Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Chế định về tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân trong hiến pháp (chuyên đề tốt nghiệp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.89 KB, 40 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN
Môn:
PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Đề tài:

TÒA ÁN NHÂN DÂN
VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

NHÓM THỰC HIỆN TIỂU LUẬN
NHÓM 5

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 4 năm 2016


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ Viết Tắt


Ý Nghĩa

LTCTAND

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

LTCVKSND

Luật Tổ chức Viện Kiểm Sát nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân

VKSND

Viện Kiểm Sát nhân dân

2/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

MỤC LỤC


3/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 28/11/2013, với tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội tán thành, Quốc hội
khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Đây được coi là một sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh
dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Trong Hiến pháp 2013, quy định mới về Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát
nhân dân lần đầu tiên làm nên những thay đổi đáng kể về nhiệm vụ quyền hạn cũng
như cơ cấu tổ chức của hai cơ quan này. Từ đó dẫn tới sự biến chuyển về hệ thống
cơ quan tư pháp của nước ta, tiếp cần dần đến mục tiêu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cùng với phân chia và kiểm soát quyền lực giữa các cơ
quan nhà nước, vì lợi ích của nhân dân.
Để tìm hiểu kĩ lưỡng về những vấn đề cơ bản cùng với sự thay đổi trong cơ
quan Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân, nhóm 5 xin tiến hành phân tích
và nghiên cứu, ghi nhận những kiến thức nền tảng về hai cơ quan này thông qua
tiểu luận “Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân” gồm hai phần:
CHƯƠNG 1: TÒA ÁN NHÂN DÂN
CHƯƠNG 2: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Trong quá trình thực hiện tiểu luận, nhóm không thể tránh khỏi sẽ vướng
phải những sai sót, thiếu hụt. Hy vọng Cô và các bạn xem xét, góp ý để nhóm có
thể chỉnh sửa cũng như cùng giúp nhau hiểu rõ, đúng và đủ về đề tài này.

Nhóm 5 xin chân thành cảm ơn!

4/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

CHƯƠNG 1: TÒA ÁN NHÂN DÂN
Là đạo luật cơ bản của đất nước đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới,
Hiến pháp năm 2013 đã phản ánh một cách biện chứng những bước tiến trong nhận
thức lý luận và kết quả thực tiễn của quá trình cải cách bộ máy nhà nước nói chung
và cải cách tư pháp nói riêng. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã dành 05 điều để
quy định về Tòa án nhân dân (sau đây viết tắt là TAND), được thể hiện từ điều 102
đến điều 106.
1.1. Vị trí pháp lý của Tòa án nhân dân
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp mới
của nước ta. Tư tưởng chủ quyền nhân dân và nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền
lực nhà nước tiếp tục được phát triển trong bản Hiến pháp mới. Nguyên tắc phân
công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước được thể hiện rõ ràng, rành mạch hơn.
Sơ đồ hệ thống cơ quan Nhà nước Việt Nam hiện tại:


Cơ quan
quan quyền

quyền lực
lực Nhà
Nhà nước
nước

HỆ
THỐNG

QUAN
NHÀ
NƯỚC


Cơ quan
quan hành
hành chính
chính Nhà
Nhà nước
nước


Cơ quan
quan xét
xét xử
xử


Cơ quan
quan kiểm
kiểm sát

sát

Ngoài
Ngoài ra,
ra, Chủ
Chủ Tịch
Tịch Nước
Nước

Hội
Hội đồng
đồng bầu
bầu cử
cử quốc
quốc gia
gia

Qua sơ đồ cho thấy được hệ thống cơ quan Nhà nước ta đã có sự thay đổi
đáng kể, tuy vậy vẫn có thể nhìn ra vị trí pháp lý quan trọng của TAND là một
5/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

trong các cơ quan cấu thành bộ máy Nhà nước, là trung tâm của hệ thống các cơ

quan tư pháp của nước ta.
Trên cơ sở kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 và chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và các nguyên tắc hoạt động của Toà án nhân dân, Hiến pháp 2013
bổ sung quy định Toà án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Theo đó,
Toà án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 102); sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Toà
án (khoản 2 Điều 102) cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp theo hướng
không xác định cấp Toà án cụ thể trong Hiến pháp mà để luật định, làm cơ sở hiến
định cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền.
Bằng việc quy định “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1 Điều 102), Hiến pháp xác định
rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước. TAND là
cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử; là cơ quan
duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy
định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết
các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy,
quy định của Hiến pháp là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa
án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của Nhà nước pháp quyền.
Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị
trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
1.2. Chức năng cơ bản của Tòa án nhân dân
Để thể hiện nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước với đủ ba yếu
tố phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên kể từ sau Hiến pháp năm 1946 đã xác định rành

6/41



Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

mạch: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực
hiện quyền hành pháp, TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Trong đó, Khoản 1 Điều 102 quy định: “TAND là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Chức năng xét xử của Tòa án là một chức năng đã được thể hiện xuyên suốt
trong các bản Hiến pháp trước đây. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên Tòa án được trao
một sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án đó là “thực hiện quyền tư pháp”. Đây là
quy định rất mới của Hiến pháp năm 2013. Thực hiện quyền tư pháp ở đây là “bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”.
Đây là định hướng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể chế hóa quan điểm về phân công, phối hợp quyền
lực Nhà nước. Nội dung mới nêu trên về TAND còn mang ý nghĩa thực tiễn, là cơ
sở pháp lý để giao cho TAND có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên
quan đến việc hạn chế quyền nhân thân của công dân, mà những loại việc đó hiện
nay do các cơ quan hành chính đang thực hiện, ví dụ như việc ra các quyết định áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc quyết định đưa người vào các trung tâm
giáo dưỡng, cai nghiện… Hiện nay, ngành TAND đã và đang chuẩn bị hoàn thiện
cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng đó.
Thực hiện nguyên tắc hiến định trên, ngày 24 tháng 11 vừa qua Luật Tổ
chức TAND năm 2014 đã được Quốc hội thông qua và nội dung này được thể hiện

tại Khoản 1 Điều 2 của Luật tổ chức TAND 2014 ghi nhận tương tự Hiến pháp
2013: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp”.
Như vậy, để hiểu đúng bản chất của chức năng cơ bản mà TAND thực hiện
ta cần biết “Xét xử hiểu như thế nào?”. Xét xử là việc Tòa án nhân danh Nhà nước
ra một phán quyết về một hành vi nào đó theo quy định của pháp luật là có tội hay
không và áp dụng hình phạt gì cho tội phạm đó (trong lĩnh vực hình sự). Xét xử còn

7/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

được hiểu là nhân danh Nhà nước giải quyết một vụ việc: dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, hành chính, phá sản, khiếu nại danh sách cử tri…
Trong thực tiễn đời sống thì những vấn đề này luôn xảy ra mỗi lúc mỗi nơi,
chức năng cơ bản là xét xử của TAND có tầm quan trọng không thể phủ định.
1.2.1. Đặc điểm của hoạt động xét xử của TAND
1.2.1.1.

Hoạt động xét xử là trung tâm nhất, bản chất nhất của hoạt

động tư pháp
Quyền tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước, được minh định khi quyền
lực nhà nước phân chia thành ba quyền độc lập với nhau, bổ trợ cho nhau và kiểm

soát lẫn nhau. Đó là các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Là sản
phẩm của các cuộc biển đổi thể chế mang tính cách mạng, học thuyết và thực tiễn
phân chia quyền lực, cân bằng quyền lực, kiểm soát quyền lực cùng với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền, ba quyền này đã chứng tỏ sức sống của mình trong thế
giới đương đại.
Quá trình chuyển quyền tư pháp được ghi nhận trong các văn bản pháp luật
vào thực tiễn đời sống xã hội được gọi là hoạt động thực hiện quyền tư pháp hay là
hoạt động tư pháp. Hoạt động tư pháp nếu hiểu theo nghĩa rộng thì bao gồm hoạt
động điều tra, xét xử, thi hành án… nhưng về nghĩa hẹp thì có thể xem là hoạt động
xét xử. Mà chủ thể thực hiện hoạt động xét xử chính là TAND. Vì thế, TAND được
xem là cơ quan trọng tâm thực hiện quyền tư pháp.
1.2.1.2.

Phạm vi hoạt động xét xử rộng

Tòa án xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân – gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Như đã
giải thích về chức năng cơ bản là xét xử của TAND, mọi vấn đề sự việc xảy ra
trong xã hội, dù nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật nước ta hay không,
nếu được cho là cần thiết thì sẽ được TAND tiếp nhận và xét xử.

8/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

1.2.1.3.

----------------------------


Nhóm 5

Chỉ Tòa án mới có quyền nhân danh quyền lực Nhà nước để

thực hiện chức năng xét xử
Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành cuối cùng, có khả năng
thay thế quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo.
TAND thực hiện quyền xét xử, cơ quan xét xử được quyền phán quyết, ra
bản án về một sự kiện có tính xung đột, tranh chấp và vấn đề chính yếu là phán
quyết của cơ quan xét xử lại có hiệu lực pháp lý như một quy phạm pháp luật, bắt
buộc mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan nghiêm chỉnh thi hành.
1.2.2. Các thủ tục xét xử của Tòa án nhân dân

9/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

Sơ thẩm

Phúc thẩm

----------------------------

Nhóm 5





là việc
việc Tòa
Tòa án
án xét
xét xử
xử lần
lần đầu
đầu theo
theo vụ
vụ án
án được
được thụ
thụ lý
lý giải
giải quyết
quyết




là việc
việc Tòa
Tòa án
án cấp
cấp trên
trên xét
xét xử
xử lại
lại những

những bản
bản án
án hoặc
hoặc quyết
quyết định
định sơ
sơ thẩm
thẩm chưa
chưa có
có hiệu
hiệu lực
lực
pháp
pháp luật
luật của
của Tòa
Tòa án
án cấp
cấp dưới
dưới bị
bị kháng
kháng cáo,
cáo, kháng
kháng nghị
nghị theo
theo quy
quy định
định của
của pháp
pháp luật.

luật.


Tái thẩm

áp
áp dụng
dụng đối
đối với
với bản
bản án
án hoặc
hoặc quyết
quyết định
định đã
đã có
có hiệu
hiệu lực
lực pháp
pháp luật
luật nhưng
nhưng bị
bị kháng
kháng nghị
nghị vì
vì có

những
những tình
tình tiết

tiết mới
mới được
được phát
phát hiện
hiện có
có thể
thể làm
làm thay
thay đổi
đổi cơ
cơ bản
bản nội
nội dung
dung của
của bản
bản án
án hoặc
hoặc
quyết
quyết định
định mà
mà tòa
tòa án,
án, các
các đương
đương sự
sự không
không thể
thể biết
biết được

được khi
khi ra
ra bản
bản án
án hoặc
hoặc quyết
quyết định
định đó.
đó.

Giám đốc thẩm




là xét
xét lại
lại bản
bản án
án hoặc
hoặc quyết
quyết định
định đã
đã có
có hiệu
hiệu lực
lực pháp
pháp luật
luật bị
bị kháng

kháng nghị
nghị vì
vì phát
phát hiện
hiện có
có vi
vi
phạm
phạm pháp
pháp luật
luật trong
trong việc
việc xử
xử lý
lý vụ
vụ án.
án.

10/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

Trong đó lưu ý rằng, sơ thẩm, phúc thẩm được gọi là cấp xét xử. Tức là, hệ
thống xét xử của nước ta bao gồm hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm. Giám

đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt để
xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
1.3. Cách thức thành lập Tòa án nhân dân
Về cơ bản Hệ thống TAND theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức
TAND năm 2014 có một vài thay đổi so với Hiến pháp 1992 và Luật cũ. Theo đó,
hệ thống tổ chức của TAND được tổ chức thành 4 cấp:
-

TAND tối cao;

-

Toà án nhân dân cấp cao;

-

Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

-

Tòa án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Nếu nói rằng hệ thống TAND Việt Nam được phân cấp rõ ràng và thống
nhất thì hệ thống Tòa án ở Mỹ thực ra gồm nhiều tòa án độc lập khác nhau. Có một
hệ thống tòa án Liên bang, và đây là một hệ thống hợp nhất được chia thành nhiều
đơn vị địa lý và các cấp độ tòa án khác nhau; hơn nữa, mỗi tiểu bang đều có hệ
thống tòa án của riêng mình với một hệ thống tòa án địa phương hoạt động trong
phạm vi tiểu bang đó. Theo cấu trúc tòa án tiểu bang/Liên bang tồn tại song song
này, Tòa án Tối cao Mỹ là cơ quan phân xử cuối cùng theo luật Liên bang, trong
khi tòa án cấp cao nhất ở mỗi tiểu bang (thường được gọi là các tòa án tối cao) có
quyền lực cao nhất quyết định về các vấn đề theo luật của tiểu bang đó. Khi có các

vấn đề liên quan đến hiến pháp Liên bang hay luật Liên bang thì các tòa án Liên
bang có quyền phán quyết tiểu bang đó có vi phạm luật Liên bang hay không.
Tức là, hệ thống tư pháp ở Mỹ phức tạp hơn Việt Nam rất nhiều, bao gồm
các cơ quan xét xử phân biệt:
- Tòa án Liên bang;
- Tòa án đặc biệt;
11/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

- Tòa án hành chính;
- Tòa án tiểu bang;
- Tòa án địa phương.
Mỗi hệ thống tư pháp được đánh dấu bởi sự khác biệt về chức năng và hoạt
động. Hơn nữa, việc quyền hạn xét xử chồng chéo nhau và bất kỳ tòa án nào cũng
có thể xử về các vấn đề luật Liên bang và tiểu bang đã làm rối rắm hơn nữa hoạt
động của các hệ thống này.
Về cơ bản, tất cả hệ thống tòa án ở Mỹ đều giống nhau về hầu hết các
phương diện cơ bản. Phần lớn các tòa án Mỹ là những tòa án có quyền hạn xét xử
chung. Hơn nữa, mỗi hệ thống đều theo mô hình thứ bậc của cấu trúc kim tự tháp,
tạo điều kiện cho việc xem xét lại và nếu cần sửa đổi lại phán quyết tại tòa án cấp
cao hơn.1
1.4. Cơ cấu tổ chức các hoạt động của TAND
Hiến pháp 2013 không tiếp tục liệt kê tên các Tòa án cụ thể mà quy định

“TAND gồm TAND tối cao và các Tòa án khác do luật định” (khoản 2 Điều 102
HP 2013). Quy định như thế phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp (tổ chức tòa án
hạn chế phụ thuộc vào đơn vị hành chính).
1.4.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao
TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ, quyền hạn của TAND tối cao (Điều 20 LTCTAND
2014):
- Giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Giám đốc việc xét xử;
- Tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét
xử;
1 Trong bài đánh giá tổng quan về các cấp tòa án ở Mỹ, Toni M.Fine, Phó Giám đốc Chương trình Khoa
Luật Toàn cầu tại Khoa Luật, Đại học Tổng hợp New York, sẽ giải thích về cách thức hoạt động của hệ
thống tòa án ở Mỹ.

12/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

- Đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh khác của
TAND;
- Quản lý các TAND và Tòa án quân sự về tổ chức, bảo đảm độc lập giữa
các Tòa án.
- Trình QH dự án luật, nghị quyết; trình UBTVQH dự án pháp lệnh, nghị

quyết.
Cơ cấu tổ chức của TAND tối cao bao gồm:
- Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao;
- Bộ máy giúp việc;
- Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng2.
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có số lượng thành viên không dưới mười
ba người và không quá mười bảy người, gồm có Chánh án, các Phó Chánh án Tòa
nhân dân tối cao là Thẩm phán TAND tối cao và các Thẩm phán TAND tối cao.
Bên cạnh đó, với sự thay đổi về cơ thế Thẩm phán thì điều kiện để được bổ
nhiệm Thẩm phán TAND tối cao cũng có sự thay đổi. Tại Khoản 1 Điều 69
LTCTAND 2014 có quy định như sau:
«1. Người có đủ tiêu chuẩn tại Điều 67 của Luật này và có đủ các điều kiện
sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND tối cao:
a) Đã là Thẩm phán cao cấp từ đủ 05 năm trở lên;
b) Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của TAND tối cao theo quy định của luật tố tụng.»
Tức là, Thẩm phán được bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND tối cao phải là
Thẩm phán cao cấp, ngoại trừ trường hợp quy định ở Khoản 2 cùng Điều này:
«Người không công tác tại các Tòa án nhưng giữ chức vụ quan trọng trong các cơ
quan, tổ chức trung ương, am hiểu sâu sắc về chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hóa,
2 Điều 21 Luật Tổ chức TAND 2014.

13/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------


Nhóm 5

xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao hoặc là những chuyên gia, nhà khoa học
đầu ngành về pháp luật, giữ chức vụ quan trọng trong các cơ quan, tổ chức và có
uy tín cao trong xã hội, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc
khác thuộc thẩm quyền của TAND tối cao theo quy định của luật tố tụng thì có thể
được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND tối cao.»3
Nhiệm kỳ của TAND tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chánh án TAND
tối cao do Quốc hội bầu theo sự giới thiệu của Chủ tịch nước.
Các Phó Chánh án TAND tối cao được Chủ tịch nước bổ nhiệm trong số các
Thẩm phán TAND tối cao. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án TAND tối cao là 05 năm,
kể từ ngày được bổ nhiệm. Đặc biệt, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và
Luật Tổ chức TAND năm 2014, việc bổ nhiệm Thẩm phán TAND tối cao có nhiều
thay đổi: Từ số lượng 120 Thẩm phán TAND tối cao theo Luật cũ, nay theo quy
định của Luật tổ chức TAND năm 2014 rút xuống chỉ còn 13 đến 17 người.
Quy trình bổ nhiệm cũng có thay đổi cơ bản: sau khi Hội đồng tuyển chọn và
giám sát Thẩm phán quốc gia tuyển chọn và lên danh sách, trải qua quy trình lấy
phiếu tín nhiệm ở nhiều cấp, sau đó trình Quốc hội phê chuẩn. Căn cứ vào Nghị
quyết phê chuẩn của Quốc hội, Hội đồng Tuyển chọn Thẩm phán mới trình Chủ
tịch nước ký quyết định bổ nhiệm. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nền tư
pháp đất nước, một chức danh tố tụng cao cấp là Thẩm phán TAND tối cao được
toàn thể Quốc hội xem xét, cân nhắc và phê chuẩn.
Ngoài ra, còn có bộ máy giúp việc của Toà án nhân dân tối cao gồm các vụ
và các đơn vị tương đương. Chánh án TAND tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc
hội phê chuẩn tổ chức bộ máy; nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy
giúp việc. Và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của TAND tối cao được thành lập theo quy
định của luật.
1.4.2. Đối với Tòa án nhân dân cấp cao

3 Điều 69 Luật TCTAND 2014


14/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

Khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có quy định mới về hệ
thống tổ chức và nhiệm vụ của TAND. Trong đó, có thêm một cấp TAND mới là
TAND cấp cao.
TAND cấp cao bao gồm: Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao; Tòa hình sự,
Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa
thành niên (trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập
Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao); Bộ máy giúp
việc.
Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao (gồm Chánh án, các Phó Chánh án là
Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án TAND tối cao
quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND cấp cao), số lượng thành viên Ủy ban
Thẩm phán TAND cấp cao không dưới 11 người và không quá 13 người. Chánh án
và Phó Chánh án TAND cấp cao do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Chánh án và Phó Chánh án TAND cấp cao là 05
năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Và các tòa chuyên trách như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa
kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Trường hợp cần
thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo
đề nghị của Chánh án TAND tối cao. Bộ máy giúp việc của TAND cấp cao gồm có

Văn phòng và các đơn vị khác. Chánh án TAND tối cao quyết định thành lập và
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các đơn vị khác thuộc bộ máy giúp
việc của TAND cấp cao.
1.4.3. Đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh (thành phố trực thuộc Trung
ương)
Thành phần của TAND tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương) gồm: Ủy
ban Thẩm phán; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao
động, Tòa gia đình và người chưa thành niên; Bộ máy giúp việc.
Chánh án, các Phó Chánh án và một số Thẩm phán cấu tạo thành Ủy ban
Thẩm phán, số lượng thành viên của Ủy ban Thẩm phán do Chánh án TAND tối
15/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

cao quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Ngoài ra, TAND cấp tỉnh cũng có các tòa chuyên trách như Tòa hình sự, Tòa
dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa
thành niên. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập
Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao. Bộ máy giúp việc
của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có Văn phòng, phòng và các
đơn vị tương đương. Chánh án TAND tối cao quyết định thành lập và quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, phòng và các đơn vị tương đương thuộc bộ
máy giúp việc của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chánh án và phó Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.Nhiệm kỳ của Chánh
án và phó Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là 05 năm, kể từ
ngày được bổ nhiệm. Khác với Luật Tố chức TAND năm 2002 trước đây quy định
Chánh án, các Phó Chánh án, các Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo sự đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, các hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân tỉnh
(thành phố trực thuộc Trung ương) bầu.
1.4.4. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố, thuộc
tỉnh và tương đương
TAND huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) gồm có Chánh án, Phó
Chánh án, Thẩm phán. Chánh án và Phó Chánh án TAND huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương đương do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của Chánh án và phó Chánh TAND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Khác với trước đây, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ
nhiệm theo sự đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hội thẩm nhân dân do Hội đồng
nhân dân ở địa phương cùng cấp bầu ra. TAND huyện và tương đương không có
Hội đồng Thẩm phán và Ủy ban Thẩm phán như các Tòa án cấp Tỉnh, TAND cấp
cao và TAND tối cao.
Trước đây, TAND huyện và tương đương không có các tòa chuyên trách,
nhưng theo Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì TAND huyện, quận, thị xã, thành
16/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5


phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và
người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án
TAND tối cao.
Ngoài ra, Chánh án TAND tối cao quyết định thành lập và quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của bộ máy giúp việc TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương.
1.4.5. Đối với Tòa án Quân sự
Do đặc điểm đặc biệt của lĩnh vực quân sự, hoạt động xét xử trong quân đội
được thành lập một hệ thống gần như riêng rẽ, bao gồm: Tòa án quân sự Trung
ương, các Tòa án quân sự quân khu và các Tòa án quân sự khu vực.
Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương bao gồm Chánh án, Phó
Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án TAND
tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự trung ương. Tổng số
thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương không quá 07 người.
Chánh án Tòa án quân sự trung ương là Phó Chánh án TAND tối cao do Chủ tịch
nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Còn Phó Chánh án Tòa án quân sự trung
ương do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống
nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.Nhiệm kỳ của Chánh án và Phó Chánh án Tòa
án quân sự trung ương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và tương đương gồm Chánh
án, Phó Chánh án và một số Thẩm phán. Số lượng thành viên của Ủy ban Thẩm
phán do Chánh án TAND tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án
quân sự quân khu và tương đương.Chánh án và Phó Chánh án Tòa án quân sự quân
khu và tương đương do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhiệm kỳ của Chánh án và Phó
Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương là 05 năm, kể từ ngày được bổ
nhiệm.

17/41



Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

Tòa án quân sự khu vực có Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán. Chánh án
và Phó chánh án Toà án quân sự khu vực do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhiệm
kỳ của Chánh án Phó Chánh án Toà án quân sự khu vực là 05 năm, kể từ ngày được
bổ nhiệm.
1.4.6. So sánh với Tòa án ở Mỹ
Tòa án của Hoa Kỳ tồn tại trong một khuôn khổ hiến pháp toàn diện nhằm
đảm bảo tính độc lập của tòa án. Chẳng hạn như Tổng thống có quyền bổ nhiệm các
Thẩm phán của Liên bang, nhưng lại không có quyền bãi nhiệm họ. Việc bãi nhiệm
này ít khi xảy ra và thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Về phần mình, các Thẩm phán
lại có quyền bác bỏ các hành động của Tổng thống và Quốc hội bằng cách tuyên bố
rằng những hành động đó không hợp hiến - các nhà quan sát nước ngoài rất có ấn
tượng về đặc điểm này của hệ thống Hoa Kỳ. Nhưng quyền bác bỏ này của hệ
thống tư pháp không phải là quyền tuyệt đối, bởi vì người ta có thể soạn lại luật và
nếu cần thiết thì sửa đổi cả Hiến pháp.
Hơn nữa, quá trình lựa chọn để trở thành một Thẩm phán ở Mỹ là khác
nhau tùy theo các bang, nhưng nói chung đều thông qua một trong hai kênh chính –
thông qua bầu cử công khai hoặc do thống đốc hoặc thị trưởng bổ nhiệm. Ở bang
quê nhà New York của Espinoza, ứng cử viên phải là luật sư đang hành nghề ít nhất
là 10 năm và được xem xét bởi một ban tuyển chọn theo năng lực gồm các đại diện
của các trường luật, các hội luật gia và các tổ chức cộng đồng. Sau đó các ban này

chuyển cho các quan chức bầu cử tên tuổi để xem xét đưa vào danh sách bỏ phiếu,
hoặc chuyển cho quan chức phụ trách tuyển chọn nếu áp dụng cách bổ nhiệm.
Nhiệm kỳ của Thẩm phán ở New York là 10 năm đối với tòa án cấp thấp và 14 năm
đối với tòa án cấp cao hơn. Tùy theo năng lực hoạt động mà các Thẩm phán có thể
được hoặc không được bầu lại hay tái bổ nhiệm.4
1.4.7. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
1.4.7.1.

Việc xét xử của Tòa án do Thẩm phán và Hội thẩm thực hiện

4 Theo Laura Safer Espinoza, Thẩm phán bang New York.

18/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do vậy nhân dân là người chủ của đất nước, có quyền tham gia quản lý
nhà nước, trong đó có quyền tham gia vào hoạt động xét xử của tòa án. Mục đích:
nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án, giúp cho
việc xét xử được công minh, chính xác, khách quan.
Hội thẩm nhân dân là người lao động sống và làm việc gần gũi với cuộc
sống nhân dân, thay mặt nhân dân tham gia hoạt động xét xử của tòa án, bảo đảm
cho việc xét xử của tòa án đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước, phù hợp nguyện vọng của nhân dân, sát với thực tế cuộc sống. Sau khi xét xử
các Hội thẩm nhân dân biết kết quả của phiên tòa để giáo dục nhân dân ý thức tuân
theo pháp luật.
Nguyên tắc này được quy định từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) và các Luật tổ chức TAND năm 1960, 1981, 1992,
2002. Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp 2013 “Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội
thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
1.4.7.2.

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật
Nguyên tắc bảo đảm cho TAND xét xử khách quan, đúng pháp luật để bảo
vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013: Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan,
tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Hiến pháp
sửa đổi 2013 đã bổ sung thêm quy định “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” đã thể chế đầy đủ hơn nguyên
tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
1.4.7.3.

Toà án xét xử công khai trừ trường hợp nhất định

Quy định nguyên tắc này nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia kiểm
tra, giám sát đối với hoạt động xét xử của TAND đồng thời.

19/41


Tiểu luận:

Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

- Nâng cao công tác giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân tham gia tích
cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
- Hình phạt của các bản án, quyết định hình sự không chỉ nhằm trừng phạt
mà còn có mục đích răn đe, phòng ngừa, giáo dục.
Nguyên tắc này được quy định từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) và các luật tổ chức TAND năm 1960, 1981, 1992, 2002 và
2014.
Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp sửa đổi 2013: “TAND xét xử công khai. Trong
trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo
vệ người chưa thành niện hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của
đương sự, Toà án nhân dân có thể xét xử kín”. Khác với Hiến pháp 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001) chỉ quy định chung TAND có thể xét xử kín trong trường hợp
do luật định thì nay Hiến pháp sửa đổi 2013 đã liệt kê cụ thể các trường hợp TAND
có thể xét xử kín.
1.4.7.4.

Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số

Xét xử là hoạt động đặc thù của TAND thực hiện nhằm bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội và công dân. Bằng bản án, quyết định của tòa án mà các cơ quan,
tổ chức, cá nhân được hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ nhất định.
Vì vậy, việc xét xử của tòa án phải khách quan, đúng pháp luật. Muốn vậy
phải phát huy trí tuệ tập thể. Do đó, khi xét xử tất cả các vụ án, ở tất cả các trình tự

tố tụng đều phải thành lập hội đồng xét xử và quyết định theo đa số.
Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 không quy định nguyên tắc này là
nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của TAND. Hiến pháp 1980, Hiến pháp
1992 và Luật tổ chức TAND năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 nguyên tắc này
được quy định.
Khoản 4 Điều 103 Hiến pháp sửa đổi 2013“TAND xét xử tập thể và quyết
định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Hiến pháp sửa đổi
20/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

2013 tiếp tục xác định nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, bổ sung
quy định mở để có thể áp dụng thủ tục xét xử rút gọn bằng một Thẩm phán đối với
một số vụ án, đảm bảo hiệu quả, nhanh chóng, phù hợp với xu thế mở rộng việc
giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.
1.4.7.5.

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Tranh tụng trong xét xử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
xét xử, bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng
đắn vụ việc, bảo đảm sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham
gia tố tụng.
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp sửa đổi 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử được đảm bảo”. Hiến pháp sửa đổi 2013 nâng lên tầm hiến định nguyên tắc quan
trọng có tính đặc thù của hoạt động xét xử, đó là “tranh tụng trong xét xử”. Lần đầu
tiên nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp (2013).
1.4.7.6.

Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

Nguyên tắc này bảo đảm cho TAND xét xử đúng đắn vừa bảo đảm cho bị
cáo, đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Bảo đảm
việc xét xử công minh, tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp 2013 “Chế độ xét xử sơ thẩm, phú thẩm được
bảo đảm” -Hiến pháp 2013 lần đầu tiên ghi nhận nguyên tắc này.
1.4.7.7.

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp

pháp của đương sự được bảo đảm
Đây là quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự. Quyền này nhằm
bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, góp phần xác định sự
thật khách quan của vụ án, làm cho hoạt động xét xử của Tòa án được khách quan,
toàn diện và chính xác.
Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”. Hiến pháp sửa đổi

21/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân


----------------------------

Nhóm 5

2013 bổ sung quy định quyền bào chữa đối với bị can và quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đương sự được bảo đảm.

22/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

CHƯƠNG 2: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
2.1. Vị trí pháp lý của Viện Kiểm Sát nhân dân
Ở Việt Nam, thiết chế Viện công tố, sau này là Viện Kiểm Sát ra đời và phát
triển cùng với quá trình thành lập và phát triển của nhà nước cách mạng. Kể từ khi
thành lập đến nay, Viện Kiểm Sát luôn được khẳng định là cơ quan nhà nước độc
lập trong bộ máy nhà nước. Trong thời kỳ đầu của Chính quyền dân chủ nhân dân,
Viện công tố vẫn tồn tại trong hệ thống tòa án nên chưa hình thành hệ thống Viện
Kiểm Sát nhân dân (sau đây viết tắt là VKSND) độc lập như ngày nay, song về hoạt
động luôn thể hiện tính độc lập. Sau khi hệ thống Viện công tố chuyển thành hệ
thống VKSND trong Hiến pháp năm 1959 đến nay, VKSND luôn được Hiến pháp
xác định là cơ quan nhà nước có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước nhà nước.
Viện Kiểm Sát là thiết chế du nhập từ mô hình mô hình tổ chức Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Viện Kiểm Sát là cơ quan độc lập thực hiện chức năng công tố và kiểm

sát chung. Vị trí này được xác định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992.
Ở nước ta, cơ quan Viện Kiểm Sát thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp, do
đó, việc xác định vị trí của hệ thống cơ quan này phải trên cơ sở bảo đảm sự độc lập
của hệ thống cơ quan tư pháp. Viện Kiểm Sát là một thiết chế đặc thù trong tổ chức
bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu đặt ra đối với các Kiểm sát viên là
phải hành động một cách vô tư, khách quan, căn cứ vào các tiêu chí pháp luật,
không thiên vị. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp thì cần tổ chức Viện Kiểm Sát thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc
lập.
Từ năm 1945 đến nay, việc xác định vị trí của cơ quan Công tố/Kiểm sát
trong bộ máy Nhà nước ta luôn luôn thể hiện xu hướng khẳng định sự độc lập của
hệ thống cơ quan này. Từ khi thành lập VKSND năm 1960, theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật, VKSND luôn là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà
nước, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo
trong ngành. VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu
sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên. Viện trưởng VKSND các địa

23/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân

----------------------------

Nhóm 5

phương, Viện trưởng Viện Kiểm Sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện trưởng VKSND tối cao. Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm; chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo

công tác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Nước trong thời
gian Quốc hội không họp.
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của VKSND
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước, cơ chế kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan Nhà nước luôn là yếu tố không thể thiếu được để các cơ
quan Nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
VKSND là cơ quan có vai trò quan trọng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước.
(1) Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND 2014 có quy định chức năng VKSND là
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại Khoản 1 Điều 107 Hiến
pháp 2013 và tại Khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức VKSND 2014.
Theo đó:
-

Thực hành quyền công tố: được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà
nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện là Viện Kiểm Sát để phát
hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự. Chức năng này được thể hiện cụ thể
tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2014.
“Điều 3. Chức năng thực hành quyền công tố của VKSND
1. Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự
để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
2. VKSND thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:

24/41


Tiểu luận:
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm Sát nhân dân


----------------------------

Nhóm 5

a) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
b) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái luật.
3. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, VKSND có nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
a) Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái
pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp
khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định;
b) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn
chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự;
c) Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
d) Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ
tội phạm, người phạm tội;
e) Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến
hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với

người phạm tội;
25/41


×