Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Đảng bộ tỉnh nam định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo từ năm 1997 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ THỊ HUỆ

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ THỊ HUỆ

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2006

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:

60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN KIM ĐỈNH

HÀ NỘI - 2011




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

Chương 1. ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC- ĐÀO TẠO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2001 ................................... 8
1.1. Nam Định - vùng đất hiếu học ....................................................................... 8
1.1.1. Tổng quan về tỉnh Nam Định.............................................................. 8
1.1.2. Thực trạng giáo dục - đào tạo Nam Định từ năm 1987 đến năm 1996 ..... 14
1.2. Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo từ năm 1997
đến năm 2001..................................................................................... 20
1.2.1. Yêu cầu chung của đổi mới giáo dục - đào tạo cả nước và Nam Định...... 20
1.2.2. Quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục đào tạo của Đảng bộ tỉnh
Nam Định từ năm 1997 đến năm 2001 ............................................. 30
Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006 .......................... 40

2.1. Đảng bộ tỉnh Nam Định quán triệt vận dụng quan điểm phát triển giáo
dục đào tạo của Đảng ............................................................... 40
2.1.1. Chủ trương phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam ............................................................................... 40
2.1.2. Đảng bộ tỉnh Nam Định đề ra chủ trương và biện pháp phát triển

giáo dục - đào tạo từ năm 2001 đến năm 2006............................... 45
2.2. Quá trình chỉ đạo đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Đảng bộ
Nam Định từ năm 2001 đến năm 2006 ....................................... 50
2.2.1. Quy mô giáo dục đào tạo giảm dần về số lượng, nâng cao và đạt
hiệu quả về chất lượng ở tất cả các cấp học, ngành học và tất cả

các vùng trong tỉnh .................................................................. 50
2.2.2. Nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo ở tất cả các
cấp học và ngành học ............................................................... 53


2.2.3. Công tác lãnh đạo, tổ chức xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục .................................... 58
2.2.4. Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục .............. 62
2.2.5. Công tác xã hội hóa giáo dục ........................................................... 65
2.2.6. Công tác bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, xây dựng Đảng và công
tác thi đua khen thưởng..................................................................... 68
Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM CHỦ YẾU....... 72
3.1. Nhận xét chung về sự lãnh đạo phát triển giáo dục đào tạo của Đảng bộ
tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến năm 2006................................. 72
3.1.1. Những thành tựu cơ bản .......................................................... 72
3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế ............................................................ 76
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu và một số khuyến nghị ............................. 81
3.2.1. Những kinh nghiệm chủ yếu .................................................... 81
3.2.2. Một số khuyến nghị ................................................................ 92
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 99
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 105


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay vấn đề giáo dục luôn có vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế xã hội của đất nước. Ngay từ thời phong kiến, dưới các triều đại
Lý, Trần, Lê đều tổ chức các kỳ thi khoa bảng để tuyển chọn nhân tài, xây
dựng và bảo vệ đất nước.

Trong giai đoạn mới, sau Cách mạng tháng Tám 1945, đặc biệt trải qua
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vượt qua muôn vàn khó khăn
ác liệt, song phong trào thi đua chống “giặc dốt”, thi đua học tập vẫn phát
triển mạnh mẽ với tinh thần “dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy thật
tốt - học thật tốt”.
Sau năm 1975 đất nước thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi như một động lực phát triển
kinh tế - xã hội.
Nằm trong chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước, giáo
dục- đào tạo là một bộ phận của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng
ta sớm khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân
tài” [20, tr.107], đào tạo những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đào tạo những con người có đạo
đức trong sáng, có ý chí nghị lực kiên cường.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới giáo dục và đào tạo, dưới
ánh sáng của các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng, các Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Kết luận
Hội nghị Trung ương 6 khoá IX, nền giáo dục nước ta đã có những chuyển
biến mạnh mẽ đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, là điều kiện để phát huy

1


nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững.
Cùng với sự phát triển chung của giáo dục - đào tạo cả nước, trong
những năm qua giáo dục - đào tạo Nam Định đã có nhiều chuyển biến sâu

sắc. Từ thực tiễn sau khi tái lập tỉnh, trải qua hơn 10 năm xây dựng và phát
triển, giáo dục - đào tạo Nam Định đã vươn lên đáp ứng yêu cầu kinh tế xã
hội của tỉnh, trở thành một trong những địa phương dẫn đầu về giáo dục của
cả nước.
Ngay từ khi mới tái lập, Đảng bộ tỉnh Nam Định phát huy truyền thống
quê hương, xác định rõ vai trò của giáo dục đào tạo, đã quan tâm đầu tư chỉ
đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo, coi đó là một đòn bẩy quan trọng để phát
triển kinh tế xã hội của địa phương, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển
của tỉnh, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua
quá trình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo Nam Định, vai trò của Đảng bộ
tỉnh Nam Định càng được khẳng định.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi đã chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Nam Định
lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo từ năm 1997 đến năm 2006” làm đề
tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây giáo dục - đào tạo luôn được cả xã hội quan tâm và
có nhiều công trình nghiên cứu, tổng kết. Các công trình đó đều hướng tới sự
nghiệp giáo dục - đào tạo mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Nghiên cứu quá
trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong phát triển giáo dục - đào tạo
có nhiều tài liệu có thể chia thành các nhóm loại công trình sau:
Nhóm thứ nhất là hệ thống văn kiện Đảng về giáo dục đào tạo:
- Văn kiện Đại hội VI, VII, VII, IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 2
khoá VIII, Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX về giáo dục. Đây là

2


những nghị quyết chuyên đề đã đưa ra những giải pháp phát triển giáo dục
đào tạo.

Nhóm thứ hai là các tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh, Phạm Văn
Đồng và các nhà nghiên cứu lịch sử về giáo dục đào tạo:
- Hồ Chí Minh, "Bàn về công tác giáo dục", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1972.
Trong cuốn sách này, Người đã nêu bật vai trò cực kỳ quan trọng của công tác
giáo dục. Đặc biệt tác phẩm đã khái quát, phản ánh sự cần thiết của một nền
giáo dục dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Phạm Văn Đồng, "Về vấn đề giáo dục - đào tạo", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999. Một lần nữa vai trò của giáo dục - đào tạo được tiếp tục
khẳng định và để sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ cần có sự nhận thức
đúng đắn, sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân và có được những chính sách hữu
hiệu nhất.
- Đỗ Mười, "Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (tháng
1/1996). Bài viết đã khẳng định: muốn đưa sự nghiệp công nghiệp hóa đất
nước nhanh chóng đến thắng lợi thì dứt khoát phải phát triển mạnh mẽ sự
nghiệp giáo dục - đào tạo.
- GS. TS Phạm Minh Hạc, "Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế
kỷ XXI" , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Trong cuốn sách này, tác giả
đã trình bày tính chất của nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống giáo
dục nước ta qua các giai đoạn lịch sử; phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và
phát triển nguồn lực, các nguồn lực phát triển giáo dục và phương hướng phát
triển giáo dục trong thời gian tới.
- GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên, "Nhân tố mới về giáo dục và đào
tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác phẩm đã nêu bật được những chuyển biến tích
cực về chất lượng dạy và học; có được những kết quả này là do sự cải tiến về
phương pháp của cả thầy lẫn trò, phong trào học tập trong nhân dân được đẩy

3



mạnh. Từ đó xuất hiện những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để góp
phần thực hiện thắng lợi đường lối giáo dục và đào tạo của Đảng.
Những tác phẩm trên chủ yếu đề cập tới quan điểm, chủ trương đường
lối lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo của Đảng. Đây là một vấn đề quan
trọng mà luận văn kế thừa khi giải quyết đề tài.
Nhóm thứ ba là hệ thống các bài báo, tạp chí đã được công bố như Tạp
chí Giáo dục, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử. Nhóm công trình này cung cấp cho đề tài những cái nhìn ở những
phương diện khác nhau về giáo dục một cách chi tiết, cụ thể.
Nhóm thứ tư là các công trình liên quan trực tiếp đến lãnh đạo, thực
hiện phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo Nam Định: Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XV, XVI, XVII, của Hội đồng nhân dân,
UBND tỉnh có phần tóm tắt đánh giá và phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu
chủ yếu của công tác giáo dục - đào tạo; các báo cáo của Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy Nam Định về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII), Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và các báo cáo tổng kết trong các năm học,
tổng kết 10 năm đổi mới ngành giáo dục - đào tạo của Sở Giáo dục - Đào
tạo Nam Định.
- Cuốn sách “Giáo dục và đào tạo Nam Định, thành tựu và đổi mới”,
Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2004), Nxb Thống kê, Hà Nội. Cuốn sách
đã tập trung khái quát những thành tựu của ngành giáo dục đào tạo Nam Định
từ khi đổi mới đất nước đến nay, đặc biệt là thành tựu giáo dục đào tạo của
các huyện, thành phố trong tỉnh.
Bên cạnh đó, đã có nhiều luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, cũng đã đề cập vấn đề giáo dục - đào tạo của các địa
phương:
+ "Đảng bộ thị xã Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo
dục - đào tạo từ năm 1986-2000" của Hà Văn Định.
+ "Đảng bộ Đồng Tháp với chiến lược phát triển giáo dục (19761996)" của Lê Vũ Hùng.


4


+ "Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo từ
1991-2000" của Trần Văn Dũng.
+ "Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lãnh đạo sự nghiệp phát triển giáo dục - đào
tạo từ năm 1991-2000" của Chu Bích Thảo…
Những luận văn trên rất phong phú, đa dạng về nội dung và phạm vi
nghiên cứu, đều nhằm tìm phương hướng cho sự phát triển giáo dục - đào tạo
của từng địa phương cũng như của cả nước và có ý nghĩa nhất định đối với
luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ sự lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo từ năm 1997 đến năm
2006 của Đảng bộ tỉnh Nam Định.
- Phân tích những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình lãnh đạo phát
triển giáo dục đào tạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định và đề xuất khuyến nghị
phục vụ sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Nam
Định vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn địa phương để
phát triển giáo dục đào tạo từ năm 1997 đến năm 2006.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong lĩnh vực phát triển giáo
dục đào tạo thể hiện ở những chủ trương, biện pháp và tổ chức thực hiện từ
năm 1997 đến năm 2006.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung luận văn nghiên cứu những chủ trương đường lối của Đảng

bộ Nam Định trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo từ năm
1997 đến năm 2006.
- Thời gian và không gian:
+ Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1997 đến năm 2006.

5


+ Không gian mà đề tài nghiên cứu là Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo trên các phương diện cơ bản: quan
điểm, chủ trương và quá trình tổ chức triển khai thực hiện.
5. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu và hướng sử dụng
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận Mác xít và những quan điểm của Hồ Chí
Minh về giáo dục và đào tạo.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử,
lôgíc, phân tích, tổng hợp thống kê nhằm làm rõ nội dung nghiên cứu.
5.2. Nguồn tư liệu và hướng sử dụng
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là cơ sở lý luận của luận văn.
- Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI; các Nghị quyết Trung ương
4 khoá VII, Trung ương 2 khoá VIII về giáo dục; Chỉ thị 34-CT/TW; các văn
kiện của Đảng bộ tỉnh Nam Định.
- Các Nghị quyết Đại hội và Nghị quyết chuyên đề, chương trình hành
động của Đảng bộ Nam Định; các Chương trình, báo cáo của UBND tỉnh, Sở
Giáo dục - Đào tạo Nam Định…
- Các công trình nghiên cứu, khảo sát thực tế có liên quan.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ những chủ trương của Đảng bộ Nam Định về phát triển giáo
dục đào tạo, trên cơ sở đó xây dựng các khuyến nghị để góp phần phát triển

giáo dục đào tạo của địa phương.
- Khẳng định những thành tựu và phân tích kinh nghiệm trong lãnh đạo,
chỉ đạo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo của Đảng bộ Nam Định từ năm
1997 đến năm 2006.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy
lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
kết cấu, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo phát triển giáo dục- đào
tạo từ 1997 đến năm 2001.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo đẩy mạnh đổi mới giáo
dục đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ năm 2001 đến
năm 2006.
Chương 3: Nhận xét chung và những kinh nghiệm chủ yếu.

7


Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2001
1.1. Nam Định - vùng đất hiếu học
1.1.1. Tổng quan về tỉnh Nam Định
Nam Định là tỉnh duyên hải ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, phía Đông
Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái Bình, phía Bắc và Tây

Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp tỉnh Ninh Bình. Nam Định có diện tích tự
nhiên 1.671,5km2, bằng 6,52% diện tích của nước, dân số trên 1,8 triệu người.
Nam Định là vùng đất nằm giữa hạ lưu hai con sông lớn của đồng bằng
Bắc Bộ là sông Hồng và sông Đáy, hàng năm cung cấp một lượng phù sa lớn
cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Sông Hồng chảy từ xã Mỹ Trung thuộc
huyện Mỹ Lộc qua thành phố Nam Định và các huyện Nam Trực, Trực Ninh,
Xuân Trường, Giao Thuỷ rồi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt tạo thành địa giới
tự nhiên giữa hai tỉnh Nam Định và Thái Bình. Sông Đáy chảy vào Nam Định
từ xã Yên Phương huyện Ý Yên qua huyện Nghĩa Hưng rồi đổ ra biển Đông ở
cửa Đáy trở thành địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình.
Với bờ biển dài 72 km từ cửa Ba Lạt cho đến cửa Đáy, đây là vùng có tiềm
năng kinh tế quan trọng trong khu vực biên phòng bờ biển của quốc gia. Nam
Định còn có hệ thống giao thông đa dạng và thuận lợi với 6.898km đường bộ,
417 km đường sông và đường biển, 42 km đường sắt chạy qua rất thuận tiện
cho giao lưu và thông thương hai miền Nam - Bắc.
Địa hình Nam Định chia làm hai vùng tự nhiên. Phía Bắc là vùng bị bào
mòn, bồi tụ phù sa cổ, đất thấp, có những giải võng tạo thành địa hình ô trũng
(Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc). Đây là vùng có nhiều khả năng thâm canh phát
triển nông nghiệp, công nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí
và ngành nghề truyền thống. Phía Nam tỉnh do được phù sa sông Hồng và
sông Đáy bồi đắp, hàng năm thường lấn ra biển hàng chục mét, đất đai tương

8


đối bằng phẳng, màu mỡ. Người dân Nam Định đã tiến hành công cuộc khai
khẩn lấn biển, đắp đê ngăn mặn, đào ngòi tiêu nước, thau chua rửa mặn, cải
tạo đồng ruộng. Cuộc chiến đấu chinh phục và chiến thắng thiên nhiên ở vùng
đất này là bản anh hùng ca của nhiều thế hệ. Người Nam Định đã tích luỹ, đúc
rút được nhiều kinh nghiệm cho sự mở mang miền đất lấn biển và làm cho

vùng đất này ngày càng phồn thịnh và đã hình thành một cộng đồng đoàn kết,
gắn bó keo sơn sinh cơ lập nghiệp. Sự đoàn kết này còn tạo thành và làm
phong phú thêm nét đẹp truyền thống văn hoá làng xã bình dị nhưng giàu tính
nhân văn.
Dựng nước gắn liền với đấu tranh giữ nước là một quy luật sinh tồn,
phát triển của dân tộc. Đó cũng là một truyền thống quý báu của nhân dân
Nam Định. Truyền thống đó đã thấm sâu vào tâm linh mọi người và trở thành
một trong những nét nổi bật của văn hoá Nam Định.
Nổi bật trong truyền thống văn hoá của người dân Nam Định là lòng
say mê học tập và sáng tạo, rèn luyện đức tài, nâng cao tinh thần và thể lực
theo mục tiêu yêu nước, hiếu học, kính thầy, mến bạn. Truyền thống hiếu học
là một đặc tính chung của người dân Việt Nam và ở mảnh đất Nam Định
truyền thống đó lại càng hiện hữu rõ nét hơn. Trong tiến trình phát triển của
lịch sử Việt Nam, Nam Định xưa vẫn được coi là một vùng đất văn hiến mặc
dù không cổ kính lâu đời như các xứ Bắc, xứ Đông, xứ Đoài. Mảnh đất này là
nơi cung cấp nhiều nhân lực, vật lực cho đất nước. Dân cư Nam Định có
truyền thống hiếu học, khoa cử, có vai trò tích cực trong công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế, tiêu biểu như Vương Văn Hiệu đỗ Thám hoa dưới thời
Lý. Đây là nhà khoa bảng đầu tiên của tỉnh Nam Định. Nguyễn Hiền đỗ
Trạng nguyên năm 13 tuổi (1247), Trạng nguyên Lương Thế Vinh dưới thời
Lê, nhà thơ Tú Xương, Nguyễn Bính, Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng, nhiều nhà yêu
nước nổi tiếng như Văn Cao, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Phúc, đặc biệt là cố
Tổng bí thư Trường Chinh - nhà chính trị, nhà văn hoá lớn của quê hương
Nam Định… “Trong hơn 800 cử nghiệp của cả nước thì Nam Định có 87 vị

9


đại khoa, trong đó có 5 trạng nguyên, 3 người đỗ bảng nhãn, 3 người đỗ thám
hoa, 14 người đỗ hoàng giáp, 62 người đỗ tiến sĩ và phó bảng (hai huyện

nhiều hơn cả là Nam Trực và Ý Yên)” [1, tr.35].
Kể từ sau khi Đảng bộ Nam Định được thành lập và lãnh đạo cuộc đấu
tranh giành chính quyền, Đảng bộ tỉnh đã phát động nhiều phong trào thi đua
học tập. Diệt giặc dốt được xác định là một trong ba nhiệm vụ mà chính
quyền cách mạng có trách nhiệm phải đẩy lùi. Đến cuối năm 1945 các huyện
đã mở lớp đào tạo giáo viên bình dân học vụ, đáp ứng phong trào học tập của
các xã. Với sự thi đua người người đi học, nhà nhà đi học, chỉ trong một thời
gian ngắn toàn tỉnh đã thành toán nạn mù chữ cho hàng chục vạn người.
Nếu như vào thời điểm năm 1945 toàn tỉnh có trên 92% dân số mù chữ
thì đến thời điểm năm 1954 đã có 93% số người trong độ tuổi từ 18 đến 45
biết đọc, biết viết. Đây là thành quả to lớn của đường lối giáo dục đúng đắn
của Đảng và Nhà nước đã đề ra kết hợp với sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ
tỉnh và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân trong tỉnh.
Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hoà bình lập lại, cùng với các
địa phương khác trên toàn miền Bắc bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo khắc phục những hậu quả chiến tranh, bước
đầu khôi phục kinh tế, văn hoá xã hội và giáo dục. Tháng 3 năm 1959 Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ II đã diễn ra. Đại hội đã đánh giá tình hình của tỉnh sau 5
năm khôi phục kinh tế xã hội và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho ba năm
tiếp theo. Đối với ngành giáo dục đào tạo Đại hội cũng chủ trương xác định
đây là một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tỉnh
nhằm mục tiêu nâng cao dân trí, phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh, nền giáo dục đào tạo Nam Định đã có những chuyển biến khởi
sắc. Tính đến năm 1960 toàn tỉnh đã căn bản hoàn thành xoá mù chữ trong
nhân dân, thành lập thêm nhiều trường cấp I, cấp II, và ba trường cấp III nâng
tổng số học sinh phổ thông cả ba cấp lên 124.580 em. Đến năm 1965 mỗi

10



huyện trong tỉnh đã thành lập được một trường cấp III, mở hai trường sư
phạm (sơ cấp và trung cấp), mỗi khoá đào tạo hơn 600 giáo viên, đồng thời
tiến hành xây dựng thí điểm ở hai xã và thành phố ba trường phổ thông
chuyên nghiệp nông nghiệp và công nghiệp. Đến giữa năm 1965, Nam Định
là một trong 4 tỉnh được công nhận hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
về bổ túc văn hoá, được đón nhận Huân chương lao động hạng Ba và Bằng
khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn miền
Bắc hai năm 1966-1968 Nam Định đã đạt nhiều giải cao: năm 1966 đạt 24/73
giải, năm 1968 đạt 4 giải đồng đội và 27/51 giải cá nhân. Đặc biệt vào năm
học mới 25/10/1968 ngành giáo dục đào tạo Nam Định khi đó là Nam Hà đã
vinh dự được đón nhận thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau khi hoà bình lập lại, đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào cải tạo
xã hội chủ nghĩa, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) và lần thứ V
(1981) của Đảng đã xác định vị trí của giáo dục là nền tảng văn hoá của một
nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt cơ sở ban đầu rất trọng yếu
cho sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc cải cách giáo dục được đặt ra cấp thiết. Ngày 11/1/1979, Bộ Chính
trị đã thông qua Nghị quyết số 14/NQTW về cải cách giáo dục nhằm làm tốt
hơn việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thơ ấu đến lúc trưởng thành,
thực hiện phổ cập giáo dục trong nhân dân. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3
bắt đầu từ 1981, tiến hành trên cả ba mặt: Hệ thống giáo dục, nội dung và
phương pháp dạy học.
Ngày 23/6/1975 Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Hà lần thứ III đã diễn ra tại
Thành phố Nam Định. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ trong hai
năm 1975- 1976 với trọng tâm là: Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của
Đảng bộ, phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ tập thể của quần chúng và hiệu
lực quản lý của chính quyền, thấu suốt tư tưởng cách mạng, ý thức tự lực cánh
sinh, ra sức khai thác, sử dụng mọi tiềm năng và những điều kiện thuận lợi
mới, quyết tâm xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an


11


ninh chính trị và trật tự xã hội, góp phần tích cực xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Đến ngày 5/9/1977, Ban thường vụ Tỉnh uỷ ra Chỉ thị về tăng cường
công tác giáo dục, thực hiện mục tiêu nguyên lý giáo dục, đẩy mạnh phong
trào đồng khởi thi đua “Hai tốt” theo các điển hình tiên tiến; phát triển sự
nghiệp giáo dục một cách cân đối, vững chắc, đồng bộ theo tinh thần phổ cập
các ngành học, cấp học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện để đào tạo
lớp người lao động mới; chuẩn bị tích cực mọi mặt cho cải cách giáo dục;
hướng mọi hoạt động của nhà trường vào việc hoàn xuất sắc các nhiệm vụ
chính trị của địa phương, nhất là nhiệm vụ xây dựng kinh tế, thực hiện nếp
sống mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các địa phương tập trung xây dựng
trường lớp, mua sắm trang thiết bị dạy và học theo phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm. Đến năm học 1976-1977 toàn tỉnh đã xây mới được 704
phòng học bằng ngói và 290 phòng học bằng tre nứa, có 36 xã hoàn thành xây
dựng trường học cao tầng, đồng thời chú trọng đào tạo đội ngũ giáo viên, mở
rộng các loại hình đào tạo nhằm tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng
giáo viên. Năm 1977 tỉnh đã tổ chức sơ kết chiến dịch “Ánh sáng văn hoá”,
xoá mù chữ cho 1990 đoàn viên, thanh niên; triển khai phong trào vừa học
vừa làm ở 33 xã của huyện Hải Hậu và 31 xã của huyện Nam Ninh. Chất
lượng giáo dục của tỉnh có nhiều tiến bộ, đặc biệt là năm học 1977-1978, tỉ lệ
học sinh thi tốt nghiệp cấp I, II đạt 96%, cấp III đạt 94%. Bốn đội tuyển tham
gia học sinh giỏi miền Bắc đoạt hai giải nhất, một giải nhì, 22 em đoạt giải cá
nhân, đưa ngành giáo dục Hà Nam Ninh trở thành một trong những địa
phương đầu ngành về giáo dục của miền Bắc.
Từ năm 1981 đến năm 1985 thực hiện chương trình cải cách giáo dục từ

hệ 10 năm lên hệ 12 năm, đưa chương trình giáo dục hướng nghiệp vào
trường học, thực hiện huy động đóng góp của học sinh theo phương châm
“Nhà nước và nhân dân cùng làm”, đồng thời xây dựng quỹ bảo trợ trường

12


học. Ngày 6/7/1981 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Thông tri số 37-TT/TU về chỉ
đạo công tác nâng cao chất lượng giáo dục, yêu cầu các cấp uỷ Đảng, chính
quyền chăm lo giải quyết tốt vấn đề đời sống vật chất và tinh thần cho giáo
viên; thành lập Hội đồng giáo dục các cấp, động viên đông đảo nhân dân và
cha mẹ học sinh cùng với nhà trường tham gia quản lý tốt chất lượng giáo
dục, tham gia xây dựng nội dung giáo dục trên một số mặt, phối hợp với nhà
trường chăm lo giáo dục đạo đức và công tác hướng nghiệp cho học sinh. Bên
cạnh đó, Đảng bộ tỉnh luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng trong các
trường học. Ngày 26/12/1985 Hội nghị Tỉnh uỷ đã ra Nghị quyết về công tác
giáo dục phổ thông. Nghị quyết đã quyết định một số vấn đề: Trong kế hoạch
ngân sách hàng năm phải đầu tư thích đáng cho ngành giáo dục; tiếp tục thực
hiện phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, song phải vận dụng
thích hợp với tình hình của tỉnh, thống nhất chế độ đóng góp với phụ huynh
học sinh; nhân điển hình Bắc Lý ra toàn tỉnh, nâng cao chất lượng trường
năng khiếu của tỉnh, củng cố hệ thống trường sư phạm.
Kế thừa truyền thống hiếu học “Tôn sư trọng đạo”, quán triệt các Nghị
quyết Trung ương về công tác giáo dục, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo ngành giáo
dục và đào tạo tuyên truyền, vận động, tổ chức giáo viên và học sinh nâng cao
chất lượng giảng dạy, học tập, phát động “Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn
thắng” trong giáo dục. Vượt qua những khó khăn về đời sống và cơ sở vật
chất, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo tiếp tục duy trì phong trào thi đua “Hai tốt”, thực
hiện chương trình cải cách giáo dục, xây dựng nhiều trường lớp mới. Kết quả,
các đoàn đi thi học sinh giỏi toàn quốc của tỉnh luôn đứng ở thứ hạng cao, các

kỳ thi tốt nghiệp và tuyển chọn chuyển cấp được thực hiện nghiêm túc và đạt
kết quả cao. Sự nghiệp giáo dục phổ thông, bổ túc văn hoá, giáo dục chuyên
nghiệp có chuyển biến theo hướng cải cách giáo dục, đáp ứng yêu cầu học tập
của thanh thiếu niên. Đó chính là động lực lớn để giáo dục đào tạo Nam Định
nỗ lực vượt qua những khó khăn của đời sống xã hội hoàn thành tốt nhiệm vụ
mà Đảng và nhân dân giao phó. Bên cạnh đó cũng giống như tình hình giáo

13


dục chung trong cả nước còn nhiều khó khăn, trong quá trình vận động và
phát triển nhằm xây dựng nền giáo dục mới, sự nghiệp giáo dục đào tạo Nam
Định không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế cần phải khắc phục, đặc biệt
trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Tự hào về những truyền thống tốt đẹp của quê hương, những thành tựu
đã đạt được, Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo phát triển giáo dục đào tạo
bước vào giai đoạn mới với những thành tựu mới.
1.1.2. Thực trạng giáo dục - đào tạo Nam Định từ năm 1987 đến năm 1996
Bước vào thời kỳ mới, tháng 12-1986 tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI
của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có giáo dục đào tạo. Mục đích của đổi mới giáo dục - đào tạo là: “Nhằm mục tiêu hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào
tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu
cầu phân công lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại
học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào đổi mới quản lý kinh tế và xã
hội” [17, tr.89-90].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), Đảng ta tiếp
tục khẳng định và phát triển đường lối đổi mới trong đó có giáo dục - đào tạo.
Đại hội đã cụ thể hóa về đổi mới giáo dục và đào tạo: “Mục tiêu giáo dục và
đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình
thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự

chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có
năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần” [18, tr.81].
Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu nêu trên, Đại hội đã đề ra những
nhiệm vụ cơ bản, cụ thể sau:
Tiếp tục đổi mới, ổn định, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo. Coi trọng chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh, sinh viên.

14


Hiện đại hóa một bước nội dung, phương pháp giáo dục, tiến hành dân
chủ hóa nhà trường và quản lý giáo dục. Đại hội chủ trương đa dạng hóa loại
hình đào tạo và loại hình trường lớp, từng bước hình thành những trường bán
công, dân lập, tư thục (dạy nghề), phát triển loại trường vừa học vừa làm. Mở
rộng đào tạo nghề, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho người
lao động. Củng cố, ổn định trường lớp của giáo dục mầm non. Tập trung thực
hiện chương trình phổ cập giáo dục cấp I và chống mù chữ. Phát triển cấp II,
cấp III phù hợp với tình hình thực tế.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng
01-1993) đã thông qua Nghị quyết "Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và
đào tạo" với 4 quan điểm chỉ đạo cơ bản:
Thứ nhất: Tiếp tục khẳng định cùng với khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy
và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một
trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi
trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai: Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức... nhằm đáp ứng

nhu cầu phát triển đất nước.
Thứ ba: Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước,
vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
Thứ tư: Đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối
tượng chính sách đều được đi học.
Để thực hiện những quan điểm chỉ đạo trên, Nghị quyết đã đề ra những
chủ trương, chính sách và biện pháp lớn sau:
Trước hết, tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc
dân củng cố các trường công, chuyển một số trường công sang bán công.

15


Khuyến khích mở các trường, lớp dân lập. Khuyến khích mở rộng các loại
hình giáo dục và đào tạo không chính quy... nhằm từng bước xã hội hóa giáo
dục, huy động mọi người dân cùng tham gia, đóng góp cho sự nghiệp giáo
dục - đào tạo.
Sắp xếp lại hệ thống các trường nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, sử
dụng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Sắp xếp lại các trường đại học, cao
đẳng, các viện nghiên cứu khoa học cho hợp lý.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với sự nghiệp giáo
dục. Nhà nước ban hành hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và xây dựng
kế hoạch, chương trình cụ thể nhằm thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của
giáo dục - đào tạo. Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng
làm" nhằm huy động các đoàn thể, các tổ chức xã hội, mọi gia đình, mọi
người cùng chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo dục.
Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục: Thực hiện
chính sách khuyến khích đối với giáo viên. Có chính sách ưu đãi đặc biệt về
tiền lương và phụ cấp đối với giáo viên ở những nơi khó khăn thuộc vùng

cao, vùng sâu, hải đảo và một số vùng miền núi. Kết hợp đào tạo với bồi
dưỡng đối với giáo viên. Đồng thời đổi mới quản lý giáo dục và đào tạo; tăng
cường công tác thanh tra giáo dục của Nhà nước.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương, Đảng bộ Nam Định đã tiến hành
lãnh đạo công cuộc đổi mới giáo dục - đào tạo.
Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách giáo dục, đảm bảo cho sự
nghiệp giáo dục các ngành học, cấp học phát triển cân đối vững chắc, đồng
bộ, phù hợp với khả năng kinh tế của tỉnh trong từng thời gian, ngày
24/1/1987 Ban thường vụ Tỉnh uỷ đã ra Nghị quyết số 34-NQ/TU chỉ đạo
“công tác nuôi dạy trẻ và giáo dục phổ thông trong 5 năm (1986 - 1990)”.
Nghị quyết đề ra mục tiêu trong 5 năm là: ổn định, củng cố các nhà trẻ, phấn
đấu 90% các cháu 5 tuổi đến lớp mẫu giáo, hoàn thành chất lượng công tác
phổ cập cấp I, củng cố hệ thống trường phổ thông, trường vừa học vừa làm,

16


trường sư phạm, ưu tiên đầu tư kinh phí cho giáo dục, kiện toàn đội ngũ giáo
viên.
Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới giáo dục của Đảng, Tỉnh uỷ
và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ thị cho ngành giáo dục phải tích cực đổi mới
cách nghĩ cách làm để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo với cuộc sống,
phục vụ các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương. Đảng bộ tỉnh đã chỉ
đạo ngành giáo dục triển khai đồng bộ các mặt hoạt động. Trong điều kiện
còn nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống các cấp ngành học giữ vững được
quy mô, nhịp điệu phát triển, hoàn thành 94% chỉ tiêu đã đề ra. Riêng năm
học 1987- 1988 đã có 36% trẻ em trong tuổi mẫu giáo, nhà trẻ đến lớp, 96%
trẻ em 6 tuổi được vào lớp 1 cải cách, 469/526 xã, phường đã hoàn thành phổ
cập giáo dục cấp I. Nam Định là một trong những tỉnh thành đầu tiên trong cả
nước hoàn thành nhiệm vụ phổ cập cấp I vào năm 1991. Đây là một trong

những thành tựu nổi bật rất đáng tự hào của giáo dục đào tạo Nam Định ngay
những năm đầu của thời kỳ đổi mới, là cơ sở để Đảng bộ tỉnh tiếp tục chỉ đạo
hoàn thành và vượt mức các kế hoạch đã đề ra.
Quán triệt nội dung nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng chính trị đạo
đức trong các nhà trường theo Nghị quyết số 19-NQ/TU ngày 1/11/1988 của
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác giáo dục
chính trị, đạo đức trong toàn bộ hệ thống giáo dục của tỉnh. Các nhà trường
vận dụng những kinh nghiệm đã có, đề ra nhiều biện pháp cụ thể: Giáo dục
tập thể, giáo dục cá biệt, giáo dục ngoài giờ, công tác chủ nhiệm, công tác
Đoàn, Đội, xây dựng tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa, kết hợp giáo dục nhà
trường, gia đình, xã hội… Phong trào nhân dân tham gia xây dựng cơ sở vật
chất cho trường học được duy trì liên tục, rộng khắp và có hiệu quả. Hà Nam
Ninh đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá là tỉnh có phong trào xây
dựng trường lớp mạnh nhất, đặc biệt là hệ thống trường lớp kiên cố cao tầng
đã được xây dựng. Trong 9 năm liền (1981- 1990) giáo dục đào tạo Nam Định

17


được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là đơn vị tiên tiến xuất sắc, là một
trong những tỉnh có phong trào giáo dục mạnh nhất cả nước.
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Hà lần thứ VIII đã thông qua
Nghị quyết về phổ cập giáo dục, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo
nghề cho thanh niên. Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ ngành giáo dục của tỉnh đến
năm 1995: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực và đào tạo nhân tài nhưng
phải phù hợp với mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Giáo
dục đào tạo phải coi trọng chất lượng trí dục và đức dục cho học sinh. Nâng
cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ. Từng bước phổ cập
cấp II ở những nơi có yêu cầu. Điều chỉnh mạng lưới trường phổ thông trung
học, chuyên nghiệp, dạy nghề, mở rộng các loại hình dân lập, bán công, ghép

cấp II-III phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Củng cố và nâng cao chất
lượng trường chuyên, lớp chọn. Mở thêm trường cho trẻ khuyết tật, mồ côi”
[11, tr.49].
Nhờ có quan điểm đúng đắn và sự chỉ đạo sát thực, cụ thể của Đảng bộ
tỉnh nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII của Đảng và
Nghị quyết của Tỉnh ủy về giáo dục và đào tạo, đã thực sự tạo nên những
bước chuyển biến mới về mặt nhận thức của toàn xã hội đối với vị trí, vai trò
của giáo dục đào tạo. Từ đó đã huy động được mọi nguồn lực tập trung cho
phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo. Đến năm 1996, toàn tỉnh có 213 trường
mầm non, 195 trường tiểu học, 179 trường THCS, 38 trường PTTH, 05
trường trung học chuyên nghiệp - dạy nghề, 05 trung tâm GDTX, 01 trung
tâm xúc tiến việc làm của Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh và các
Trung tâm dạy ngoại ngữ, tin học khác. Số lượng học sinh, sinh viên ở các
cấp học, ngành học tăng nhanh, đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Nề nếp dạy và
học ở các cấp học, ngành học được củng cố và giữ vững, chất lượng giáo dục
có những bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường cao
đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề trong toàn tỉnh ngày càng
tăng, năm học 1992-1993 có 1023 em, chiếm tỷ lệ 31%; năm học 1994-1995

18


có 2.562 em, chiếm tỷ lệ 37%, đặc biệt có nhiều em đạt thủ khoa. Số lượng
sinh viên vào đại học, cao đẳng đạt khá cao trong cả nước; chất lượng học tập
của học sinh, sinh viên được nâng lên: Năm học 1994-1995, kết quả học tập
của học sinh khối trung học chuyên ban: loại tốt chiếm 35,76%, loại khá
chiếm 47,54%, loại trung bình chiếm 24,34% và loại yếu, kém chiếm 01,35%.
Đến năm học 1996-1997 tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Tiểu học đạt 96,3%, THCS
đạt 95%, THPT đạt 87%.
Đội ngũ giáo viên tiếp tục được xây dựng và tăng cường về số lượng và

chất lượng. Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo hàng năm
được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Ngay từ trước năm 1991 ở Nam
Định đã xoá được phòng học tạm. Từ đó, phong trào “kiên cố hoá phòng học,
lim hoá bàn ghế” phát triển mạnh ở tất cả các huyện, thành phố. Đến năm
1996, Nan Định đã xoá được lớp học 3 ca, xoá phòng học tạm. Có 60% số xã,
phường, 50% số trường trong tỉnh có nhà kiên cố (mái bằng, cao tầng).
Nếu trong những năm 1986-1990, sự nghiệp giáo dục đào tạo tỉnh Nam
Định đánh giá là “Được duy trì, có một số mặt ổn định và phát triển”, chỉ
trong 5 năm từ 1991 đến 1995, với những thành tích đáng kể, giáo dục đào tạo
Nam Định đã được khẳng định và được ghi nhận đạt được những thành tích to
lớn, đã ngăn chặn sự sa sút, từng bước ổn định và phát triển, trở thành một
trong những địa phương có thành tựu lớn về giáo dục nhất là việc hoàn thành
phổ cập giáo dục cấp I và xoá mù chữ; tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp cấp III và
thi đậu Đại học luôn đứng ở tốp trên của cả nước.
Từ một tỉnh có hơn 90% dân số mù chữ trong thời Pháp thuộc và hơn
30% dân số mù chữ trước đổi mới, đến năm 1996 Nam Định đã có hơn 90%
dân số biết chữ, đại bộ phận nhân dân có trình độ học vấn từ tiểu học trở lên
và trở thành một trong những tỉnh có nền học vấn phát triển tương đối cao
trong vùng và trong cả nước. Đồng thời, giáo dục chuyên nghiệp đã đào tạo
hàng vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có bậc
thợ cao, tay nghề giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức kỷ luật cao, có quyết

19


tâm lớn, cần cù, sáng tạo luôn phấn đấu vì sự nghiệp đổi mới toàn diện quê
hương, đất nước.
Bên cạnh đó, đến năm 1996, giáo dục đào tạo Nam Định còn gặp không
ít khó khăn thách thức: Các ngành học, quy mô có tăng nhưng chưa thực sự
thích nghi với sự chuyển biến của xã hội, của nền kinh tế thị trường. Giáo dục

mầm non chậm phát triển. Tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học còn diễn ra,
nhất là học sinh tại các huyện xa trung tâm tỉnh và học sinh tiểu học. Nhận
thức của xã hội và các cấp, các ngành đối với giáo dục đào tạo có chuyển
biến, song chưa đáp ứng được yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4 (khoá
VII) “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”; ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp
so với nhu cầu thực tế phát triển giáo dục đào tạo của tỉnh. Cơ chế quản lý ngân
sách chưa phù hợp, chưa phát huy và chủ động trong việc điều hành sử dụng
kinh phí thường xuyên và kinh phí chương trình mục tiêu. Đội ngũ giáo viên
còn thiếu, chưa đồng bộ, trình độ năng lực còn hạn chế so với yêu cầu ngày
càng cao của chất lượng giáo dục. Việc quản lý của các cấp từ sở đến trường
có lúc chưa theo kịp với yêu cầu mới, nhiệm vụ mới: chậm đổi mới phương
pháp dạy và học, còn hiện tượng trì trệ, lúng túng ở một số khâu, một số công
việc nên hiệu quả chưa cao. Nguồn thông tin ngược từ dưới cơ sở lên thường
chậm, nhiều khi không chính xác, gây không ít khó khăn cho công tác lãnh
đạo, quản lý.
1.2. Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo từ
năm 1997 đến năm 2001
1.2.1. Yêu cầu chung của đổi mới giáo dục - đào tạo cả nước và Nam Định
Thời đại ngày nay với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại, xuất hiện loại hình công nghệ cao như công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa. Những
thành tựu đó có khả năng nâng cao năng lực tư duy của con người và có những
tác động sâu rộng đến mọi khả năng kinh tế - xã hội của quốc gia từ sản xuất đến
tiêu dùng, từ mức sống đến lối sống, từ kinh tế đến giáo dục đào tạo, đã và đang

20


đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát triển của nhân loại, thực sự là động lực,
là lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời là nền tảng của nền kinh tế hiện đại,

nền kinh tế dựa trên tri thức. Vậy làm thế nào để nắm bắt, vận dụng những thành
tựu của nhân loại tạo ra để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
tránh cho đất nước khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Đây là một thách thức
lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Để tránh được nguy
cơ đó đòi hỏi con người phải có tri thức và làm chủ được khoa học công nghệ,
làm chủ được xã hội. Vì vậy, đối với nước ta hiện tại cũng như tương lai phải
thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi
ích trăm năm trồng người”, phải ưu tiên đầu tư cho giáo dục đào tạo. Sự ưu tiên
này thể hiện ở cả nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn lực khác, trong nước
và quốc tế bao gồm: tài lực, nhân lực, vật lực, trí lực ngày càng tăng, đáp ứng
được mọi nhu cầu thực tế của sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã có sự chuyển
mình thực sự. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6-1996)
Đảng ta đã kết luận: "Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc,
song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [20, tr.12]. "Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước
chung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ
quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa" [20, tr.27]. Đồng thời, Đảng
ta cũng khẳng định sự nghiệp CNH, HĐH với tính cách là một cuộc cách
mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để
xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

21



×