Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và thách thức của mặt hang tôm việt nam xuất khẩu vào thị trường các nước phát triển (nhật bản và hoa kỳ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.1 KB, 38 trang )

Tên đề tài: “Sử dụng mô hình swot gồm 4 yếu tố để phân tích điểm mạnh điểm yếu
cơ hội và thách thức của mặt hang tôm Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các
nước phát triển. (Nhật Bản và Hoa Kỳ).

Lời mở đầu

Ngành thủy sản Việt Nam nói chung và Tôm nói riêng đang được các cấp lãnh
đạo nước ta quan tâm đầu tư và phát triển để vững bước trở thành nghành kinh tế mũi
nhọn hàng đầu .Xuất khẩu tôm Việt Nam đã có một tốc độ tăng trưởng tương đương
với tốc độ tăng trưởng của các nghành công nghiệp , dịch vụ và xây dựng .
Cung với những cơ hội rộng mở mặt hàng Tôm đang phải đối mặt với những thức
thách lớn đặt ra trong sân chơi thương mại quốc tế . Khi Tôm Việt Nam đã có chô
đứng trên thị trường mỹ ,eu, Nhật Bản .. thì đi kèm với nó rất nhiều rủi ro. Mỹ được
coi là thị trường chiến lược của Tôm Việt Nam với kim ngạch xuất khấu rất cao so với
tổng kim nghạch xuât khẩu thủy sản của việt Nam vàđang chiếm thị phần đáng kể trên
thị trường thủy sản của Mỹ . Việc tiếp tục nâng cao và đẩy mạnh thị phần xuât khẩu
trên thị trường này không đơn giản khi cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn , hơn nữa thị
trường Mỹ chứa đựng những yếu tố rủi ro và bất ngờ , đòi hỏi phải có sự nghiên cứu
kỹ lưỡng môi trường kinh doanh để xây dựng chiến lược cho phù hợp với từng thời
kì .
Việc sử dụng mô hình swot phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội thách thức của
việc xuất khẩu Tôm vào thị trường Mỹ sẽ giúp chúng ta đánh giá tốt hơn về hiện
trạng , xem xet các yêu tố nội tại cũng như tách động khách quan từ phía thị trường
các nước phát triển để đưa ra các chiến lược thực hiện mục tiêu đề ra , nâng cao lợi
nhuận giành nhiều thị phần hơn trên đât mỹ .
Bài tiểu luận gồm 3 chương :
Chương 1 : Giới thiệu sơ lược về mô hình Swot
1


Chương 2: Thực trạng các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của xuất


khẩu Tôm Việt nam vào thị trường các nước phát triển.
Chương 3: Lập ma trân Swot

Chương I: Giới thiệu sơ lược về mô hình swot
1.1Các khái niệm cơ bản.
Mô hình swot là: Phương pháp phân tích SWOT (còn gọi là ma trận
SWOT) là phương pháp phân tích các điểm Mạnh (Strengths), điểm Yếu
(Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Rủi ro (Threats).
Điểm Mạnh và điểm Yếu, gọi nôm na là sở trường và sở đoản là
những yếu tố nội bộ tạo nên (hoặc làm giảm) giá trị. Các yếu tố này có thể là tài
sản, kỹ năng hoặc những nguồn lực nào đó của công ty so với đối thủ cạnh
tranh.
Cơ hội và Rủi ro là các yếu tố bên ngoài tạo nên (hoặc làm giảm) giá trị của
công ty mà nằm ngoài tầm kiểm soát của công ty. Cơ hội và Rủi ro nảy sinh từ
môi trường kinh doanh cạnh tranh, yếu tố địa lý, kinh tế, chính trị, công nghệ, xã
hội, luật pháp hay văn hóa.
Mô hình SWOT chỉ ra các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối
với ngành hàng, doanh nghiệp từ đó kết hợp phát triển các loại chiến lược, đề
xuất các giải pháp để phát huy những điểm mạnh, khai thác những cơ hội, tối
thiểu hoá những điểm yếu và hạn chế những thách thức để hoạt động kinh doanh
đạt hiệu quả cao, lợi nhuận lớn và tránh được các rủi ro. Các loại chiến
lược là: chiến lược thế mạnh-cơ hội (SO); chiến lược điểm yếu - cơ hội (WO) ;
chiến lược thế mạnh-đe doạ (ST); chiến lược điểm yếu đe doạ (WT). Ngoài ra
còn có các chiến lược mở rộng kết hợp nhiều yếu tố như: SOT, SWT , OWT,
SWOT.
Các yếu tố điểm mạnh, điểm yếu là các yếu tố bên trong (môi
trường bên trong) còn các yếu tố cơ hội, thách thức (môi trường bên ngoài). Sự
kết hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài là vấn đề cơ bản nhất và khó khăn
nhất của việc xây dựng và sử dụnh ma trận SWOT. Điều này đòi hỏi phải có sự
phán đoán tốt về mối quan hệ giữa các yếu tố

. 1.2 Nguồn gốc của mô hình Swot
2


Mô hình phân tích SWOT là kết quả của một cuộc khảo sát trên 500 công
ty có doanh thu cao nhất do tạp chí Fortune bình chọn và được tiến hành tại
Viện Nghiên cứu Standford trong thập niên 60-70, nhằm mục đích tìm ra
nguyên nhân vì sao nhiều công ty thất bại trong việc thực hiện kế hoạch. Nhóm
nghiên cứu gồm có Marion Dosher, Ts. Otis Benepe, Albert Humphrey, Robert
Stewart và Birger Lie.
Việc Du Pont lập kế hoạch kinh doanh dài hạn vào năm 1949 đã khơi mào
cho một phong trào “tạo dựng kế hoạch” tại các công ty. Cho tới năm 1960, toàn
bộ 500 công ty được tạp chí Fortune bình chọn đều có “Giám đốc kế hoạch” và
các “Hiệp hội các nhà xây dựng kế hoạch dài hạn cho doanh nghiệp”, hoạt động
ở cả Anh quốc và Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, tất cả các công ty trên đều thừa nhận rằng các kế hoạch dài hạn
này không xứng đáng để đầu tư công sức bởi không có tính khả thi, chưa kể đây
là một khoản đầu tư tốn kém và có phần phù phiếm.
Trên thực tế, các doanh nghiệp đang thiếu một mắt xích quan trọng: làm thế nào
để ban lãnh đạo nhất trí và cam kết thực hiện một tập hợp các chương trình hành
động mang tính toàn diện mà không lệ thuộc vào tầm cỡ doanh nghiệp hay tài
năng của các chuyên gia thiết lập kế hoạch dài hạn.
Để tạo ra mắt xích này, năm 1960, Robert F. Stewart thuộc Viện Nghiên
cứu Standford, Menlo Park, California, đã tổ chức một nhóm nghiên cứu với
mục đích tìm hiểu quá trình lập kế hoạch của doanh nghiệp nhằm tìm ra giải
pháp giúp các nhà lãnh đạo đồng thuận và tiếp tục thực hiện việc hoạch định,
điều mà ngay nay chúng ta gọi là “thay đổi cung cách quản lý”.
Công trình nghiên cứu kéo dài 9 năm, từ 1960 đến 1969 với hơn 5000
nhân viên làm việc cật lực để hoàn thành bản thu thập ý kiến gồm 250 nội dung
thực hiện trên 1100 công ty, tổ chức. Và sau cùng, nhóm nghiên cứu đã tìm ra 7

vấn đề chính trong việc tổ chức, điều hành doanh nghiệp hiệu quả. Tiến sĩ Otis
Benepe đã xác định ra “Chuôi lôgíc”, hạt nhân của hệ thống như sau:
1. Values (Giá trị)
2. Appraise (Đánh giá)
3. Motivation (Động cơ)
4. Search (Tìm kiếm)
5. Select (Lựa chọn)
3


6. Programme (Lập chương trình)
7. Act (Hành động)
8. Monitor and repeat steps 12 and 3 (Giám sát và lặp lại các bước 1, 2 và 3).
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, không thể thay đổi giá trị của
nhóm làm việc hay đặt ra mục tiêu cho nhóm làm việc, vì vậy nên bắt đầu bước
thứ nhất bằng cách yêu cầu đánh giá ưu điểm và nhược điểm của công ty. Nhà
kinh doanh nên bắt đầu hệ thống này bằng cách tự đặt câu hỏi về những điều
“tốt” và “xấu” cho hiện tại và tương lai. Những điều “tốt” ở hiện tại là “Những
điều hài lòng” (Satisfactory), và những điều “tốt” trong tương lai được gọi là
“Cơ hội” (Opportunity); những điều “xấu” ở hiện tại là “Sai lầm” (Fault) và
những điều “xấu” trong tương lai là “Nguy cơ” (Threat). Công việc này được
gọi là phân tích SOFT.
Khi trình bày với Urick và Orr tại Hội thảo về Lập kế hoạch dài hạn tại
Dolder Grand, Zurich, Thụy Sĩ năm 1964, nhóm nghiên cứu quyết định đổi chữ
F thành chữ W và từ đó SOFT đã chính thức được đổi thành SWOT.
Sau đó, SWOT được Urick và Orr quảng bá tại Anh quốc như một dạng bài tập
cho tất cả mọi người. Những điều cần phải làm trong khi lập kế hoạch chỉ là
phân loại các vấn đề theo một số danh mục được yêu cầu.
Bước thứ hai được điều chỉnh thành “Nhóm sẽ làm gì?” với từng phần
trong danh mục. Quá trình lập kế hoạch này sau đó được thiết kế thông qua

phương pháp “Thử và sai” mà kết quả là một quá trình gồm 17 bước, bằt đầu
bằng SOFT/SWOT với môi mục ghi riêng vào từng trang.
Phiên bản đầu tiên được thử nghiệm và xuất bản năm 1966 dựa trên hoạt
động của công ty Erie Technological Corp. ở Erie Pa. Năm 1970, phiên bản này
được chuyển tới Anh dưới sự tài trợ của công ty W.H.Smith & Sons PLC và
được hoàn thiện năm 1973. Phương pháp phân tích này cũng đã được sử dụng
khi sáp nhập các cơ sở xay xát và nướng bánh của CWS vào J.W.Frenhch Ltd.
Kể từ đó, quá trình này đã được sử dụng thành công rất nhiều lần ở nhiều doanh
nghiệp và tổ chức thuộc các lĩnh vực khác nhau. Và tới năm 2004, hệ thống này
đã được phát triển đầy đủ, đã chứng minh được khả năng giải quyết hàng loạt

4


các vấn đề hiện nay trong việc xác lập và nhất trí các mục tiêu mang tính thực
tiễn hàng năm của doanh nghiệp mà không cần dựa vào các cố vấn bên ngoài.
1.3 Phân tích Swot
Là việc đánh giá một cách chủ quan các dữ liệu được sắp xếp theo định
dạng.
SWOT dưới một trật tự lô gíc dễ hiểu, dễ trình bày, dễ thảo luận và đưa ra
quyết định, có thể được sử dụng trong mọi quá trình ra quyết định. Các mẫu
SWOT cho phép kích thích suy nghĩ hơn là dựa trên các phản ứng theo thói
quen hoặc theo bản năng. Mẫu phân tích SWOT được trình bày dưới dạng một
ma trận 2 hàng 2 cột, chia làm 4 phần: Strengths, Weaknesses, Opportunities,
and Threats.
Lưu ý rằng cần xác định rõ ràng chủ đề phân tích bởi SWOT đánh giá
triển vọng của một vấn đề hay một chủ thể nào đó, chẳng hạn một:
- công ty (vị thế trên thị trường, độ tin cậy...),
- sản phẩm hay nhãn hiệu,8
- đề xuất hay ý tưởng kinh doanh,

- phương pháp
- lựa chọn chiến lược (thâm nhập thị trường mới hay đưa ra một sản phẩm
mới...),
- cơ hội sát nhập hay mua lại,
- đối tác tiềm năng,
- khả năng thay đổi nhà cung cấp,
- thuê ngoài hay gia công (outsourcing) một dịch vụ, một hoạt động hay một
nguồn lực,
- cơ hội đầu tư.
Hơn nữa, SWOT có thể được áp dụng phân tích tình hình của đối thủ cạnh
tranh. Chủ đề phân tích SWOT cân được mô tả chính xác để những người khác
có thể thực hiện tốt quá trình phân tích và hiểu được, hiểu đúng các đánh giá và
ẩn ý của kết quả phân tích
1.4 Chiến lược cơ bản của mô hình swot
(1) SO (Strengths - Opportunities): các chiến lược dựa trên ưu thế của
công ty để tận dụng các cơ hội thị trường. (2) WO (Weaks - Opportunities): các
chiến lược dựa trên khả năng vượt qua các yếu điểm của công ty để tận dụng cơ
hội thị trường. (3) ST (Strengths - Threats): các chiến lược dựa trên ưu thế của
của công ty để tránh các nguy cơ của thị trường. (4) WT (Weaks - Threats): các

5


chiến lược dựa trên khả năng vượt qua hoặc hạn chế tối đa các yếu điểm của
công ty để tránh các nguy cơ của thị trường.
Để thực hiện phân tích SWOT cho vị thế cạnh tranh của một công ty,
người ta thường tự đặt các câu hỏi sau:
- Strengths: Lợi thế của mình là gì? Công việc nào mình làm tốt nhất?
Nguồn lực nào mình cần, có thể sử dụng? Ưu thế mà người khác thấy được ở
mình là gì? Phải xem xét vấn đề từ trên phương diện bản thân và của người

khác. Cần thực tế chứ không khiêm tốn. Các ưu thế thường được hình thành khi
so sánh với đối thủ cạnh tranh. Chẳng hạn, nếu tất cả các đối thủ cạnh tranh đều
cung cấp các sản phẩm chất lượng cao thì một quy trìh sản xuất với chất lượng
như vậy không phải là ưu thế mà là điều cần thiết phải có để tồn tại trên thị
trường.
- Weaknesses: Có thể cải thiện điều gì? Công việc nào mình làm tồi nhất?
Cần tránh làm gì? Phải xem xét vấn đề trên cơ sở bên trong và cả bên ngoài.
Người khác có thể nhìn thấy yếu điểm mà bản thân mình không thấy. Vì sao đối
thủ cạnh tranh có thể làm tốt hơn mình? Lúc này phải nhận định một cách thực
tế và đối mặt với sự thật.
1.5 Gợi ý thực hành phân tích Swot
Albert Humphrey, nhà kinh tế, thành viên Ban quản trị của cùng lúc 5
công ty đồng thời là chuyên gia cố vấn cho hơn 100 công ty tại Anh, Mỹ, Mê-hicô, Pháp, Thụy Sĩ, Đức, Na Uy và Đan Mạch, đã cụ thể hóa SWOT thành 6 mục
hành động sau:
1. Sản phẩm (Chúng ta sẽ bán cái gì?)
2. Quá trình (Chúng ta bán bằng cách nào?)
3. Khách hàng (Chúng ta bán cho ai?)
4. Phân phối (Chúng ta tiếp cận khách hàng bằng cách nào?)
5. Tài chính (Giá, chi phí và đầu tư bằng bao nhiêu?)
6. Quản lý (Làm thế nào chúng ta quản lý được tất cả những hoạt động đó?)
6 mục trên cung cấp một cái khung để phát triển các vấn đề trong SWOT.
Đây có thể coi là một “bước đột phá”, vì vậy, chắc hẳn cần phải giải thích thêm
đôi chút. Các yêu cầu trong SWOT được phân loại thành 6 mục như trên sẽ giúp
đánh giá các mục theo cách định lượng hơn, giúp các nhóm làm việc có
tráchnhiệm hơn trong bối cảnh hoạt động của doanh nghiệp hay tổ chức, từ đó
dễ dàng quản lý các hành động hơn. Mục tiêu hết sức quan trọng của quá trình là
6


đạt được cam kết giữa các nhóm tham gia – phần này được giải thích bằng mô

hình TAM (Team Action Management Model – Mô hình quản lý hoạt động
nhóm) của Albert Humphrey.
Chừng nào còn phải xác định các hành động được cụ thể hóa từ SWOT,
các nguyên nhân và mục đích phân tích SWOT, chừng đó, khả năng và quyền
hạn 11 quản lý nhân viên của bạn còn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa
đến một sự nhất trí về ý tưởng và phương hướng hoạt động.
Dựa vào bối cảnh cụ thể, một mô hình phân tích SWOT có thể đưa ra một,
hay một vài mục trong danh sách 6 bước hành động nói trên. Dù trong trường
hợp nào đi nữa, SWOT về cơ bản cũng sẽ cho bạn biết những gì là “tốt” và
“xấu” trong công việc kinh doanh hiện tại hay đối với một đề xuất mới cho
tưong lai.
Nếu đối tượng phân tích SWOT của bạn là công việc kinh doanh, mục
tiêu phân tích là cải thiện doanh nghiệp, thì SWOT sẽ được hiểu như sau:
o ”Điểm mạnh” (Duy trì, xây dựng và làm đòn bẩy)
o ”Cơ hội” (Đánh giá một cách lạc quan)
o ”Điểm yếu” (Phương thuốc để sửa chữa hoặc để thoát khỏi điểm yếu)
o ”Nguy cơ” (Các trở ngại)
Nếu phân tích SWOT được dùng để đánh giá một ý tưởng hay đề xuất, nó
có thể chỉ ra rằng ý tưởng hay đề xuất đó quá yếu (đặc biệt khi so sánh với việc
phân tích các đề xuất khác) và không nên đầu tư vào đó. Trong trường hợp này,
không cần đưa ra các kế hoạch hành động tiếp theo.
Nếu phân tích cho thấy ý tưởng hay đề xuất nào đó thực sự có khả năng
thành công, bạn có thể coi đây là một công việc kinh doanh, và chuyển các mục
trong SWOT thành hành động phù hợp.
Trên đây là nội dung chính lý thuyết của Albert Humphrey liên quan đến
việc phát triển các mục trong phân tích SWOT thành hành động nhằm mục tiêu
thay đổi doanh nghiệp hoặc tổ chức.
Ngoài ra, SWOT còn có một số cách áp dụng khác, tùy theo hoàn cảnh và
mục đích của bạn, chẳng hạn, nếu bạn chỉ tập trung vào một bộ phận chứ không
phảicả doanh nghiệp, bạn nên sắp xếp lại 6 mục nêu trên sao cho nó có thể phản

ánh đầy đủ các chức năng của bộ phận, sao cho các mục trong SWOT có thể
được đánh giá cụ thể nhất và được quản lý tốt nhất
7


8


Chương II :Thực trạng các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của
xuất khẩu Tôm Việt nam vào thị trường các nước phát triển.
2.1 Điểm mạnh
2.1.1 Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lí của Việt Nam là niềm mơ ước của rất nhiều các quốc gia trên thế giới. Với
3260 km bờ biển từ Móng Cái đến Hà Tiên trải qua 13 vĩ độ từ 823’ vĩ độ bắc đến 212
9' vĩ độ bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải của Việt Nam rộng 226000 km và
vùng biển đặc quyền kinh tế trên một triệu km rộng gấp 3 lần diện tích đất liên.
Trên vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn
như: Cô Tô, Cát Bà, Phú Quốc… là nơi có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch đồng
thời đã, đang và sẽ được xây dựng thành một tuyến căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu
cần , chu chuyển sản phẩm cho các đội tàu khai thác hải sản, đồng thời là nơi cư trú
của tàu thuyền trong mùa mưa bão.

Ngoài ra nước ta còn có 660 nghìn ha vùng nước lợ, đây là môi trường giàu chất dinh
dưỡng cho thực vật thủy sinh.. Là nơi cư trú, sinh sản, sinh trưởng của tôm he, tôm
nương, tôm rảo, tôm vàng, cá đối, cá vược, cá tráp, cá trai, cá bớp, cua biển…
2.1.2 Diện tích nuôi tôm có xu hướng tăng mạnh
Theo Phạm Xuân Thuỷ (2006) năm 2005 diện tích và sản lượng tôm nước lợ
trên cả nước phân theo các vùng gồm: ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung
Bộ, Đông Nam Bộ và ĐBSCL được thống kê trong (Bảng 1). ĐBSCL có diện tích

nuôi và sản lượng tôm nước lợ cao nhất so với các vùng nuôi còn lại, trong đó Đông
Nam Bộ và ĐBSCL hai vùng nuôi thuộc Nam bộ.

9


.
Diện tích tôm nuôi nước lợ cả nước năm 2005 là 604.479 ha (Bảng 2) so với năm
1999 tăng 394.031 ha (gấp 1,87 lần), mức tăng bình quân 31,2% /năm. Các tỉnh ven
biển Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nuôi tôm nước lợ lớn nhất là 535.145 ha
(năm 2005) (chiếm 88,53% diện tích nuôi tôm nước lợ của cả nước).
Theo nguồn số liệu của Tổng cục thống kê, sản lượng tôm nước lợ tại Nam Bộ các
năm từ 2007 -2009 đạt trên 300.000 tấn. Trong khi các năm từ 1995 – 1999 mới chỉ
dưới 50.000 tấn (hình 1).

10


Hình 1: Diễn biến sản lượng tôm nuôi nước lợ ven biển các tỉnh Nam Bộ
Theo thống kê của Bộ NN & PTNT, tính đến tháng 8-2008 tổng diện tích nuôi
tôm nước lợ của các tỉnh ven biển ĐBSCL là 539.607ha, chiếm 89,3% tổng diện tích
cả nước; trong đó, nuôi tôm sú là 538.800ha, tôm thẻ chân trắng 807ha. Diện tích nuôi
tôm sú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Cà Mau (257.000ha), Bạc Liêu (121.811ha) và
Kiên Giang (77.218ha)...
ĐBSCL có 46.257ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, diện tích còn lại là
nuôi tôm quảng canh và quảng canh cải tiến (Cà Mau và Bạc Liêu tập trung nhiều
nhất, 90%). Các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, diện tích nuôi tôm sú là 18.843ha và
nuôi tôm chân trắng là 129ha.
Sản lượng thu hoạch, tính riêng khu vực ĐBSCL là 160.566 tấn, chiếm 76,3%
tổng sản lượng thu của cả nước, chủ yếu là tôm sú. Các tỉnh có sản lượng tôm sú cao là

Cà Mau (68.500 tấn), Bạc Liêu (36.211 tấn), Kiên Giang (13.623 tấn)... Năng suất
nuôi tôm sú thâm canh trung bình 3-4 tấn/ha/vụ 4 tháng.
Năm 2010, diện tích nuôi tôm sú trong vùng đạt hơn 560 nghìn ha, sản lượng
hơn 293 nghìn tấn; trong đó, tỉnh Cà Mau có gần 247 nghìn ha, Bạc Liêu 117.364 ha,
Kiên Giang hơn 72 nghìn ha... Từ năm 2000 đến nay, các tỉnh đã chuyển hơn 300
11


nghìn ha ruộng trũng trồng lúa kém hiệu quả sang NTTS; riêng năm 2006, chuyển gần
6.500 ha.
Diện tích nuôi tôm sú năm 2010 giảm gần 16.000 ha so với năm 2009 do hệ
thống tiêu thoát nước thải chưa đáp ứng nhu cầu và chưa ngăn chặn được dịch bệnh
Tháng 8/2010, sản lượng thu hoạch tôm nước lợ đã đạt 222.480 tấn, trên
khoảng 39% diện tích. Như vậy, với 61% diện tích tôm chưa thu hoạch cùng với cùng
với diện tích nuôi thêm trong 4 tháng cuối năm, sản lượng tôm nước lợ nuôi năm nay
có thể đạt tới 500.000 tấn.
Theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thì hướng đi
trong tương lai của đồng bằng ven biển Nam Bộ là phát triển nuôi tôm sú theo chiều
sâu. Đến năm 2015, có 546.000 ha vào nuôi tôm sú, giảm 768 ha so với năm 2010
nhưng sản lượng sẽ đạt 463.000 tấn, 80% sản lượng sẽ được xuất khẩu với giá trị
hàng năm ít nhất là 1,5 tỉ USD.
Hình thức nuôi phổ biến là quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh,
thâm canh. Trong đó, diện tích nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm khoảng 20%
diện tích để sản lượng nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm 51% tổng sản lượng
tôm, sản lượng nuôi quảng canh cải tiến chiếm 35%, sản lượng tôm lúa, tôm rừng
chiếm 14% tổng sản lượng.
Năng suất tôm nuôi quảng canh phấn đấu từ 0,35-0,45 tấn/ha, nuôi quảng canh
cải tiến trên ruộng lúa (tôm lúa) đạt từ 0,4-0,5 tấn/ha, nuôi tôm rừng 0,15-0,20 tấn/ha,
nuôi thâm canh-bán thâm canh đạt trung bình 2,0-3,5 tấn/ha. Hiện tại năng suất tôm
nuôi trung bình của vùng đạt 0,7 tấn/ha/năm và phấn đấu đến năm 2015 đạt 0,85

tấn/ha.

Đến hết tháng 8 năm 2013, ước diện tích nuôi tôm cả nước đạt 600.000
ha, trong đó diện tích nuôi tôm sú là 570.000 ha, tôm thẻ chân trắng là 25.200
ha. Sản lượng thu hoạch tôm ước đạt 133.000 tấn, trong đó tôm sú là 93.000 tấn,
tôm thẻ chân trắng là 40.000 tấn.
12


Về mặt hàng tôm thẻ chân trắng, 7 tháng đầu năm xuất khẩu tăng 51,5% so với
cùng kỳ năm 2012 (đạt 609 triệu USD) và chiếm 43,7% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu tôm của Việt Nam, trong khi xuất khẩu tôm sú chỉ tăng 1,3% so với
cùng kỳ năm 2012
2.1.3

Sản phẩm đã đáp ứng tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu

Bộ thủy sản đã ban hành hàng loạt các tiêu chuẩn ngành về điêù kiện đảm
bảo an toàn vệ sinh của tàu cá, cảng cá, chợ cá, cơ sở thu mua, cơ sở sản xuất nước đá,
sơ chế thủy sản, kho lạnh, cơ sở bán lẻ… Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh thực phẩm tương đương với tiêu chuẩn cuả các nước nhập khẩu.

Công tác kiểm tra, kiểm soát về an toàn vệ sinh thực phẩm đã được chuyển đổi
từ kiểm tra sản phẩm cuối cùng sang quản lí và thực hiện các biện pháp về an toàn vệ
sinh thực phẩm theo hệ thống xuyên suốt từ khâu sản xuất nguyên liệu đến thu mua
và chế biến xuất khẩu.

Với sự nô lực của các cơ quan quản lí cùng các doanh nghiệp, tháng 11/1999
Việt Nam đã chính thức được công nhận vào danh sách các nước xuất khẩu thủy sản
vào EU với 18 doanh nghiệp. Đến nay đã nâng lên 153 đơn vị có code xuất khẩu đi

EU chiếm 38,7% trong tổng số cơ sở chế biến hiện có, khoảng 300 đơn vị áp dụng
HACCP đủ tiêu chuẩn xuất hàng vào Mỹ. Những doanh nghiệp này có giá trị ki
m ngạch xuất khẩu chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành.

Những nô lực đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm
, tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ của riêng Nhà nước mà từ các doanh nghiệp, sản phẩm
tôm Việt Nam đã và đang tiến xa hơn và có thể xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường
thủy sản Mỹ.
2.1.4

Đã có một số công nghệ cao trong chế biến và nuôi trồng

13


Rào cản lớn cho xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Mỹ hiện nay
là Mỹ đã đưa ra các quy định về tiêu chuẩn chất lượng ngặt nghèo mà những quy định
này chủ yếu đối với các sản phẩm có nguồn gốc nuôi trồng. Vì vậy để đảm bảo chất lư
ợng cho hàng tôm xuất khẩu thì công tác nuôi trồng phải được xem là một quá
trình đòi hỏi phải làm tốt ở tất cả các khâu: từ chuẩn bị khu nuôi, công tác giống, thức
ăn, quá trình chăm sóc, theo dõi bệnh trong quá trình nuôi, thu hoạch và vận chuyển
đến khu chế biến.

Hiện nay ngành thủy sản đã tập trung nghiên cứu công nghệ sản xuất giống những đối
tượng giá trị xuất khẩu như tôm sú, tôm rảo, tôm càng xanh trong đó một số đối tượng
đã đi vào sản xuất đại trà. Đồng thời cũng đã nhập khẩu công nghệ sản xuất giống tôm
thể chân trắng… bước đầu có kết quả khả quan.

Cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành chế biến tôm phát triển khá nhanh. Năm
2000 cả nước có 272 cơ sở chế biến thủy sản, trong đó có 246 cơ sở chế biến đông

lạnh, 65 dây chuyền IQF, với tổng công suất cấp đông là 2000 tấn/ngày. Cuối
năm 2002 tổng số doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh là 235 với tổng công suất
là 3147 tấn/ngày. Phân chia theo vùng như sau miền Bắc 4%, miền Trung 27,2%, miền
Nam 68,8%. Như vậy các cơ sở chế biến về cơ bản đã được xây dựng theo quy
hoạch. Đa số các cơ sở chế biến đều có nhà xưởng,nhà kho, trang thiết bị, dụng
cụ vệ sinh, hệ thống xử lí nước thải, trang thiết bị kiểm tra sản phẩm đều đạt tiêu
chuẩn chất lượng. Nhiều cơ sở tiến hành sản xuất theo phương thức công nghiệp.
Việc áp dụng hệ thống quản lí chất lượng và các quy định về bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm ngày càng phổ biến.
Qua việc phân tích các điểm mạnh của tôm Việt Nam chúng ta thấy rõ được những
ưu thế của sản phẩm. Từ những lợi thế về điều kiện tự nhiên, đa dạng hóa về sản phẩm
… cho đến những nô lực đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, tôm
Việt Nam có thể tự tin bước vào thị trường Mỹ, Nhật Bản.

14


Nếu phát huy được những lợi thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh thì tôm Việt

Nam sẽ ngày càng tiến xa hơn nữa không chỉ trên thị trường Mỹ,Nhật Bản
mà còn nhiều thị trường lớn khác nữa.
2.2 Điểm yếu.
2.2.1 Thiếu vốn sản xuất tôm nguyên liệu.
Tôm đang có giá tốt nhưng do thiếu vốn nên người nuôi đành thả nuôi cầm chừng. Đã
sắp hết vụ nuôi tôm đợt 1/2013 nhưng các tỉnh trọng điểm Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc
Trăng vẫn chưa hoàn thành kế hoạch diện tích.
Giá giảm, diện tích giảm
Tại ĐBSCL, tôm sú loại 30 con/kg đang bán được 190.000 - 195.000 đồng/kg, tăng 10
- 15%, tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg bán được 85.000 - 90.000 đồng/kg, tăng
hơn 10% so cùng kỳ năm ngoái.

Ông Phạm Hoàng Giang, Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng Thủy sản (NTTS) Bạc
Liêu cho biết, giá tốt vậy nhưng vẫn không đủ hàng bán cho nhà máy chế biến xuất
khẩu. Đó là do người nuôi gặp khó khăn từ vụ thả nuôi năm trước, nay chưa hồi phục,
lại thiếu vốn nên thả nuôi cầm chừng, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng, dẫn đến
mất cân đối cung cầu.
Tỉnh Bạc liêu có diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp 11.913 ha, đến
nay đã thả nuôi 10.007 ha, mới đạt 84% kế hoạch. Tỉnh Sóc Trăng chưa thống kê diện
tích, nhưng vùng trọng điểm nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp huyện Trần Đề
diện tích "treo ao" do thiếu vốn còn nhiều. Ông Giang Đại Hòa (ấp Chợ, xã Trung
Bình, huyện Trấn Đề) có 3 ao nuôi, diện tích 1,5 ha, do không vay được vốn ngân
hàng nên phải nuôi tôm sú gối đầu, hiện 1 ao sắp thu hoạch, 2 ao còn lại mới thả được
2 tháng và 1 tháng. Ông Ca Minh Chí (cùng ấp) có 8 ao, diện tích 4,5 ha, cũng chỉ dám
thả nuôi 4 ao, còn lại phải chờ thu hoạch để quay vòng vốn mới tính chuyện thả tiếp.
Khó tiếp cận vốn
Theo nhiều hộ dân Sóc Trăng, không tiếp cận được vốn ngân hàng do từ đầu năm đến
nay Bảo Việt Sóc Trăng không bán hồ sơ bảo hiểm tôm nào cho dân. Trong khi đó
ngân hàng chỉ phát vay nuôi tôm cho những hộ được bảo hiểm; sự trông chờ lẫn nhau
15


dẫn đến vốn dành cho phát triển NTTS (trong đó có tôm) đang ứ ở ngân hàng nhưng
không cho vay được. Tại tỉnh Bạc Liêu, do không được bảo hiểm và khó tiếp cận ngân
hàng nên nhóm nuôi tôm liên kết của ông Phạm Trúc Điệp (phường Nhà Mát, TP Bạc
Liêu) phải "treo ao" từ đầu năm. 6 tháng đầu năm 2013, ngân hàng cho vay NTTS
được 172,409 tỷ đồng, tổng dư nợ NTTS đến 31/6/2013 là 1.272 tỷ đồng, so với dư nợ
ngày 31/12/2012 chỉ tăng 3,83 %. Nếu trừ dư nợ nuôi cá tra 5 tỷ đồng thì dư nợ nuôi
thủy sản, chủ yếu là tôm, chỉ 1.248 tỷ đồng, tăng 3,48% so cuối năm 2012.
Mức dư nợ như vậy cho thấy người nuôi tiếp tục gặp khó về vốn. Trong khi đó Chính
phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trương giảm lãi suất và tăng vốn cho nông
nghiệp - nông thôn, nhất là NNTS. Ngày 5/7/2013, tại Hội nghị bàn giải pháp tháo gỡ

khó khăn cho lúa gạo và thủy sản ĐBSCL, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình
khẳng định: "Hoạt động nuôi trồng và chế biến nếu có kế hoạch tốt, ngân hàng sẽ đáp
ứng đủ vốn để sản xuất phát triển. Trong đó hoạt động bảo hiểm sẽ được đẩy mạnh;
những sản phẩm quan trọng, đảm bảo được đầu ra sẽ được xem xét cấp bảo lãnh tín
dụng…".
Song, chưa biết đến bao giờ ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm tại ĐBSCL thực
hiện được như ý kiến Thống đốc. Trong khi đó, dân cứ chạy vốn xoay vòng, phải bỏ
hoang hóa diện tích NTTS, khiến cung cầu mất cân đối. Nhiều doanh nghiệp chế biến
tôm vì thế phải nhập khẩu nguyên liệu, làm cán cân thanh toán ngoại tệ mất cân đối
theo, còn số đông người nuôi tôm vẫn "treo ao" dài dài!
2.2.2

Điểm yếu về tôm nguyên liệu.

Tuy nuôi trồng và khai thác thủy sản được quan tâm và phát triển nhưng việc
phát triển nguyên liệu ở nhiều nơi còn mang tính tự phát, dễ nảy sinh tác hại đối
với môi trường ảnh hưởng lớn đến phát triển thủy sản bền vững.
Sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch về cơ bản chưa đáp ứng các
tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Giá tôm giống cao, giá thức ăn nuôi
tôm cũng cao đã làm tăng giá thành nguyên liệu, khi tỷ trọng giá nguyên liệu
16


thường chỉ chiếm đến 90% giá thành sản phẩm. Giá nguyên liệu cao đã làm
giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm tôm Việt Nam đặc biệt khi thị trường
thế giới biến động, giá xuất khẩu giảm.
2.2.3

Về công tác thị trường


Công tác thị trường tuy đã được quan tâm và đạt được một số kết quả nhưng mới chỉ ở
trình độ thấp. Phương thức tiếp thị và bán hàng tuy đã chuyển sang chủ động nhưng
vẫn thông qua sử dụng thương hiệu của đối tác, chưa có khả năng tiếp cận người tiêu
dùng, chưa xây dựng được chiến lược phát triển thị trường cho sản phẩm chủ lực cũng
như chưa tổ chức triển khai xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm trên thị trường
Mỹ. Nguyên nhân chủ yếu là do không có đủ nguồn lực chuyên gia về thị trường,
nguồn kinh phí dành cho các hoạt động xúc tiến thương mại còn hạn chế, chưa có cơ
chế thích hợp để huy động kinh phí từ các doanh nghiệp, người sản xuất để phát triển
thị trường cho sản phẩm chủ yếu. Mét trong những nét văn hoá tiêu dùng của người
Mỹ là mua sắm qua các nhà phân phối uy tín, các hoạt động quảng bá xúc tiến có ý
nghĩa rất quan trọng khi kinh doanh trên thị trường này. Yếu về công tác thị trường là
một bất lợi lớn khi tôm Việt Nam xâm nhập thị trường này.
2.2.4

Vấn đề bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm

Công tác quản lí an toàn vệ sinh mới chỉ tập trung thực hiện ở khu vực chế biến
chưa được thực hiện tốt ở khu vực sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch
( chủ yếu sử dụng đá và muối ) nên vẫn còn hiện tượng bị các nước nhập khẩu cảnh
báo và trả lại hàng. Yêu cầu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm đang là một thách thức
lớn đối với toàn ngành. Tình trạng tiêm chích tạp chất vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi,
việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng, bảo quản nguyên liệu vẫn chưa kiểm soát
tốt. Mặt khác do thiếu những cơ sở dịch vụ như cho cá tập trung ở các vùng sản xuất
nguyên liệu nên đã tạo kẽ hở cho tư thương đánh phá giá nguyên liệu ảnh hưởng đến
hiệu quả sản xuất của nông ngư dân, nhất là vào những thời điểm có nhiều nguyên
liệu.
2.2.5

Vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật
17



Công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho sản xuất tôm tuy có được quan tâm
nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao nhằm tạo sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Nhiều kết quả nghiên cứu còn chậm được phổ biến áp dụng trong sản
xuất. Các quy trình nuôi chuẩn, các quy phạm nuôi trồng tốt chưa được ban hành và
phổ biến đầy đủ cho nhân dân.
Trình độ công nghệ trong khai thác và nuôi trồng còn nhiều hạn chế. Công nghệ
chế biến tôm chưa bắt kịp với tốc độ tiến bộ của công nghệ trên thế giới.
Công tác đào tạo cán bộ quản lí, cán bộ tiếp cận thị trường, công nhân kỹ thuật
chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong
sự chỉ đạo và điều hành giữa các chương trình phát triển tôm, trong khi đó yêu cầu
quản lí đối với sản phẩm là xuyên suốt không thể tách rời. Vì vậy trong sản xuất kinh
doanh cũng như đầu tư còn bị cắt khúc và thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa sản xuất
nguyên liệu, hậu cần dịch vụ và chế biến xuất khẩu gây nên tình trạng vừa thừa vừa
thiếu, vừa lãng phí vừa gây cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường trong và ngoài

nước.

2.3 Cơ hội.
2.3.1 Hàng rào thuế quan của Mỹ được dỡ bỏ.
Ngày 21/9/2013, Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (USITC) ra tuyên bố ngành
sản xuất tôm Mỹ không bị thiệt hại bởi tôm nhập khẩu từ Việt Nam. Như vậy, việc
hoàn thuế ký quỹ của các doanh nghiệp là theo đúng luật định.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu Thủy sản
Việt Nam (VASEP), nhận định: “Đây là lần hiếm có trong lịch sử kiện chống trợ cấp,
Mỹ công bố sản phẩm tôm một nước bị coi có nền kinh tế phi thị trường không bị áp
loại thuế này. Vài ngày trước, tôm Việt Nam cũng lần đầu tiên được minh oan không
bán phá giá tại Mỹ. Từ đây, các doanh nghiệp nước ta sẽ có thêm nhiều cơ hội xuất
khẩu tôm sang Mỹ”.

18


Từ đầu năm đến nay, giá tôm tại Mỹ liên tục tăng. Cụ thể, giá tôm sú tháng
9/2013 tăng thêm trung bình 3,6 USD/kg, giá tôm chân trắng tăng thêm 4,2 USD/kg.
Tháng 8/2013, xuất khẩu tôm tăng 66% so với cùng kỳ năm 2012, riêng thị trường Mỹ
tăng đến 146%.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, 8 tháng
đầu năm 2013, giá trị xuất khẩu các loại thủy sản đạt 4,16 tỷ USD, tăng 4,3% so với
cùng kỳ. Trong đó riêng mặt hàng tôm đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng gần 22%.
Riêng tháng 8, xuất khẩu các sản phẩm chính khác đều giảm trong khi mặt hàng tôm
vẫn tăng 65,5% so với tháng 8 năm ngoái. Giá trị tôm xuất khẩu sang 10 thị trường lớn
đều tăng trưởng mạnh như Mỹ tăng gần 146%, Hàn Quốc tăng 96,2%, EU tăng
54,5%...
Từ đầu tháng 9, tôm Việt đón nhận 2 tin vui khi thoát cả thuế chống bán phá giá và
chống trợ cấp khi vào thị trường Mỹ. Theo đó, toàn bộ các khoản tiền ký quỹ đã thu
hoặc dự định sẽ phải thu của doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt sẽ được hoàn trả hoặc
bãi bỏ.
8 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt trên 445,6 triệu USD, tăng hơn
52% so với cùng kỳ 2012. VASEP cho biết, tôm Việt xuất sang Mỹ hiện có một số
thuận lợi, đó là nguồn cung từ Thái Lan giảm mạnh, trong khi giá mặt hàng này đang
tăng cao.
2.3.2

Cơ hội chiếm lĩnh thị trường
Không giấu nổi vui mừng, ông Trần Văn Lĩnh, Tổng Giám đốc Công ty CP

Thủy sản và Thương mại Thuận Phước, bày tỏ: “Khi nhận được thông tin, không chỉ
chúng tôi mà nhiều DN xuất khẩu thủy sản khác thấy như trút được gánh nặng đã đè
trên vai quá lâu. Kể từ khi Mỹ áp thuế chống bán phá giá lần đầu tiên năm 2004, gần

chục năm rồi tôm Việt Nam mới được minh oan. Rồi còn thoát khỏi thuế chống trợ
cấp. Chúng ta thắng kiện như một kỳ tích!”.

19


Các DN trong nước sẽ có thêm nhiều cơ hội xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ. Ảnh: CTV
Ông cho rằng trong giai đoạn kinh tế khó khăn, tôm Việt Nam đã chứng tỏ
được sức cạnh tranh trên thị trường thế giới khi tăng gần 70% so với cùng kỳ năm
2012, đạt 1,7 tỉ USD. Nay với việc không phải chịu thuế chống bán phá giá, chống trợ
cấp cơ hội tăng sản lượng và giá trị tôm xuất khẩu vào Mỹ càng rộng mở.
“Thông tin này rất có lợi cho DN tôm Việt Nam vì thời điểm này chỉ còn môi Việt
Nam là có nguồn cung nguyên liệu lớn nhất; các nước xuất khẩu tôm lớn như Thái
Lan, Indonesia bị dịch bệnh tôm chết sớm gây thiệt hại nặng nề hơn” - ông Phạm
Hoàng Việt, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, nói thêm.
Việc tôm Việt không phải chịu hai loại thuế trên không chỉ cởi bỏ được áp lực cho DN
xuất khẩu nước ta mà cả với nhà nhập khẩu Mỹ. Họ sẽ chọn tôm Việt Nam vì bán
được giá cạnh tranh hơn và có nhiều lợi nhuận hơn trong khi nguồn cung từ Thái Lan,
Argentina, Indonesia giảm mạnh, nhu cầu thế giới tăng cao, giá bán tôm cũng tăng.
2.3.3 Sản lượng tôm Thái Lan, nước chi phối nguồn cung tôm thế giới, giảm mạnh
do ảnh hưởng của dịch bệnh khiến nguồn cung hạn chế. Theo dự báo của Hiệp hội
Thực phẩm đông lạnh Thái Lan, sản lượng tôm của nước này trong năm 2013 dự kiến
giảm 50% so với 550.000 tấn năm 2012.
- Giá tôm trên thị trường thế giới đang tăng nhanh.

20


Giá tôm tại Mỹ, Nhật Bản và EU có xu hướng tăng.
Trên thị trường Mỹ, giá tôm sú 6 tháng đầu năm 2013 tăng thêm 2,26 USD/kg

từ 6,40 USD/pao lên 7,53 USD/pao. Giá tôm chân trắng cũng tăng 2,86 USD/kg từ
4,10 USD/pao lên 5,53 USD/pao.
Trên thị trường Nhật Bản, tôm sú HLSO Việt Nam cỡ 16/20 cuối tháng 6/2013
tăng thêm 5,5 USD/kg so với tháng 1/2013, từ 10,72 USD/kg lên 16,23 USD/kg. Tôm
sú HLSO cỡ 16/20 từ Ấn Độ cũng tăng thêm gần 5 USD/kg, từ 11,03 USD/kg lên
15,95 USD/kg. Tôm Indonesia tăng 3 USD/kg. Giá tôm chân trắng của Indonesia trên
thị trường này trong 6 tháng đầu năm nay cũng tăng đáng kể. Tôm HLSO cỡ 16/20
tăng 1,8 USD/kg, từ 11,32 USD/kg lên 13,1 USD/kg. Cổng thông tin VASEP, cho
thấy Việt Nam xuất khẩu 3.570 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh vào thị trường Nhật
Bản trong tháng 8 với giá trị 4,3 tỷ Yên, đứng đầu về khối lượng và giá trị xuất khẩu
vào thị trường này.
Indonesia và Ấn Độ chia nhau vị trí thứ hai và thứ ba, với giá trị xuất khẩu mặt
hàng này sang Nhật Bản lần lượt đạt 3,25 tỷ Yên và 3,17 tỷ Yên. Tuy nhiên, khối
lượng xuất khẩu của Indonesia trong tháng 8 (2.657 tấn) lại thấp hơn Ấn Độ (3.320
tấn) do giá xuất khẩu của Indonesia cao hơn.
Tính chung 8 tháng đầu năm, Việt Nam xếp thứ hai về khối lượng xuất khẩu
tôm nguyên liệu đông lạnh sang Nhật Bản với 21.904 tấn, đứng sau Indonesia với khối
lượng đạt 21.964 tấn, và đứng ngay trước Ấn Độ với 17.609 tấn.
Về giá trị xuất khẩu, Việt Nam lại đứng đầu do giá xuất khẩu bình quân cao
hơn 2 nước trên. Giá trị xuất khẩu tôm nguyên liệu của Việt Nam sang Nhật Bản trong
8 tháng đạt 25,4 tỷ Yên, cao hơn so với con số 24,9 tỷ Yên của Indonesia và 17 tỷ Yên
của Ấn Độ.

21


Giá xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường này đạt mức trung bình 1.159
Yên/kg, cao hơn so với mức 1.133 Yên của Indonesia và 939 Yên của Ấn Độ. Philipin
là nước xuất khẩu tôm với giá cao nhất sang thị trường Nhật Bản là 1.361 Yên/kg.
Cơ quan Hải quan Nhật Bản cho biết trong tháng 8/2013 nước này nhập khẩu

14.337 tấn tôm nguyên liệu đông lạnh trị giá 15,85 tỷ Yên, giảm 10% về khối lượng
nhưng tăng 24% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 8 tháng, Nhật Bản nhập khẩu 105.140 tấn tôm nguyên liệu đông
lạnh, trị giá 108,27 tỷ Yên, giảm 4% về khối lượng nhưng tăng 18% về giá trị so với
cùng kỳ năm 2012. Giá nhập khẩu trung bình đạt 1.089 Yên (11,14 USD)/kg.
Tính cả tôm chế biến các loại, Nhật Bản đã nhập khẩu tổng cộng 154.083 tấn tôm
trong 8 tháng đầu năm 2013, trị giá 156,47 tỷ Yên (1,62 tỷ USD).
XK tôm sang Nhật Bản: Dự báo sẽ tăng nhẹ 4% đạt 642 triệu USD do:
Trên thị trường EU, giá tôm chân trắng HOSO tăng 7% trong 6 tháng đầu năm 2013,
từ 9,41 USD/kg tôm cỡ 31/40 lên 10,05 USD/kg. Giá tôm sú HLSO tăng 16% từ 8,60
USD/kg tôm cỡ 16/20 lên 10 USD/kg.
- Giá tôm nguyên liệu đang tăng trở lại

22


Phần nào khuyến khích người nuôi tôm thả nuôi trở lại, giúp giảm bớt căng
thẳng về nguồn nguyên liệu cho chế biến trong nước. Tôm sú nguyên liệu cỡ 30
con/kg có giá bán 180.000 đồng/kg tăng 20% so với đầu năm. Tôm chân trắng cỡ 100
con/kg có giá bán 102.000 đồng/kg, tăng 8,5%.
2.3.4Những ưu đãi từ phía chính phủ Việt Nam
Trong những năm qua, chính phủ và các ban ngành khác luôn quan tâm đến việc
xây dựng và phát triển ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế có thế mạnh của
nước ta, phát huy lợi thế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
-Về định hướng phát triển
Theo điều 5 của luật thủy sản:
Nhà nước có chính sách bảo đảm phát triển thủy sản bền vững: khuyến khích tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy
sản, đảm bảo tái tạo nguồn lợi thủy sản và phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển,
sông, hồ, đầm...các vùng tự nhiên.

Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng dụng
công nghệ tiên tiến phát triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển
nuôi thủy sản sạch, đẩy mạnh hoạt động khuyến ngư để phục vụ có hiệu quả hoạt
động thủy sản, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, khuyến khích các tổ chức cá
nhân tham gia bảo hiểm về người và thuỷ sản trong hoạt động thủy sản.
-Về khai thác thủy sản:
Nhà nước có chính sách đồng bộ về đầu tư, đào tạo nghề, xây dựng hệ thống thông
tin liên lạc, điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, dịch vụ hậu cần...khuyến khích tổ
chức cá nhân phát triển khai thác thuỷ sản xa bê.
Tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động khai thác thủy sản xa bờ được áp dụng theo
luật khuyến khích đầu tư và ảnh hưởng các chính sách ưu đãi khác của nhà nước.
-Về nuôi trồng thuỷ sản

23


Được cơ quan chuyên ngành phổ biến đào tạo, tập huấn chuyển giao kỹ thuật mới
về nuôi trồng thuỷ sản, thông báo về tình hình môi trường dịch bệnh, thông tin về thị
trường thuỷ sản.
Nhà nước hô trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản tập
trung theo qui hoạch kế hoạch phát triển ngành thủy sản.
Nhà nước có chính sách khuyến khích nghiên cứu giống thủy sản quí hiếm, tạo
giống thủy sản quốc gia quản lí công tác xuất nhập khẩu giống thuỷ sản.
-Các hoạt động dịch vụ thuỷ sản
Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển tàu cá phù hợp với chiến lược khai
thác thủy sản xa bờ. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của cảng cá, khu neo đậu
trú bão của tàu cá, hô trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của bến cá, chợ thủy sản và
quản lí kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ngay tại các chợ đầu mối.

2.4 Thách thức.

2.4.1 Thách thức từ nguồn nguyên liệu.
Sản lượng tôm thu hoạch giảm
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, năm
2012, cả nước có 30 tỉnh, thành phố nuôi tôm nước lợ, với tổng diện tích thả nuôi là
657.523 ha, sản lượng 476.424 tấn; tăng 0,2% về diện tích nhưng giảm 3,9% sản
lượng so với năm 2011. Trong đó, nuôi tôm sú chiếm 94,1% diện tích và 62,7% sản
lượng tôm nuôi trong cả nước; tôm thẻ nuôi chiếm 5,9% diện tích, sản lượng chiếm
27,3%.
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nuôi tôm nước lợ chủ yếu của cả
nước với tổng diện tích nuôi tôm là 595.723 ha, sản lượng 358.477 tấn (chiếm 90,61%
diện tích, 75,2% sản lượng nuôi tôm cả nước); trong đó diện tích nuôi tôm sú là
579.997 ha, sản lượng 280.647 tấn (chiếm 93,6% diện tích, 94% sản lượng tôm sú cả
nước), diện tích nuôi tôm chân trắng là 15.727 ha, sản lượng 77.830 tấn (chiếm 41,2%
diện tích, 42% sản lương tôm chân trắng nuôi cả nước).
24


Tổng cục Thủy sản nhận định, dịch bệnh xảy ra trầm trọng trên diện rộng là
nguyên nhân chính khiến hiệu quả sản xuất năm 2012 bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bên
cạnh các khó khăn khác như giá thức ăn, vật tư đầu vào liên tục tăng cao, giá mua tôm
một số thời điểm thấp và rào cản thương mại về kiểm tra dư lượng Ethoxyquin ở thị
trường Nhật Bản.
Từ đầu năm đến nay, cả nước có khoảng 100.776ha diện tích tôm nước lợ bị
thiệt hại do dịch bệnh (trong đó tôm sú là 91.174ha), bao gồm các bệnh hội chứng hoại
tử gan tụy cấp tính (AHPNS), đốm trắng, đầu vàng... gây thiệt hại lớn về kinh tế cho
người nuôi và ảnh hưởng đến sản lượng, giá trị xuất khẩu.
Các địa phương bị dịch bệnh nhiều nhất là Sóc Trăng thiệt hại 23.371,5ha
(56,6% diện tích thả nuôi); Bạc Liêu 16.919ha (thiệt hại trên 50% 8.377ha, thiệt hại
dưới 50% 8.542ha); Bến Tre thiệt hại 2.237ha nuôi thâm canh, bán thâm canh (29,06%
diện tích thả nuôi); Trà Vinh thiệt hại 12.200ha (49,3% diện tích); Cà Mau diện tích

tôm nuôi công nghiệp bị bệnh 958,58ha, tăng trên 420ha so với năm 2011. Riêng Tiền
Giang, diện tích tôm nuôi thâm canh và bán thâm canh bị thiệt hại là 922,88ha, chiếm
30,63% tổng diện tích thả nuôi tôm.
2.4.2 Rào cản gia tăng từ các thị trường
Từ Thị trường Mỹ:
Ngày 29/5/2013, DOC đã ra phán quyết sơ bộ về thuế chống trợ cấp đối với
tôm NK từ 7 nước trong đó có Việt Nam với lý do ngành tôm các nước này nhận trợ
cấp từ chính phủ. Việt Nam bị áp thuế 6,07%. Ngày 13/8 tới DOC sẽ ra phán quyết
cuối cùng, tuy nhiên, tôm Việt Nam XK sang Mỹ hoàn toàn có khả năng bị áp thuế
“kép” gồm thuế CBPG và thuế chống trợ cấp. Ngày 12/8/2013, Bộ Thương mại Mỹ
(DOC) ra quyết định cuối cùng, cáo buộc tôm xuất khẩu của Việt Nam được hưởng trợ
giá làm tổn hại tới các nhà đánh bắt và chế biến tôm của Hoa Kỳ.
Theo đó, mức thuế suất chống trợ cấp mà Hoa Kỳ áp dụng với các DN xuất khẩu tôm
của Việt Nam là từ 1,15% đến 7,88%. Dù vậy, mức thuế này đã bị USITC chính thức
phản đổi.

25


×