Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Nghiên cứu, thiết kế xây dựng hệ thống giám sát vị trí và một vài thông số của ôtô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

KHOA ĐIỆN - CƠ

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NHIỆM VỤ
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
Họ và tên sinh viên: PHẠM VĂN TÙNG .Số hiệu sinh viên: 127510301045
Khóa: 2013 - 2015. Khoa: Điện - Cơ. Ngành: Điện Công Nghiệp Và Dân Dụng.
1. Tên đề tài:
Nghiên cứu, thiết kế xây dựng hệ thống giám sát vị trí và một vài thông số của
ôtô.
2. Các số liệu ban đầu:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
3. Nội dung các phần cần thuyết minh và tính toán:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................


Sinh viên: Phạm Văn Tùng

1


4. Các bản vẽ, đồ thị ( ghi rõ các loại và kích thước bản vẽ ):
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
5. Họ tên cán bộ hướng dẫn:...................................................................................
6. Ngày giao nhiệm vụ đồ án:................................................................................
7. Ngày hoàn thành đồ án: ....................................................................................
Ngày ....... tháng ....... năm 2015
Trưởng bộ môn

Cán bộ hướng dẫn

( Ký, ghi rõ họ, tên)

( Ký, ghi rõ họ, tên)

Sinh viên đã hoàn thành và nộp đồ án tốt nghiệp ngày…. tháng …. năm 2015
Người duyệt

Sinh viên

( Ký, ghi rõ họ, tên)


( Ký, ghi rõ họ, tên)

Sinh viên: Phạm Văn Tùng

2


PHẦN NHẬN XÉT TÓM TẮT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
1. Tinh thần, thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp.
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
2. Đánh giá chất lượng của Đ.T.T.N. (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong
nhiệm vụ Đ.T.T.N trên các mặt lý luận thực tiễn, tính toán giá trị sử dụng, chất
lượng các bản vẽ ...)
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………
3. Cho điểm của cán bộ hướng dẫn:
(Điểm ghi bằng số và chữ)
Ngày .... tháng ...... năm 2015
Cán bộ hướng dẫn chính
(Họ tên và chữ kí)


Sinh viên: Phạm Văn Tùng

3


NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA NGƯỜI CHẤM PHẢN BIỆN
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
1.

Đánh giá chất lượng của đề tài tốt nghiệp về các mặt thu thập và phân tích

số liệu ban đầu, cơ sở lý luận chọn phương án tối ưu, cách tính toán chất lượng
thuyết minh và bản vẽ, giá trị lý luận và thực tiễn đề tài.
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………
2. Cho điểm cán bộ chấm phản biện
(Điểm ghi bằng số và chữ)

Ngày ..... tháng ..... năm 2015
Người chấm phản biện


Sinh viên: Phạm Văn Tùng

4


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bản đồ án tốt nghiệp: “Nghiên cứu, thiết kế xây dựng
hệ thống giám sát vị trí và một vài thông số của ôtô” do em tự trình bày dưới
sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Trọng Thắng, Trường Đại Học Dân
Lập Hải Phòng với các số liệu, hình vẽ và kết quả là hoàn toàn đúng với thực tế.
Để hoàn thành đồ án này em chỉ sử dụng những tài liệu được ghi trong
danh mục tài liệu tham khảo và không sao chép hay sử dụng bất kỳ tài liệu nào
khác. Nếu phát hiện ra có sự sao chép em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hải phòng, ngày … tháng … năm 2015
Sinh viên thực hiện

Phạm Văn Tùng

Sinh viên: Phạm Văn Tùng

5


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Nguyễn
Trọng Thắng – người đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em hoàn
thành đồ án tốt nghiệp này.
Em cũng tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý Thầy, Cô đã dạy em trong thời
gian học tại trường Đại Học Hải Phòng, cảm ơn quý Thầy, Cô của khoa Điện –

Cơ trường Đại Học Hải Phòng, Thầy Nguyễn Trọng Thắng – trường Đại học
Dân lập Hải Phòng đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho em hoàn thành đồ án này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các anh, chị, các bạn trong lớp liên thông Điện
công nghiệp và dân dụng khóa LT K4 – những người đã giúp đỡ em trong quá
trình thực hiền đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên: Phạm Văn Tùng

6


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, công nghệ phát triển nhanh chóng, công nghệ
thông tin đã được áp dụng vào mọi ngành nghề, lĩnh vực trong xã hội. Đặc biệt
trong lĩnh vực giao thông lại càng cần thiết phải ứng dụng công nghệ thông tin,
tình trạng tai nạn giao thông đang hàng ngày cướp đi sinh mạng của rất nhiều
con người. Tai nạn giao thông (TNGT) là vấn đề xã hội bức xúc gây thiệt hại to
lớn về người và tài sản . Hàng năm tai nạn giao thông đường bộ (TNGTĐB) làm
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

7


chết trên 10.000 người và bị thương khoảng 10.000 người. Riêng năm 2010,
theo báo cáo tham luận của Tổng cục đường bộ Việt Nam (ĐBVN) tại Hội nghị
quốc tế báo cáo chiến lược đảm bảo trật tự ATGT đường bộ quốc gia đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030 thì cả nước đã xảy ra 13.713 vụ TNGT đường

bộ, làm chết 11.060 người, bị thương 10.306 người Theo ông Khuất Việt Hùng,
Quyền Vụ trưởng Vận tải, Bộ Giao thông Vận tải, hiện nay 80% số vụ tai nạn
giao thông có nguyên nhân từ những hành vi như: chạy xe quá tốc độ, lái xe
trong tình trạng sức khỏe không đảm bảo như mệt mỏi, buồn ngủ, có sử dụng
chất kích thích. Chính vì vậy mà BGTVT đã quy định rõ tại điều 12 nghị định số
91/2009/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2009 về kinh doanh và điều kiện kinh
doanh vận tải bằng xe ô tô là bắt buộc phải lắp đặt thiết bị giám sát hành trình để
kiểm soát tốc độ, hành trình của xe giúp giảm thiểu tan nạn giao thông (1). Từ
ngày 01/07/2013, xe buýt, xe khách, xe hợp đồng và xe container không có thiết
bị giám sát hành trình thì chủ xe sẽ bị phạt từ 2 đến 3 triệu đồng. Doanh nghiệp
có 20% số phương tiện chạy quá tốc độ sẽ bị tước giấy phép kinh doanh. 1 Theo
BGTVT tới nay đã có 53 doanh nghiệp được cấp phép sản xuất là lắp đặt thiết bị
giám sát hành trình. Nhưng trên thực tế thanh tra kiểm tra vừa qua bộ giao thông
đã tước giấy phép kinh doanh của nhiều đơn vị do thiết bị vận hành không lưu
được dữ liệu, không chiết xuất được dữ liệu cần thiết từ thiết bị, thiết bị hay bị
mất kết nối,… Chính vì những hạn chế này, tôi mong muốn nghiên cứu được
một thiết bị giám sát có chất lượng tốt để góp phần giám sát các phương tiện
tham gia giao thông để giảm thiểu tai nạn giao thông. Luận văn này tôi sẽ
nghiên cứu trình bày theo hướng tìm giải pháp để xây dựng một hệ thống hoàn
chỉnh bao gồm thiết bị giám sát hành trình, phần mềm xử lý tại trung tâm và
phần mềm giám sát trên bản đồ Google.

Sinh viên: Phạm Văn Tùng

8


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THIẾT BỊ GIÁM SÁT HÀNH TRÌNH
1. Khái quát chung

Từ ý tưởng của Max Maria von Weber thiết bị giám sát đầu tiên đã được
lắp và sử dụng trên phương tiện giao thông đường sắt vào năm 1835. Năm 1902,
một kỹ sư người Đức là Otto Schulze đã đăng ký bằng sáng chế cho loại thiết bị
ghi tốc độ dựa trên hiệu ứng của dòng điện Phu-cô. Thiết bị này được sử dụng
trên các xe của hãng ô tô E. Seignol ở Frankfurt/Main năm 1908. Sự phát triển
có tính đột phá phải kể tới loại thiết bị của hãng Kienzle do kỹ sư Paul Riegger
thiết kế vào thập niên 20 của thế kỷ trước. Đây chính là thiết bị khởi tổ của loại
thiết bị theo dõi hành trình có kết cấu như một chiếc đồng hồ “Autorex –Uhr”
được lắp trên các xe ô tô sau này. Thiết bị Kienzle cho phép ghi lại hành trình
vận hành xe dưới dạng đồ thị Quãng đường - Thời gian. Ở Đức, việc bắt buộc
các xe kinh doanh vận tải có khối lượng toàn bộ trên 7,5 tấn phải trang bị “Thiết
bị giám sát” đã được quy định trong Luật An toàn Giao thông công bố ngày 1912-1952. Hiện nay, việc trang bị Thiết bị giám sát đã được quy định bắt buộc
cho tất cả các loại xe tải có khối lượng toàn bộ từ 3,5 tấn và xe khách trên 9 chỗ
ngồi kinh doanh vận tải. Từ năm 1985, theo Quy định EEC 3821/85 thì việc
trang bị Thiết bị giám sát đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các nước
thành viên thuộc Liên hiệp châu Âu (EU). Tuy nhiên, cũng theo quy định trên,
một số loại xe dưới đây không bắt buộc phải trang bị Thiết bị giám sát:
- Xe chở khách theo tuyến có chiều dài tuyến không lớn hơn 50 km;
- Xe có vận tốc lớn nhất không lớn hơn 40 km/h;
- Xe vận chuyển vì mục đích nhân đạo, xe cứu thương, xe cứu hộ, xe cứu
hỏa;
- Xe phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng;
- Xe chạy thử phục vụ nghiên cứu, phát triển mẫu xe mới
1.2 Các loại thiết bị giám sát
Thiết bị giám sát có 2 loại chính là thiết bị giám sát cơ khí và thiết bị giám
sát điện tử.
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

9



-Thiết bị giám sát cơ khí
Thiết bị giám sát cơ khí có kết cấu giống như một chiếc đồng hồ.Bộ phận
chính của loại thiết bị này gồm một tấm giấy hình tròn (đĩa giấy) có thể quay
theo trục đồng hồ thời gian, một đầu ghi có khả năng dịch chuyển trong phạm vi
đĩa giấy; Độ dịch chuyển của đầu ghi tùy thuộc vào tốc độ chạy xe. Khi đĩa giấy
quay hết một vòng thì tương đương với một khoảng thời gian là 24 giờ. Việc
kiểm chuẩn và niêm phong đối với thiết bị này được thực hiện 2 năm một lần.
Ngoài ra, khi có sự thay đổi về cỡ lốp hoặc tiến hành sửa chữa các bộ phận khác
có liên quan tới thông số đầu vào của thiết bị thì đều phải kiểm chuẩn lại
Nhược điểm cơ bản của loại thiết bị này dễ bị làm sai lệch các thông tin hiển thị
so với thực tế. Một số cách thức làm sai lệch kết quả ghi hay được lái xe áp
dụng như: làm cong thanh gắn đầu ghi hoặc đặt một vật mềm cản trở khả năng
dịch chuyển của đầu ghi nhằm giảm bớt tốc độ ghi trên giấy; làm sai lệch điện áp
cấp cho đồng hồ để thay đổi về thời gian; tráo đổi đĩa giấy khác... Ngoài ra, việc
lưu trữ, tra cứu dữ liệu chạy xe khi cần thiết cũng rất khó khăn và tốn nhiều thời
gian.
-Thiết bị giám sát điện tử
Ngày nay, trên hầu hết các xe lưu hành ở châu Âu đều lắp Thiết bị giám
sát điện tử . Với loại thiết bị này, về cơ bản đã loại trừ được các nhược điểm nêu
ở trên của loại Thiết bị giám sát cơ khí. Ngoài ra, để chống việc làm sai lệch
thông số hiện thị bằng các thiết bị tạo xung tự chế (như với xe Taxi ở Việt Nam)
người ta đã mã hóa tín hiệu xung lấy từ hộp số. Ngày nay hệ thống GLONASS
vẫn được Cộng hoà Nga tiếp tục duy trì hoạt động. Hệ thống GLONASS bao gồm
30 vệ tinh chuyển động trong ba mặt phẳng quỹ đạo (nghiêng 64.8 độ so với mặt
phẳng xích đạo) xung quanh trái đất với bán kính 25.510 km (Yasuda, 2001).
Theo Quy định EEC 561/2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-5-2006 thì
tất cả các xe thuộc đối tượng phải trang bị Thiết bị giám sát, khi đăng ký lưu
hành mới đều phải lắp loại Thiết bị giám sát điện tử; Loại thiết bị này phải có
khả năng lưu trữ được thông tin của tối thiểu 365 ngày và cho phép kết xuất dữ

liệu theo yêu cầu quản lý. Các thông tin chính được lưu trữ trong Thiết bị giám
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

10


sát gồm: Ngày sản xuất của thiết bị và của đầu cảm biến tốc độ; Số khung/số
nhận dạng (VIN) của xe ô tô; Các bộ phận an toàn; Các sự cố đặc biệt như: quá
số vòng quay, các lần làm sửa đổi số liệu; Thống kê các lỗi trong thiết bị hoặc
trong thẻ truy cập cấp cho lái xe; Nhận dạng người lái và việc vận hành xe của
người lái (thời gian lái, nghỉ, dừng...); Tốc độ chạy xe; Quãng đường chạy xe;
Thông tin về cơ sở sửa chữa và các lần hiệu chỉnh thiết bị; Thông tin về các lần
bị kiểm tra, kết xuất dữ liệu. Một số yêu cầu chính về kỹ thuật đối với Thiết bị
giám sát như:
+ Có thể chỉnh đặt được giờ theo giờ gốc quốc tế;
+ Việc tự chỉnh lại thời gian chỉ cho phép tối đa là 1 phút/mỗi tuần.
Trường hợp cần điều chính lớn hơn mức trên thì phải đưa tới Cơ sở hiệu chỉnh
được Cơ quan có thẩm quyền đánh giá công nhận;
+ Độ sai lệch cho phép của thiết bị khi kiểm tra trên băng thử như sau:
- Quãng đường hiển thị so với quãng đường thử thực tế không lớn hơn 1%
nhưng không được vượt quá 1 km
- Tốc độ hiển thị so với tốc độ thực tế không lớn hơn 3 km/h;
- Thời gian hiển thị so với thời gian thực tế không lớn hơn 2 phút/ngày
nhưng không quá 10 phút cho 7 ngày (1 tuần).
+ Độ sai lệch cho phép của thiết bị sau khi đã được lắp lên xe như sau:
- Quãng đường hiển thị so với quãng đường thử thực tế không lớn hơn 2%
nhưng không được vượt quá 1 km;
- Tốc độ hiển thị so với tốc độ thực tế không lớn hơn 4 km/h;
- Thời gian hiển thị so với thời gian thực tế không lớn hơn 2 phút/ngày
nhưng không quá 10 phút cho 7 ngày (1 tuần). - Độ sai lệch cho phép của thiết

bị khi xe đưa vào khai thác sử dụng như sau:
- Quãng đường hiển thị so với quãng đường thử thực tế không lớn hơn 4
% nhưng không được vượt quá 1 km; o Tốc độ hiển thị so với tốc độ thực tế
không lớn hơn 6 km/h;
- Thời gian hiển thị so với thời gian thực tế không lớn hơn 2 phút/ngày
nhưng không quá 10 phút cho 7 ngày (1 tuần).
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

11


Ngoài các yêu cầu được quy định trong các văn bản pháp quy, các thiết bị
giám sát điện tử thường có thêm một số tính năng phụ trợ như: cảnh báo thời
gian lái cho phép (ví dụ không quá 4 giờ), cảnh báo tốc độ (ví dụ không quá 80
km/h), có sẵn cổng dự phòng dùng cho việc kết nối với các thiết bị theo dõi,
giám sát khác theo yêu cầu quản lý riêng của từng doanh nghiệp vận tải...
1.3 Quản lý Thiết bị giám sát và Thẻ truy cập
Do thiết bị giám sát đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm
bảo an toàn khi xe lưu hành và liên quan tới nhiều tổ chức cá nhân nên ở các
nước thuộc EU việc quản lý thiết bị này được thực hiện rất chặt chẽ, đồng bộ.
Tất cả các loại Thiết bị giám sát khi đưa vào lắp trên xe đều phải được Cơ
quan đăng kiểm kiểm tra, chứng nhận, cấp mã số đăng ký kỹ thuật. Các nội dung
kiểm tra cụ thể là:
- Kiểm tra, chứng nhận cho kiểu loại Thiết bị (khi chưa lắp lên xe) ;
- Kiểm tra sự tương thích giữa xe, đầu cảm biến đo quãng đường và thiết
bị khi lắp đặt lên xe;
- Kiểm tra định kỳ tình trạng kỹ thuật của Thiết bị giám sát lắp trên xe
(thường được thực hiện luôn khi xe vào kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường)
Nhiều loại xe sản xuất lắp ráp mới đã được nhà sản xuất xe lắp sẵn Thiết

bị giám sát theo thiết kế được Cơ quan Đăng kiểm kiểm tra, chứng nhận để cung
cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải
Bên cạnh việc quản lý kỹ thuật đối với Thiết bị giám sát, Cơ quan đăng
kiểm còn có nhiệm vụ tổ chức việc cấp phát và quản lý các loại thẻ truy cập
Thiết bị giám sát. Cách quản lý thẻ có một số nét tương tự như thẻ ATM đang
được sử dụng rộng rãi trong hệ thống ngân hàng ở nước ta. Thẻ truy cập Thiết bị
giám sát là loại thẻ nhựa gắn chíp điện tử. Thẻ có 4 loại để cấp cho 4 đối tượng
khác nhau liên quan trực tiếp tới việc sử dụng, quản lý thiết bị. Mỗi đối tượng sử
dụng thẻ chỉ được phép truy cập trong phạm vi phân cấp nhất định như sau:
- Thẻ cấp cho người lái
- Thẻ cấp cho cơ sở sửa chữa thiết bị
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

12


- Thẻ cấp cho doanh nghiệp
- Thẻ cấp cho kiểm soát viên
1.4 Quản lý dữ liệu
Theo Quy định 3821/85 và 6561/2006 của Ủy ban kinh tế châu Âu,
doanh nghiệp có xe hoặc chịu trách nhiệm về pháp luật đối với việc khai thác sử
dụng các xe phải có trách nhiệm lưu trữ, bảo quản các dữ liệu có trong Thiết bị
giám sát và cung cấp các dự liệu này khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền
nhà nước. Việc kết xuất, lưu trữ bảo quản dữ liệu của doanh nghiệp như sau:
- Sau mỗi khoảng thời gian không quá 28 ngày phải thực hiện việc kết
xuất đối với dữ liệu trong Thẻ cấp cho lái xe.
- Sau mỗi khoảng thời gian không quá 3 tháng phải thực hiện việc kết
xuất đối với dữ liệu có trong Thiết bị giám sát lắp đặt trên xe;
- Các dữ liệu kết xuất từ Thiết bị giám sát và Thẻ cấp cho lái xe phải được
lưu trữ tại Doanh nghiệp trong thời hạn tối thiểu là 1 năm.

- Đối với các đĩa giấy sử dụng trên các Thiết bị giám sát cơ khí lắp đặt
trước đây phải lưu trữ trong thời hạn tối thiểu là 1 năm; Riêng đối với các đối
tượng lái xe chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của Luật Lao động là 2 năm.
Doanh nghiệp có thể bị ra tòa nếu vi phạm một trong số các điều khoản
nêu trên; ngoài ra, cũng phải liên đới chịu trách nhiệm đối với các vi phạm của
lái xe do mình thuê, mướn, quản lý.
Trách nhiệm lưu trữ dữ liệu đối với cơ sở sửa chữa hiệu chỉnh Thiết bị
giám sát cũng được quy định cụ thể. Khi thay thế, sửa chữa Thiết bị giám sát thì
cơ sở sửa chữa phải có trách nhiệm kết xuất và lưu trữ dữ liệu có trong Thiết bị
trong thời hạn tối thiểu là 2 năm và cung cấp các dữ liệu này khi có yêu cầu của
Doanh nghiệp vận tải (chủ xe) hoặc cơ quan có thẩm quyền.
Tại Việt Nam đã có một số hệ thống triển khai như:
- Công ty TNHH phát triển công nghệ điện tử Bình An. Địa chỉ: P314,
B8, Thanh Xuân Bắc, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.
- Công ty TNHH thương mại điện tử Vĩnh Hiên (VECOM) Địa chỉ: Số
12, đường Bàu Cát, P13, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh.
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

13


- Công ty TNHH viễn thông TIT Địa chỉ: Số 59/27/1 Trần Phú, Quận 5,
TP. Hồ Chí Minh.
1.5 Khái niệm về thiết bị giám sát hành trình
Hộp đen ô tô hay còn gọi là hộp đen GPS( thiết bị giám sát hành trình),
thiết bị định vị ô tô, hay thiết bị giám sát hành trình. Thiết bị này có kích thước
khoảng 4 x10cm được thiết kế chắc chắn, có vỏ bằng kim loại chống va đập và
chống sốc, phù hợp với điều kiện nhiệt độ cao khoảng 70 - 80 độ C, phù hợp
trong điều kiện thời thiết khắc nghiệt. Hộp đen GPS cho ôtô được gắn bên trong
xe, nó kết nối với hệ thống server quản lý online qua SMS/GPRS/GPS giúp

người dùng có thể quản lý phương tiện của mình thông qua máy tính hoặc điện
thoại có kết nối Internet. Mọi thông số về vị trí, tốc độ, quãng đường di chuyển,
điểm dừng đỗ, đóng mở cửa, nhiên liệu… đều được hiện thị trên màn hình máy
tính của người quản lý 24/24h, mọi lúc, mọi nơi trên thế giới. Mọi thông tin dữ
liệu của phương tiện đều được lưu trữ trên máy chủ server, và bên trong hộp đen
trong thời gian 3 – 6 tháng gần nhất.
1.6. Giới hạn của thiết bị giám sát hành trình
- Hệ thống GPS
+ Phần vũ trụ: hay cón gọi là bộ phận không gian là một hệ thống gồm
nhiều vệ tinh bay chung quanh trái đất theo các quỹ đạo khác nhau được điều
khiển bởi bộ phận điều khiển.
Gồm 24 vệ tinh quay xung quanh trái đất 2 lần trong ngày quỷ đạo rất chính
xác. Độ cao của vệ tinh so với mặt đất là 20.183 km. chu kỳ quy xung quanh trái
đát là 11 giờ 57`58″.
Phần vũ trụ sẽ đảm bảo cho bất kỳ vị trí nào trên trái dất đều có thể quan
sát đươc 4 vệ tinh ở góc độ 15 độ (Nếu góc ở ngưỡng 10 độ thì có thể quan sát
được 10 vệ tinh và ở góc ngưỡng 5 độ có thể quan sát được 12 vệ tinh).

Sinh viên: Phạm Văn Tùng

14


Nhiệm vụ chủ yếu của vệ tinh :
– Ghi nhận và lưu trữ các thông tin truyền đi từ phần điều khiển.
– Sử dụng dữ liệu có chọn lọc trên vệ tinh.
– Duy trì chính xác độ cao của thời gian bằng các đồng hồ nguyên tử.
– Chuyển tiếp thông tin đến người dùng.
– Thay đổi quỹ đạo bay của vệ tinh theo sự điều khiển của mặt đất.
+Phần điều khiển

Là một hệ thống các thiết bị đặt tại nhiều nơi khác nhau trên mặt đất được
sử dụng để giám sát và điều khiển các vệ tinh.
Gồm một trạm điều khiển chính, 5 trạm thu số liệu, 3 trạm truyền số liệu.


Trạm diều khiển chính đặt tại Colorade Spring (Mỹ) có nhiệm vụ thu

thập các dữ liệu theo dõi vệ tinh từ các trạm thu số liệu để xử lý. Công nghệ
xử lý gồm : Tính lịch thiên văn, tính và hiệu chỉnh đồng hồ, hiệu chỉnh quỹ đạo
điều khiển, thay thế các vệ tinh ngừng hoạt động bằng các vệ tinh dự phòng.
15
Sinh viên: Phạm Văn Tùng




5 trạm thu dữ liệu được đặt tại Hawai, Collrade Sping , Ascesion ( Ban

Đại Tây Dương), Diago Garia ( Ấn Độ Dương), Kwayalien ( Nam Thái Bình
Dương). Có nhiệm vụ theo dõi các tín hiệu vệ tinh để kiểm soát và dự đoán quỹ
đạo của chúng. Mỗi trạm được trang bị những máy thu P-code để thu các tín
hiệu của vệ tinh, sau đó truyền về trạm điều khiển chính.


3 trạm truyền số liệu đặt tại Ascensionm Diago Garia , Kwayalein có

khả năng chuyển số liệu lên vệ tinh gồm lịch thiên văn mới, hiệu chỉnh đồng hồ,
các thông điệp cần phát các lệnh điều khiển từ xa.
+ Phần sử dụng
Các thiết bị gps lắp đặt trên phương tiện hoặc đem theo người (điện thoại

di động, đồng hồ, máy ảnh…).
Thiết bị GPS là thiết bị có chức năng thu được tín hiệu phát ra từ các vệ
tinh và tự tính toán vị trí của nó dựa trên các thông tin thu được. Như vậy, về
bản chất, tọa độ thiết bị GPS là kết quả tính toán từ thông tin về vị trí, khoảng
cách giữa thiết bị GPS và các vệ tinh mà nó có thể kết nối được. Việc thu phát
của hệ thống GPS được thực hiện theo tần suất là 1 giây một lần.
- Hệ thống giám sát các thông số khác
+ Tốc độ xe chạy.
Đối với thiết bị giám sát hành trình hiện nay sẽ thế hiện được vận tốc thực
tế khi xe chạy và vận tốc được đo qua GPS . Thời gian cập nhật vôn tốc của
phýõng tiện được tính bằng giây .
Mục đích của tính năng này nhằm theo dõi được vận tốc di chuyển của xe
và đưa ra các cảnh báo khi xe chạy vượt quá tốc độ cho phép .
+ Hành trình xe chạy
Hành trình xe chạy sẽ được cập nhật trực tuyến trên wedsite của công ty
và phân bố cho các acount người dùng để quản lý. Khi xe bắt đầu hành trình
thiết bị được gắn trên các phương tiện sẽ đồng thời gửi các thông số về sever .
Hành trình của xe sẽ được lưu trữ lại trên sever một thời gian để cho
người dùng có thể xem trực tiếp hoặc truy xuất các dữ liệu cũ của phương tiện .
+ Số lần và thời gian dừng đỗ
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

16


Số lần và thời gian dừng đỗ sẽ được thiết bị ghi nhận lại khi xe dừng , tất
cả các điểm dừng đỗ của xe đều được phần mềm ghi nhận lại và hiển thị trong
các báo cáo . Thời gian dừng đỗ bao lâu , trong hành trình xe chạy dùng đỗ bao
nhiêu lần .
+ Số lần đóng mở cửa của xe

Mục đích của tinh năng này nhằm quản lý số lần đóng mở cửa của xe,
nhất là đối với xe khách , theo dõi xe có mở đóng cửa để đón trả khách đúng
điểm quy định .
Để thực hiện được tính năng này thì thiết bị sẽ phải lấy tín hiệu trực tiếp
từ công tắc đóng mở cửa của xe .

Sinh viên: Phạm Văn Tùng

17


CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHUNG
2.1 Giới thiệu chung về GPS
Hệ thống định vị toàn cầu GPS cung cấp các dịch vụ chính xác cho người
sử dụng ở mọi lúc mọi nơi trên phạm vi toàn cầu. Các dịch vụ đó bao gồm:
- Xác định tọa độ.
- Dẫn đường.
- Cung cấp thời gian chính xác.
- Kiểm soát vận tốc. Hiện nay có 2 hệ thống GPS phổ biến cùng tồn tại,
đó là hệ thống Glonass-GPS của Nga và hệ thống Navstar-GPS của Mỹ. Cả hai
hệ thống này đều cung cấp các dịch vụ dẫn đường có độ chính xác tương đương
nhau. Tuy nhiên, hệ thống Glonass-GPS của Nga hiện vẫn chưa hoàn thiện do
những hạn chế về tài chính. Hiện nay, hệ thống Navstar-GPS được sử dụng phổ
biến trên thế giới. Hệ thống này do hải quân Mỹ thiết lập từ năm 1978. Ban đầu
hệ thống này chủ yếu phục vụ các nhu cầu định vị, dẫn đường trong quân sự của
Mỹ. Đến năm 1980 hệ thống đã được sử dụng cho các lĩnh vực dân sự. ở Việt
Nam đã áp dụng hệ thống định vị Navstar-GPS của Mỹ trên một số các lĩnh vực:
hàng hải, địa chính, cá nhân,…
Lịch sử phát triển GPS

+Những năm 1920: Đã ra đời hệ thống dẫn đường vô tuyến
+ầu Đại chiến thế giới thứ 2: LORAN là hệ thống dẫn đường áp dụng
phương pháp đo độ lệch thời gian của tín hiệu sóng vô tuyến, do Phòng thí
nghiệm Bức xạ Đại học MIT (MIT Radiation Laboratory). LORAN cũng là hệ
thống định vị trong mọi điều kiện thời tiết thực sự đầu tiên, nhưng hai chiều (vĩ
độ và kinh độ).
+1957: Vệ tinh Sputnik của Nga được phóng lên vũ trụ. Đại học MIT cho
rằng tín hiệu vô tuyến điện của vệ tinh có thể tăng lên khi chúng tiếp cận trái đất
và giảm đi khi rời khỏ trái đất và do vậy có thể truy theo vị trí từ mặt đất

Sinh viên: Phạm Văn Tùng

18


+1959: TRANSIT, hệ thống dẫn đường dựa trên vệ tinh hoạt động đầu
tiên, do Phòng thí nghiệm vật lý ứng dụng Johns Hopkins phát triển dưới sự chỉ
đạo của TS Richard Kirschner. Mặc dù khởi đầu Transit được chế tạo để hỗ trợ
cho đội tàu ngầm của Mỹ nhưng những công nghệ này đã được phát triển có ích
trở thành Hệ thống định vị toàn cầu. Vệ tinh Transit đầu tiên được phóng lên vũ
trụ vào năm 1959.
+1960: Hệ thống dẫn đường đo hiệu thời gian ba chiều (kinh độ, vị độ và
độ cao longitude, latitude and altitude) đầu tiên do Raytheon Corporation đề
xuất theo yêu cầu của Air Force để làm hệ thống dẫn đường sẽ được sử dụng với
(with a proposed ICBM) có thể đạt tới độ lưu động bằng chạy trên một hệ thống
đường ray. Hệ thống dẫn đường được trình bày là MOSAIC (Mobile System for
Accurate ICBM Control). Ý tưởng này bị hỏng khi chương trình Mobile
Minuteman bị hủy bỏ vào năm 1961
+ 1963 Tổng công ty Aerospace Corporation thực hiện nghiên cứu về hệ
thống không gian làm cơ sở cho hệ thống dẫn đường cho phương tiện chuyển

động nhanh theo ba chiều không gian. Việc nghiên cứu này trực tiếp dẫn tới khái
niệm về hệ thống định vị toàn cầu. Khái niệm liên quan đến việc đo thời gian tới
của tín hiệu sóng vô tuyến được phát đi từ vệ tinh có vị trí chính xác đã biết. Đo
thời gian sẽ cho khoảng cách tới vị trí vệ tinh đã biết và lần lượt có thể xác định
được vị trí của người sử dụng.
+1963 Air Force bắt đầu hỗ trợ nghiên cứu của Aerospace, chỉ định
nghiên cứu này bằng Dự án Hệ thống 621B. Khoảng năm 1972, chương trình
này đã biểu diễn hoạt động của một loại tín hiệu xác định khoảng cách vệ tinh
mới dựa trên tiếng ồn ngẫu nhiên giả tạo (PRN, pseudo random noise).
+1964 Timation, hệ thống vệ tinh hải quân, được phát triển dưới sự chỉ
đạo của Roger Easton ở Phòng nghiên cứu Hải quan (Naval Research Lab,
NRL) để cải thiện đồng hồ có tính ổn định cao, khả năng truyền thời gian, và
dẫn đường 2 chiều. Hoạt động của Timation theo tiêu chuẩn thời gian chuẩn vũ
trụ đã cung cấp cơ sở quan trọng cho hệ thống định vị toàn cầu. Vệ tinh
Timation đầu tiên được phóng lên vũ trụ vào tháng 5 năm 1967.
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

19


+1968 Bộ Quốc phòng Mỹ (DoD, Department of Defence, USA) thành
lập một ủy ban gọi là Ủy ban Thực hiện Vệ tinh Dẫn đường (NAVSEC,
Navigation Satellite Executive Committee) để phối hợp nỗ lực của các nhóm
dẫn đường vệ tinh (Transit của Hải quân, Chương trình Trang 17 Timation, và
SECOR của Quân đội, hay còn gọi là Hệ thống đồng tương quan khoảng cách
chuỗi (Sequential Correlation of Range System). NAVSEC ký hợp đồng một số
nghiên cứu để làm sáng tỏ khái niệm dẫn đường vệ tinh cơ bản. Những nghiên
cứu này về một số vấn đề chính xung quanh khái niệm như lựa chọn tần số sóng
mang (dải L đối lập với dải C), thiết kế cấu trúc tín hiệu, và lựa chọn định hình
quỹ đạo vệ tinh.

+1969-1972 NAVSEC quản lý các thảo luận khái niệm giữa các nhóm
dẫn đường vệ tinh khác nhau. APL Hải quân ủng hộ nhóm Transit mở rộng,
trong khi NRL Hải quân ủng hộ cho Timation mở rộng, còn Air Force thì ủng hộ
cho “chòm sao đồng bộ mở rộng”, tức dự án „Hệ thống 621B‟.
+Tháng 4 năm 1973 Thứ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định thiết lập một
chương trình hợp tác ba dịch vụ để thống nhất những khái niệm khác nhau về
định vị và dẫn đường thành một hệ thống Bộ quốc phòng hỗn hợp gọi là Hệ
thống vệ tinh dẫn đường quốc phòng (Defense Navigation Satellite System). Air
Force được chỉ định làm người quản lý (điều hành) chương trình. Hệ thống mới
được phát triển qua văn phòng chương trình kết hợp (joint program office), với
sự tham gia của tất cả quân chủng quốc phòng. Đại tá Brad Parkinson được chỉ
định làm người chỉ đạo văn phòng chương trình kết hợp và được đặt trọng trách
phát triển kết hợp khái niệm ban đầu về hệ thống dẫn đường dựa trên không gian
(space-based navigation system)
+Tháng 8 năm 1973 Hệ thống đầu tiên được trình bày tới Hội đồng Thu
nhận và Thẩm định Hệ thống Quốc phòng (Defense System Acquisition and
Review Council, DSARC) bị từ chối thông qua. Hệ thống được trình lên
DSARC được gói gọn trong Hệ thống 621B của Air Fore và không đại diện cho
chương trình kết hợp. Mặc dù có người ủng hộ ý tưởng của hệ thống dẫn đường
dựa trên vệ tinh mới nhưng Văn phòng Chương trình Kết hợp đã được thúc đẩy
20
Sinh viên: Phạm Văn Tùng


khẩn trương tổng quát hóa khái niệm bao gồm xem xét và yêu cầu tất cả các
binh chủng quốc phòng.
+17/12/1973 Một khái niệm mới được trình tới DSARC và được thông
qua để thực hiện và cấp kinh phí là hệ thống NAVSTAR GPS, đánh dấu khởi
đầu công nhận khái niệm (ý tưởng) (Giai đoạn I của chương trình GPS). Khái
niệm mới thực sự là một hệ thống dàn xếp (thỏa hiệp – compromise system) do

Đại tá Parkinson thương lượng đã kết hợp tốt nhất giữa tất cả những khái niệm
và công nghệ dẫn đường vệ Trang 18 tinh có sẵn. Cấu hình hệ thống được thông
qua bao gồm 24 vệ tinh chuyển động trong những quỹ đạo nghiêng chu kỳ 12
giờ đồng hồ.
+Tháng 6 năm 1974 Hãng Rockwell International được chọn làm nhà
cung cấp vệ tinh cho chương trình GPS. Ngày 14 tháng 7 năm 1974 Vệ tinh
NAVSTAR đầu tiên được phóng lên vũ trụ. Vệ tinh này được chỉ định là Vệ tinh
Công nghệ Dẫn đường (NTS) số 1, về cơ bản đây là vệ tịnh Timation tân trang
lại do NRL đóng. Vệ tinh thứ hai (là vệ tinh cuối cùng) của nhóm NTS được
phóng vào năm 1977. Những vệ tinh này được sử dụng cho việc đề xuất đánh
giá khái niệm (ý tưởng) và thực hiện những đồng hồ nguyên tử đầu tiên đã được
phóng vào trong không gian (vũ trụ).
+1977 Thực hiện kiểm tra thiết bị người sử dụng ở Yuma, Arizona.
+22/2/1978 Vệ tinh Block I đầu tiên được phóng. Toàn bộ 11 vệ tinh
Block I được phóng trong khoảng thời gian 1978 và 1985 trên Atlas-Centaur.
Những vệ tinh Block I do Rockwell International xây dựng được coi là những vệ
tinh mẫu phát triển được dùng để kiểm tra hệ thống. Bị mất một vệ tinh do
phóng trượt.
+ 26/4/1980 Phóng vệ tinh GPS đầu tiên thực hiện những bộ cảm ứng Hệ
thống phát hiện tiếng nổ hạt nhân hoạt động tổng hợp (Integrated Operational
Nucluear Detonation Detection System (IONDS) sensors).
+ 1982 Bộ Quốc phòng thông qua quyết định giảm số vệ tinh của chòm vệ
tinh GPS từ 24 xuống 18 tiếp theo sau tái cấu tạo lại chương trình chính do
Quyết định 1979 của Văn phòng Thư ký Bộ Quốc phòng gây ra để cắt giảm kinh
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

21


phí 500 triệu đô la (khoảng 30%) từ ngân sách cho giai đoạn năm tài chính

FY81-FY86.
+ 14/7/1983 Phóng vệ tinh GPS đầu tiên thực hiện hệ thống dò tìm tiếng
nổ hạt nhân (NDS) mới hơn
+ 16/9/1983 Theo (the Soviet downing of Korean Air flight 007), tổng
thống Reagan hứa cho GPS được sử dụng cho các máy bay dân dụng hoàn toàn
miễn phí khi hệ thống đưa vào sử dụng. Sự kiện này đánh dấu sự bắt đầu lan tỏa
công nghệ GPS từ quân sự sang dân sự.
+ Tháng tư 1985 Hợp đồng thiết bị người sử dụng chính đầu tiên được giao
cho JPO. Hợp đồng bao gồm việc nghiên cứu, phát triển cũng như lựa chọn sản
xuất các máy thu GPS dùng cho máy bay, tàu thủy và máy thu xách tay (gọn nhẹ).
+ 1987 Bộ Quốc phòng chính thức yêu cầu Bộ Giao thông (Department of
Trang 19 Transport, DoT) có trách nhiệm thiết lập và cung cấp một văn phòng
đáp ứng nhu cầu người sử dụng dân sự về thông tin GPS, dữ liệu và hỗ trợ kỹ
thuật. Tháng 2 năm 1989, Coast Guard có trách nhiệm làm đại lý hướng dẫn
Dịch vụ GPS Dân sự (civil GPS service).
+1984 Khảo sát trở thành một thị trường GPS thương mại đầu bảng được
nâng cánh! Để bù cho số vệ tinh giới hạn có sẵn trong quá trình phát triển chòm
vệ tinh, các nhà khảo sát đã chuyển qua số kỹ thuật nâng cao độ chính xác bao
gồm kĩ thuật GPS Vi phân (DGPS) và kỹ thuật truy theo pha sóng mang (carrier
phase tracking)
+ 3/1988 Thư ký Air Force thông báo về việc mở rộng chòm GPS tới 21
vệ tinh cộng thêm 3 vệ tinh dự phòng
+ 14/2/1989 Vệ tinh đầu tiên của các vệ tinh Block II đã được phóng từ
Cape Canaveral AFT, Florida, trên dàn phóng Delta II (Delta II booster). Phi
thuyền con thoi (Space Shuttle) làm bệ phóng theo kế hoạch cho các vệ tinh
Block II được Rockwell Intenational đóng. Tiếp theo tai nạn Challenger 1986,
Văn phòng Chương trình Kết hợp (JPO) xem xét lại và đã sử dụng Delta II làm
bệ phóng vệ tinh GPS. SA (Selective Availabity) và AS (Anti-spoofing.

Sinh viên: Phạm Văn Tùng


22


+ 21/6/1989 Hãng Martine Marietta (sau khi mua xong General Electric
Astro Space Division vào năm 1992) được thắng hợp đồng xây dựng 20 vệ tinh
bổ sung (Block IIR). Chiếc vệ tinh Block IIR đầu tiên sẵng sàng để phóng vào
cuối năm 1996.
+ 1990 Hãng Trimble Navigation, nhà sản xuất bán máy thu GPS hàng
đầu thế giới được thành lập năm 1978 hoàn thành loạt sản phẩm ban đầu.
+ 25/3/1990 DoD theo Kế hoạch Dẫn đường Vô tuyến Liên bang, lần đầu
tiên khởi động (kích hoạt) SA (Selective Availability) làm giảm độ chính xác
dẫn đường GPS có chủ định.
+ 8/1990 SA được tắt đi trong chiến tranh vịnh Ba tư (Persian Gulf War).
Những yếu tố đóng góp vào quyết định tắt SA bao gồm việc phủ sóng ba chiều
có giới hạn được chòm NAVSTAR cung cấp trong quỹ đạo vào thời gian đó và
sớ máy thu mã số chính xác (Precision (P)-code) trong bản kiểm kê của DoD.
DoD đã mua hàng nghìn máy thu GPS dân dụng ngay sau đó không lâu đã dùng
cho lực lượng liên minh trong cuộc chiến tranh.
+ 1990-1991 GPS được các lực lượng liên minh dùng lần đầu tiên trong
điều kiện chiến tranh trong Chiến tranh Vịnh Ba Tư. Sử dụng GPS cho Bão Sa
Mạc Hoạt Động (Operation Desert Storm) chúng minh là cách sử Trang 20 dụng
chiến thuật thành công đầu tiên của công nghệ không gian trong giới hạn thiết trí
hoạt động.
+29/8/1991 SA được kích hoạt lại sau Chiến tranh Vịnh Ba Tư.
+1/7/1991 Mỹ đã cho phép cộng đồng thế giới sử dụng dịch vụ định vị
tiêu chuẩn (SPS) GPS bắt đầu từ năm 1993 trên cơ sở liên tục và miễn phí trong
vòng ít nhất 10 năm. Lời đề nghị này được thông báo trong Hội nghị Dẫn đường
Hàng không lần thứ 10 (the 10th Air Navigation Conference) của Tổ chức Hàng
không Dân dụng Quốc tế (ICAO, International Civil Aviation Organization).

+5/9/1991 Mỹ mở rộng lời đề nghị 1991 vào Hội nghị thường niên ICAO
bằng cách cho phép thế giới sử dụng SPS trong tương lai, việc này phụ thuộc
vào việc có đủ vốn, cung cấp dịch vụ này tối thiểu 6 năm có thông báo trước về
việc chấm dứt hoạt động GPS hoặc xóa bỏ SPS.
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

23


+8/12/1992 Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng chính thức thông báo Khả năng
hoạt động đầu tiên của GPS, có nghĩa là 24 vệ tinh trên quỹ đạo hệ thống GPS
không còn là hệ thống đang triển khai nữa mà GPS đã có khả năng duy trì độ
chính xác ở mức độ sai số 100 mét và có sẵn trên toàn cầu liên tục cho người sử
dụng SPS nhưđã hứa.
+17/2/1994 Người quản trị FAA David Hinson thông báo GPS là một hệ
thống dẫn đường đầu tiên đã được thông qua để sử dựng làm phương tiện hỗ trợ
dẫn đường độc lập cho tất cả các phương tiện bay thông qua tiếp cận không
chính xác (nonprecision approach).
+ 6/6/1994 Người quản trị FAA David Hinson thông báo ngừng phát triển
Hệ thống Hạ cánh Vi sóng (MLS) cho việc hạ cánh Loại II và III.
+11/1994 Hãng Orbital Sciences, một nhà sản xuất tên lửa và vệ tinh hàng
đầu thế giới đồng ý mua hãng Magellen Corp., một nhà sản xuất máy thu GPS
cầm tay ở California bằng trao đổi chứng khoán trị giá 60 triệu đô la Mỹ, mang
lại cho Orbital tiến gần tới mục tiêu trở thành công ty viễn thông hai chiều dựa
vào vệ tinh.
+8/6/1994 Người quản trị FAA David Hinson thông báo thực hiện Hê
thống Gia tăng Vùng rộng (WAAS, Wide Area Augmentation System) nhằm
mục đích cải thiện tính hợp nhất GPS và tăng tính sẵn có cho người sử dụng dân
sự trên tất cả các phương tiện bay. Giá chương trình theo dự tính mất 400-500
triệu đô la Mỹ. Chương trình này được lập kế hoạch thực hiện vào khoảng năm

1997.
+ 11/10/1994 Ủy ban hành động dẫn đường định vị Bộ Giao thông (the
Department of Transportation Positioning / Navigation Executive Trang 21
Committee) được thành lập để cung cấp diễn đàn qua đại lý nhằm thực hiện
chính sách GPS.
+14/10/1994 Người quản trị FAA David Hinson nhắc lại lời đề nghị
(US‟s offer) làm GPS-SPS có sẵn trong tương lai, dựa trên cơ sở liên tục và toàn
cầu miễn phí cho người sử dụng trực tiếp trong thư gửi cho ICAO.
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

24


+ 16/3/1995 Tổng thống Bil Clinton tái khẳng định rằng Mỹ cung cấp tín
hiệu GPS cho cộng đồng người sử dụng dân dụng thế giới trong thư gửi
¬ Một số thông số cơ bản của hệ thống GPS
- Số lượng vệ tinh: 27 trong đó có 3 vệ tinh dự phòng.
- Số mặt phẳng quỹ đạo: 6.
- Góc nghiêng quỹ đạo: 550.
- Độ cao vệ tinh: 20.200 km.
- Chu kỳ bay: 12 h.
- Phương pháp mô tả dữ liệu lịch vệ tinh: Thông số Kepler.
- Hệ tọa độ: WGS-84.
- Phương pháp khóa pha tín hiệu: Sử dụng các bộ đồng bộ.
- Hiệu chỉnh thời gian hệ thống so với UTC: UTC (USNO).
- Nội dung lịch vệ tinh: 152 bít.
- Khoảng thời gian phát lịch vệ tinh: 12,5 phút.
- Phương pháp truy nhập tín hiệu vệ tinh: Truy nhập theo mã.
- Dải tần làm việc: 1575,42 1 MHz.
- Tần số L2: 1227,6 MHz.

- Số phần tử của một mã: 1023.
- Tần số mã C/A: 1,023 MHz.
- Tần số mã P: 10,23 MHz.
- Chu kỳ lặp lại của mã đồng bộ: 6 giây.
- Số bít trong mã đồng bộ: 8 bít.
- Kiểu mã sử dụng định vị: Mã C/A
2.2 Giới thiệu chung về GPRS
Ý tưởng của GPRS được thảo luận năm 1992 và đến năm 1997 được phát
hành thành chuẩn. Chuẩn này chứa tất cả các chức năng chính của GPRS, bao
gồm việc truyền dẫn điểm - điểm của số liệu người sử dụng, tương tác với mạng
Internet và X.25, truyền dẫn SMS nhanh sử dụng các giao thức GPRS, cộng
thêm vào đó là các chức năng về bảo mật, tập hợp các công cụ tính cước cơ bản.
Một năm sau chuẩn này được bổ sung về truyền dẫn điểm - đa điểm (PTM), các
Sinh viên: Phạm Văn Tùng

25


×