Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.83 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt những năm qua, và đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự đang
đứng trước những thời cơ, thuận lợi rất cơ bản, song cũng phải đối mặt với
những khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình hình trên đã và đang xuất hiện
nhiều vấn đề mới cần phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ về lý luận và giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra, nhất là công tác đấu tranh phòng chống các
loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm kinh tế - chức vụ, tội phạm có tổ
chức, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm về môi trường,... Đây là nhiệm
vụ hết sức khó khăn, đòi hỏi trí tuệ của toàn lực lượng Công an nhân dân. Vì
vậy, công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán
bộ, chiến sĩ là nhiệm vụ mang tính chiến lược lâu dài, đóng vai trò nòng cốt và
có tính quyết định.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác quản
lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; lãnh đạo Bộ Công an đã đề ra các chương trình,
kế hoạch và thể chế hoá thành các quy định để chỉ đạo thực hiện tốt công tác
quản lý và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Công
an nhân dân, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu giữ vững
an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Trên cơ sở đó, đã chỉ đạo tổ
chức triển khai thực hiện tốt các yêu cầu đặt ra, đặc biệt là tập trung chỉ đạo thực
hiện các quy định, hướng dẫn của Bộ Công an về tăng cường công tác quản lý,
đào tạo, bồi dưỡng, nhất là đào tạo, bồi dưỡng về trình độ khoa học - kỹ thuật,
ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, chiến sĩ.
Thực tế, trong những năm qua, công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ trong Công an tỉnh đã đạt được những thành quả nhất định và được Đảng uỷ,
Giám đốc Công an tỉnh quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
quả đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải được nghiên cứu có biện
pháp khắc phục để thực hiện công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong Công an tỉnh ngày càng có hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm đáp ứng yêu
cầu công tác ngày càng cao trong thời gian đến.
Với ý nghĩa nêu trên, qua học tập chương trình Trung cấp lý luận chính trị


- hành chính tại Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam, tôi chọn đề tài Công tác
quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để có điều kiện nghiên cứu sâu hơn về
nhiệm vụ công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại cơ quan, đơn vị
mình, làm rõ ưu, khuyết điểm và giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý
và đào tạo, bồi dưỡng của Công an tỉnh trong giai đoạn 2016 - 2021 và những
năm tiếp theo.
Đề tài chỉ đánh giá kết quả triển khai thực hiện công tác quản lý và đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ của cơ quan trong các năm từ 2013 đến 2015. Đề tài sử
dụng phương pháp liệt kê, so sánh, diễn giải để làm rõ các vấn đề có liên quan

Trang 1


Về cấu trúc, ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài có 03 phần, cụ thể là:
- Phần thứ nhất: Lý luận chung về công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức.
- Phần thứ hai: Thực tế công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong cơ quan.
- Phần thứ ba: Bài học kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng
công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong .

Trang 2


Phần thứ nhất
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác quản lý cán bộ và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quản lý, sử dụng và đánh giá cán bộ

Xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Suốt cuộc đời, Người không ngừng chăm lo bồi dưỡng, huấn luyện đội
ngũ cán bộ cho Đảng đủ “đức” và “tài” để phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Theo Người, “cán bộ là gốc của công việc”,
do đó Người yêu cầu “phải biết rõ cán bộ” và “hiểu biết cán bộ” để có kế
hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng phù hợp. Đánh giá đúng cán bộ tức là xác
định chính xác ai tốt ai xấu, ai mạnh chỗ nào, yếu chỗ nào, khả năng hoàn thành
công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng ra sao để từ đó “tìm thấy những
nhân tài mới,... những người hủ hoá cũng lòi ra”.
Cán bộ là con người, vì vậy người cán bộ luôn chịu sự tác động của hoàn
cảnh lịch sử, xã hội nên khi đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong
mối quan hệ toàn diện, nhiều chiều, phát triển và không định kiến “một người
cán bộ khi trước có sai lầm, không phải sẽ sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay
chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không bị sai lầm? Quá khứ, hiện tại và
tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau,... lúc cách mạng lên
cao thì hăng hái, lúc cách mạng gặp khó khăn thì đâm ra hoang mang” hoặc
“nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải
xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”. Theo Người, phải lấy tiêu chuẩn để
đánh giá “cán bộ nào, phong trào ấy”. Một người cán bộ tốt phải là người có đủ
“đức” và “tài”, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đức là đạo đức cách mạng, là cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; tài là người có khả năng hành động, làm việc mang
lại hiệu quả cao. Đức và tài phải thống nhất với nhau trong đó “Đức là gốc”.
Một điều quan trọng nữa là người đánh giá cán bộ. Để đánh giá đúng, đòi
hỏi người đánh giá phải công tâm, vô tư, khách quan. Do đó, bản thân người
đánh giá cũng phải “tự sửa mình'' để "nếu không biết sự phải trái của mình thì
không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu”. Đặc biệt đánh giá cán bộ phải dựa vào
dân, lấy ý kiến của dân, đem ra tập thể bàn bạc và đi đến thống nhất. Đánh giá
đúng cán bộ để Đảng có kế hoạch huấn luyện cán bộ vì “cán bộ là tiền vốn của
Đảng”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Đạo
đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện

bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc, càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Trang 3


Sử dụng cán bộ thế nào? Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xác định đúng
yêu cầu của công việc, “công việc yêu cầu cán bộ” và khi bố trí, sử dụng phải
tránh sự thiên vị cá nhân. Dùng người là cả một khoa học và nghệ thuật, do đó,
nếu bố trí đúng sẽ phát huy mặt mạnh của cán bộ, thúc đẩy được phong trào và
còn hạn chế được mặt yếu, mặt dở của họ. Người chỉ ra những khuyết điểm khi
sử dụng cán bộ, người quản lý hay mắc phải đó là “ba ham”. “Ham dùng người
bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. Ham
dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực. Ham dùng
những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp
với mình”.
Người căn dặn năm vấn đề mà người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện khi
dùng người: “Mình phải độ lượng, vị tha thì mới có thể đối với cán bộ một cách
chí công - vô tư, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi”; “Phải có
tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa”; “Phải có
tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ
tiến bộ”; “Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ
tốt”; “Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”.
Đồng thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường
xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái
này phái kia “phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn cựa và giúp
đỡ nhau thì công việc mới chạy”. Trong quá trình sử dụng cán bộ phải thường
xuyên đánh giá để kịp thời uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm cho cán bộ và bố trí
lại cán bộ khi cần thiết.
Thực tế, trong cuộc đời làm cách mạng, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng

ta di sản quý báu đó là khoa học và nghệ thuật về đánh giá và sử dụng cán bộ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ có nội hàm hết sức phong
phú nên cần được nghiên cứu ở nhiều phương diện. Song, cần khẳng định: Đánh
giá cán bộ, sử dụng cán bộ là cả một vấn đề khoa học và nghệ thuật, và phải
luôn ghi nhớ lời Bác dạy: “Công việc thành hay bại đều từ cán bộ mà ra”.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ nói chung, về đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng là kết tinh truyền thống, tinh hoa trí tuệ
của dân tộc, là đỉnh cao của “nghệ thuật” hay “phương sách” đào luyện con
người và dùng người. Đó là tư tưởng vĩ đại đầy tính nhân văn và khoa học.
Hồ Chí Minh là người thầy, là lãnh tụ tối cao của Đảng, của cách mạng Việt
Nam, đồng thời là tấm gương sáng nhất về người cán bộ - “công bộc” của
nhân dân, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, suốt đời phấn đấu hi sinh
cho độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Do ảnh hưởng của Người,
hoặc do Người trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, cách mạng Việt Nam đã có
những đội ngũ cán bộ kế tiếp nhau, nhiều học trò của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc, tổ chức, lãnh đạo toàn
Trang 4


Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ. Hồ Chí Minh làm công tác cán bộ nói chung, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng theo phong cách rất độc đáo - “phong cách Hồ
Chí Minh”: nói, viết thì giản dị, ngắn gọn nhưng đầy đủ, sâu sắc, lời nói đi đôi
với việc làm, và làm thì kiên trì, tỉ mỉ, cụ thể, tận tình, chu đáo, đến nơi đến
chốn. Điều quan trọng hơn, là tự mình nêu gương sáng nhất về phẩm chất đạo
đức của một “Con Người” và một cán bộ “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là nhận thức về vị trí, vai trò
của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Kế thừa tinh hoa tư tưởng của
dân tộc, coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu

sắc về vị trí, vai trò của cán bộ và tầm quan trọng của công tác cán bộ. Người
cho rằng, một khi đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết
định. Người viết: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muốn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo lại cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Thực tế là, mọi chủ trương, đường lối
của Đảng và Chính phủ đều do cán bộ nghiên cứu, đề xuất, đồng thời cũng do
cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện. Đường lối của Đảng đúng hay
sai, tổ chức thực hiện thành hay không đều phụ thuộc vào cán bộ. Động lực của
mọi cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân, mà hạt nhân chủ yếu của nó là lực
lượng cán bộ. Người cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của Đảng đối với công
tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ: chăm sóc, nuôi dạy cán bộ là việc
làm hệ trọng, phải rất công phu, chu đáo, tỉ mỉ, cũng giống như người làm vườn
chăm sóc, vun trồng những cây cối quý báu, cần mẫn, tâm huyết mới có hoa
thơm, quả ngọt. Vì vậy, Đảng cần phải biết coi trọng, giữ gìn cán bộ cũ, và tích
cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mới, trọng dụng nhân tài, trọng dụng cán bộ.
Hồ Chí Minh coi đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ là rất quan trọng,
thậm chí là “công việc gốc của Đảng”, phải được tiến hành thường xuyên. Phải
xác định rõ mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với các yếu tố cơ bản: học thức,
đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác. Nhưng tùy từng giai đoạn
cách mạng, tùy vào tình hình cụ thể mà Người đặt ra mục đích, nhiệm vụ để đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Hồ Chí Minh luôn tranh thủ mọi điều kiện, hoàn cảnh, dùng mọi cách để
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, và tự mình nêu gương sáng về tự học tập, tự rèn
luyện. Người trực tiếp tuyên truyền vận động, thuyết phục, viết báo, viết sách,
mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ lý luận
đến thực tiễn, từ lời nói đến việc làm. Người đặc biệt chú trọng việc học tập và
tự học của cán bộ. Người nêu câu nói của Lênin phải “học, học nữa, học mãi”,
Người chỉ ra một cách toàn diện, tỉ mỉ về sự cần thiết phải học tập, mục đích,


Trang 5


nội dung, phương pháp học tập, những yêu cầu cụ thể đối với người học, người
dạy,…
Người nhấn mạnh: học để hành, nghĩa là để làm việc chứ không phải là để
có bằng cấp, để cho oai và để có chức này chức nọ. Việc giảng dạy, học tập, đào
tạo, huấn luyện phải gắn liền với nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm
thực tế, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”, “lý luận cùng thực hành
phải luôn luôn đi liền với nhau”.
Người cho rằng: cán bộ đảng viên phải học tập lý luận Mác - Lênin, học
tập đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời phải học văn hóa, kỹ thuật nghiệp
vụ, “làm việc gì học việc đấy”, tức là cán bộ làm ở lĩnh vực gì, phụ trách ở
ngành nghề gì đều phải học cho thành thạo công việc ở lĩnh vực đó. Để làm
được điều này, các cơ quan lãnh đạo, những người phụ trách phải xây dựng kế
hoạch huấn luyện, bồi dưỡng cụ thể từng môn, từng đối tượng. Nội dung đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thiết thực, cơ bản và toàn diện. Thời gian đào tạo dài
hay ngắn, số lượng cán bộ nhiều hay ít, phải xuất phát từ tình hình thực tế, từ
yêu cầu sử dụng cán bộ mà định ra thời gian, nội dung chương trình, sắp xếp cán
bộ giảng dạy cho phù hợp. Phải lựa chọn rất cẩn thận những người phụ trách
việc giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Những người lãnh đạo phải
tham gia giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đảng. Người còn chú ý
đến việc “đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương
xứng với yêu cầu. Không nên bủn xỉn về các khoản chi cho công tác này”.
Trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh cần
phải tạo ra môi trường “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, “có
gan phụ trách, có gan làm việc”; “khi đã giao việc cho cán bộ phải để cho cán
bộ có quyền tùy cơ ứng biến mới có thể phát huy tài năng của họ, không nên
sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác”. “Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không

được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào, kết quả thành chứng bao biện, công việc
vẫn không xong”. Người còn nói “nếu đào tạo một mớ nhát gan dễ bảo, “đập đi,
hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”. Đảng
phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều,
phó mặc, mà thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm, là giúp họ sửa
chữa khuyết điểm, là thưởng phạt phân minh,…
II. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác quản lý cán
bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1. Về công tác quản lý cán bộ
Quản lý, đánh giá, điều động, luân chuyển cán bộ là những khâu công tác
quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng ta. Mỗi khâu có nội dung, yêu cầu
riêng nhưng lại nằm trong một thể thống nhất, có mối quan hệ biện chứng với
nhau, khâu trước là tiền đề, là điều kiện cho khâu sau. Việc nắm vững những
quan điểm, nguyên tắc cơ bản của Đảng ta về công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ,
Trang 6


cũng như những quy chế, quy trình, hình thức phương pháp công tác trong
những khâu, từng bộ phận của công tác cán bộ có ý nghĩa thực tiễn rất quan
trọng. Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta xác
định: “Trong công tác cán bộ phải thể chế hoá thành các quy chế, quy trình,
nhằm bảo đảm thống nhất nhận thức và cách tiến hành các hoạt động công tác
cán bộ trong phạm vi toàn quốc”.
Quản lý cán bộ là hoạt động chủ động thường xuyên của cơ quan quản lý
cán bộ tác động có định hướng vào đội ngũ cán bộ và từng người, nhằm bồi
dưỡng, rèn luyện phát huy khả năng của cả đội ngũ và từng cán bộ, làm cho tổ
chức ngày càng vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Theo khái niệm trên thì quản lý là hoạt động có mục đích, tác động có
định hướng thường xuyên và chủ động của chủ thể quản lý đối với khách thể
quản lý: chủ thể quản lý là những tổ chức và những cá nhân có trách nhiệm làm

công tác cán bộ; chủ thể có quyền hạn cao nhất về mặt tổ chức, trong quản lý
cán bộ là Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp là Ban chấp hành Chi bộ, Đảng bộ
các cấp. Trong quy định về phân cấp quản lý cán bộ đã xác định “Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ, đồng thời phát huy trách
nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị”; những cá nhân có
trách nhiệm trong công tác quản lý cán bộ bao gồm người đứng đầu các tổ chức
đảng và thành viên trong các cơ quan lãnh đạo của tổ chức đảng, người đứng
đầu các cơ quan đơn vị, địa phương trực tiếp sử dụng đội ngũ cán bộ thuộc
quyền. Khách thể quản lý - đối tượng của công tác quản lý cán bộ là toàn thể đội
ngũ và từng người cán bộ của Đảng, Nhà nước hoạt động trong hệ thống chính
trị, trong các doanh nghiệp Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; mỗi cá nhân
người cán bộ vừa là chủ thể, vừa là khách thể của công tác quản lý cán bộ.
Tuy nhiên, giữa tổ chức và cá nhân trong mối quan hệ cùng là chủ thể
quản lý ở một cấp nào đó, sự khác biệt cơ bản giữa tổ chức và cá nhân là ở chỗ:
Tổ chức là người có quyền quyết định những nội dung quản lý, cá nhân đóng vai
trò đề xuất, kiến nghị.
Nội dung của hoạt động quản lý rất phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều
khâu công tác liên quan chặt chẽ với nhau, khâu công tác trước làm tiền đề cho
khâu công tác sau; những nội dung đó phải được thực hiện một cách chủ động,
thường xuyên nhằm những mục tiêu yêu cầu xác định. Hoạt động quản lý phải
đạt mục đích bồi dưỡng, rèn luyện, phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ và bản
thân từng cán bộ, làm cho đội ngũ cán bộ không ngừng lớn mạnh đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng.
Quy định về phân cấp công tác quản lý cán bộ: các cấp uỷ Đảng trực tiếp,
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ theo sự phân công, phân
cấp của Trung ương. Trung ương quy định rõ yêu cầu, nguyên tắc, nội dung
phân công, phân cấp việc quản lý cán bộ như sau: “Quản lý cán bộ phải kết hợp
chặt chẽ giữa ngành và lãnh thổ. Khi bổ nhiệm, đề bạt, điều động, khen thưởng,
Trang 7



kỷ luật cán bộ, cơ quan quản lý cán bộ theo ngành dọc phải tham khảo ý kiến
cấp uỷ địa phương; cấp uỷ địa phương phải tham khảo ý kiến của ngành trước
khi quyết định”. Việc phân cấp quản lý cán bộ, thực chất là xác định trách
nhiệm, quyền hạn quản lý cán bộ cho từng cấp trong hệ thống tổ chức của Đảng.
Công tác quản lý cán bộ của Đảng được tiến hành trên những nguyên tắc
cơ bản sau:
Một là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống
chính trị (Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế về
công tác cán bộ, thông qua các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ
quan nhà nước, mặt trận, đoàn thể,... để lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức
thực hiện các quyết định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ; Đảng chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị trên mọi lĩnh vực,
trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
ngành, các cấp, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên
trong hệ thống chính trị; Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho cấp uỷ
và tổ chức đảng, đồng thời kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các
ngành, các cấp).
Hai là, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi
với thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý cán bộ (Những
vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách đánh giá, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm,
luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ phải do tập thể cấp uỷ và tổ chức
đảng có thẩm quyền thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số. Trường hợp ý
kiến người đứng đầu và tập thể cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị khác nhau thì
phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Người đứng đầu cấp
uỷ, tổ chức đảng, cơ quan đơn vị có trách nhiệm đề xuất và tổ chức thực hiện
các quyết định của tập thể về cán bộ và công tác cán bộ trong lĩnh vực được
phân công phụ trách. Cá nhân đề xuất, cơ quan thẩm định, tập thể quyết định về
cán bộ phải chịu trách nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình. Cán

bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của cấp uỷ,
tổ chức đảng; cấp uỷ cấp dưới phải chấp hành quyết định của cấp uỷ cấp trên
về cán bộ và công tác cán bộ).
Hai nguyên tắc trên đảm bảo cho Đảng ta lãnh đạo và quản lý chặt chẽ đội
ngũ cán bộ công chức trong hệ thống chính trị, hai nguyên tắc trên chỉ rõ rằng
Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý cán bộ từ việc định ra đường lối chủ
trương, chính sách, tiêu chuẩn, đến việc trực tiếp ra các quyết định về đánh giá,
bố trí sử dụng, lựa chọn, luân chuyển, thực hiện các chính sách cán bộ.
Nội dung quản lý cán bộ bao gồm các việc: tuyển chọn, bố trí, phân công
công tác đối với cán bộ; thực hiện quản lý, sử dụng và phân công, phân cấp quản
lý cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nhận xét, đánh giá cán bộ; bổ
Trang 8


nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ; thực hiện chế độ, chính
sách cán bộ; kiểm tra công tác cán bộ và giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ.
2. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức là nhiệm vụ có tầm quan trọng
chiến lược, vì do đòi hỏi của công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu và
toàn diện, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xuất phát từ thực
trạng đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo và trưởng thành trong cơ chế tập
trung, bao cấp, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản lý và phong
cách làm việc còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới trong cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế; là một khâu then chốt trong công tác cán bộ
và quy hoạch cán bộ, là bộ phận trọng yếu của chiến lược cán bộ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng,...”.
Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII), Quyết định số 874-QĐ/TTg ngày
20/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức Nhà nước, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng đã
nêu ra những định hướng cơ bản như sau:

- Về mục tiêu: Xây dựng đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến cơ sở, đặc
biệt là cán bộ đứng đầu có phẩm chất và năng lực, đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữ vững độc lập tự
chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm “đảm bảo ít nhất
20% số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng” hằng năm (Quyết định số
874-QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ).
“Bảo đảm đủ nguồn cán bộ để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới khoảng 30 40% số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực
lượng vũ trang, phấn đấu đến năm 2020 số người có trình độ đại học, cao đẳng
trở lên bằng khoảng 4% dân số cả nước”, “từ sau năm 2005 trở đi mỗi cán bộ
chủ chốt từ cấp huyện trở lên dưới 45 tuổi nhất thiết phải tốt nghiệp đại học hoặc
cao đẳng về chuyên môn và phải có trình độ cao cấp về lý luận chính trị” (Nghị
quyết Trung ương 3, khoá VIII).
“Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ,... Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực,
ngành nghề,... Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế” (Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng).
- Về đối tượng đào tạo, bồi dưỡng bao gồm: Cán bộ do dân cử, do dân
bầu; cán bộ, công chức hành chính (cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể); cán bộ,

Trang 9


công chức chuyên môn, nghiệp vụ; cán bộ quản lý kinh tế và doanh nghiệp; cán
bộ xã, phường.
Đối với cán bộ, công chức làm công tác tham mưu, tổng hợp nói chung
cần trang bị những kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính

trị cơ bản theo tiêu chuẩn của từng ngạch công chức nhằm bảo đảm yêu cầu
công việc, thực thi công vụ và tạo nguồn nhân lực thường xuyên cho các cơ
quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần đào tạo, bồi dưỡng toàn diện
cả về lý luận chính trị, kiến thức quản lý, phẩm chất đạo đức; cập nhật đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; trình độ chuyên môn và năng
lực thực tiễn theo tiêu chuẩn của các chức danh cán bộ.
Đối với cán bộ chủ chốt của Đảng, chính quyền cơ sở cần từng bước nâng
cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng về lý luận chính trị, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những kiến thức cơ bản về quản lý, pháp
luật,... theo các chương trình đã được chuẩn hoá.
- Yêu cầu đạt được là nhằm làm cho cán bộ, công chức có đủ các tiêu
chuẩn quy định đối với từng ngạch công chức, từng chức danh cán bộ; đào tạo,
bồi dưỡng đúng mục tiêu, khắc phục hẫng hụt về trình độ chuyên môn, hạn chế
về năng lực quản lý, trang bị mới những kỹ năng, kiến thức cơ bản về chuyên
môn, nghiệp vụ, quản lý; thông qua thi tuyển để lựa chọn, xây dựng đội ngũ
chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực, có khả năng xây dựng các chương trình,
chính sách kinh tế - xã hội có tầm cỡ chiến lược trong phạm vi toàn quốc; mỗi
cán bộ, công chức phải có kế hoạch học tập, tinh thần và kết quả học tập là một
tiêu chuẩn để xem xét đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
- Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:
+ Trước hết là trang bị, củng cố kiến thức và năng lực cơ bản cho đội ngũ
cán bộ, công chức. Đây là định hướng cơ bản, theo đó tất cả cán bộ, công chức
dù trước đây được đào tạo trong lĩnh vực chuyên môn nào, dù cương vị công tác
nào cũng phải được đào tạo lại để đạt các tiêu chuẩn quy định đối với từng chức
danh cán bộ và từng ngạch công chức.
+ Hai là, nâng cao khả năng thích ứng của cán bộ, công chức trong sự
phát triển liên tục của tình hình, nhiệm vụ mới. Đất nước ta đang trên đà phát
triển mạnh mẽ về mọi mặt, cuộc cải cách trên các lĩnh vực kinh tế, hành chính,
tư pháp, quốc phòng, an ninh... đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ

dừng lại ở việc “khắc phục sự hẫng hụt”, mà phải hướng tới các mục tiêu phát
triển bền vững và lâu dài. Đây là một vấn đề quan trọng, phải được nhận thức
đầy đủ trong quá trình thực hiện chiến lược đào tạo cán bộ, công chức.
+ Ba là, đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ chuyên gia giỏi trên các
lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu phát triển thường xuyên của xã hội, là một định
Trang 10


hướng quan trọng, nội dung cơ bản của chiến lược đào tạo cán bộ, công chức
cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Bốn là, đào tạo để phát triển nguồn nhân lực, làm cho công tác đào tạo
cán bộ, công chức phát huy được hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ phải đi đôi với công tác quản lý, sử dụng cán bộ; đào tạo
không nhằm nâng cao trình độ, năng lực một cách chung chung mà phải gắn với
mục đích sử dụng, chỉ thực sự phát huy tác dụng nếu nó xuất phát từ yêu cầu
công việc, gắn với các tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ; thiết kế chương
trình, nội dung đào tạo phù hợp với từng đối tượng, nhu cầu thực tế để nâng cao
hiệu quả đào tạo, như Bác Hồ đã dạy “Học để làm việc, làm người, làm cán
bộ,...”.
- Về phương thức đào tạo, bồi dưỡng: Cần kết hợp giữa đào tạo, bồi
dưỡng ở trường, lớp với việc tự học của cá nhân và rèn luyện qua thực tiễn công
tác, tăng cường thực hiện chủ trương xã hội hoá học tập của Chính phủ. Sử dụng
nhiều phương pháp đào tạo thích hợp, không giảng dạy theo kiểu “hàn lầm”, mà
gắn chặt với thực tiễn, vận dụng lý thuyết để giải quyết những vấn đề thực tế
đang đặt ra, xử lý các tình huống điển hình, tạo điều kiện để người học chủ động
liên hệ, suy nghĩ, vận dụng.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức. Kế hoạch hợp tác quốc tế về đào tạo phải xuất phát từ các yêu cầu
phát triển đất nước, gắn với quy hoạch, đào tạo ở trong nước, lấy chất lượng,
hiệu quả làm thước đo chính, cụ thể là “Đào tạo, bồi dưỡng ở ngoài nước trước

hết phải nhằm vào các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn mà nước ta đang
có nhu cầu cấp bách, tập trung vào các ngành nghề trong nước chưa có khả
năng đào tạo hoặc chất lượng đào tạo còn hạn chế, ưu tiên đào tạo các cán bộ
thực hành, các chuyên gia về công nghệ, các nhà quản lý, kinh doanh, công
nhân kỹ thuật lành nghề”, “mở rộng hình thức “du học tại chỗ”, mời thầy giỏi
của nước ngoài vào nước ta giảng dạy, mở một số cơ sở đào tạo của nước ngoài
ở nước ta” (Chỉ thị số 53-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khoá VII).
- Công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải thực hiện
theo phương hướng chính trị, mục tiêu, yêu cầu của Đảng và được thể chế hoá
về mặt Nhà nước. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được
tiến hành dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn theo một kế hoạch thống nhất, gắn với quy
hoạch và yêu cầu bố trí, sử dụng, đồng thời thực hiện phân cấp quản lý cán bộ.
Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng phải được sắp xếp, kiện toàn đảm bảo tính thống
nhất. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, tiêu chuẩn hoá hệ thống văn bằng,
chứng chỉ đối với từng loại hình đào tạo. Tăng cường kiểm tra, đánh giá chất
lượng đào tạo, tránh mở trường, mở lớp tràn lan, không đúng đối tượng, không
sát yêu cầu công việc. Nắm lại trình độ, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức hằng năm.
Trang 11


III. Chủ trương, chính sách về công tác quản lý và đào tạo cán bộ
chiến sĩ giai đoạn 2010- 2015
1. Dự báo tình hình có liên quan đến công tác Công an hiện nay
Thực tiễn hiện nay và những năm tiếp theo, tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh tiếp tục có bước phát triển mới. Tuy nhiên, do tác động ảnh hưởng tình hình
kinh tế thế giới, giá cả thị trường có nhiều biến động, lạm phát ở mức cao, sẽ
ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống của đại bộ phận nhân dân, có nguy
cơ mất ổn định kinh tế - xã hội và tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định an ninh trật

tự trên địa bàn tỉnh. Tình hình trên đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề cho lực
lượng Công an tỉnh trong việc giữ vững an ninh quốc gia đảm bảo trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn tỉnh.
Theo Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XXI của đảng bộ Tỉnh, sẽ đẩy
nhanh tiến độ phát triển kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chú trọng
phát triển công nghiệp và dịch vụ, du lịch, sớm đưa Quảng Nam trở thành tỉnh
công nghiệp. Từ định hướng có tính chiến lược này sẽ mở rộng thu hút đầu tư,
phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện quy hoạch hoá trên một số vùng miền, mở
rộng khai thác du lịch và các tiềm năng kinh tế khác,... sẽ nảy sinh nhiều yếu tố
liên quan đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Các thế lực thù địch bên ngoài và bọn phản động cũ trên địa bàn tỉnh chưa
từ bỏ âm mưu “diễn biến hoà bình” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta. Trong thời gian đến chúng sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng các chiêu bài dân
chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để đẩy mạnh các hoạt động chống phá, nhằm
mục tiêu thay đổi chế độ chính trị, đưa Việt Nam vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa,
xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Số đối tượng cực đoan
trong các tôn giáo tiếp tục các hoạt động tập hợp, kích động quần chúng, gây áp
lực với chính quyền. Tình hình An ninh đô thị và An ninh nông thôn tiếp tục
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Tốc độ đô thị
hoá sẽ diễn ra nhanh chóng, kéo theo các loại tội phạm hình sự, kinh tế, ma tuý,
tội phạm có tổ chức, tội phạm về môi trường và các loại tội phạm có tính quốc tế
như khủng bố, rửa tiền, tội phạm công nghệ cao, buôn người và các loại tệ nạn
xã hội khác sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Do phát triển du lịch, khách ngoài
nước và trong nước đến địa bàn tỉnh sẽ tăng đáng kể, bên cạnh những thuận lợi
sẽ có những yếu tố bất lợi, kẻ địch và phần tử xấu lợi dụng môi trường này để
hoạt động chính trị, tội phạm. Do môi trường xã hội chi phối, yếu tố đảm bảo
việc làm cho người lao động chưa đáp ứng nên tình trạng khai thác lâm khoáng
sản trái phép sẽ tiếp tục có những thủ đoạn tinh vi hơn, tình hình tội phạm sẽ
tăng hơn.
2. Mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc xây dựng đội ngũ cán bộ và thực

hiện các nội dung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Trang 12


Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII của Đảng về chiến lược
cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết của Tỉnh uỷ
Quảng Nam về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tỉnh Quảng nam, giai đoạn
2010 - 2015 và những năm tiếp theo”; Đề án của Giám đốc Công an tỉnh về
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ giai đoạn 2010 - 2015 và những
năm tiếp theo” và Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 30/6/2011 của Tỉnh uỷ về
công tác cán bộ giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020. đề ra một
số chỉ tiêu cụ thể:
2.1. Mục tiêu
- Về chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ: Tiếp tục thực hiện đề án của
Công an tỉnh về nâng cao chất lượng cán bộ đến năm 2015 tăng số cán bộ có
trình độ sau đại học lên 50 đồng chí (1%). Nâng tỷ lệ cán bộ có trình độ Đại học
lên 50% (trong đó Đại học nghiệp vụ chiếm 38%). Nâng tỷ lệ cán bộ có trình độ
cử nhân, Cao cấp lý luận chính trị lên 10%; tỷ lệ cán bộ có trình độ Trung học
nghiệp vụ lên 60%; tỷ lệ Trung cấp chính trị lên 35%. Giảm sơ học xuống dưới
10%. Những năm sau 2015, mỗi năm cử trên 15 đồng chí đi đào tạo sau Đại học,
nâng tỷ lệ cán bộ có trình độ Đại học lên 70%; Cử nhân, Cao cấp lý luận chính
trị trên 15%; Trung cấp chính trị trên 40%.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy của Công an các cấp ngang tầm với
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; đảm bảo tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo,
chỉ huy. Phấn đấu đến năm 2018, có trên 85% cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Công an
các cấp có trình độ Đại học Công an và Trung cấp lý luận chính trị. Từ năm
2018 về sau không bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, chỉ huy đối với các đồng chí
chưa tốt nghiệp Đại học hoặc chưa đào tạo trình độ Trung cấp lý luận chính trị hành chính hoặc tương đương, có từ 60-70% Trưởng, Phó Công an xã, thị trấn
bán chuyên trách được đào tạo trình độ Trung học Công an (số còn lại được đào

tạo sơ học Công an). Phấn đấu từ năm 2018 trở đi có 100% cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy Công an các cấp hội đủ các tiêu chuẩn của chức danh lãnh đạo, chỉ huy theo
quy định (đều tốt nghiệp Đại học và có trình độ Trung cấp lý luận chính trị hành
chính trở lên).
2.2. Quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo
Trong thời gian đến cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Đề án nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lên ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, bám sát các
quan điểm chỉ đạo sau:
- Phục vụ đắc lực mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn
đấu sớm trở thành một nước công nghiệp phát triển; tiếp tục tổ chức thực hiện
thắng lợi các phương hướng, mục tiêu, giải pháp về công tác cán bộ do Đại hội
Đảng bộ Công an tỉnh lần thứ XIII đề ra, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến
sĩ Công an tỉnh có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác Công an đặt
ra trong tình hình mới.
Trang 13


- Coi trọng công tác xây dựng lực lượng, đầu tư thoả đáng cho công tác
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đủ về số lượng,
nâng cao về chất lượng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, năng lực trình độ công tác tốt, gắn
bó chặt chẽ với nhân dân.
- Phải tập trung củng cố nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Cấp uỷ
Đảng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chỉ huy các cấp, tuân thủ quy trình quy chế, tích
cực luân chuyển can bộ, chuẩn hoá các chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ.
- Gắn việc xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ với đổi
mới cơ chế chính sách, đãi ngộ thoả đáng, từng bước nâng cao đời sống cho cán
bộ, chiến sĩ.
- Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập

trung dân chủ, củng cố và phát huy vai trò của Phòng Tổ chức cán bộ và đội ngũ
làm công tác cán bộ Công an các đơn vị, địa phương (có từ 1 - 2 cán bộ chuyên
trách).

Trang 14


Phần thứ hai
THỰC TẾ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
TRONG TỪ NĂM 2009 ĐẾN 2011 VÀ NHỮNG ƯU, KHUYẾT ĐIỂM
I. Khái quát về đặc điểm, tình hình
Tháng 01/1997,
được chia tách từ
- Đà Nẵng (cũ), ngay từ ban đầu
còn nhiều khó khăn, vướng mắc: thiếu rất nhiều cán bộ, tổ chức bộ máy chưa ổn
định, trình độ cán bộ còn thấp (Đại học có 15,72%, Trung học 34,66% và sơ học
có 26,60%), bất cập, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy còn thiếu và yếu. Xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ công tác Công an và đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ
công tác Công an trong giai đoạn mới đòi hỏi chiến sĩ CAND phải có trình độ
nói chung và trình độ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, ngoại
ngữ,... đạt chuẩn để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự, phục vụ
công cuộc phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về chiến lược cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ủy- Giám
đốc Công an tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp để kiện toàn tổ
chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ gắn chặt với công tác tuyển
sinh vào các Trường Công an nhân dân, tuyển chọn cán bộ tốt nghiệp các trường
ngoài ngành vào công tác trong lực lượng Công an nhân dân và tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để nâng cao chất lượng cán bộ cả về số lượng, lẫn

chất lượng đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu của lực lượng Công an trong
tình hình mới.
Tính đến nay,
thị trấn, đồn, trạm).

có 48 đầu mối trực thuộc (không tính Công an phường,

- Trình độ nghiệp vụ: Trên Đại học có 0,13%, Cao đẳng, Đại học có
25,1%; Trung cấp Công an có 4,2%; Sơ cấp có 14,07%; Bồi dưỡng nghiệp vụ
Công an có 7,9%; chưa qua đào tạo nghiệp vụ Công an còn 8,6% (chủ yếu là số
chiến sĩ phục vụ có thời hạn sau khi hoàn thành nghĩa vụ được chuyển chuyên
nghiệp tiếp tục phục vụ lâu dài trong Công an nhân dân).
- Trình độ chính trị: Cử nhân, Cao cấp lý luận chính trị có 6,6%; Trung
cấp có 31,7%; Sơ cấp có 45,9%; Chính trị cơ sở còn 15,8%.
- Trình độ khoa học kỹ thuật: Cao đẳng, Đại học có 13,81%; Trung cấp
6,51%; Sơ học nghề và Công nhân viên có 3,65%.
II. Những căn cứ pháp lý và công tác chỉ đạo, quán triệt thực hiện
tăng cường công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong
1. Những căn cứ pháp lý thực hiện công tác quản lý và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trong CAND

Trang 15


Để công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đi vào nề nếp theo quy
định của Đảng, Nhà nước và yêu cầu công tác của lực lượng Công an nhân dân,
đã chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các chủ trương, quy định, hướng dẫn về công
tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ban hành các văn bản hướng dẫn, kế
hoạch, chủ trương thực hiện công tác cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng trong Công an
tỉnh, có thể liệt kê một số văn bản sau:

- Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an;
- Nghị quyết Trung ương 7, Khoá VII về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; Nghị quyết Trung ương 3, Khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
- Kế hoạch số 42/KH-ĐUCA(X11), ngày 29/10/2009 của Đảng uỷ Công
an Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ của lực lượng
Công an nhân dân đến năm 2020;
- Quyết định số 70/2008/QĐ-BCA(X13), ngày 21/01/2008 của Bộ trưởng
Bộ Công an về việc ban hành quy định phân công trách nhiệm giữa cha các cấp
về một số vấn đề trong công tác tổ chức cán bộ của lực lượng Công an nhân dân;
- Quyết định số 286/2000/QĐ-BCA(X13) ngày 03/4/2000 của Bộ trưởng
Bộ Công an ban hành quy chế quản lý sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân
viên Công an nhân dân;
- Quyết định số 2222/2008/QĐ-BCA, ngày 22/12/2008 của Bộ trưởng Bộ
Công an ban hành quy định về chế độ kiểm tra công tác tổ chức cán bộ và chức
trách, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ công tác của cán bộ làm công tác quản lý cán
bộ trong Công an nhân dân;
- Đề án của Giám đốc Công an tỉnh về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, chiến sĩ giai đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”;
- Kế hoạch số 03/BCA-X11(X14) của Bộ Công an về thực hiện Đề án xây
dựng xã hội học tập đến năm 2015 của Chính phủ trong Công an nhân dân;
- Chương trình hành động và kế hoạch thực hiện Nghị quyết 09 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khoá X; Nghị quyết số 07 của Đảng uỷ Công an
Trung ương về xây dựng đội ngũ trí thức trong lực lượng Công an nhân dân;
- Quyết định số 170/2008/QĐ-BCA-X11 ngày 18/02/2008 của Bộ trưởng
Bộ Công an quy định về nhiệm vụ của Công an các đơn vị, địa phương và các
trường Công an nhân dân đối với công tác giáo dục quốc phòng - an ninh;
- Quyết định số 455/2009/QĐ-BCA-X11 ngày 25/02/2009 của Bộ Công
an ban hành quy chế hoạt động của các Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng

nghiệp vụ trong Công an nhân dân;

Trang 16


- Chỉ thị 01/2010/CT-BCA-X11 ngày 15/02/2010 của Bộ trưởng Bộ Công
an về tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ,
chiến sĩ trong lực lượng Công an nhân dân;
- Thông tư số 32/2011/TT-BCA ngày 19/5/2011 của Bộ trưởng Bộ Công
an quy định về chế độ học tập, bồi dưỡng thường xuyên trong lực lượng Công
an nhân dân;
- Các quyết định, quy định, kế hoạch khác của Bộ trưởng Bộ Công an,
Giám đốc Công an tỉnh về triển khai thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân.
Việc thực hiện các chủ trương, quyết định, các văn bản quản lý, hướng
dẫn về đào tạo, bồi dưỡng trong Công an nhân dân đã có tác dụng to lớn, một
mặt thúc đẩy công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng trong Công an tỉnh phát
triển, mặt khác đã nâng cao hiệu lực quản lý cán bộ, quản lý công tác đào tạo,
bồi dưỡng trong đi vào nề nếp.
2. Tình hình quán triệt và triển khai thực hiện của Công an tỉnh
- Quán triệt Nghị quyết TW2, TW3 (khoá VIII) về định hướng phát triển
giáo dục - đào tạo và chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và các Nghị quyết, Quyết định của Đảng uỷ Công an Trung ương
và lãnh đạo Bộ Công an về công tác quản lý cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trong lực lượng Công an nhân dân; và các quyết định, quy định của Bộ
Công an về công tác quản lý cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân. đã xác định
đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của công tác quản lý và giáo dục - đào tạo cán bộ
trong giai đoạn cách mạng mới; đã đề ra kế hoạch và chỉ đạo tăng cường công
tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kế hoạch tuyển sinh, tuyển dụng cán
bộ phù hợp với điều kiện, đặc điểm công tác tại địa phương; tận dụng các loại

hình đào tạo để chọn cử cán bộ, chiến sĩ đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng tại
các trường trong và ngoài ngành Công an, đồng thời chủ động liên kết với các
trường Công an nhân dân và các cơ sở đào tạo khác để mở các lớp đào tạo, bồi
dưỡng về lý luận chính trị, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, từng bước nâng cao
trình độ mọi mặt cho cán bộ, chiến sĩ.
- Hằng năm, Giám đốc Công an tỉnh đều có kế hoạch chỉ đạo về công tác
quản lý cán bộ, chiến sĩ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đề ra chỉ tiêu, phương
pháp thực hiện cụ thể để triển khai thực hiện đầy đủ các chỉ đạo, chỉ tiêu của Bộ
Công an giao về công tác đào tạo và công tác tập huấn, bồi dưỡng tại địa
phương.
- Cấp uỷ - lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương đã có sự quan tâm,
chú trọng đúng mức đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quản lý
và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; phần lớn cán bộ, chiến sĩ thực hiện nghiêm túc các
quy định của Ngành, Điều lệnh CAND, các quy định của Giám đốc Công an
Trang 17


tỉnh về công tác cán bộ; tích cực đăng ký theo học các lớp đào tạo, bồi dưỡng để
nâng cao kiến thức, nhận thức, đáp ứng tốt yêu cầu công tác ngày càng cao.
III. Kết quả thực hiện công tác quản lý cán bộ
1. Về công tác nhận xét, đánh giá cán bộ
- Thực hiện quy chế nhận xét, đánh giá sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, công
nhân viên CAND, ban hành kèm theo Quyết định số 1302/2004/QĐ-BCA
(X13), ngày 11/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Công an. Ngày 28/6/2005, Giám đốc
ban hành văn bản số 749/PX13 chỉ đạo phổ biến, quán triệt Quy chế đến tận
CBCS Công an các đơn vị, địa phương để triển khai thực hiện. Công tác nhận
xét, đánh giá cán bộ được tổ chức thực hiện nghiêm túc, đã góp phần thực hiện
có hiệu quả công tác cán bộ của Công an tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Cấp uỷ, Lãnh đạo Công an các cấp có nhận thức rõ ràng, đầy đủ về vị trí,

vai trò, tầm quan trọng của công tác nhận xét, đánh giá cán bộ; xác định đây là
khâu trọng tâm xuyên suốt trong công tác cán bộ, nên đã thường xuyên quan
tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện có nề nếp, chặt chẽ theo đúng quy chế
của Bộ trưởng Bộ Công an. Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ cơ bản khắc
phục được những khuyết điểm trước đây; bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng
về công tác cán bộ trong thời kỳ mới; đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ,
trên cơ sở thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, công khai, dân
chủ, khách quan, lấy hiệu quả công tác làm thước đo để nhận xét, đánh giá cán
bộ, nên giữ vững được khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ ở từng đơn vị, địa
phương.
- Thông qua nhận xét, đánh giá cán bộ giúp cho cấp uỷ - lãnh đạo Công an
các cấp phân loại cán bộ được chính xác, đề ra biện pháp quản lý chặt chẽ, bố trí
sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, chiến sĩ; hầu hết cán bộ, chiến sĩ tự giác
thực hiện nghiêm túc, nhận thức đúng về những ưu, khuyết điểm, từ đó có
hướng khắc phục những khuyết điểm, tích cực rèn luyện nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống và năng lực công tác, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm
vụ.
Tuy nhiên, một số Công an đơn vị, địa phương nhận xét, đánh giá cán bộ
còn chung chung, nội dung nhận xét còn sơ sài, có trường hợp còn nể nang, dễ
dãi nên không đánh giá đầy đủ, sâu sắc cán bộ, chưa chỉ ra những khuyết điểm
cụ thể, giúp cán bộ, chiến sĩ nhận thức đúng, có hướng khắc phục, vươn lên.
Một số ít cán bộ, chiến sĩ nhận thức còn hạn chế, thực hiện chưa nghiêm túc, tự
nhận xét chưa sâu sát, chưa phát huy tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình để
xây dựng đơn vị vững mạnh.
2. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chỉ huy
- Thực hiện Quyết định 1809, ngày 07/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Công an
ban hành kèm theo Quy định về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chỉ huy
Trang 18



trong CAND. Công an tỉnh đã có các văn bản chỉ đạo Công an các đơn vị, địa
phương phổ biến, quán triệt các Quyết định của Bộ trưởng đến tận cán bộ, chiến
sĩ để tổ chức thực hiện. Công tác quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy của Công an tỉnh
đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng
và của Bộ Công an, Đề án về công tác cán bộ, góp phần chủ động tạo nguồn bổ
nhiệm cán bộ hội đủ các tiêu chuẩn của từng chức danh, đáp ứng tốt yêu cầu
thay thế, bổ sung cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của Công an các đơn vị, địa phương.
- Từ năm 2013 đến năm 2015, Công an tỉnh đã xét duyệt và báo cáo đề
nghị Bộ Công an xét duyệt đưa vào quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy Công an các
cấp đối với 800 đ/c, gồm: Giám đốc: 02; Phó Giám đốc: 06; đã bổ nhiệm: 01;
tiếp tục quy hoạch: 02. Trưởng phòng: 43; đã bổ nhiệm: 08; tiếp tục quy hoạch:
35. Trưởng CA huyện, thành phố: 27; đã bổ nhiệm: 07; tiếp tục quy hoạch: 20.
Phó trưởng phòng: 76; đã bổ nhiệm: 28; tiếp tục quy hoạch: 48. Phó trưởng CA
huyện, thành phố: 63; đã bổ nhiệm: 13; tiếp tục quy hoạch: 50. Đội trưởng: 172;
đã bổ nhiệm: 65; tiếp tục quy hoạch: 107. Phó đội trưởng: 326; đã bổ nhiệm:
108; tiếp tục quy hoạch: 218. Trưởng CA phường, thị trấn: 31; đã bổ nhiệm: 14;
tiếp tục quy hoạch: 17. Phó trưởng CA phường, thị trấn: 37; đã bổ nhiệm: 15;
tiếp tục quy hoạch: 22. Trưởng Đồn, Trạm CA: 08; đã bổ nhiệm: 02; tiếp tục
quy hoạch: 06. Phó trưởng Đồn, Trạm CA: 09; đã bổ nhiệm: 03; tiếp tục quy
hoạch: 06. Đã đưa 14 trường hợp ra khỏi quy hoạch do chuyển công tác, hết tuổi
quy hoạch và có sai phạm, giảm sút uy tín.
3. Công tác bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, chỉ huy
- Thực hiện Thông tư số: 28/2008/TT-BCA, ngày 30/10/2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an hướng dẫn về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm
cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong CAND (thay thế Quyết định số:1303/2004/QĐBCA(X13), ngày 11/11/2004 của Bộ trưởng BCA, ban hành kèm theo Quy định
về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong
CAND và Quyết định số:1304/2004/QĐ-BCA(X13), ngày 11/11/2004 của Bộ
trưởng BCA, ban hành kèm theo Quy chế điều động sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến
sỹ, công nhân viên CA và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong lực lượng
CAND). Công an tỉnh đã ban hành các văn bản chỉ đạo phổ biến, quán triệt đầy

đủ các Quyết định, Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an đến tận cán bộ, chiến sĩ,
Công an các đơn vị, địa phương để tổ chức thực hiện.
- Công tác bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, chỉ huy thời gian qua
đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần kiện toàn, củng cố, xây dựng
lực lượng Công an ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đơn vị
hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới, kết quả cụ thể:
+ Bổ nhiệm mới: 261 đ/c, gồm: Giám đốc: 01; Phó giám đốc: 02; Trưởng
phòng, Trưởng CA huyện, thành phố và tương đương: 17; Phó trưởng phòng,
Phó trưởng Công an huyện, thành phố và tương đương: 34; Đội trưởng: 65;
Trưởng Công an phường, thị trấn: 14; Trưởng Đồn, Trạm Công an 02; Phó đội
Trang 19


trưởng: 108; P.Trưởng Công an phường, thị trấn: 15; P.Trưởng Đồn, Trạm Công
an: 03.
+ Bổ nhiệm lại: 103 đồng chí, gồm: Phó Giám đốc: 02; Trưởng phòng,
Trưởng Công an huyện, thành phố và tương đương: 09; Phó trưởng phòng, Phó
trưởng Công an huyện, thành phố và tương đương: 56; Đội trưởng: 02; Trưởng
Công an phường, thị trấn: 13; Trưởng Đồn, Trạm Công an: 04; P.Trưởng Công
an phường, thị trấn: 13; Phó trưởng Đồn, Trạm Công an: 04.
+ Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, chỉ huy: đã luân chuyển để rèn luyện
công tác thực tiễn, chủ động chuẩn bị nhân sự bổ nhiệm chức vụ cao hơn đối với
19 đồng chí trong diện quy hoạch Phó Giám đốc và Trưởng phòng, cụ thể: Từ
phòng sang phòng 09 đồng chí; từ huyện về phòng: 02 đồng chí; từ phòng về
huyện: 07 đồng chí; từ phòng sang trại tạm giam: 01 đồng chí.
IV. Kết quả tổ chức triển khai thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trong từ năm 2013 đến 2015
1. Về thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Đảng uỷ, Giám đốc
luôn coi trọng công tác quy hoạch đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, xem đây là cơ sở quan trọng để chọn cử cán bộ đi đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ nhận thức, đồng thời chuẩn hoá chức danh cán bộ theo
quy định của Bộ Công an. Việc quy hoạch được Giám đốc Công an tỉnh chỉ đạo
Công an các đơn vị, địa phương thực hiện theo nhiệm kỳ cấp uỷ, hằng năm có rà
soát, bổ sung. Quy trình thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện
chặt chẽ từ cấp uỷ, lãnh đạo Công an các cấp đến việc xét duyệt của Ban
Thường vụ Đảng uỷ Công an tỉnh, do đó chất lượng quy hoạch được đảm bảo,
có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với điều kiện thực tế của .
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, đã xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ 03 lần theo nhiệm kỳ cấp uỷ: Trong giai đoạn 2003 - 2005 quy hoạch đối với
208 đồng chí, giai đoạn 2006 - 2010 quy hoạch đối với 348 đồng chí, giai đoạn
2011 - 2015 quy hoạch đối với 699 đồng chí.
Đặc biệt, để bảo bảo thực hiện tốt Kế hoạch số 42/KH-ĐUCA(X11), ngày
29/10/2009 của Đảng uỷ Công an Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ của lực lượng Công an nhân dân đến năm 2020, và tiếp tục
triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 05/12/2006 của Tỉnh uỷ, Đề
án của Giám đốc Công an tỉnh về “Nâng cao chất lượng đội ngũ CBCS giai
đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”, Công an tỉnh đã quy hoạch đào tạo,
bồi dưỡng giai đoạn 2011 - 2015 với số lượng 699 đ/c, trong đó quy hoạch đào
tạo nghiệp vụ ngành Công an đối với 430 đ/c, đào tạo chính trị 216 đồng chí,
đào tạo các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật đối với 53 đồng chí.
Nhìn chung, Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được lãnh
đạo Công an tỉnh, Công an các đơn vị, địa phương quan tâm đúng mức; công tác
rà soát, bổ sung quy hoạch được thực hiện thường xuyên; kịp thời cử cán bộ đi
Trang 20


đào tạo nghiệp vụ, chính trị để nâng cao trình độ, đáp ứng nhu cầu bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo, đưa vào diện bổ sung qui hoạch lãnh đạo, hoàn chỉnh bậc học để bổ
nhiệm Điều tra viên..., đảm bảo được tính kế thừa, phát triển của đội ngũ cán bộ,

phù hợp với quy định của Bộ Công an về chiến lược cán bộ đến năm 2020, đáp
ứng yêu cầu công tác, chiến đấu của toàn lực lượng.
2. Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên
2.1. Về việc chọn cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng
Từ năm 2013 đến nay, Công an tỉnh đã chọn cử 912 lượt cán bộ, chiến sĩ
đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tại các trường trong và ngoài ngành
Công an, trong đó:
- Đào tạo sau đại học đối với 91 đồng chí (hiện nay đã có 01 đồng chí có
trình độ Tiến sĩ);
- Đào tạo Đại học nghiệp vụ Công an đối với 279 đồng chí trước đây tốt
nghiệp Trung cấp Công an nhân dân;
- Đào tạo Trung cấp nghiệp vụ Công an đối với 322 đồng chí được
chuyển chuyên nghiệp phục vụ lâu dài trong Công an tỉnh và số cán bộ tốt
nghiệp hệ Trung cấp ngành ngoài được tuyển chọn vào Công an tỉnh;
- Đào tạo lái xe chuyên dụng (chữa cháy) đối với 15 đồng chí lái xe
chuyên nghiệp phục vụ yêu cầu công tác phòng cháy, chữa cháy;
- Bồi dưỡng chức danh lãnh đạo, chỉ huy đối với 110 đ/c lãnh đạo, chỉ huy
các cấp và quy hoạch các chức danh lãnh đạo, chỉ huy do Bộ Công an tổ chức;
- Đào tạo tiếng Lào đối với 02 đ/c để đáp ứng yêu cầu công tác phối hợp
đấu tranh, phòng, chống tội phạm với nước bạn Lào, nhất là làm công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm, tuần tra biên giới ở các huyện có đường biên
giới chung với Lào (Tây Giang, Nam Giang);
- Bồi dưỡng nghiệp vụ các chuyên đề về phân loại dấu vân tay, cấp phát
giấy chứng minh nhân dân, tác chiến điện tử, tuần tra, kiểm soát giao thông
đường bộ, đường thuỷ,... đối với 175 lượt cán bộ, chiến sĩ;
- Đào tạo lý luận chính trị đối với 549 đ/c (trong đó đào tạo hệ Cao cấp
chính trị có 49 đ/c; Trung cấp chính trị có 500 đ/c) nhằm nâng cao nhận thức về
chính trị phục vụ tốt yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy, đồng thời chuẩn hoá chức danh
lãnh đạo, chỉ huy trong Công an nhân dân;
- Đào tạo đại học ngành ngoài, chủ yếu là các chuyên ngành Đại học Luật,

Kinh tế, Ngoại ngữ, Tin học đối với 156 đ/c để đáp ứng các yêu cầu công tác
phòng, chống tội phạm kinh tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm có
liên quan đến yếu tố người nước ngoài;
- Bồi dưỡng pháp luật, nghiệp vụ dành cho cán bộ tốt nghiệp đại học, cao
đẳng ngành ngoài được tuyển vào công tác trong lực lượng Công an nhân dân
Trang 21


đối với 128 đ/c, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ Công an phục vụ yêu cầu
công tác;
- Đào tạo tiếng dân tộc thiểu số đối với 80 đ/c đang công tác tại Công an
các huyện miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và cán bộ, chiến sĩ
công tác tại một số đơn vị nghiệp vụ của Công an tỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu
công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ An ninh tổ quốc, đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
2.2. Tăng cường thực hiện công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn cho cán bộ, chiến sĩ
Từ năm 2013 đến 2015 đã tổ chức 15 lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn với
số lượng 1.081 lượt cán bộ, chiến sĩ nhằm nâng cao kỹ năng cho cán bộ, chiến sĩ
trong từng lĩnh vực cụ thể, gồm:
- Hướng dẫn khai thác bộ công cụ phần mềm tác chiến điện tử đối với 41
đồng chí làm công tác điều tra, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ tin học;
- Tập huấn chuyên đề công tác quản lý tạm giam, tạm giữ, truy nã và sử
dụng biểu mẫu tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm đối với
67 đ/c. Đào tạo cấp giấy phép lái xe ôtô hạng B2 và hạng D cho 80 đ/c. Đào tạo
cấp chứng chỉ lái xuồng máy trong lực lượng CAND đối với 62 đ/c;
- Tập huấn nghiệp vụ Cảnh sát kinh tế đối với 137 đ/c; kiến thức về quốc
phòng, an ninh đối với 63 đ/c; nghiệp vụ cơ yếu cho 37 đ/c; nghiệp vụ thông tin
liên lạc vô tuyến điện cho 34 đ/c; nghiệp vụ Cảnh sát khu vực và Công an thị
trấn chính qui cho 148 đ/c; nghiệp vụ hồ sơ An ninh cho 52 đ/c; nghiệp vụ hồ sơ

Cảnh sát cho 140 đ/c; nghiệp vụ bảo vệ môi trường cho 46 đ/c;
- Tập huấn quân sự võ thuật cho giáo viên kiêm nhiệm đối với 80 đ/c;
công tác cấp, quản lý Giấy chứng minh nhân dân cho 61 đ/c; nghiệp vụ lập căn
cước can phạm và phân loại công thức vân tay cho 33 CBCS làm công tác lập
căn cước can phạm.
3. Phối hợp với các trường trong và ngoài ngành mở các lớp đào tạo,
bồi dưỡng tại Công an tỉnh theo hình thức vừa làm, vừa học
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Công an về tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ chiến sĩ Công an,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, công tác đảm bảo an ninh trật tự trong tình hình
mới. Căn cứ chỉ tiêu đào tạo bồi dưỡng cán bộ do Bộ Công an giao từ năm 2013
đến nay; Công an tỉnh đã liên kết các Trường trong và ngoài ngành để mở lớp
theo các quy định về liên kết đào tạo vừa làm vừa học và bồi dưỡng trong lực
lượng CAND, cụ thể:
- Liên kết với Trường Đại học Cảnh sát nhân dân mở lớp Đại học Cảnh
sát nhân dân (hệ vừa làm, vừa học) chuyên ngành điều tra cho 138 học viên; và
gửi Công an các địa phương khác đào tạo đại học chuyên ngành điều tra cho 56
Trang 22


đ/c; liên kết Trường Đại học An ninh mở lớp đào tạo liên thông đại học an ninh
cho 157 học viên; liên kết Trường Trung cấp An ninh nhân dân II mở 03 lớp đào
tạo nghiệp vụ cho Trưởng Công an cấp xã (trong đó 02 lớp trung cấp cho 308
học viên và hiện nay đang đào tạo 01 lớp Sơ cấp cho 80 học viên); liên kết với
Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân II mở lớp Trung cấp Cảnh sát (hệ vừa
làm, vừa học) chuyên ngành Cảnh sát khu vực cho 155 học viên, gửi đi đào tạo
hệ trung cấp Công an tại Công an các tỉnh, thành phố khác 31 đ/c.
- Xuất phát từ nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, vừa đảm bảo
yêu cầu công tác, vừa đào tạo nâng cao trình độ, Công an tỉnh đã liên kết
Trường Ðại học An ninh nhân dân mở 01 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Công an

nhân dân cho 145 cán bộ tốt nghiệp các Trường đại học, cao đẳng ngoài ngành
được tuyển chọn vào công tác trong lực lượng Công an nhân dân (gồm Công an
các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh), liên kết Học
viện Cảnh sát nhân dân mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cấp chứng chỉ điều tra cho
112 đồng chí làm công tác điều tra và điều tra viên các cấp của Công an tỉnh,
liên kết với Ban phòng chống lụt bão tỉnh Quảng Nam mở lớp đào tạo, cấp
chứng chỉ lái xuồng máy cao tốc cho 72 học viên là cán bộ của Công an các
huyện, thành phố và các đơn vị nghiệp vụ để phục vụ các yêu cầu công tác
phòng, chống lụt bão; bồi dưỡng tin học cho 40 đồng chí là lãnh đạo, chỉ huy
Công an các đơn vị, địa phương và hàng chục lớp bồi dưỡng ngắn hạn khác tại
Công an tỉnh cho hơn 1.000 lượt người học,... góp phần đáp ứng nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng thường xuyên của Công an tỉnh và Công an các tỉnh, thành phố
lân cận.
- Đặc biệt, Công an đã mở 01 lớp đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu
số cho cán bộ chiến sĩ Công an, nhất là số đang công tác tại các huyện miền núi,
là một trong những nội dung có ý nghĩa nhằm xây dựng, phát triển phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, tạo sự gần gũi giữa cán bộ Công an với đồng
bào người dân tộc thiểu số, đồng thời góp phần giữ vững ổn định tình hình an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa bàn miền núi, vùng đồng bào thiểu
số sinh sống. Do điều kiện các dân tộc thiểu số sống trên địa bàn tỉnh chỉ có
ngôn ngữ nói mà không có ngôn ngữ viết chính thức nên công tác bồi dưỡng
tiếng dân tộc thiểu số có những khó khăn nhất định, Công an tỉnh đã liên kết với
Trung tâm giáo dục thường xuyên - Hướng nghiệp huyện Bắc Trà My đầu tư
nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn chữ viết tiếng Cadong thành giáo trình phục vụ
giảng dạy, học tập và đã mở 01 lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc Cadong cho 40 cán
bộ chiến sĩ công tác tại Công an các huyện miền núi (như Nam Trà My, Bắc Trà
My) và một số đơn vị nghiệp vụ của Công an tỉnh.
4. Xây dựng, củng cố hệ thống cơ sở huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ
trong Công an tỉnh
Trên cơ sở đề nghị của Công an tỉnh và quyết định của Bộ trưởng Bộ

Công an (Quyết ðịnh số: 616/QÐ-BCA-H11 ngày 23/02/2010 về phê duyệt dự
Trang 23


án đầu tư xây dựng trụ sở Trung tâm Huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ); Chủ
tịch UBND tỉnh Quảng Nam có quyết định số 79/UBND-KTTH ngày
08/01/2010 đồng ý hỗ trợ kinh phí xây dựng Trung tâm huấn luyện với số tiền
09 tỷ đồng. Qua đó, Công an tỉnh đã báo cáo và được Bộ Công an xét duyệt
nguồn kinh phí 30 tỷ đồng để đầu tư xây dựng Trung tâm huấn luyện và bồi
dưỡng nghiệp vụ tại khu đất do Chủ tịch UBND tỉnh cấp tại xã Tam Thanh,
thành phố Tam Kỳ, với diện tích 20.000m 2 (sát với Trường Quân sự địa
phương), nhưng do Bộ Công an chưa cấp vốn nên hiện tại việc xây dựng trụ sở
Trung tâm huấn luyện chưa được triển khai, chỉ mới xây dựng tường rào khuôn
viên khu đất và tiến hành san lấp mặt bằng chuẩn bị cho việc xây dựng vào các
năm sau.
Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để Công an tỉnh thực hiện các nhiệm vụ
đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện thường xuyên trong Công an tỉnh nhằm từng
bước nâng cao chất lượng cán bộ, đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu ngày
càng cao của lực lượng Công an nhân dân. Hiện tại, Công an tỉnh đang tận dụng
cơ sở vật chất trước đây của Phòng Cảnh sát bảo vệ, cơ động để mở các lớp đào
tạo liên kết, huấn luyện chiến sĩ mới và mở các lớp tập huấn ngắn hạn.
5. Vấn đề bố trí, sử dụng cán bộ sau khi đào tạo, bồi dưỡng
Cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ đều được bố trí công
tác chuyên môn đúng với chuyên ngành đã được đào tạo, bồi dưỡng; được xét
duyệt đưa vào qui hoạch lãnh đạo chỉ huy Công an các cấp; khi đủ điều kiện đều
được xét, đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại các chức vụ lãnh đạo chỉ huy Công an
các cấp; các chức danh tư pháp, trợ lý, chuyên viên.. theo đúng qui định của Bộ
Công an.
6. Việc quan tâm tạo điều kiện về thời gian, vật chất để khuyến khích,
động viên cán bộ

Trong những năm qua, Công an tỉnh đặc biệt chú trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; khuyến khích cán bộ, chiến sĩ tự đào tạo, nâng cao trình độ
trên các lĩnh vực khoa học,kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học...; đồng thời xây dựng qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng để chọn cử cán bộ,
chiến sĩ đi đào tạo theo qui hoạch. Riêng đối với các loại hình đào tạo tin học,
ngoại ngữ thì khuyến khích cán bộ, chiến sĩ đăng ký tự đào tạo ngoài giờ hành
chính, vào ban đêm để không ảnh hưởng đến công tác chuyên môn và đảm bảo
đủ điều kiện về tiêu chuẩn các chức danh lãnh đạo, chỉ huy, các chức danh tư
pháp (được phân cấp cho thủ trưởng công an các đơn vị, địa phương quyết định
nếu không ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị của đơn vị).
Bên cạnh đó, với mức kinh phí đào tạo bồi dưỡng thường xuyên do Bộ
cấp hằng năm công an tỉnh đã xây dựng kế hoạch chi phục vụ công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ đảm bảo theo hướng dẫn của Bộ. Nhưng do mức kinh phí Bộ
Công an cấp hằng năm còn hạn chế nên chỉ ưu tiên hỗ trợ kinh phí đào tạo đối
Trang 24


với cán bộ, chiến sĩ được cử đi đào tạo các chuyên ngành pháp y, bác sỹ, hỗ trợ
một phần học phí đối với cán bộ công tác tại các huyện miền núi đi học và chi
trả thù lao giảng dạy... cho các lớp tập huấn ngắn hạn mở tại Công an tỉnh. Đồng
thời, khuyến khích Thủ trưởng các đơn vị, địa phương tận dụng nguồn thu nhập
hợp pháp để hỗ trợ cho việc mở các lớp tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn tại Công
an tỉnh.
V. Những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ
1. Về ưu điểm
1.1. Đối với công tác quản lý cán bộ
- Công tác quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy luôn được Cấp uỷ, Lãnh đạo Công
an các cấp quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện thường xuyên, chặt chẽ, tuân thủ
nguyên tắc, quan điểm của Đảng, của Bộ Công an và của Tỉnh uỷ Quảng Nam

về tiêu chuẩn chức danh cán bộ trong thời kỳ mới, giữ vững đoàn kết thống nhất
trong nội bộ; được thực hiện theo giai đoạn 05 năm, có sơ kết, tổng kết đánh giá
kết quả thực hiện; hàng năm, cán bộ trong diện quy hoạch đều được rà soát,
nhận xét, đánh giá để đưa những trường hợp không còn đảm bảo tiêu chuẩn ra
khỏi diện và bổ sung những đồng chí trẻ, có chiều hướng phát triển tốt vào quy
hoạch theo đúng quy định.
- Bước đầu khắc phục được tình trạng khép kín, hụt hẫng cán bộ quy
hoạch và tình trạng quy hoạch thiếu tính khả thi; đã thực hiện việc chọn cán bộ ở
đơn vị khác để quy hoạch đối với những đơn vị không có nguồn cán bộ; một cán
bộ được quy hoạch nhiều chức danh khác nhau; nhờ đó hầu hết các chức danh
lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt đều có cán bộ quy hoạch thay thế, khi có nhu cầu có
thể bổ nhiệm giữ chức vụ được ngay; số lượng cán bộ quy hoạch tăng cao (thực
hiện quy hoạch từ lãnh đạo chỉ huy cấp đội trở lên); cơ cấu đội ngũ cán bộ quy
hoạch được chú ý điều chỉnh giữa các lực lượng, địa bàn, đơn vị đặc thù và có
sự quan tâm đúng mức đối với cán bộ là người thiểu số, cán bộ nữ và cán bộ
công tác ở địa bàn miền núi; chất lượng cán bộ quy hoạch đã được nâng lên rõ
rệt so với trước; đã gắn với quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo từng chức danh;
gắn với bố trí giao việc và thực hiện luân chuyển để rèn luyện khả năng công tác
thực tiễn đối với cán bộ quy hoạch.
- Công tác quy hoạch đã bám sát định hướng cơ cấu nhân sự của Công an
tỉnh và Công an các địa phương, nhân sự được giới thiệu tham gia ứng cử vào
Cấp uỷ, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 và ứng cử vào Quốc
hội khoá XIII đều trúng cử với tỷ lệ phiếu rất cao. Phần lớn các đơn vị, địa
phương khi có nhu cầu bổ sung, thay thế cán bộ lãnh đạo, chỉ huy thì đều có cán
bộ quy hoạch tại chỗ để xem xét bổ nhiệm chức vụ.
Nhìn chung, công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và luân chuyển cán bộ lãnh
đạo, chỉ huy luôn được Cấp uỷ, Lãnh đạo Công an các cấp đặc biệt quan tâm chỉ
Trang 25



×