỷ XIX, tầu thủy, xe hơi phát triển vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, đồng thời với sự ra đời của điện tín, điện thoại làm cho nền sản xuất vật
chất có điều kiện vượt biên giới quốc gia và khu vực. Đặc biệt, sự phát triển
như vũ bão của khoa học và công nghệ trong thế kỷ XX, nhất là vào những

thập niên cuối với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, hệ thống Internet bao
trùm toàn cầu làm cho quá trình toàn cầu hóa càng sâu rộng.
Thứ ba, nền sản xuất vật chất phát triển đòi hỏi sự hợp tác, phân công
lao động ngày càng sâu rộng. Trong thế giới ngày nay một sản phẩm thường
là kết quả của sự hợp tác, phân công lao động trên phạm vi quốctế. Sự ra đời
và phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia (TNC) càng làm cho
nền sản xuất mang tính toàn cầu.
Thứ tư, nếu như trước đây khi còn cộng đồng XHCN, Hội đồng tương
trợ kinh tế (SEV), đã tồn tại hai nền kinh tế, hai thị trường, vận động theo các
quy luật khác nhau. Ngày nay nhiều nước XHCN còn lại chủ trương hội nhập
vào nền kinh tế thế giới. Toàn bộ tình hình đó làm cho tính toàn cầu của nền
kinh tế thế giới càng gia tăng. Bên cạnh đó các cường quốc công nghiệp
không còn phân chia thị trường thế giới thành những vùng ảnh hưởng rõ rệt
mà cùng một lúc thâm nhập và cạnh tranh trên mọi thị trường.
Cũng như bất kỳ hiện tượng chính trị - kinh tế - xã hội nào khác, toàn
cầu hóa phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước, giữa các lực lượng
tham gia trong quá trình đó. Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa còn thống trị toàn
thế giới thì điều đương nhiên là quá trình quốc tế hóa chịu sự chi phối hoàn
toàn của các tập đoàn tư bản. Trong thời kỳ hệ thống XHCN thế giới tồn tại,
quan hệ kinh tế chịu sự chi phối bởi sự hợp tác và đấu tranh giữa hai nền kinh
tế: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Từ sau khi Liên Xô sụp đổ, chủ
nghĩa xã hội ở Đông Âu tan rã, tương quan lực lượng trên thế giới thay đổi
không có lợi cho các lực lượng cách mạng. Về kinh tế, các nước công nghiệp
phát triển, nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới, từ sản xuất tới vốn, công

17


nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin, giữ vai trò chủ chốt trong nhiều tổ chức
kinh tế quốc tế, từ đó tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị, các luật chơi có lợi

cho họ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người đang nói tới tính chất đế quốc
của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra hiện nay.
Mặt khác cũng cần thấy rằng, quan hệ quốc tế trong giai đoạn hiện nay,
không phải chủ nghĩa đế quốc muốn làm gì thì làm. Trên vũ đài quốc tế và
các tổ chức quốc tế luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nước công
nghiệp phát triển và đang phát triển, giữa các lực lượng tiến bộ và các lực
lượng đế quốc, vì vậy không ít thỏa thuận phản ánh sự đấu tranh và thỏa hiệp
giữa các lực lượng đó. Chính vì thế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa
hợp tác, vừa có đấu tranh” [19, tr.13].
Toàn cầu hóa có tính chất hai mặt, vừa có tác động tích cực lại vừa có
tác động tiêu cực tới mọi quốc gia. Do đó, sự nhận thức đúng đắn về toàn cầu
hóa sẽ giúp cho mỗi quốc gia có thể nắm bắt được tích cực và hạn chế được
tiêu cực do toàn cầu hóa mang lại. Nhìn chung toàn cầu hóa tạo ra khả năng
phát huy có hiệu quả nguồn lực trong nước và sử dụng các nguồn lực quốc tế
theo nguyên lý lợi thế so sánh. Những tác động tích cực của toàn cầu hóa như:
Với quá trình toàn cầu hóa, thị trường được mở rộng, sự giao lưu hàng
hóa thông thoáng hơn, hàng rào thuế quan và phi thuế quan thuyên giảm nhờ
đó sự trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các quốc gia.
Toàn cầu hóa làm cho dòng vốn cũng vượt qua biên giới quốc gia, nhiều hình
thức đầu tư, hợp tác sản xuất, góp phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so
sánh, giúp các nước tiếp cận được nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài, hình
thành sự phân công lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu tư lẫn bên tiếp thu.
Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, những thành tựu của khoa học và
công nghệ được chuyển giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi, qua đó các

18



nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với chúng để phát
triển.
Mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu đã góp
phần làm cho giá thành sản xuất thuyên giảm, năng suất, hiệu quả cao, giao
lưu thuận tiện.
Về mặt chính trị, quá trình toàn cầu hóa gia tăng tính tùy thuộc lẫn
nhau có lợi cho cuộc đấu tranh cho hòa bình, hợp tác và phát triển và ngay sự
phát triển của các nước công nghiệp cũng tùy thuộc đáng kể vào các nước
đang phát triển. Qua những phương tiện hiện đại, những thành tựu văn hóa
cũng được chuyển tải nhanh chóng hơn.
Mặt khác, toàn cầu hóa cũng gây không ít những tác động tiêu cực và
đặt ra nhiều thách thức đối với loài người, nhất là đối với những nước đang
phát triển. Những tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa bắt nguồn từ nguyên
nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển (nhất là Mỹ) còn chiếm ưu thế
trong nền kinh tế thế giới, thao túng quá trình toàn cầu hóa. Dưới tác động của
quá trình toàn cầu hóa, do các nước công nghiệp phát triển thao túng thì sự
phân cực giữa các nước giàu và các nước nghèo và trong xã hội của từng quốc
gia ngày càng sâu sắc. Nền kinh tế toàn cầu là một nền kinh tế rất dễ bị chấn
thương, sự trục trặc ở một khâu có thể lan nhanh ra phạm vi toàn thế giới.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á vào những năm cuối của
thế kỷ XX đã chứng minh điều đó.
Cùng với toàn cầu hóa, xu thế khu vực hóa vốn nổi lên từ những năm
50 của thế kỷ XX cũng đang phát triển rất mạnh. Xu thế này đã dẫn tới sự ra
đời của hàng chục tổ chức kinh tế - thương mại khu vực. Trong đó đáng lưu ý
nhất là sự ra đời của Liên minh châu Âu (EU) năm 1993 với 15 nước thành
viên, đến ngày 01/5/2004, EU đã kết nạp thêm 10 nước khác nâng tổng số
thành viên của EU lên 25 nước thành viên; Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

19



Á (ASEAN) năm 1967, đến cuối thế kỷ XX đã bao gồm đầy đủ 10 quốc gia
trong khu vực; Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
năm 1989, đến cuối thế kỷ XX đã gồm 21 nền kinh tế thành viên chiếm trên
60% GDP và 50% kim ngạch thương mại thế giới; Khu vực Mậu dịch tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) năm 1994; Hợp tác Á - ÂU (ASEM) năm 1996; Liên minh
châu Phi năm 2002; Khu vực Mậu dịch tự do Nam Á (SAFTA); Khu vực Mậu
dịch tự do toàn châu Mỹ (FTAA)…
Quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, cả hai đều là xu thế khách quan
của thế giới. Nhìn chung, theo quan điểm hiện nay, chủ nghĩa khu vực vừa là
đối tượng cản trở quá trình toàn cầu hóa, lại vừa như là sự chuẩn bị, tập dượt,
là “giai đoạn quá độ”, bước đi cần thiết của các quốc gia trước khi bước vào
hành trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thời kỳ chiến tranh lạnh, liên kết hợp tác
khu vực chủ yếu giữa các nước có cùng chế độ chính trị dưới hình thức liên
minh chính trị - quân sự. Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng hợp
tác khu vực không phân biệt chế độ chính trị - xã hội ngày càng nổi trội. Về
số lượng, các tổ chức khu vực ra đời ngày càng nhiều. Theo các số liệu thống
kê, “trong thập kỷ 60 có 19 tổ chức, thập kỷ 70 có 28 tổ chức, thập kỷ 80 có
32 tổ chức, những năm cuối của thế kỷ XX các tổ chức khu vực đã lên tới con
số khoảng 50” [47, tr.17]. Nội dung của hợp tác khu vực được mở rộng toàn
diện hơn, trong đó hợp tác kinh tế, kỹ thuật, giao lưu về văn hóa trở thành xu
hướng chủ đạo.
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa trên lĩnh vực kinh tế - thương mại
là kết quả của quá trình hợp tác, cạnh tranh, giành giật thị trường quyết liệt
giữa các quốc gia giữa các thực thể kinh tế quốc tế. Nhờ ứng dụng những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cùng những cải tiến trong
quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, mà sức sản xuất ngày càng tăng, sản
phẩm tạo ra ngày càng nhiều, điều đó đòi hỏi mở rộng thị trường, tăng sức
tiêu thụ. Thông qua hợp tác quốc tế, những rào cản thương mại, đầu tư dần


20


được dỡ bỏ, do vậy sản xuất cũng như trao đổi thương mại giữa các nước
ngày càng thuận lợi hơn, tính phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước
ngày càng cao hơn.
Trước xu thế phát triển trên đây của kinh tế, thương mại quốc tế, để
tránh bị tụt hậu trong tiến trình phát triển chung, tất cả các quốc gia đều nỗ
lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế để tồn tại và phát
triển. Đây thực chất là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh trong phân công
lao động quốc tế, phân chia thị trường thế giới. Tình hình thế giới chuyển biến
nhanh chóng, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng
buộc các nước phải thường xuyên tiến hành những cải cách trong nước để
thích ứng với những biến đổi của thế giới. Trong bối cảnh quốc tế vô cùng
phức tạp hiện nay, thì hội nhập quốc tế, xét về thực chất là cuộc đấu tranh
quyết liệt của các quốc gia nhằm phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền, an ninh
quốc gia, củng cố độc lập chính trị, bảo tồn và làm phong phú bản sắc dân tộc
của mình thông qua việc thiết lập các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đan
xen nhiều chiều ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác, khai thác sức mạnh
của thế giới, phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
vị thế của mình trên trường quốc tế.
Tham gia toàn cầu hóa, triển khai hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia
dù lớn, dù nhỏ đều đứng trước cả thời cơ lẫn thách thức. Vấn đề là làm thế
nào để tận dụng triệt để được thời cơ, đồng thời hạn chế, vượt qua được
những thách thức. Ở đây sự thành công hay thất bại tùy thuộc vào hàng loạt
các yếu tố cả chủ quan lẫn khách quan. Trong đó, theo kinh nghiệm của các
nước đi trước, yếu tố chủ quan, tức là sự nhận thức, ý chí chính trị của các lực
lượng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, cùng đường lối, chiến lược, sự lựa chọn
hình thức, bước đi của chính phủ trong quá trình hội nhập luôn đóng vai trò
quyết định.


21


Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ yêu cầu phát triển của
đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng
của vấn đề, coi hội nhập là một tiến trình tất yếu mà trọng tâm là mở cửa kinh
tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng
không gian để phát triển và chiếm vị trí phù hợp, xứng đáng trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Đảng ta không chủ trương theo đường lối biệt lập mà luôn coi
việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong đường lối đối ngoại của mình.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước ta đã vượt qua
một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó
khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt được những
thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đánh giá:
“Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị
tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ
mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [17, tr.67 - 68].
Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo ra thế và lực cho đất
nước. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tạo
ra. Quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới được mở rộng. Khả năng
giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Bên
cạnh những thuận lợi này, bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ của Đại hội VII (1/1994) vẫn là những thách thức to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Các nguy cơ ấy có mối liên hệ tác động
lẫn nhau và đều nguy hiểm, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do
xuất phát điểm của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh

quyết liệt. Có những thế lực vẫn tiếp tục mưu toan thực hiện diễn biến hòa
bình, thường xuyên dùng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng can thiệp

22


vào nội bộ nước ta. Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương và biển
Đông còn diễn biến phức tạp. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa và quan liêu,
tham nhũng vẫn đang thật sự là nguy cơ lớn. Tệ quan liêu, tham nhũng và suy
thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ
máy Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với
chế độ bị xói mòn, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi
hành sai lệch dẫn tới chệch hướng; đó là mảnh đất thuận lợi cho diễn biến hòa
bình.
Nhìn lại đất nước ta, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu sụp
đổ, đất nước rơi vào khó khăn, khủng hoảng, chỗ dựa truyền thống không
còn, chúng ta chưa thiết lập được được các mối quan hệ mới. Trên thế giới, xu
thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ tác động đến nhiều quốc
gia. Nước nào chủ động hội nhập quốc tế tốt sẽ đem lại hiệu quả cao đối với
nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được
tầm quan trọng của chủ trương này. Đại hội IX của Đảng đã nêu mục tiêu
tổng quát của chiến lược 10 năm (2000 - 2010) là “đưa đất nước ra khỏi tình
trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của
nhân dân; tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” [19, tr.159]. Đây
là những mục tiêu cơ bản, quan trọng. Để đạt được nó chúng ta phải đẩy
mạnh sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và thực hiện thành công sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi chúng ta
phải nỗ lực cao trong việc huy động và tích lũy vốn, có công nghệ hiện đại,
kỹ thuật tiên tiến, học tập được những kinh nghiệm quản lý hiệu quả của
những quốc gia đi trước. Mặt khác, chúng ta phải có chủ trương đúng đắn, kịp

23


×