Tải bản đầy đủ (.pptx) (12 trang)

Xu hướng phát triển giáo dục trên thế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.38 KB, 12 trang )

Xu hướng phát triển giáo
dục trên thế giới


MỤC ĐÍCH CỦA ViÊC HỌC


Học để biết



Học để làm



Học để chung sống với nhau



Học để làm người


HỌC ĐỂ BIẾT


Bằng cách kết hợp giữa vốn văn hóa chung đủ
rộng và hiểu biết sâu trên mỗi lĩnh vực. Điều
này cũng có nghĩa là học cách học nhằm tận
dụng các cơ hội giáo dục suốt đời mang lại.
Ngày nay điều đó có nghĩa hơn là học một kiến
thức chuyên biệt. Người học cần phải có cách


tiếp cận với bản thân việc học, phải nắm những
công cụ sử dụng kiến thức và cách rèn luyện
khả năng ghi nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng.


HỌC ĐỂ LÀM


Nhằm nắm được những kĩ năng nghề nghiệp nhất
định, đồng thời có khả năng giải quyết được những
tình huống nảy sinh trong đời sống và trong công việc
hàng ngày. Học để làm cũng có nghĩa là học những
kinh nghiệm về xã hội và lao động. Từ rất sớm các nhà
tư tưởng về giáo dục học như Deway, Faure,
Grundtving…cũng đẫ quan tâm đến việc gắn học với
làm. Cacx ông từng nhấn mạnh phá vỡ bức tường
ngăn cách giữa lý thuyết kiến thức và lý thuyết thực
tiễn bằng cách quan tâm đến nhu cầu của người học cả
về trí tuệ và thể lực.


HỌC ĐỂ CÙNG CHUNG SỐNG VỚI
NHAU


Là học để hiểu người khác, khoan dung với người khác thông qua
sự hiểu chính mình. Chính vì thế, giáo dục dù được tiến hành ở
nhà trường, ở gia đình hay cộng đồng cũng phải làm cho người
học có một cái nhìn đúng đằn về thế giới. Phảo giúp họ tự khám
phá ra mình, đặt mình vào vị trí người khác để hiểu những tác

động qua lại và có thái độ đúng đắn, từ đó có thể cùng chung sống
với nhau trong sự tôn trọng lẫn nhau. Học để cùng chung sống với
nhau còn có nghĩa là mong muốn làm việc với nhau lâu dài, cảm
nhận sâu sắc được tính phụ thuộc lẫn nhau trong công việc với
tinh thần đoàn kết, tôn trọng những giá trị của sự đa phương đa
dạng của mỗi người trong xã hội.


HỌC ĐỂ LÀM NGƯỜI


Là khuyến khích sự đầy đủ nhất về tiếm năng
sáng tạo của mỗi con người, với toàn bộ sự
phong phú và phức tạp của con người. Giáo
dục trước hết là một hành trình nội tại dẫn đến
sự hình thành nhân cách của mỗi con người.
Thế kỉ mới đòi hỏi ở mỗi con người năng lực tự
chủ và xét đoán cao hơn, đòi hỏi giáo dục
không để một tài năng nào, một kho báu tiềm
ẳn trong mỗi con người lại không được khai
thác.


XU THẾ BIẾN ĐỔI GIÁO DỤC TRONG
THẾ KỶ XXI


Triển vọng của các môn học ở thế kỷ 21




Kỹ thuật giảng dạy đa phương tiện mới mẻ



Các công ty đại học mọc lên ồ ạt


Triển vọng của các môn học ở thế kỷ 21



Những thay đổi nhanh chóng ngày nay khiến các nhà giáo dục phải thừa nhận
một thực tế là các kiến thức văn hoá cổ kim đông tây có lẽ ít nhiều đã lỗi thời.
Những kiến thức ửô phải dùng đến hàng chồng sách để chú thích, những đề
toán số học hắc búa, mà sau khi ra trường lại suốt đời không cần dùng đến,
đang làm hao tổn một cách vô ích tỉnh lực và nhiệt tình của lớp học sinh trẻ
tuổi. Đứng trước sức ép của tương lai, các học sinh được quyền có những kỹ
năng và quan niệm sinh tồn trong sự biến đổi của lịch sử, và được quyền có nhu
cầu thủ tiêu những bức tranh chân thực của các xã hội tương lai. Việc thiết lập
những môn học mới mẻ, có đầy đủ những quan niệm về tương lai, và những
thực tiễn giảng dạy tương quan phải được ứng dụng vào cuộc sống, giúp học
sinh thích ứng với xã hội thực tại và hướng về tương lai


Khôpmen đã dự đoán trong sáu nội dung chính
của các môn học ở thế kỉ 21


1. Tiếp cận và sử dụng tin học




2: Bồi dưỡng tư tư duy mạch lạc: bao gồm phân biệt được ngữ nghĩa học, lôgic học, số
học, soạn thảo trên máy tính, phương pháp dự đoán, tính sáng tạo tư duy.



3. Bồi dưỡng những kỹ năng thông đại hiệu qủa: bao gồm diễn thuyết trước đông người,
ngữ pháp, tu từ, hội hoạ, nhiếp ảnh, quay phim, vẽ đổ án v.v... ~



4. Tìm hiểu con người và môi trường sống: gồm các môn vật lý, hoá lý, hoá học, thiên
văn học, địa chất và địa lý học, tiến hoá luận, dân số v.v...



5. Tìm hiểu con người và xã hội: gồm luật tiến hoá của nhân loại, sinh lý học, ngôn ngữ
học, văn hoá nhân loại học, tâm lý học xã hội, chủng tộc học, pháp luật, hình thái biến đổi
ngành nghề, vấn đề tồn tại và tiếp diễn của loài người v v..



6. Năng lức cá nhân: gồm sự cân bằng sinh lý, huấn luyện mưu sinh và tự vệ, an toàn,
dinh dưỡng, vệ sinh, giới tính, tiêu dùng và tài sản của cấ nhân, phương thức học tập tối
ưu và sách lược, nghệ thuột nhớ, động cơ tự thân và nhận thức tự thân v.v…


Kỹ thuật giảng dạy đa phương tiện mới mẻ




Theo đà phát triển của kỹ thuật đa phương tiện,
tuột hình thức giảng dạy mới được hình thành sự xuất hiện của hệ thống giảng dạy máy tính
đa phương tiện. Nó là thang máy tính mà thày
giáo giảng qua máy chủ và các học sinh nghe
giảng qua mạng máy tính. Thày giáo nói với học
sinh qua một máy chủ diều khiển đến từng máy
trong mạng học sinh ngồi nghe thày giáo giảng
trước màn hình máy tính. Trong cách giảng dạy
đa phương tiện, học sinh học tập với tự cách là
chủ thể.




Mạng máy tính đa phương tiện càng thuận lợi
cho việc thực luật giáo dục từ xa, các học sinh ở
vùng biên giới cũng có thể nghe được, nhìn
được, các nhà khoa học nổi tiếng ở các thành
phố lớn. Kỹ thuật đa thương tiện có khả năng
biến việc giảng dạy ở lớp làm chính thành lấy
việc giảng dạy tại gia làm chính, và việc tiếp
tục giảng dạy toàn toàn có thể hướng về gia
đình.


Các công ty đại học mọc lên ồ ạt



Đứng trước những yêu cầu nảy sinh của xã hội đang
thay đổi từng ngày, giáo dục không chỉ là niềm hứng
thú tao nhã - một sự thụ hưởng văn hoá, mà nó còn
là công cụ quan trọng tạo ra lợi nhuận cho xã hội và
bồi dưỡng những nhân tài mới cho xã hội. Những
chuyển biến ưhay đổi quan điểm này, ấp ủ và làm
nẩy nở trong lòng nó một biến đổi kinh ngạc trong
nền giáo dục Âu - Mỹ ở những năm 90 - Trường đại
học trở thành công ty. Sự biến đổi này thể hiện dấu
ấn nào đó của việc cải cách giáo dục đại học trong
giai đoạn giao thời thế kỷ



×