Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Giáo trình lịch sử kinh tế quốc dân (giáo trình đào tạo từ xa) phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 55 trang )

CHƯƠNG VII. KINH TẾ CÁC NƯỚC ASEAN
A. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ASEAN.
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of the south East Asian Nations)
viết tắt là ASEAN, thành lập 8/8/1967, với 5 thành viên sáng lập, hiện nay gồm 11
nước. Gồm: Brunei, Campuchia, Đông ti mo, Inđônêsia, Lào, Malaysia, Myanmar,
Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Sigapore. Diện tích: 4.492.443 km2, chiếm 14,l%
lãnh thổ Châu Á và 3,3% diện tích toàn thế giới. Dân số (2004) là 548,2 triệu và 8,6%
thế giới.
ASEAN có vị trí đặc biệt quan trọng trong bản đồ kinh tế, chính trị quốc tế, nằm
án ngữ trên con đường giao thông chiến lược quan trọng giữa hai đại dương lớn (Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương). Các nước này là đầu mối các con đường hàng hải,
hàng không quốc tế. Với nguồn rừng nhiệt đới hấp dẫn, các nước này có nguồn tài
nguyên giàu có và đa dạng hiếm thấy trên quả đất, chiếm 83% sản lượng cao su tự
nhiên; 72% thiếc; 84% dầu cọ; 80% sợi gai; 64% loại khác như gỗ, dầu mỏ, kim loại.
Khu vực này có nền văn hoá cổ xưa, phong phú đa dạng, là một trong những cái
nôi của loài người. Với văn hoá Đông Sơn, tiếp là văn hoá Hoà Bình. Cách đây 5000
đến 7000 năm khu vực này đã có đồ đồng phát triển, Đông Nam Á đã toả sáng rực rỡ,
trên cơ sở đó Nhà nước đầu tiên ra đời sớm.
Từ thế kỷ XVI Phương Tây đã đến khu vực này. Các khu vực này bắt đầu có sự
xáo trộn mạnh mẽ và đã trở thành mảnh đất màu mỡ và trù phú, truyền thống kinh tế
và văn hoá của các dân tộc đều bị biến dạng, phục vụ cho lợi ích của các nước đó.
Bảng 7. 1: Diện tích và dân số ASEAN
Nước

Diện tích
(Km2)

Dân số (nghìn người)
Năm 1990

Mật độ


(người/km2)

Năm 2000

Brunei
Campuchia
indonesia

5771
181041
1919441

253
8610
179250

338
12200
210500

59
67
111

Laos
Malaysia
Myanmar
Philippines
Singapore
Thailan

Vietnam

236801
329751
676581
300077
619
513120
329241

4140
17800
40790
6200
3050
55840
66017

5218
23253
49000
78400
4020
62410
77686

22
71
72
261

6474
122
236

B. LỊCH SỬ KINH TẾ ASEAN
I. KINH TẾ ASEAN TRƯỚC KHI GIÀNH ĐỘC LẬP
1. Nhà nước phong kiến
Trước khi thực dân phương Tây xâm lược, phần lớn các nước ASEAN đang ở
thời kỳ phong kiến. Sau những phát kiến địa lý vĩ đại vào thế kỷ XVI, thực dân Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha bắt đầu dòm ngó vùng này. Lúc đầu họ chiếm một số hòn đảo
trên con đường biển Ấn Độ Dương. Tiếp đó, từ năm 1565 đến 1572, thực dân Tây Ban
Nha đã chiếm Philippin và tiếp tục mở rộng các vùng thuộc địa ở các Châu Á.
- Từ thế kỷ XVII thực dân phương Tây bắt đầu chiếm vùng đất này làm thuộc địa.

64


Năm 1662 công ty Đông Ấn của Hà Lan đã xâm lược Inđônêsia. Năm 1768 thực
dân Anh bắt đầu xâm lược Malaysia. Năm 1819 Anh chiếm Singapore. Sau cuộc chiến
tranh Mỹ - Tây Ban Nha năm 1898 Philíppin trở thành thuộc địa của đế quốc Mỹ.
2. Chế độ thuộc địa
Đến cuối thế kỷ XIX hầu hết các nước ASEAN trở thành thuộc địa của tư bản
phương Tây, chỉ trừ Thái Lan do sự tranh chấp giữa Anh, Pháp và một số nước tư bản
phương Tây khác nên tình hình có phức tạp hơn.
Các nước này chủ yếu là nơi cung cấp các loại nông sản xuất khẩu vào các nước
phương Tây như sợi đay, hồ tiêu, cao su, cà phê. Sự chuyển biến về kinh tế của các
nước ASEAN phụ thuộc chặt chẽ vào nhu cầu xuất khẩu thu lợi nhuận cao của tư bản
chính quốc. Sự bóc lột cưỡng bức theo lối siêu kinh tế, sưu cao thuế nặng. Bắt dân
trồng cây gia vị xuất khẩu đã trở thành một gánh nặng cho người dân ở vùng đất này.
Từ cuối thế kỷ XIX, để thực hiện được chính sách khai thác thuộc địa, các nước

tư bản phương Tây đã đầu tư vào các nước ASean khá lớn.
Bảng 7.2: Tư bản đầu tư vào Asean
Nước

Năm

Inđônêsia
Malaysia
Thái Lan
Philipin

1930
1930
1938
1938

Đầu tư kinh doanh
(triệu USD)
1.000
447
90
315

Đầu tư cho vay
(triệu USD)
853
113
34
61


Phần lớn số vốn nước ngoài chủ yếu đầu tư để khai thác nông nghiệp và công
nghiệp xuất khẩu. Thái Lan, đầu thế kỷ XX, độc canh sản xuất lúa gạo xuất khẩu.
Malaysia, Inđônêsia, Philíppin chủ yếu phát triển các đồn điền trồng cây công nghiệp
như cao su, hồ tiêu xuất khẩu. Riêng Malaysia 50% vốn đầu tư của Anh tập trung vào
cây cao su xuất khẩu. Đến năm 1940 ở Malaysia có 3,5 triệu accơrơ cao su (1 accơrơ =
4047m2).
- Cơ cấu kinh tế của ASEAN gắn chặt với chính sách khai thác thuộc địa của thực
dân. Bên cạnh chính sách thực dân, chế độ phong kiến vẫn được duy trì, một quan hệ
sản xuất pha tạp, nổi bật các đặc điểm sau:
+ Kinh tế nông nghiệp lạc hậu, độc canh, tập trung vào một số cây công nghiệp
phục vụ xuất khẩu. Ruộng đất phần lớn nằm trong tay địa chủ và tư bản nước ngoài.
Kỹ thuật vẫn dựa trên cơ sở thủ công là chủ yếu.
+ Công nghiệp khai thác khoáng sản là chủ yếu. Thực dân Anh tập trung khai
thác thiếc, vàng, đồng, crôm, phục vụ cho công nghiệp Anh. Công nghiệp phát triển
què quặt, sản xuất chủ yếu để gia công chế biến hàng nông sản. Một số khác khai thác
một số loại khoáng sản cần thiết cho công nghiệp ở chính quốc.
- Kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào nước ngoài và phát triển theo hướng xuất khẩu
nguyên liệu và sản phẩm nông lâm ngư nghiệp.
Khi nói về thực trạng kinh tế ASEAN, nhà hoạt động chính trị nổi tiếng
Alixantơrôamítgiô viết “phần lớn các nước chúng ta rất giàu về nguyên liệu, nhưng
hàng thế kỷ bị thực dân nô dịch đã làm cho sự phát triển của các nước đó què quặt. Do
kết quả của sự bóc lột, nhiều nước trong Asean đứng trước một tình hình kinh tế nông
nghiệp, phiến diện và què quặt, phụ thuộc vào các nước khác”.

65


II. KINH TẾ ASEAN SAU KHI GIÀNH ĐỘC LẬP.
1. Sự xâm nhập của Chủ nghĩa thực dân mới
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước ASEAN lần lượt giành được độc lập về

chính trị.
- Ngày 17 tháng 8 năm 1945 nước Cộng hoà Inđônêsia được thành lập.
- Ngày 4 tháng 7 năm 1946 cộng hoà Philíppin được Mỹ trao trả độc lập.
- Tháng 8 năm 1957 chính phủ Anh tuyên bố trao trả độc lập cho Malaysia,
Singapore.
- Ngày 18 tháng 9 năm 1965 Singapore tách khỏi Malaysia và tuyên bố thành lập
Cộng hoà Singapore.
- Ngày l tháng 9 năm 1984 Anh trao trả độc lập cho Brunây.
Mặc dầu được trao trả độc lập, các nước ASEAN vẫn nằm trong sự can thiệp từ
nhiều phía của Mỹ. Tháng 9/1945, Pháp trao trả độc lập cho các nước Đông Dương.
Mỹ-Nhật và phương Tây dựa vào chính sách viện trợ - một công cụ lợi hại để can
thiệp vào các quốc gia Đông Nam Á. Trong 20 năm sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ là
nước đứng đầu viện trợ cho ASEAN. Thời kỳ 1960-1967 Mỹ chiếm 50,9%; Nhật 32%;
Anh 6,l%; Tây Đức 9,6% trong tổng số 395,l triệu USD. Thời kỳ 1968 - 1970 Mỹ
chiếm 53%; Nhật 31,1%.
Đầu tư nước ngoài cũng dần dần tăng lên. Ở Malaysia thời kỳ 1985 - 1990 vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 60%. Riêng năm 1990 tổng số vốn đầu tư là 28 tỷ đô la.
Trong đó vốn nước ngoài là 11,6 tỷ bằng 57%. Nước tham gia đầu tư nhiều nhất vào
Malaixia là Nhật Bản, kế tiếp Đài Loan, Nam Triều Tiên, Singapo còn Mỹ và Tây Âu
ít hơn.
Hình thức huy động vốn qua đầu tư trực tiếp và liên doanh thích hợp với nước
nghèo, từ nông nghiệp đi lên. Hình thức này có những thuận lợi sau:
+ Vốn đi liền với chuyển giao công nghệ.
+ Khả năng trả nợ chắc chắn hơn.
+ Học tập được kinh nghiệm quản lý.
+ Giải quyết được vấn đề thị trường.
- Nhật coi Đông Nam Á là địa bàn quan trọng trong hoạt động đối ngoại của
mình. Bằng nhiều chính sách, chiêu bài “Xây dựng mậu dịch tự do Châu Á Thái Bình
Dương”. Bằng sự viện trợ, bồi thường chiến tranh, Nhật đã vươn lên giành vị trí số
một thị trường ASEAN. Mục tiêu của Nhật sau chiến tranh là biến ASEAN làm thị

trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, nơi cung cấp nguyên liệu nông lâm nghiệp cho
công nghiệp Nhật.
Dưới hình thức công ty hỗn hợp, tư bản nước ngoài đã thâm nhập sâu vào nền
kinh tế của ASEAN. Tư bản nước ngoài chiếm 45% tổng số vốn đầu tư công nghiệp.
Phần của tư bản nước ngoài trong tổng số đầu tư cho công nghiệp Singapore vào
những năm 1970 là 69,4%; Philippin: 57,9%; Inđônêsia 56,9%; Malaysia 54,8%; Thái
Lan 29,l%. Ở Malaysia tư bản nước ngoài nằm khoảng 50% tổng số vốn đầu tư vào
ngành công nghiệp hiện đại, trên 50% đồn điền cao su, cọ dầu. Ở Philíppin tư bản Mỹ
kiểm soát phần lớn công nghiệp khai khoáng và dầu mỏ.
2. Mô hình phát triển kinh tế ASEAN.

66


a) Phát triển theo con đường TBCN.
Nền kinh tế chủ yếu dựa vào đầu tư của bản nước ngoài và tư nhân ở trong nước.
Nét nổi bật nhất trong chính sách của ASEAN là:
+ Thực hiện cơ chế thị trường tự do: Tự do đầu tư, tự do mậu dịch, tự do thuế
quan, hối đoái, tín dụng.
+ Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách vĩ mô như thuế, lãi suất.
Khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ, tạo điều kiện để tư nhân phát triển.
Nhà nước ASEAN tập trung thực hiện hai chức năng:
Thứ nhất, Nhà nước tập trung để xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải,
thông liên lạc, dịch vụ, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, bến bãi kho tàng…
Thứ hai, Xây dựng khu vực kinh tế nhà nước trên cơ sở nguồn viện trợ từ bên
ngoài, xây dựng các công ty độc quyền hỗn hợp đòi hỏi vốn đầu tư lớn, kỹ thuật hiện
đại.
Ví dụ: Malaysia có định hướng kinh tế xã hội đến năm 2000.
- Duy trì sự ổn định làm cho kinh tế vĩ mô hoạt động có hiệu quả.
- Cải tiến môi trường đầu tư.

- Nâng cao trình độ công nghệ.
- Hướng tiết kiệm đầu tư vào sản xuất
Kế hoạch 1991 - 1995 Malaysia đưa ra chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP là 7,5%/
năm; tỷ lệ lạm phát 2 - 3%; thu nhập bình quân 11.000 MP (khoảng 4500USD), đến
năm 2000 khoảng 6500USD.
b) Ưu đãi đầu tư nước ngoài
Các nước trong khu vực thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài. Đầu tư
nước ngoài tập trung vào các ngành mũi nhọn, có số vốn lớn. Các nước này đã sớm có
luật đầu tư nước ngoài, có chính sách bảo hiểm đối với đầu tư nước ngoài, tạo môi
trường pháp lý và tài chính thuận lợi cho đầu tư nước ngoài.
Ở Malaixia quy định rõ không quốc hữu hoá tư bản nước ngoài được chuyển vốn
và lợi nhuận về nước. Thực hiện giảm và miễn thuế cho xí nghiệp có vốn đầu lư lớn,
từ 100.000 USD trở lên, sử dụng lao động trên 100.000 USD.
Singapore thực hiện miễn thuế 5 năm đối với các xí nghiệp thuộc danh sách mũi
nhọn, miễn thuế cho những xí nghiệp mở rộng hoạt động nhập khẩu nguyên liệu máy
móc.
Luật đầu tư 1967 ở Inđônêsia quy định rõ tư bản nước ngoài được đầu tư không
hạn chế vào những ngành đã được Chính phủ phê chuẩn, được miễn thuế 5 năm kể từ
ngày bắt đầu sản xuất.
Để kích thích cạnh tranh đầu tư nước ngoài các nước ASEAN đã đảm bảo cung
cấp nguồn nhân công rẻ. Nhà nước trực tiếp xây dựng khu vực riêng cho xí nghiệp của
tư bản nước ngoài hoặc xí nghiệp hỗn hợp một số nước quy định, hạn chế việc đình
công, bãi công... tiền lương phần lớn là thấp.
Malaysia đã lập hàng loạt khu vực mậu dịch tự do và khu công nghiệp, thực hiện
chiến lược hướng về xuất khẩu với những điều kiện đặc biệt thuận lợi.
c) Một số ngành kinh tế phát triển mạnh

67



Cuộc "Cách mạng xanh" và sự phát triển nông nghiệp. Sau chiến tranh thế giới
hai hầu hết các nước ASEAN đều cải cách ruộng đất. Mỗi nước mỗi khác nhưng có
điểm chung là:
Thứ nhất, đều nhằm mục đích duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, đại
bộ phận nông dân không có ruộng.
Thứ hai, cải cách ruộng đất phải bổi thường cho địa chủ về tài chính.
Thứ ba, cải cách ruộng đất gắn liền với việc đưa một số quyền lợi cho tầng lớp
trên ở nông thôn và tạo điều kiện cho sự phát triển CNTB trong nông nghiệp.
Từ cuối những năm 1960, nông nghiệp ASEAN có sự chuyển hướng mạnh mẽ từ
chương thức sản xuất phong kiến sang phương thức sản xuất tư bản. Một bộ phận nông
dân từ sản xuất tự cấp lên sản xuất hàng hoá phục vụ kinh tế đô thị và xuất khẩu.
Những hạn chế của nông nghiệp các nước ASEAN những năm gần đây:
- Những tàn tích của quan hệ phong kiến và tiền phong kiến còn tồn tại. Một bộ
phận lớn nông dân nghèo không có hoặc có rất ít ruộng đất tự phân hoá ở nông thôn
gay gắt, mâu thuẫn kinh tế xã hội ngày càng phức tạp.
- Sự phát triển không đều giữa các vùng.
- Phát triển nông nghiệp chỉ có lợi cho nông dân khá giả có nhiều vốn và ruộng
đất, làm tăng thêm sự phụ thuộc vào thị trường TBCN. Phần lớn các nước ASEAN đều
phải nhập máy móc, phân bón của các nước tư bản.
d). Thực hiện chiến lược “phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu” và
chiến lược “phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu”.
Trước 1960 các nước ASEAN đều phụ thuộc vào nước ngoài. Sau 1960 các nước
này tìm cách hạn chế nhập khẩu hàng hoá nước ngoài, nhất là hàng thành phẩm. Chú
trọng phát triển sản xuất trong nước để thay thế hàng nhập khẩu. Mở rộng thị trường
nội địa, tận dụng tối đa vốn đầu tư từ nước ngoài. Kết quả là hàng hoá các nước này
không thể cạnh tranh nổi hàng hoá nước ngoài vì thế càng lệ thuộc nhiều vào các nước
TBCN. Những khó khăn về kinh tế xã hội càng tỏ ra gay gắt hơn, lạm phát tăng nhanh,
nợ nước ngoài càng nhiều. Thị trường trong nước không được mở rộng, nhiều xí
nghiệp trong nước bị phá sản do kinh doanh thu lỗ.
Từ những năm 1970 các nước trong khu vực bắt đầu thực hiện chiến lược mới

“Phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu” tranh thủ nguồn vốn bên ngoài đầu tư
phát triển các ngành sản xuất xuất khẩu, từng bước cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường
thế giới.
e) Phát triển thị trường tài chính tiền tệ và dịch vụ.
Hầu hết thị trường vốn ASEAN thực hiện hối đoái tự do, mở rộng thị trường tư
bản tiền tệ, tăng cường kinh tế đô thị và dịch vụ trên cơ sở thực hiện “mở cửa” rộng
rãi.
Kinh tế dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị tổng sản phẩm xã hội. So với
công nghiệp, nông nghiệp thì dịch vụ là ngành đưa lại thu nhập lớn nhất. Trong đó
Singapore trở thành một trung tâm tài chính của thế giới. Hệ thống ngân hàng ở
Singapore phát triển nhanh, năm 1975 có 70 ngân hàng và 36 đại diện của các công ty
tài chính quốc tế.
g) Quan hệ kinh tế đối ngoại.

68


- Hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN: Được thành lập từ năm 1967 trải qua một
thời gian dài (10 năm) cơ cấu tổ chức hoạt động của ASEAN lỏng lẻo, các nước còn
do dự, chưa có chương trình hợp tác dài hơn.
Năm 1975 các nước mới thành lập ra những Uỷ ban hợp tác chuyên ngành như:
Uỷ ban Lương thực và nông nghiệp, Uỷ ban Thông tin, Hàng hải... Ngoài ra còn có
các tổ chức tư nhân, phi Chính phủ như Uỷ ban hợp tác thanh niên; Liên hiệp phụ nữ
ASEAN; Hiệp hội các nhà làm phim ASEAN…
Tháng 2/1977 thông qua hiệp định mậu dịch ưu đãi đối với các nước trong khối,
theo đó mức thuế mậu dịch giữa các nước được giảm 20 - 25% thuế quan. Tuy vậy đến
đầu 1980 thương mại các nước này chỉ chiếm 15% trong tổng số và chủ yếu là sản
phẩm truyền thống.
Hội nghị ASEAN 4, tháng 7/1992 quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do
AFTA, theo hiệp định này quyết định cắt giảm thuế quan 0 - 5% vào 2003.

Các nước ASEAN đã hợp tác trên các lĩnh vực tài chính ngân hàng (thành lập
công ty tài chính ASEAN) lao động, khoa học kỹ thuật, trao đổi thông tin, hàng không
dân dụng, chương trình dân sổ kế hoạch hoá gia đình.
- Quan hệ giữa ASEAN với các nước và Tổ chức khu vực khác.
Ngoại thương ASEAN từ 1975- 1980 tăng gấp 3 lần từ 44 tỉ lên 132 tỉ USD.
Bảng 7.3: Kim ngạch xuất khẩu
Đơn vị tính ( tỷ đô la)
Tên nước

Năm 1975

Năm 1980

Năm 1985

Năm 1990

Inđônêxia

7.102

22.564

4.770

12.380

Malayxia
Pilipin
Singapore

Thái Lan
Cộng

30.808
2.273
5.375
2.208
20.764

13.005
5.111
19.377
6.406
67.063

3.526
3.703
8.134
3.190
23.323

10.840
8.185
24.013
4.878
64.796

Nhờ đa dạng hàng hoá mà ngoại thương ASEAN giảm đáng kể sự lệ thuộc vào
các nước tư bản. Năm 1980 bắt đầu cạnh tranh có hiệu quả với hàng nước ngoài, trong
cơ cấu hàng xuất khẩu, tỉ lệ hàng công nghiệp tăng.

Ngoại thương ASEAN chủ yếu với các nước tư bản phát triển, trong tổng số hàng
nhập khẩu của Nhật, ASEAN chiếm 15% dầu lửa; 20% đường và một số lượng lớn
nguyên liệu công nghiệp nhiệt đới chủ yếu. Nhiên liệu máy bay (từ các nhà máy lọc
dầu Singapore) cao su thiên nhiên (Malaysia và Thái Lan) dầu cọ, chuối (Philippin).
Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất của Asean.Nhật chiếm 40% tổng kim ngạch xuất
khẩu, 30% kim ngạch nhập khẩu. Các nước Asean nhập một số lượng lớn xe máy, xe
hơi, xi măng, sắt thép của Nhật.
Mỹ là bạn hàng quan trọng thứ hai của ASEAN. Trong những năm 1970 và đầu
những năm 1980, hàng Mỹ chiếm 14% tổng giá trị hàng nhập của Thái Lan, hàng
Inđônêxia sang Mỹ là 27% (từ 1967 - 1977) tổng kim ngạch xuất khẩu.

69


Ngoài ra các nước ASEAN còn có quan hệ buôn bán với nhiều nước và tổ chức
khu vực khác như nước Tây Âu, Úc, các nước Trung Đông và các nước đang phát
triển Châu Á, Châu Phi.
3. Những khó khăn kinh tế của Asean
Tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững, còn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Ví dụ
khủng hoảng tài chính tháng 7/1997 nổ ra ở Thai Lan đã làm cho nền kinh tế Đông
Nam Á suy yếu nghiêm trọng. Vào năm 1998 hầu hết các nước Đông Nam Á đều tăng
trưởng âm.
Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Kinh tế các quốc gia Đông Nam Á
đều phụ thuộc vào Mỹ và Nhật Bản cả về vốn, công nghệ và thị trường. Khi có một sự
biến động từ thị trường thế giới dễ bị tổn thương.
Cán cân thanh toán thiếu hụt, nợ nước ngoài nhiều, chính trị không ổn định. Nợ
nước ngoài của các nước Asean tính đến năm 2000 như sau:
Inđônêxia: 141,8 tỷ USD ( 99% GDP)
TháiLan: 79,67 tỷ USD (66,1% GDP)
Philipin: 50,09 tỷ USD


(63,1% GDP)

Malaysia: 41,7 tỷ USD

(50,7% GDP)

Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều. Bên cạnh nhóm nước có nền kinh tế
phát triển cao như Singapor, Malaysia, Thailand, Indonesia, vẫn còn một số nước
nghèo và chậm phát triển như Việt Nam, Lào, Myanma,Campuchia. Điều này ảnh
hưởng đến quá trình hợp tác.
4. Một số kinh nghiệm
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ tương
đối nhanh và có hiệu quả. Trong vòng 30 năm từ 1960 đến 1990 hầu hết các nước
Asean đã trở thành nước công nghiệp.
- Tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi. Trong bối cảnh nghèo, thiếu vốn các nước
đã nhanh chóng mở cửa thị trường đầu tư. Tạo môi trường đầu tư hấp dẫn. Nhờ đó đã
lôi cuốn được nhiều nhà đầu tư có uy tín của thế giới đến đầu tư. Mạnh dạn mở cửa thị
trường tài chính và bất động sản cho nước ngoài.
- Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phân
công và hợp tác là vấn đề lớn mà các nước Asean luôn chủ động. trong hợp tác quốc tế
biết lựa chọn những bạn hàng phù hợp và có năng lực tài chính.
- Tăng cường vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước. Sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước trước hết là lĩnh vực tài chính tiền tệ tuy có nhiều vấp váp song đã để lại bài học
đắt giá cho thế hệ tương lai.
III. MỘT SỐ NƯỚC CÓ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN TIÊN TIẾN .
l. Malaysia .
 Lịch sử
Malaysia (tiếng Mã Lai: Malaysia; tiếng Hán, âm Hán Việt: Mã Lai Tây Á) là
một liên bang gồm 13 bang tại Đông Nam Á. Nước này gồm hai vùng địa lý bị chia

tách bởi Biển Đông: …….
Cái tên “Malaysia” được chấp nhận năm 1963 khi Liên bang Malay (tiếng Malay:
Persekutuan Tanah Melayu), Singapore, Sabah và Sarawak hình thành một liên bang

70


14 bang. Singapore đã rời khỏi liên bang năm 1965 và sau đó trở thành một quốc gia
độc lập. “Ma Lay” theo tiếng Mã Lai là “hoàng kim”.
Bán đảo Malay đã phát triển thịnh vượng nhờ vị trí trung tâm của mình trên
những con đường thương mại trên biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông.
Ngay từ sớm, Ptolemy đã thể hiện trên tấm bản đồ của mình một dấu hiệu được dịch là
Bán đảo vàng, Eo Malacca được gọi là Sinus Sabaricus. Từ giữa tới cuối thiên niên kỷ
thứ nhất, đa số Bán đảo cũng như Quần đảo Malay nằm dưới tầm ảnh hưởng của
Srivijaya.
Có rất nhiều vương quốc Malay ở thế kỷ thứ 2 và 3, theo các nguồn thông tin
Trung Quốc, con số này lên tới 30. Kedah cũng được gọi là Kedaram hay Kataha,
trong tiếng Pallava hay tiếng Phạn cổ, được cai trị bởi Rajendra Chola. Tới thế kỷ XI,
dưới sự cai trị của vua Vir Rajendra Chola, tầm ảnh hưởng của Srivijaya, triều đình đã
gây ảnh hưởng trên Kedah và Pattani và thậm chí tới cả Ligor, giảm sút.
Trong thiên niên kỷ đầu tiên, người dân trên bán đảo Malay đã chấp nhận Hindu
giáo và Phật giáo và sử dụng ngôn ngữ tiếng Phạn cho tới khi họ cải theo Đạo Hồi,
nhưng không trước khi Hindu giáo và Phật giáo và tiếng Phạn lẫn vào trong quan điểm
về thế giới của người Malay. Những dấu vết về những ảnh hưởng trong các quan niệm
chính trị, cơ cấu xã hội, nghi lễ, ngôn ngữ, nghệ thuật và văn hóa vẫn còn tồn tại cho
đến ngày nay.
Đầu thế kỷ XV, Vương quốc Hồi giáo Malacca được thành lập dưới một triều đại
do Parameswara, một hoàng tử từ Palembang với liên hệ huyết thống với hoàng gia
Srivijaya, người đã phải bỏ chạy khỏi Temasek (Singapore hiện nay) sáng lập.
Parameswara đã quyết định thành lập vương quốc của mình tại Malacca sau khi chứng

kiến một tai nạn bất ngờ khi một chú nai trắng đá một trong những con chó săn của
ông. Ông coi đó là một dấu hiệu may mắn và đặt tên cho vương quốc của mình là
Melaka theo tên loài cây ông đang ngồi dưới nghỉ ngơi. Ở thời đỉnh cao, vương quốc
hồi giáo đã kiểm soát nhiều vùng hiện là Bán đảo Malaysia, nam Thái Lan (Patani), và
bờ biển phía đông Sumatra. Nó đã tồn tại trong hơn một thế kỷ, và khoảng thời gian
này chính là lúc Đạo Hồi lan tràn ra hầu hết Quần đảo Malay. Malacca là cảng thương
mại tiền đồn thời ấy tại Đông Nam Á.[9]
Năm 1511, Malacca bị người Bồ Đào Nha chinh phục, và họ đã lập ra một thuộc
địa ở đó. Những người con trai của vị quốc vương Hồi giáo cuối cùng của Malacca đã
thành lập nên những vương quốc Hồi giáo ở nhiều địa điểm khác trên bán đảo. Vương
quốc Hồi giáo Perak ở phía bắc, và Vương quốc Hồi giáo Johor (ban đầu là sự tiếp nối
của Vương quốc Hồi giáo Malacca) ở phía nam. Sau khi Malacca sụp đổ, ba bên chiến
đấu giành quyền kiểm soát Eo Malacca: người Bồ Đào Nha (tại Malacca), Vương quốc
Hồi giáo Johor, và Vương quốc Hồi giáo Aceh. Cuộc xung đột này kéo dài đến tận
năm 1641, khi người Hà Lan (liên minh với Vương quốc Hồi giáo Johor) giành quyền
kiểm soát Malacca.
Tòa nhà Vua Hồi giáo Abdul tại Kuala Lumpur nơi đóng trụ sở của Tòa án Cấp
cao Malaya và Tòa án Thương mại. Kuala Lumpur từng là thủ đô của Liên minh các
Bang Malay và thủ đô Malaysia hiện nay.
Anh Quốc đã thành lập thuộc địa đầu tiên của mình tại bán đảo Malay năm 1786,
với việc cho thuê đảo Penang cho Công ty Đông Ấn Anh của Quốc vương Hồi giáo
Kedah. Năm 1824, người Anh nắm quyền kiểm soát Malacca sau Hiệp ước Anh-Hà
Lan 1824 phân chia quần đảo Malay giữa Anh và Hà Lan, Malaya thuộc vùng của
Anh. Năm 1826, Anh Quốc lập thuộc địa chưa độc lập (crown colony) Straits

71


Settlements, thống nhất ba vùng thuộc sở hữu của họ tại Malaya: Penang, Malacca và
Singapore. Straits Settlements nằm dưới quyền quản lý hành chính của Công ty Đông

Ấn tại Calcutta cho tới năm 1867, khi quyền này được chuyển giao cho Văn phòng
Thuộc địa tại London.
Cuối thế kỷ XIX, nhiều bang Malay đã quyết định nhờ sự giúp đỡ của Anh để giải
quyết các cuộc xung đột nội bộ của họ. Tầm quan trọng trong thương mại của ngành
mỏ thiếc tại các bang Malay với các thương gia tại Straits Settlements khiến chính phủ
Anh phải can thiệp vào các bang sản xuất thiếc trên Bán đảo Malay. Chính sách ngoại
giao thuyền chiến của Anh được áp dụng để mang lại giải pháp hòa bình cho sự bất ổn
do những tên cướp Trung Hoa gây ra, và Hiệp ước Pangkor năm 1874 đã mở đường
cho sự mở rộng ảnh hưởng Anh tại Malaya. Tới đầu thế kỷ XIX các bang Pahang,
Selangor, Perak, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Liên minh các Bang Malay
(không nên nhầm với Liên bang Malay), trên thực tế nằm dưới quyền điều khiển của
các Toàn quyền được chỉ định để cố vấn cho các vị vua cai trị Malay. Trên danh nghĩa
người Anh chỉ là cố vấn, nhưng trên thực tế họ có ảnh hưởng mang tính quyết định với
mọi vị vua cai trị Malay.
Năm bang còn lại trên Bán đảo Malay, được gọi là Các bang Malay không Liên
minh, tuy không trực tiếp nằm dưới quyền quản lý của London, cũng đã chấp nhận các
cố vấn Anh ở đầu thế kỷ XX. Trong số họ, bốn bang phía bắc là Perlis, Kedah,
Kelantan và Terengganu từng nằm dưới tầm ảnh hưởng của Xiêm trước kia.
Trên đảo Borneo, Sabah được cai quản như thuộc địa chưa độc lập British North
Borneo, tuy Sarawak đã được Brunei chấp nhận là một vương quốc riêng của gia đỉnh
Brooke, những người cai trị như những Rajahs Trắng.
Sau khi người Nhật chiếm Malaya trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sự ủng hộ
của dân chúng cho một nền độc lập ngày càng tăng. Những kế hoạch hậu chiến của
Anh nhằm thống nhất quản lý hành chính Malaya dưới một thuộc địa duy nhất được
gọi là Liên minh Malaya hình thành trong sự phản đối mạnh mẽ từ người Malay, họ
phản đối sự nhu nhược của tầng lớp cai trị Malay và việc trao quyền công dân cho
những người Trung Quốc. Liên minh Malaya, được thành lập năm 1946 và gồm tất cả
các vùng đất thuộc quyền quản lý của Anh tại Malaya ngoại trừ Singapore, đã giải tán
năm 1948 và bị thay thế bởi Liên bang Malaya, giữ lại quyền tự trị của những vị vua
cai trị các bang Malay dưới sự bảo hộ của Anh.

Trong thời gian này, những người nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Malaya đã tung ra các cuộc tấn công du kích nhằm đẩy lực lượng Anh khỏi Malaya.
Tình trạng khẩn cấp Malaya, như nó từng được gọi, kéo dài từ 1948 tới 1960, và dẫn
tới một chiến dịch chống nổi dậy kéo dài của quân đội Khối thịnh vượng chung Anh ở
Malaya. Chống lại tình hình này, nền độc lập cho liên minh trong Khối thịnh vượng
chung đã được trao ngày 31 tháng 8 năm 1957.
Năm 1963 Liên bang được đổi tên thành Malaysia với sự chấp nhận của các thuộc
địa khi ấy của Anh là Singapore, Sabah (British North Borneo) và Sarawak. Vương
quốc Hồi giáo Brunei, dù ban đầu thể hiện ý muốn gia nhập Liên bang, đã rút khỏi kế
hoạch hợp nhất vì sự chống đối từ một số phe phái nhân dân cũng như những tranh cãi
về việc chi trả các khoản đặc lợi dầu mỏ và vị thế Vương quốc Hồi giáo của kế hoạch
hợp nhất.
Buổi đầu độc lập đã gặp trở ngại bởi cuộc xung đột với Indonesia (Konfrontasi)
về việc thành lập Malaysia, sự rút lui năm 1965 của Singapore và cuộc tranh giành sắc
tộc dưới hình thức những cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1969. Philippines cũng đưa ra

72


tuyên bố chủ quyền với Sabah trong giai đoạn đó vì Vương quốc Hồi giáo Brunei
nhượng lại những lãnh thổ đông bắc của họ cho Vương quốc Hồi giáo Sulu năm 1704.
Tranh cãi lãnh thổ này vẫn đang tiếp diễn. Sau những vụ bạo loạn sắc tộc ngày 13
tháng 5 năm 1969, Chính sách Kinh tế Mới gây nhiều tranh cãi - được dự định làm gia
tăng phần sở hữu trong nền kinh tế của các bumiputra (“người bản xứ”, gồm cả cộng
đồng người Malay đa số, nhưng không phải luôn là người bản xứ) đối lập với các
nhóm sắc tộc khác - được Thủ tướng Tun Abdul Razak đưa ra. Từ đó Malaysia đã duy
trì một sự cân bằng sắc tộc-chính trị mong manh, với một hệ thống chính phủ nỗ lực
tổng hợp các lợi ích phát triển kinh tế với chính trị và các chính sách kinh tế dành ưu
tiên cho Bumiputra.
 Địa lý

Diện tích của Malaysia là 330.000 km². Malaysia gồm hai phần:
Malaysia bán đảo, gọi là bán đảo Malaysia, phía bắc giáp Thái Lan, phía đông
giáp Biển Đông, phía nam giáp eo biển Singapore, phía đông giáp eo biển Malacca.
Malaysia hải đảo, gồm hai bang Sabah và Sarawak ở phía bắc đảo Borneo, giáp
Brunei và Indonesia.
Hai phần này chia tách nhau bởi Biển Đông và có nhiều đặc điểm địa hình tương
tự ở cả Tây và Đông Malaysia với những đồng bằng ven biển xen giữa những đồi rừng
dày đặc và núi non, điểm cao nhất là Núi Kinabalu ở độ cao 4.095,2 mét (13.435,7 ft),
cao nhất Đông Nam Á, trên đảo Borneo. Khí hậu địa phương là khí hậu xích đạo đặc
trưng bởi những cơn gió mùa tây nam (tháng 4 tới tháng 10) và đông bắc (tháng 10 tới
tháng 2).
 Tài nguyên thiên nhiên
Malaysia giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong các lĩnh vực như nông
nghiệp, lâm nghiệp và khoáng sản. Về nông nghiệp, Malaysia là nước xuất khẩu hàng
đầu thế giới sản phẩm cao su tự nhiên và dầu cọ, gỗ xẻ và gỗ nguyên liệu, coca, hạt
tiêu, dứa và thuốc lá cũng là những mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực này. Dầu cọ là
một nguồn thu ngoại tệ lớn.
 Kinh tế
Bán đảo Malay và cả Đông Nam Á từng là một trung tâm thương mại trong nhiều
thế kỷ. Nhiều đồ vật như gốm sứ và gia vị đã được buôn bán thậm chí cả trước thời
Malacca và Singapore nổi lên giành ảnh hưởng.
Ở thế kỷ XVII cao su đã xuất hiện tại nhiều bang Malay. Sau này, khi người Anh
bắt đầu nắm quyền kiểm soát Malaya, cây cao su và dầu cọ được canh tác cho mục
đích thương mại. Cùng với thời gian, Malaya đã trở thành nhà sản xuất thiếc, cao su,
và dầu cọ lớn trên thế giới.[30] Ba mặt hàng chính này, cộng với các loại nguyên liệu
thô khác, đã trở thành căn bản của nền kinh tế Malaysia giai đoạn giữa thế kỷ XX.
Thay vì dựa vào nguồn nhân lực người Malay bản xứ, người Anh đã đưa người
Trung Quốc, Ấn Độ tới làm việc tại những mỏ khai thác và trên những cánh đồng. Dù
nhiều người trong số họ sau đó đã quay về quê hương khi hết hạn hợp đồng, một số
người đã ở lại Malaysia và định cư vĩnh viễn.

Khi Malaya tiến tới độc lập, chính phủ bắt đầu đưa ra những kế hoạch kinh tế 5
năm, bắt đầu bằng kế hoạch 5 năm Malaya lần thứ Nhất năm 1955. Ngay khi Malaysia
thành lập, các kế hoạch được đổi tên và đánh số lại, bắt đầu bằng Kế hoạch Malaysia
lần thứ Nhất năm 1965.

73


Trong thập kỷ 1970, Malaysia bắt đầu bắt chước Những con Hổ Châu Á và bắt
đầu quá trình chuyển tiếp từ nền kinh tế phụ thuộc vào công nghiệp mỏ và nông
nghiệp sang nền kinh tế chế tạo. Với đầu tư từ Nhật Bản, các ngành công nghiệp nặng
nhanh chóng phát triển trong vài năm. Xuất khẩu của Malaysia trở thành khu vực
mang lại tăng trưởng chủ yếu. Malaysia liên tục đạt mức tăng trưởng GDP hơn 7% với
tỷ lệ lạm phát thấp trong thập niên 1980 và 1990.
Cùng trong giai đoạn này, chính phủ đã tìm cách xóa bỏ nghèo đói với chính sách
kinh tế mới (NEP) gây nhiều tranh cãi, sau vụ nổi loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm
1969. Mục tiêu chính của nước này là xóa bỏ sự liên hệ sắc tộc với chức năng kinh tế,
và kế hoạch năm năm đầu tiên áp dụng NEP là kế hoạch Malaysia lần hai. Thành công
hay thất bại của NEP là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận, dù nó đã bị chính thức bãi
bỏ năm 1990 và được thay thế bởi Chính sách Phát triển Quốc gia (NDP).
Tuy nhiên, sự bùng nổ kinh tế đã dẫn tới nhiều vấn đề về cung cấp nguyên liệu.
Thiếu hụt nhân công nhanh chóng dẫn tới làn sóng hàng triệu lao động nước ngoài tràn
vào, nhiều người trong số họ là lao động bất hợp pháp. Các consortium giữa các nhà
băng hăm hở lao vào kiếm lợi nhuận từ những dự án hạ tầng lớn. Tất cả chúng đã
chấm dứt khi cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á xảy ra vào mùa thu năm 1997, gây
rung động nền kinh tế Malaysia. Trong khoảng thập niên 1980 và giữa thập niên 1990,
Malaysia trải qua thời kỳ tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc với Thủ tướng Tun Dr
Mahathir bin Mohamad. Giai đoạn này cũng là sự chuyển đổi từ nền kinh tế dựa trên
nông nghiệp sang chế tạo và công nghiệp trong những khu vực như máy tính và hàng
điện tử tiêu dùng. Cũng ở thời gian này, bộ mặt Malaysia đã thay đổi với sự xuất hiện

của nhiều dự án lớn. Đáng chú ý nhất là những dự án như Tháp đôi Petronas (khi ấy là
toà nhà cao nhất thế giới), sân bay quốc tế KL (KLIA), Đường cao tốc Bắc-Nam,
Đường đua F-1 Sepang, Siêu Hành lang Truyền thông (MSC), đập thuỷ điện Bakun và
Putrajaya, một thủ đô hành chính liên bang mới.
Cuối thập niên 1990, Malaysia rung động bởi cuộc Khủng hoảng tài chính Châu
Á cũng như tình trạng chính trị bất ổn do việc sa thải phó thủ tướng Dato' Seri Anwar
Ibrahim. Năm 2003, Tiến sĩ Mahathir, thủ tướng có thời gian cầm quyền dài nhất tại
Malaysia về hưu, nhường chỗ cho phó thủ tướng Abdullah Badawi.
Tương tự như các quốc gia khác bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, tình
trạng bán ra trước hạn (short-shelling) đồng tiền tệ Malaysia, đồng ringgit diễn ra. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài rơi xuống mức báo động, khi dòng vốn chảy ra khỏi đất nước,
giá trị đồng ringgit giảm từ MYR 2.50 trên USD xuống còn, ở một thời điểm, MYR
4.80 trên USD. Chỉ số tổng hợp Thị trường Chứng khoán Kuala Lumpur mất gần 1300
điểm xuống gần mức 400 sau vài tuần. Sau sự sa thải gây tranh cãi bộ trưởng tài chính
Anwar Ibrahim, một Hội đồng Hành động Kinh tế Quốc gia được thành lập để giải
quyết cuộc khủng hoảng tiền tệ. Ngân hàng Negara đặt ra các biện pháp kiểm soát vốn
và chốt giữ tỷ giá đồng ringgit Malaysia ở mức 3.80 trên US dollar. Tuy nhiên,
Malaysia đã từ chối các gói hỗ trợ kinh tế từ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng
Thế giới, gây ngạc nhiên cho nhiều nhà phân tích.
Tháng 3 năm 2005, Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD) đã xuất bản báo cáo về các nguồn và các bước phục hồi kinh tế cho
Malaysia, do Jomo K.S. thuộc Đại học Malaya, Kuala Lumpur thực hiện. Văn bản này
kết luận rằng những biện pháp kiểm soát do chính phủ Malaysia áp đặt không cản trở
cũng không giúp nền kinh tế hồi phục. Yếu tố chủ chốt là sự tăng trưởng xuất khẩu các
sản phẩm điện tử, do sự gia tăng nhu cầu tại Hoa Kỳ, do lo ngại về những hiệu ứng
2000 (Y2K) với các sản phẩm điện tử đời cũ.

74



Tuy nhiên, sự hạ giá sau sự kiện Y2K năm 2001 không ảnh hưởng tới Malaysia
nhiều như các quốc gia khác. Đây có thể là một bằng chứng cho thấy có những lý do
và hiệu ứng khác thực sự liên quan tới quá trình phục hồi hơn. Một nguyên nhân có thể
là những nhà đầu cơ đã hết tiềm lực tài chính sau vụ tấn công bất thành vào đồng
dollar Hong Kong tháng 8 năm 1998 và sau khi đồng Ruble Nga sụp đổ. (Xem George
Soros)
Dù những lý lẽ về nguyên nhân hay kết quả có thế nào chăng nữa, sự hồi phục
của nền kinh tế xảy ra đồng thời với chính sách chi tiêu mạnh của chính phủ và thâm
hụt ngân sách trong những năm sau khủng hoảng. Sau này, Malaysia đã có được sự
phục hồi kinh tế tốt hơn các nước láng giềng. Tuy nhiên, theo nhiều cách, đất nước này
vẫn chưa đạt được mức độ trước khủng hoảng.
Tuy tốc độ phát triển hiện nay không cao, nhưng nó được coi là bền vững. Dù
những biện pháp kiểm soát và sự nắm chặt kinh tế có thể không phải là nguyên nhân
chính của sự hồi phục, không nghi ngờ rằng lĩnh vực ngân hàng đã trở nên mau chóng
phục hồi hơn sau những chấn động từ bên ngoài. Tài khoản vãng lai cũng được đặt
trong một thặng dư cơ cấu (The current account has also settled into a structural
surplus), cho phép làm giảm nhẹ sự rút lui của nguồn vốn. Giá tài sản hiện chỉ bằng
một phần nhỏ so với thời kỳ cao điểm trước khủng hoảng.
Tỷ giá hối đoái cố định đã bị bãi bỏ tháng 7 năm 2005 nhằm tạo thuận lợi cho một
hệ thống tỷ giá tự do có quản lý trong thời điểm Trung Quốc công bố cùng một động
thái. Cùng trong tuần đó, đồng ringgit đã tăng giá so với hầu hết các đồng tiền tệ chính
và được cho là sẽ còn tăng thêm. Tuy nhiên, tới tháng 12 năm 2005 những hy vọng đó
đã mất khi dòng vốn rút đi vượt quá 10 tỷ dollar Mỹ.[31]
GDP (2005) 290 tỷ USD.Tốc độ tăng trưởng GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) của
những năm 1960 là 5%; năm 1970 là 8 % . 1980 là 7 %.
Trên 30 năm Malaisia đã chuyển từ nền kinh tế lâm nông nghiệp làm chỗ dựa, là
sức mạnh chủ yếu sang nền kinh tế ngày càng được công nghiệp hoá cao.
Trong tổng sản phẩm quốc hội GDP năm 1970, nông nghiệp chiếm 29%, đến
1990 chỉ chiếm còn 18%, năm 1970 còn 35% , 1990 công nghiệp 40%; dịch vụ 1970 là
36%, 1990 là 42%.

Tỷ lệ đầu tư thu nhập Quốc nội GDP năm 1970 là 18,4% năm 1990 là 35,2%.
Về cơ cấu thành phần kinh tế, năm 1970 tư nhân chiếm 68% tổng số vốn đầu tư
vào nền kinh tế, Nhà nước 32%. Nhà nước khuyến khích người bản xứ đầu tư và đẩy
mạnh các cơ sở công nghiệp. Năm 1982 tỷ lệ đầu tư của tư nhân là 50% và Nhà nước
là 50%. Từ 1982 Nhà nước đã thấy gánh nặng công nợ và tính hiệu quả kém của xí
nghiệp công cộng nên đã điều chỉnh cơ cấu đầu tư bằng cách tiến hành tư nhân hoá các
xí nghiệp và đầu tư của Nhà nước giảm từ 67% tổng số vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế
xuống còn 33%, kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển.
Cơ cấu xuất khẩu thay đổi theo hướng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có hàm
lượng kỹ thuật cao. Năm 1990 sản phẩm chế biến chiếm 40% tổng sản phẩm xuất
khẩu.
Nhà nước khuyến khích nhập khẩu loại bán nguyên liệu chủ yếu phục vụ sản
xuất, chiếm 35%, hàng tiêu dùng chỉ chiếm 22%.
2. Cộng hoà Singapore
 Lịch sử

75


Singapore xuất phát từ Singapura trong tiếng Malaysia (hay tiếng Malay), vốn
được lấy từ nguồn gốc của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành phố). Từ đó
Singapore được biết với cái tên Thành phố Sư Tử. Tên gọi này bắt nguồn từ một vị
hoàng tử tên là Sang Nila Utama. Theo truyền thuyết, vị hoàng tử này nhìn thấy một
con sư tử là sinh vật sống đầu tiên trên hòn đảo và do đó đặt tên cho hòn đảo là Thành
phố Sư Tử (Singapura).[1]
Cộng hòa Singapore tiếng Hán là Tân Gia Pha (người Việt hay đọc là Tân Gia
Ba), nằm phía đông bán đảo Malaysia. Diện tích 692.00 km2. Dân số 4.553.009 người
(2007). Người Hoa 76,8%; Mã Lai 7,9%: Ấn Độ 1,4 %.Tôn giáo: Phật giáo 42,5%;
khổng giáo 14,8%. GDP 124 tỷ USD (2005). Bình quân 28.228 USD/người.
Singapore từng là một làng cá của người Mã Lai khi nó bị chiếm làm thuộc địa

của Anh vào thế kỷ XIX. Sau đó, quân đội Nhật chiếm đóng Singapore trong Thế
chiến thứ hai, và sau nữa nước này là một phần trong sự liên kết tạo thành Liên bang
Mã Lai. Khi Singapore giành được độc lập, với rất ít tài nguyên thiên nhiên, đây là
một nước không ổn định về chính trị xã hội và không phát triển về kinh tế. Đầu tư
nước ngoài và sự công nghiệp hóa do nhà nước chỉ đạo đã tạo ra một nền kinh tế dựa
chủ yếu trên xuất khẩu hàng điện tử và gia công.
Hơn 90% dân cư Singapore sống trong các khu nhà xây dựng sẵn của Ban Phát
triển Nhà ở và gần một nửa dân cư sử dụng phương tiện giao thông công cộng hàng
ngày. Chính nhờ các phương tiện giao thông công cộng này cùng với sự chủ động của
chính phủ trong các vấn đề môi trường đã làm cho sự ô nhiễm môi trường ở Singapore
chỉ còn lại ở vùng công nghiệp nặng ở đảo Jurong. Theo hiến pháp, Singapore là một
nước dân chủ đại nghị. Ban đầu, Singapore theo thể chế xã hội chủ nghĩa dân chủ sau
khi độc lập, sử dụng một hệ thống kinh tế phúc lợi. Tuy nhiên sau đó chính phủ
Singapore đã nghiêng dần về phía cánh hữu. Hiện nay, Singapore đang phải đối mặt
với những chỉ trích về suy giảm dân chủ do hệ thống độc đảng và đã thu hút nhiều
tranh cãi về chính sách.
Những bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của hòn đảo được tìm thấy trong những
văn bản của Trung Quốc từ thế kỉ thứ 3. Hòn đảo là nơi chiếm đóng của đế chế
Sumatran Srivijaya và khởi đầu có tên theo tiếng Java là Temasek. Temasek phát triển
thành một thành phố thương mại thịnh vượng nhưng sau đó dần dần suy tàn. Từ thế kỷ
XVI đến đầu thế kỷ XIX, Singapore là một phần của Vương quốc Johor.
Năm 1819, ông Thomas Stamford Raffles, một viên chức của công ty East India
(của Anh), đã kí một thỏa thuận với vua của Johor. Ông đồng thời thiết lập Singapore
trở thành một trạm thông thương buôn bán và nơi định cư, sau này đã nhanh chóng
phát triển và thu hút sự di dân từ nhiều chủng tộc khác nhau. Singapore sau đó đã trở
thành thuộc địa của Anh năm 1867. Sau một chuỗi các hoạt động mở mang lãnh thổ,
Đế quốc Anh nhanh chóng đưa Singapore trở thành một trung tâm tập trung và phân
phối dựa vào vị trị rất quan trọng của nó trên con đường biển nối giữa châu Âu và
Trung Quốc.
Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Đế quốc Nhật xâm chiếm Malaya và những

vùng lân cận trong Cuộc chiến Malaya, lên đến cực điểm tại Cuộc chiến Singapore.
Quân Anh không được chuẩn bị và nhanh chóng thất thủ mặc dù có lực lượng đông
hơn. Anh giao nộp Singapore cho quân Nhật vào ngày 15 tháng 2 năm 1942. Người
Nhật đổi tên Singapore sang tiếng Nhật thành Syonan-to, nghĩa là "Ánh sáng Miền
Nam", và chiếm đóng nó cho đến khi quân Anh trở lại chiếm hòn đảo một tháng sau sự
đầu hàng của Nhật vào tháng 9 năm 1945.

76


Singapore trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959 với người đứng đầu nhà nước
đầu tiên là Yusof bin Ishak và thủ tướng đầu tiên là Lý Quang Diệu sau cuộc bầu cử
năm 1959. Cuộc trưng cầu dân ý về việc sát nhập Singapore vào Liên bang Mã Lai đã
đạt được năm 1962, đưa Singapore trở thành một thành viên của liên bang Mã Lai
cùng với Malaya, Sabah và Sarawak như là một bang có quyền tự trị vào tháng 9 năm
1963. Singapore bị tách ra khỏi liên bang vào ngày 7 tháng 8 năm 1965 sau những bất
đồng quan điểm chính trị chính phủ của bang và hội đồng liên bang tại Kuala Lumpur.
Singapore được độc lập 2 ngày sau đó, vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, sau này đã trở
thành ngày Quốc khánh của Singapore. Malaysia là nước đầu tiên công nhận nền độc
lập của Singapore.[2]
 Kinh tế
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài.
Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác
hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát
triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước.
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu
Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu,
chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa
máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển
quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch

vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân). Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc
chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
- Kinh tế: Singapore là một trong 6 trung tâm tài chính lớn (Zurich, Lonđon,
Niwyou, Hồng Kông, Tokyo). Singapore là quân cảng và thương cảng lớn nhất của thế
giới. Trên cảng thường xuyên có 400 tàu, 10 phút có một tàu cập bến, một năm có
khoảng 4.000.000 container. Sân bay Changi lớn nhất thế giới, có 54 đường băng quốc
tế, 1950 chuyến/tuần, bay đến 109 thành phố lớn thế giới, dịch vụ mỗi ngày 1,2 vạn du
khách.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2004 là 8,4%; dự trữ ngoại tệ 112 tỷ USD.
- Chính trị: Chế độ một Đảng, 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng PAP gọi là
Đảng hành động nhân dân do Lý Quang Diệu sáng lập.
- Mức sống: Đứng thứ hai Châu Á. Bình quân thu nhập 24.000USD/người. Môi
trường xã hội tốt, không có trộm cắp, tệ nạn, cả nước là thành phố công viên, pháp luật
nghiêm minh, bộ máy hành chính gọn nhẹ quản lý rất hiệu quả. và có giờ làm việc là
từ 06:00 tới 24:00. Taxi cũng là một phương tiện giao thông khá phổ biến ở Singapore
và không quá đắt.
TÓM TẮT CHƯƠNG
Trước khi bị thực dân Phương Tây xâm lược, các nước ASEAN phần lớn đều có
nền kinh tế phong kiến và tiền phong kiến lạc hậu, thấp kém. Cuối thế kỷ XIX, các
nước này đều trở thành thuộc địa của tư bản phương Tây. Sau hàng thế kỷ bị nô dịch,
kinh tế của các nước ASEAN phát triển què quặt, lạc hậu và lệ thuộc vào nước ngoài.
Sau khi giành được độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, các nước ASEAN đã có
chính sách kinh tế và trình độ phát triển kinh tế không đồng nhất, phần lớn phát triển
theo mô hình kinh tế TBCN với nền kinh tế thị trường tự do. Từ khi thành lập ASEAN
đến nay, đặc biệt từ năm 1975, mối quan hệ hợp tác giữa các nước ASEAN không
ngừng được mở rộng, vị thế của ASEAN trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao. Các nước ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng ghi nhận. Tuy nhiên

77



bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế thách thức, đòi hỏi các quốc gia ASEAN luôn phải
có những điều chỉnh kịp thời các chính sách kinh tế để tiếp tục phát triển.
HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Trình bày những đặc điểm kinh tế của các nước ASEAN trước khi giành được
độc lập.
Câu 2: Phân tích mô hình phát triển kinh tế của các nước ASEAN sau khi giành được
độc lập.
Câu 3: Đánh giá việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và
chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu ở các nước ASEAN.
Câu 4: Phân tích những thuận lợi và khó khăn của kinh tế ASEAN hiện nay.

78


PHẦN II. LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM
CHƯƠNG VIII. KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
I. KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ NGUYÊN THỦY
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã trải qua các giai đoạn lớn:
- Văn lang - Âu lạc (- 696 - 208).
- Bắc thuộc độc lập tự chủ (-208; + 938).
- Độc lập phong kiến tập quyền ( 939 - 1883).
- Phong kiến thuộc địa ( 1883 - 1945).
- Độc lập thống nhất ( 1954 - 1975).
- Cả nước quá độ lên CNXH (1975 đến nay).
Xã hội Nguyên Thủy là thời kỳ khai sơn phá thạch. Kinh tế thời Nguyên Thuỷ
chủ yếu là săn bắt, hái lượm. Nghề đánh cá, chăn nuôi, chỉ được coi là nghề phụ, bổ
trợ. Hoạt động kinh tế mang tính chiếm đoạt tự nhiên là cơ bản, tính sáng tạo nhỏ bé.
Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên Việt Nam thuận lợi cho việc hái lượm vì mưa
nhiều, nắng lắm, hoa quả nhiều.

Trồng trọt ở Việt Nam xuất hiện từ bao giờ vẫn đang là một dấu chấm hỏi. Có ý
kiến cho rằng cách đây 5000 năm. Ý kiến khác nói sớm hơn cách đây khoảng 1 vạn
năm. Khảo cổ học đã chứng minh rằng thời đại đồ đá giữa nền văn hoá Hoà Bình xuất
hiện cái cuốc. Ý kiến này thống nhất trồng trọt ra đời cách đây 1 vạn năm.
Điều kiện tự nhiên Việt Nam thuận lợi cho hái lượm, trồng trọt; không thuận lợi
cho săn bắt, chăn nuôi. Bởi vì chim thú ít về số lượng, thua xa với lục địa bắc Mỹ khi
mới xuất hiện. Việt Nam không có các đồng cỏ lớn, do đó chăn nuôi gặp khó khăn.
Mặt khác khí hậu nước ta nhiệt đới, nắng lắm, mưa nhiều, độ ẩm cao, dễ bị dịch bệnh,
làm cho các giống loài không phát triển được. Chính vì lẽ đó nền kinh tế nước ta từ xa
xưa đã mất cân đối. Toàn bộ vốn liếng, sức lực tập trung vào trồng trọt, các ngành
khác bị coi nhẹ. Phân công lao động diễn ra chậm chạp và yếu ớt . Phân công lao động
lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt diễn ra chậm chạp. Phân công lao động lần
thứ hai, thủ công tách khỏi nông nghiệp yếu ớt. Phân công lao động lần thứ ba, thương
nghiệp tách khỏi nông nghiệp khó khăn. Thương nhân rất khó trở thành một giai cấp
lớn vì thương nghiệp không phát triển được “Phi thương bất phú”.
Kết cấu xã hội nguyên thuỷ mang tính cộng đồng cao. Từ bầy người đến thị tộc
mẫu hệ. Sự tan vỡ của thị tộc mẫu hệ gắn liền với sự ra đời công xã nông thôn
(CXNT) và gia đình phụ hệ. Ngày nay thị tộc mẫu hệ còn có dấu vết ở Tây Nguyên và
công xã nông thôn còn có dáng dấp ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Công xã nông thôn là gì? Công xã nông thôn gồm một cộng đồng dân cư sống
quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. CXNT vừa có quan hệ láng giềng vừa
có quan hệ huyết thống. Với kết cấu trong họ ngoài làng. Thời kỳ đầu mới dựng nước
xã hội phân thành 3 tầng vua quan, nô tỳ và dân tự do của CXNT.
Trong công xã nông thôn sự phân hoá tài sản đã bắt đầu xuất hiện. Ruộng đất,
nguồn nước vẫn thuộc quyền sở hữu công xã. Nhưng nhà cửa, gia súc, nông cụ thuộc
gia đình. Để sinh sống các gia đình phụ hệ nhận ruộng của công xã để canh tác, thu
hoạch riêng. Cá nhân khó có thể độc lập đối với công xã. Qui mô sản xuất chỉ đủ đảm
bảo nhu cầu bản thân. Nông nghiệp và thủ công nghiệp là một. Ăng ghen viết “Vào
thời kỳ đầu lịch sử của tất cả các xã hội văn minh, chúng ta không thấy có “người địa


79


chủ lớn” mà chỉ thấy công xã thị tộc hay xã hội nông thôn có chế độ ruộng đất công
cộng” (Chống Đuy Rinh, Mác - Ăng ghen, NXB Sự thật, Hà Nội). Quan hệ làng xã có
công điền, công thổ, có nhiều tập tục của làng. Tâm lý làng xã khôi phục quan hệ
huyết tộc, thân tộc, tâm lí quê cha đất tổ còn rơi rớt lại đến thời hiện đại.
II. KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
Thời kỳ dựng nước bắt đầu khi kỹ thuật luyện kim xuất hiện. Thời kỳ này gồm 2
giai đoạn Văn Lang và Âu Lạc mà lịch sử gọi chung là thời kỳ đại Hùng Vương.
(Hùng chỉ là tù trưởng, Vương là vua). Nhà nước Văn Lang ra đời vào năm 696 đến
208 trước công nguyên, cách đây 2500- 2700 năm. Giai đoạn Văn Lang chiếm vị trí
lịch sử trọng yếu. Khi kỹ thuật luyện kim xuất hiện, đây là giai đoạn văn hóa đồng
thau được mở đầu bằng văn hóa Phùng Hưng và văn hóa Đông Sơn. Kỹ thuật luyện
kim đã thúc đẩy hoạt động sản xuất, sinh hoạt kinh tế của con người. Lực lượng sản
xuất quyết định việc thay đổi các quan hệ xã hội. Đây là thời kỳ đất nước ta sống trong
nền văn minh nông nghiệp tiêu biểu là văn minh Sông Hồng. Nền nông nghiệp khá
phát triển, tình trạng du canh du cư chấm dứt, bước đầu xuất hiện “lạc hầu” “lạcdân”.
Sử cũ ghi lại, lạc dân khẩn ruộng, lạc hầu ăn ruộng. lạc hầu là người chiếm một phần
sản phẩm của lạc dân.
Giai đoạn Văn Lang chuyển sang Âu Lạc bằng việc xuất hiện kỹ thuật luyện gang
thành sắt. Sắt được luyện bằng lò và đúc ra các công cụ và vũ khí. Công cụ lao động
có những biến đổi. Sự xuất hiện công cụ bằng kim loại thật sự là cuộc cách mạng trong
lĩnh vực sản xuất. Thời kỳ này dân sống tập trung thành làng xã, bên cạnh quan hệ
huyết tộc còn có quan hệ láng giềng. Do sống tập trung cho nên trồng trọt, chăn nuôi
có điều kiện để phát triển. Bên cạnh trồng cây lương thực người dân còn trồng cây lấy
quả, cây thuốc. Nghề nông ngoài việc sử dụng công cụ bằng kim loại còn sử dụng cả
gia súc để kéo cày, lợi dụng nguồn nước tự nhiên để tưới tiêu do đó thủy lợi bắt đầu
phát triển.
Nghề đúc đồng được đẩy mạnh. Đồ đồng phát triển. Trống đồng Ngọc Lũ là biểu

tượng lịch sử của nền văn minh nước ta. Đây là thành lựu kinh tế đáng được tự hào của
dân tộc ta. Đồ gốm cũng được phát triển mạnh ở thời kỳ này. Gốm được nung trong lọ
có hoa văn phong phú. Nghề dệt lụa hình thành nhờ đó trang phục của người thời
Hùng Vương đa dạng và đẹp.
Kỹ thuật thủ công và nông nghiệp thời kỳ Hùng Vương đã phát triển làm cho
quan hệ trao đổi hàng hoá đã hình thành. Khảo cổ học tìm thấy trống đồng Đông Sơn
(Thanh Hoá) có ở đồng bằng Bắc Bộ và trống đồng Đông Sơn đã tìm thấy ở Indonesia.
Điều này có ý nghĩa trên phương diện kinh tế người Việt cách đây 4000 năm đã có
quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Thời đại Hùng Vương ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà Vua. Do vậy
người dân cày cấy ruộng công phải chịu nghĩa vụ với nhà vua, như đóng góp sản
phẩm, lao dịch, bệnh dịch.
Trồng trọt trở thành ngành sản xuất chính của cư dân lạc Việt. Trung tâm kinh tế
dời về đồng bằng. Nghề nông tập trung hai bên bờ sông Hồng và sông Mã. Cùng với
trồng trọt chăn nuôi có sự chuyển biến tích cực. Nhiều gia súc gia cầm đã được thuần
dưỡng từ thời trước nay được đưa vào nuôi nhiều hơn. Chăn nuôi hình thành, người
Việt cỗ đã biết sử dung trâu bò để cày kéo, cung cấp thực phẩm cho các lễ hội, sinh
hoạt cộng đồng.
Thời đại Hùng Vương sinh hoạt xã hội đã có sự biến đổi. Hình thái nhà nước đã
xuất hiện. Xã hội phân thành đẳng cấp khác nhau, trên có vua Hùng rồi tới các lạc hầu,

80


lạc tướng, lạc dân. Thành cổ loa ở Đông Anh, Hà nội là nơi đóng quân của An Dương
Vương.
TÓM TẮT CHƯƠNG
Thời kỳ nguyên thủy ở Việt Nam kéo dài với nền kinh tế tự nhiên lạc hậu, hái lượm
và sau đó là trồng trọt giữ vai trò chủ yếu trong đời sống của con người. Khi kỹ thuật
luyện kim xuất hiện, thời kỳ nguyên thủy chấm dứt, Việt Nam bước vào thời kỳ mới.

Thời đại Hùng Vương có vị trí quan trọng trong lịch sử bốn nghìn năm dựng nước của
dân tộc. Văn minh thời đại Hùng Vương là văn minh nông nghiệp. Thủ công nghiệp có
nhiều tiến bộ. Giao lưu trao đổi hàng hóa xuất hiện. Bước sang giai đoạn Âu Lạc, trình
độ kỹ thuật đạt được những tiến bộ đáng kể. Hình thái nhà nước đã xuất hiện, sự phân
hóa xã hội đã trở nên rõ nét. Thành Cổ Loa là minh chứng về khả năng tổ chức lực
lượng lao động và việc vận dùng kinh nghiệm, kỹ thuật vào việc xây dựng công trình
quốc phòng.
HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Phân tích đặc điểm kinh tế Việt Nam thời kỳ nguyên thủy.
Câu 2: Phân tích những tiến bộ trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ dựng nước.
Câu 3: Phân tích những biến đổi trong quan hệ kinh tế - xã hội thời đại Hùng Vương.

81


CHƯƠNG IX. KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN
I. THỜI KỲ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC THỐNG TRỊ (năm 208 đến 938
TCN)
1. Chính sách cai trị của phong kiến phương Bắc
Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà đã nhập Âu Lạc vào Nam Việt và chia
Nam Việt thành 2 quận Giao Chỉ ở Bắc bộ và Cửu Chân ở Bắc Trung Bộ. Trải qua
hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhiều tập đoàn phong kiến phương Bắc đã thống trị nước
ta. Chúng chia nước ta ra làm nhiều châu, quận, huyện. Thời kỳ đầu phong kiến Trung
Quốc chỉ bao quát được châu, quận còn huyện do phong kiến địa phương cai trị. Bởi
vậy mặc dầu bị bắc thuộc song các phong tục tập quán truyền thống của người Việt
vẫn được duy trì.
Sau cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng thất bại, bọn phong kiến Trung Quốc xiết chặt
bộ máy cai trị. Chúng ra tay quản lí đến huyện. Từ năm 43 sau công nguyên nhà Hán
cử quan lại sang cai trị tới huyện, bên cạnh đó bọn chúng còn dùng chính sách đồng
hoá dân tộc bằng cách du nhập các phong tục tập quán ở Trung Quốc sang Việt

Nam.Đến đời Đường (622) quan lại Trung Quốc cai trị đến làng xã. Các đơn vị hành
chính do nhà Đường thiết lập như tiểu hương 70 -130 hộ, đại hương 160 - 540 hộ, tiểu
xã 10 - 30 hộ, đại xã 40 đến 60 hộ.
Nhìn chung suốt trong thời kỳ thống trị Việt Nam sự xâm nhập của chính quyền
đô hộ vào làng, xã gặp nhiều khó khăn. Bởi vì, tính bền vững của truyền thống người
Việt là lực cản quá trình đồng hoá. Trên thực tế khả năng tự vệ của làng xã đã kháng
cự quyết liệt tư tưởng đồng hoá của Trung Quốc.
Phong kiến Trung Quốc dùng chính sách bóc lột bằng cống nạp và tô thuế. Đồ vật
cống nạp là các loại nông, lâm đặc sản và những sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Thuế là
một chính sách của Nhà nước phong kiến. Thời Đường nông dân cày ruộng mồi năm
phải nộp hai thạch lúa. Muối và sắt là hai mặt hàng Nhà nước độc quyền quản lý và
đánh thuế. Những phu phen tạp dịch xây thành đắp luỹ cho giai cấp thống trị đã thu
hút nguồn lực lớn của xã hội.
Tàn bạo hơn phong kiến Trung Quốc còn chiếm đất lập đồn điền. Bắt nông nô
người Viêt lao động. Sản phẩm chở về Trung Quốc. Bọn chúng cướp thợ thủ công giỏi
đưa về Trung Quốc để xây dinh luỹ, thành quách.
Quá trình phong kiến hoá nền kinh tế Việt Nam, gắn liền với sự đô hộ của
phương bắc. Ở giai đoạn này người Việt chưa tỏ rõ vai trò tích cực trong sự phát triển
dân tộc.
Trong thư gửi Ăng Ghen 2/6/1853, Mác khẳng định: “Nhà vua là kẻ sở hữu duy
nhất tất cả mọi đất đai trong quốc gia” và tình hình không có chế độ tư hữu về ruộng
đất đó là chìa khoá thật sự ngay cả cho thế giới phương đông.
Về phương diện cơ cấu, kinh tế làng xã kết hợp với kinh tế đồn điền của nhà nước
phong kiến ngoại bang. Một số quan lại Trung Quốc sang lập trang trại ở nước ta.
Thực chất nền kinh tế nước ta thời kỳ này phụ thuộc vào Trung Quốc.
Về phương diện giai cấp, tầng lớp địa chủ người Trung Quốc kết hợp với việc địa
chủ hoá các quý tộc nông nô một số người Việt, số khác di cư từ Trung Quốc sang lâu
ngày bị Việt hoá. Bắt đầu hình thành quan hệ sản xuất phong kiến với giai cấp địa chủ
và nông nô, bóc lột vừa nô lệ vừa phát canh thu tô.
2. Những chuyển biến bước đầu của nền kinh tế dân tộc


82


Kinh tế nông nghiệp thuần tuý với 2 ngành chủ yếu trồng trọt và chăn nuôi ngày
càng được phát triển. Nông dân ngày càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong
trồng trọt. Việc sử dụng trâu, bò cày kéo trở nên phổ biến, thuỷ lợi được coi trọng, việc
đắp đê, đập để lấy nước tưới tiêu người ta rất quan tâm. Chăn nuôi gắn với trồng trọt
chặt chẽ hơn, kỹ thuật trồng lúa nước 2 vụ trở nên phổ biến.
Từ sau công nguyên thủ công nghiệp nước ta bắt đầu phát triển, đồ sắt ngày càng
được phổ biến. Các công cụ, nông cụ bằng sắt được sử dụng rộng rãi, đồ gốm và nghề
gốm thịnh đạt, hình dạng đồ gốm phong phú được trang trí những nét hoa văn độc đáo.
Trên cơ sở nghề gốm, nghề gạch ngói cũng phát triển, với các loại gạch ngói thường
và gạch ngói tráng men được sử dụng vào thành luỹ của chính quyền đô hộ. Ngoài
nghề gốm còn có nghề dệt, nghề làm gang, nghề mộc cùng phát triển mạnh.
Thủ công nghiệp, nông nghiệp ổn định và bắt đầu phát triển đã tạo điều kiện việc
trao đổi hàng hoá giữa các vùng. Nhờ đó thời ấy các thợ nông thôn đã hình thành đó là
các trung tâm trao đổi của người Việt. Nhu cầu trao đổi sản phẩm thúc đẩy việc hình
thành mạng lưới giao thông ở trong vùng, trong nước và nước ngoài. Giao thông giữa
các vùng người ta dùng thuyền mảng, voi ngựa vận chuyển. Châu, Quận trở thành
trung tâm buôn bán, nhiều người nước ngoài Ấn Độ, Ba Tư, Ả Rập đã đến trú ngụ và
buôn bán ở nước ta.
II. THỜI KỲ PHONG KIẾN DÂN TỘC TỰ CHỦ (938 - 1858)
Thời kỳ phong kiến dân tộc tự chủ mở đầu bằng chiến thắng Ngô Quyền (938)
đến giữa thế kỷ XIX (1858). Xã hội Việt Nam từ sau chiến thắng Ngô Quyền giai cấp
phong kiến Việt Nam thay nhau thống trị. Mặc dầu khi mới hình thành giai cấp phong
kiến Việt Nam còn non yếu nhưng đã thống trị đất nước ta suốt từ 938 đến khi thực
dân Pháp xâm lược. Thời kỳ này có thể được chia làm 2 giai đoạn
1. Giai đoạn hưng thịnh (Từ 938 đến thể kỷ XV).
Năm 939 Ngô Quyền xưng vương, năm 944 Ngô Quyền mất. Con cái nhà họ Ngô

tranh nhau quyền bính vì thế năm 965 nhà Ngô sụp đổ. Đất nước rơi vào loạn 12 sứ
quân.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi đặt tên nước ta là Đại Cồ Việt. Nhà Hồ tồn tại
không được bao lâu thì sụp đổ.
Năm 979 Lê Hoàn lên ngôi. Năm 1005 Lê Hoàn mất, các con tranh chấp quyền
lực. Đất nước lục đục.
Năm 1009 nhà Lý lên thay. Năm l054 nhà Lý đặt niên hiệu là Đại Việt. Niên hiệu
này tồn tại đến đầu thế kỷ XIX. Nhà Trần từ năm 1226 đến 1400.
Nhà Hồ từ năm 1400 đến 1407.
Lê Lợi lên ngôi 1428 (Lê Thái Tổ)
Xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn này đặt dưới sự thống trị của các triều đại
Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ và hậu Lê. Nhìn chung các triều đại phong kiến đều
thực hiện chính sách “dĩ nông vi bản”. Chính sách này xuất phát từ đặc trưng bóc lột
của chế độ phong kiến đó là bóc lột bằng địa tô. Do đó nhà nước muốn nắm quyền sở
hữu ruộng đất để thu địa tô. Vì vậy vấn đề ruộng đất đã trở thành trung tâm kinh tế
chính trị của xã hội phong kiến. Về cơ bản ruộng đất thời phong kiến đang tồn tại dưới
2 hình thức sở hữu: Ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân.
Ruộng đất và sản xuất nông nghiệp

83


Thời kỳ thế kỷ XI đến XV là thời kỳ hình thành và phát triển cực thịnh của Nhà
nước phong kiến. Do đó ruộng đất đại bộ phận thuộc sở hữu Nhà nước. Câu nói “Đất
của vua, chùa của làng” đi vào tâm trí của người dân thời đó. Ruộng đất thuộc sở hữu
nhà nước gồm có ruộng công làng xã, ruộng quốc khố, ruộng phong cấp.
* Kinh tế làng xã
Kinh tế làng xã là kinh tế của những người sản xuất và buôn bán nhỏ ở trong làng
xã. Ở đây người nông dân vừa là thợ thủ công và thương nhân. Nhà nước ít can thiệp
vào kinh tế làng xã.

Ruộng công xã: Từ hậu Lê, nhà nước phong kiến chia ruộng đất cho làng xã. Chia
theo chức tước, phẩm hàm. Lúc đầu ruộng công lớn, dần dần ít đi do địa chủ và quý
tộc chiếm lấy và bán đi. Thời Lê Sơ nhà Lê đại diện cho địa chủ nên ruộng tư có điều
kiện để phát triển. Nhà nước ban hành nhiều luật lệ liên quan đến việc phát triển và tồn
tại ruộng tư. Luật Hồng Đức cho phép biến quyền chiếm hữu lâu năm thành quyền sở
hữu.
Ruộng công làng xã là ruộng đất thuộc sỡ hữu của Nhà nước nhưng giao cho các
làng xã quản lý và chia cho nông dân sử dụng để canh tác. Người dân cày ruộng làng
phải nộp tô hoặc đi lao dịch, binh dịch. Mỗi mẫu ruộng phải nộp 100 thăng thóc. Nhìn
chung ruộng công làng xã đã chi phối kinh tế làng xã. Nhà nước đã phân loại ruộng để
định mức thu địa tô trong nhân dân.
Dưới các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Hồ việc phân chia ruộng đất do làng xã
quyết định, dân làng nào cày cấy ruộng làng xã ấy. Bên cạnh ruộng công tồn tại một
bộ phận ruộng tư đây là một bộ phận khá giả trong làng. Có hiện tượng mua bán sang
nhượng ruộng công làng xã thành ruộng tư. Nhà nước lập khế ước đảm bảo cho việc
mua bán, cầm cố ruộng đất của làng xã. Đa số dân cày ruộng công, một số ít ruộng tư.
Nông nô tự do ở Việt Nam không giống nông nô trong các lãnh địa Tây Âu thời trung
đại mà là thần dân của nhà vua.
Thời kỳ Lê sơ, với chế độ “quân điền” nhà Vua đứng ra phân chia ruộng công
làng xã. Về nguyên tắc mọi người đều được chia nhưng không phải chia bình quân mà
dựa theo địa vị của mỗi người trong xã hội. Ví dụ quan tam phẩm được chia 5 phần,
dân nghèo 3,5 phần, cứ 6 năm thì chia lại một lần. Nhà Lê đã bãi bỏ quyền tự trị ruộng
đất của làng xã, thiết lập chế độ "quân điền” góp phần phong kiến hoá cơ cấu xã hội.
Như vậy đến thời Lê sơ chế độ quân điền đã làm giảm vai trò tự trị của làng xã.
Ruộng “quốc khố” là ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước phong kiến, do nhà nước
trực tiếp quản lý. Nguồn gốc ruộng quốc khố là tịch thu từ các trang trại, đồn điện của
chính quyền thực dân và địa chủ quan lại nhà Hán. Ruộng quốc khố còn do khai hoang
mà có. Hoa lợi ruộng quốc khố thường dùng vào việc cúng tế, hay sửa sang các lăng
mộ, đền chùa. Lực lượng lao động chủ yếu là tù nhân và chiến tù. Tô ruộng quốc khố
thường nặng hơn tô ruộng công làng xã.

Ruộng “phong cấp” là ruộng Vua ban thưởng cho quan lại quý tộc, hay người có
công với nước. Ruộng phong cấp có kèm theo số hộ nông dân để canh tác, từ đó dẫn
tới việc hình thành các thái ấp của quý tộc. Ruộng phong cấp vẫn thuộc sở hữu của
nhà Vua, người được cấp chỉ sử dụng nó để thu tô chứ không có quyền sở hữu. Ruộng
phong cấp con cháu có được thừa hưởng hay không phụ thuộc vào nhà Vua quyết
định.
Ruộng phong cấp có từ thời Đinh, nhưng đến thời Lý ruộng phong cấp được chia
làm 2 loại, ruộng thực ấp và ruộng thực phong. Nông dân cày ruộng thực ấp vừa nộp
tô cho quý tộc, vừa nộp tô cho nhà Vua. Ruộng thực phong chỉ có làm nghĩa vụ với

84


quý tộc mà thôi. Do đó dưới chế độ phong kiến ruộng thực phong phát triển mạnh hơn
ruộng thực ấp.
Đến thời Trần ruộng phong cấp có sự thay đổi, không chia thành 2 loại mà nội
dung theo kiểu thực phong do đó nhiều thái ấp của quý tộc nhà Trần đã ra đời. Ngoài
ra dưới thời Trần còn có chính sách khuyến khích người dân nghèo khẩn ruộng công
quý tộc, lập ra các điền trang, thái ấp.
* Kinh tế điền trang và thái ấp
Thái ấp và điền trang đều là ruộng đều là ruộng đất tầng lớp quý tộc, quan lại đời
Trần, nhưng đặc điểm khác nhau. Ruộng Thái ấp là sự tập hợp những ruộng đất do nhà
vua cấp cho các quan lại có công. Mỗi thái ấp khoảng l,2 xã. Quý tộc được quyền quản
lý và hưởng lợi sản phẩm trên đó. Về mặt sở hữu vẫn của nhà nước, không được thừa
kế.
Điền trang là các trang trại lớn của giai cấp quý tộc nhà Trần. Do quý tộc trực tiếp
quản lý sử dụng sức lao động nô tỳ và gia nô. Nô tỳ(nô là nam, tỳ là nữ). Họ không
phải là một đẳng cấp riêng mà là một tầng lớp. Xuất thân từ nhiều hoàn cảnh khác
nhau. Nô có nhiều loại, quan nô làm việc trong các đồn điền trại lính, gia nô làm việc
cho gia đình quý tộc. Ruộng điền trang con cháu được quyền thừa kế. Đó là ruộng đất

thuộc sở hữu lớn phong kiến tư nhân. Năm 1226 triều đình xuống chiếu cho các vương
hầu, công chúa, phò mã chiêu tập dân xiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai
khẩn ruộng hoang lập điền trang. Sau đó cho phép các gia nô kết hôn với nhau, lập gia
đình. Trong khoảng một thế kỷ kinh tế điền trang phát triển mạnh. Chế độ điền trang
hàm chứa xu thế cát cứ. Cuối đời Trần điền trang được mở rộng nhiều nông dân bị
biến thành nông nô, nô tì chịu sự áp bức bóc lột nặng nề. Quan hệ nông nô, nô tỳ kìm
hãm sức sản xuất của xã hội. Những mâu thuẫn kinh tế xã hội cuối đời Trần ngày càng
gay gắt dẫn đến sự sụp đổ của triều đại này. Đến cuối đời Trần kinh tế điền trang lâm
vào cảnh khủng hoảng. Các nông nô, nô tỳ trong các điền trang nổi lên đấu tranh để trở
thành nông dân tự do. Điền trang có xu thế công xã hóa.
Khi nhà Hồ lên thay, Hồ Quý Ly ban hành chính sách “hạn điền” khiến cho
ruộng tư không có điều kiện để phát triển. Nhà nước còn tăng thuế ruộng như: mức
thuế ruộng tư tăng từ 3 thăng lên 5 thăng một mẫu. Nhà Hồ quy định giới hạn ruộng tư
là 10 mẫu. Nếu nhiều hơn là phải xung vào ruộng công. Bằng chính sách này Hồ Quý
Ly đã đánh vào tầng lớp quý tộc, quan lại thời Trần. Chính sách “hạn điền” đã hạn
chế sự phát triển kinh tế địa chủ. Địa chủ thời đó là linh hồn của xã hội. Kinh tế điền
trang bị suy sụp từ đó.
Thái ấp (ấp thang mộc, đất tắm gội) là ruộng do nhà vua ban thưởng cho quý tộc
và triều thần có công. Quy mô thái ấp tương đối nhỏ khoảng 1,2 xã. Trên danh nghĩa
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Triều đình có quyền lấy của người này
cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng hoa lợi trên đất đai và một phần về cư
dân trên đó.
Thời trần có những thái ấp của Trần Liễu (Đông triều Quảng Ninh), Trần Thủ Độ
(Bình lục Hà Nam), Nguyễn Khoái (Hưng Yên)...
Trong chế độ quân chủ thời Trần, quyền chiếm dụng ruộng đất có điều kiện và
hạn chế, mang tính thụ động của quý tộc vì vậy không có khả năng cát cứ chống lại
triều đình trung ương như các Thái Ấp lãnh địa ở phương Tây thời trung đại.
“Hạn nô” là chính sách thứ hai của nhà Hồ. Thời Trần quý tộc, tăng lữ đã thu hút
nhiều nông nô và nô tì vào phục vụ. Đến nhà Hồ quy định một lượng hạn chế gia nô
còn lại sung vào nhà binh để xây dựng đội quân nhà nghề.


85


Đến thời hậu Lê ruộng tư được phát triển. Nhiều luật lệ ra đời cho phép chiếm giữ
ruộng tư. Nhìn chung thời Lê Sơ tình trạng “chiếm công vi tư” ruộng đất khá phổ biến,
ruộng tư phát triển. Giai cấp địa chủ trở thành lực lượng mạnh mẽ của xã hội.
Nhìn chung chế độ ruộng đất của các triều đại phong kiến rất phức tạp. Thay đổi
theo từng triều đại. Ruộng công dần dần bị thu hẹp, ruộng tư phổ biến. Những hình
thái sở hữu ruộng đất và các quan hệ phong kiến thường xuyên tác động và ảnh hưởng
tới sản xuất nông nghiệp.
Tình hình nông nghiệp nước ta dưới thời phong kiến có những đặc điểm nổi bật
so với các nước trên thế giới. Nhà nước phong kiến Việt Nam ở các triều đại đều có tư
tưởng trọng nông nghiệp. Tư tưởng của họ là “dĩ nông vi bản”, lý do: Nguồn gốc làm
giàu thời đó chủ yếu là địa tô. Nhà nước phong kiến muốn làm giàu thì phải đề cao
nông nghiệp.
Dưới triều đại Lý - Trần nhà nước phong kiến đã có một số biện pháp tích cực với
sản xuất nông nghiệp. Nhà Vua thường thực hiện một số nghi lễ trong nông nghiệp
như cúng thần ruộng. Thời Lý còn cho công chúa ra làng Nghi Tàm trồng dâu nuôi
tằm, dệt lụa cùng với dân. Vào tháng Giêng âm lịch Vua tổ chức nghi lễ cày ruộng
tượng trưng. Vua tổ chức đi thăm đồng. Khi bị hạn hán lâu ngày nhà nước tồ chức
“cầu đảo”. Nhà nước rất chú ý bảo vệ sức lao động. Năm 1010 Nhà Lý ra chiếu bắt
những người đi lang thang về quê cũ làm ăn, thời Lý - Trần có chính sách “ngụ binh ư
nông”. Phu phen tạp dịch đối với nhà nông đều được miễn khi thời vụ nông nghiệp.
Trâu bò là tư liệu sản xuất hết sức quan trọng của nông dân do đó Nhà nước
phong kiến chủ trương bảo vệ đàn trâu bò cày kéo. Thời Lý ai trộm giết trâu bò phải
chịu hình phạt cao nhất, theo qui định của luật ( năm 1123) là tử hình.
Khai hoang mở rộng diện tích được coi trọng. Pháp lệnh qui định làng nào để
ruộng đất hoang hoá bị trị tội. Riêng thời Trần, việc nhà Vua cho Vương hầu quý tộc
và dân nghèo đi khai hoang lập điền trang là một kỳ tích.

Đê điều được nhà Vua quan tâm. Thời Lý cho đắp đê Cơ xá (1008) Thời Trần
cho đắp đê quai Vạc, thời Trần nhà Vua thường tự mình đứng ra tổ chức đắp đê và
trông coi bảo vệ đê điều. Khi bị lũ lụt binh lính, học sinh Quốc Tử Giám đều được huy
động để hộ đê.
Thủ công nghiệp, thương nghiệp và tài chính ngân hàng.
Thủ công nghiệp đang trên đà phát triển, hệ thống thủ công nghiệp bao gồm: quan
xưởng của nhà nước, thủ công nghiệp của nhân dân; xuất hiện các phường hội thủ
công. Thời hậu Lê kinh đô Thăng Long chia làm 36 phố phường. Xuất hiện làng thủ
công chuyên sản xuất một loại hàng hoá nào đó. Nghề dệt, nghề gốm, nghề kiến trúc
đã phát triển. Các nghệ nhân đã xây dựng được cung điện nhà Vua, mái lợp ngói, cột
được tráng bằng vàng bạc. Cung điện nhà Lý cột màu đỏ chạm trổ hoa văn. “Tứ đại
khí Việt Nam” là 4 vật lớn bằng đồng ở Việt Nam: pho tượng khổng lồ cao 20m, tháp
bảo thiên ở Thăng Long cao 70m, các tầng trên bằng đồng, chuông cực lớn đặt ở chùa
Một Cột, Vạc chùa cồ minh. Nhưng sau đó thời nhà Minh thống trị phá hết. Nói chung
từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV là thời kỳ hình thành và phát triển cường thịnh của Việt
Nam, nhiều chùa chiền lăng mộ được xây dựng, kinh đô Thăng Long thời Lý là biểu
tượng của kiến trúc Việt Nam thời phong kiến.
Nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa, ươm tơ khá phổ biến trong nhân dân, kỹ thuật
dệt lụa, the tương đối hoàn hảo. Chính vì thế vào năm l040 Lý Thái Tông quyết định
dùng vải vóc trong nước may triều phục chứ không mua của nước ngoài. Nhà nước đã
thu mua vải lụa trong nhân dân để may triều phục.

86


Ngành nghề thủ công từ thế kỷ X đến XV đã phát sinh nhiều làng nghề, những
phường thủ công chuyên nghiệp. Thăng Long thời bấy giờ có 12 phường nghề. Trong
các phường nghề có điều lệ lổ chức chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi và giữ bí mật nghề
của mình.
Mặc dù có những bước phát triển đáng kể nhưng khác với phương Tây làng nghề

thủ công Việt Nam nằm rải rác, qui mô nhỏ bé, kĩ thuật phát triển chậm chạp, vốn
liếng ít ỏi, không ai giàu sang, nhưng không ai bị nghèo đói. Tốc độ phát triển chậm
chạp có nhiều lý do nhưng trong đó phải kể đến chính sách “trọng nông ức thương”.
Thương nghiệp Việt Nam dưới thời phong kiến kém phát triển, về cơ bản vẫn tự
cấp, tự túc. Tuy nhiên ở mỗi triều đại có bước phát triển khác nhau. Dưới thời Lý Trần, Lê Sơ nhờ hệ thống giao thông thuỷ lợi phát triển đã gắn hoạt động kinh tế giữa
các vùng trong nước và mở quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực.
Các triều đại phong kiến đều có đồng tiền riêng của mình bằng tiền kim loại. Việc
lớn nhất là cho phát hành tiền giấy để giải quyết khó khăn về tài chính và thuận tiện
trong việc lưu thông hàng hoá, gọi là “thông bảo hộ sao”(1396). Tiền giấy có nhiều
loại, vẽ nhiều màu khác nhau: loại 10 đồng(vẽ hình rau tảo), loại 30 đồng, loại 1 tiền, 2
tiền, 3 tiền, 4 tiền, 5 tiền, loại 1 quan (vẽ hình rồng). Có những lý do riêng khiến nhà
Hồ phát hành tiền giấy song lịch sử coi đây là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực lưu
thông. Hồ Quý Ly khi làm đại thần cũng như khi lên ngôi vua, luôn thông tuệ về tư
tưởng, giỏi chính sách, quan tâm đến cải cách chính sự và kinh tế. Bộ sách Minh đạo
do ông biên soạn đặc biệt lên án tư tưởng Tống nho. Năm 1397ông đề ra chính sách
hạn điền, hạn nô, giảm bớt tăng lữ quan lại, hạn chế quyền lực của đám quý tộc phong
kiến. Theo đó từ quan lại đến thứ dân chỉ sở hữu tối đa 10 mẫu đất. Năm 1401 nhà Hồ
ban hành chính sách hạn nô. Nếu thừa ra sẽ bị án phạt. Các gia nô bị thích dấu vào
trán.Chuyển một bộ phận gia nô thành quan nô.
Phép hạn điền đã phần nào đánh vào tầng lớp quý tộc, điền trang và địa chủ tư
hữu, tăng nguồn thuế thu nhập cho nhà nước. Đồng thời có lợi cho người nghèo và
ngăn chặn xu thế tư hữu hóa ruộng đất.
Về văn hóa nhà Hồ đề cao nho giáo nhưng là thứ nho giáo thực dụng, hạn chế đạo
giáo và phật giáo, chống giáo điều kết hợp với tinh thần pháp gia. Hồ Quý Ly cho sa
thải các tăng đạo dưới 50 tuổi.
Nhà Hồ cho đo đạc lại ruộng đất, điều tra dân số để trên cơ sở đó mà định ra các
biện pháp cải cách như đào sông, đắp đường, lập phố xá, đặt trạm công văn, cải cách
thi cử, định ra hình luật để củng cố an ninh, tăng cường bộ máy hành chính. Những cải
cách này được người đời sau ca ngợi và được người nước ngoài cho là nhà cải cách
kinh tế lớn của Việt Nam. Những cải cách không thành công vì đi ngược lại quyền lợi

nhà Trần, cải cách quá sớm so với tầm hiểu biết của đại bộ phận dân chúng.
Dưới thời Trần các ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống như dệt, gốm, giấy,
đúc đồng đã hoạt động trong các làng xã.Chợ búa đã trở thành những trung tâm trao
đổi. Thăng Long xưa đã là một đô thị, một trung tâm kinh tế của cả nước. Mỗi phường
đều có chợ. Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện lưu thông hữu hiệu. Nó không
chỉ để mua bán hàng hoá thông thường mà còn mua quan bán tước.
Ngoại thương kém phát triển do nhiều lý do nhưng có lý do cơ bản là các triều đại
phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng “bế quan toả cảng”, đóng cửa với bên ngoài sợ
mất độc lập tự chủ, sợ bị xâm lược.
Nhìn một cách tổng quát suốt 5 thế kỷ phong kiến thương nghiệp bị coi thường.
Thủ công nghiệp không được chú ý đúng mức, phát triển chậm và rải rác khắp nơi.

87


Chưa có công trường thủ công lớn làm tiền đề cho sự phát triển công nghiệp như ở
phương Tây. Nông nghiệp được đề cao nhưng vẫn không phát triển được vì chưa có sự
hỗ trợ của công nghiệp. Nông nghiệp quy mô nhỏ và lạc hậu.
2, Giai đoạn khủng hoảng và suy yếu (thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX)
Từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX là thời kỳ thống trị của chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn ở đàng trong và chúa Trịnh ở đàng ngoài. Đây là thời kỳ phát
triển mạnh mẽ của hệ thống thương mại Châu Á cũng là thời kỳ bành trướng của
CNTB phương Tây sang phương Đông. Nhà nước phong kiến Việt Nam bước vào giai
đoạn khủng hoảng. Nhà Lê thất bại, nhà Mạc lên thay 1527 - 1592. Từ năm 1595 1786 là thời kỳ Trịnh - Nguyễn. Năm 1788 - 1802, Quang Trung xưng ngôi Hoàng Đế
chưa được bao lâu Quang Trung mất. Gia Long lên nắm quyền thống trị. Suốt 3 thế kỷ
đất nước luôn có chiến tranh. Chiến tranh Nam - Bắc Triều hơn 50 năm (1545 - 1592).
Chiến tranh Trịnh - Nguyễn 50 năm (1627 đến 1672). Cuối thế kỷ XVIII Nguyễn Ánh
đánh Tây Sơn suốt 10 năm.
Ruộng đất và sản xuất nông nghiệp.
Chế độ sở hữu ruộng đất và nông nghiệp đàng ngoài: Về mặt sở hữu ruộng đất

Đại Việt thời kỳ này có ba hình thức: sở hữu nhà nước, sở hữu công xã, tư hữu. Dưới
thời Lê mạt chế độ “quân điền” bị bãi bỏ, thay vào đó là ruộng khẩu phần công xã.
Việc bải bỏ chế độ quân điền đã tạo tiền đề cho ruộng tư nhân phát triển. Do vậy chế
độ lộc điền không thể thực hiện được đầy đủ. Ruộng đất công bị tan rã từng mảng.
Bọn địa chủ cường hào ở nông thôn tìm mọi cách để lấn chiếm đất công. Tình trạng
“chiếm công vi tư” về ruộng đất khá phổ biến. Đặc biệt vào nửa đầu thế kỷ XIX ruộng
đất công bị lấn chiếm một cách bừa bãi. Một mặt quan lại, địa chủ, quý tộc ra sức
chiếm đất công thành sở hữu riêng. Mặt khác chế độ “quân điền” tỏ ra lạc hậu. Bởi vì,
phần lớn ruộng đất dành ưu tiên cho quan lại, binh lính. Nông dân trực tiếp canh tác
không có ruộng đất. Hiện tượng tích tụ ruộng đất đã xuất hiện. Đây chưa phải là tư hữu
mà đang quá độ chuyển sang tư hữu. Tuy chưa tư hữu đất đai nhưng hiện tượng này
kích thích sản xuất nông nghiệp.
Thời Nguyễn sau 13 năm thực hiện chính sách “quân điền”. Đến năm 1852 viên
thanh tra triều Nguyễn phải thừa nhận “ruộng công màu mỡ thì cường hào chiếm,
nông dân chỉ được phần xương xẩu mà thôi”. Như vậy ruộng công chỉ là hình thức
“nô dịch” người nông dân mà thôi. Người nông dân trên thực tế không được sở hữu
ruộng đất, điều đó ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp nước ta thời đó. Muốn cho
nông nghiệp phát triển phải xoá bỏ các hình thức sở hữu ruộng phong kiến để biến
nông dân thành những người sở hữu ruộng đất. Chính trên cơ sở ấy kinh tế tiểu nông
mới có điều kiện để phát triển.
Từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX nhà nước phong kiến có tổ chức khai
hoang mở mang diện tích trồng trọt song kết quả ruộng đất lại rơi vào tay bọn địa chủ;
cường hào. Người nông dân có công khai phá lại trở thành những tá điền của địa chủ.
Do vậy tình trạng đất đai bị bỏ hoang lại tiếp diễn, bởi vì tô thuế quá cao nông dân
không đủ khả năng để thuê ruộng.
Thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn tàn phá nông
nghiệp làm cho kinh tế nông dân thêm kiệt quệ, tô cao, thuế nặng là những đòn đánh
vào nông dân ... Ở đàng ngoài nhà Trịnh thu thuế theo nguyên tắc “lượng trước sổ chi
rồi sau mới định sổ thu”. Đàng trong nhà Nguyễn đưa ra hàng trăm thứ thuế khác nhau
“mỗi năm có tới hàng trăm thứ thuế mà trong thu chi rất nhiều phức phức, gian lận,

nông dân khốn khổ vì cảnh một cổ hai tròng”.

88


×