Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

BÀI THẢO LUẬN DAN VAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.72 KB, 10 trang )

LỚP: TCCT H328
HV: NGÔ THỊ KIM HOÀNG
ĐVCT: TRƯỜNG MN RẠNG ĐÔNG 12
SBD: 033

BÀI THẢO LUẬN
MÔN DÂN VẬN
CÂU 1: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HCM: “NƯỚC TA LÀ MỘT NƯỚC DÂN CHỦ. BAO
NHIÊU LỢI ÍCH ĐỀU VÌ DÂN. BAO NGHIÊU QUYỀN HẠN ĐỀU CỦA DÂN. NÓI TÓM LẠI,
QUYỀN HÀNH VÀ LỰC LƯỢNG ĐỀU Ở NƠI DÂN”
- Bác Hồ khẳng định điều này cách đây đúng 60 năm, ngày 15.10. 1949 trong bài "Dân vận" đăng trên
báo Sự Thật số 120: " Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn
đều của dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".*
- Có thể nói, đây là điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng là điểm nhất quán trong tư duy
cũng như trong hành động của Người. Và thực tế đã chứng minh đó là nguyên nhân quyết định mọi
thành công trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Hợp lòng dân, phản ánh được ý chí và
nguyện vọng của dân thì đường lối, nghị quyết của Đảng mới đi được vào cuộc sống, biến thành sức
mạnh. Ngược lại, lúc nào những chủ trương, chính sách, kể cả giải pháp thực hiện đi ngược với lợi
ích của dân, trái với nguyện vọng và ý chí của dân thì chắc chắn thất bại.
- Cứ soi lại lịch sử Đảng, suy ngẫm về những thành bại trong sự nghiệp cách mạng từ khi có Đảng,
điều đó rõ như ban ngày. Hãy chỉ nói đến công cuộc Đổi Mới. Chính vì thuận theo ý chí của dân, biết
đúc kết trí tuệ và sáng kiến của dân, từ "khoán chui" để rồi dẫn đến "khoán mười"[tức là Nghị quyết
số 10 ngày 5.8.1988 của Bộ Chính trị về "Đổi mới quản lý nông nghiệp"] ra đời, như nắng hạn gặp
mưa rào, nông nghiệp nông thôn bật dậy, xoay chuyển hẳn cục diện, đưa đất nước thoát khỏi cuộc
khủng hoảng trầm trọng và kéo dài, đột phá bứt lên.
- Thực tế đó chứng minh lời căn dặn của Bác : "Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và
kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động
viên và tổ chức toàn dân ra thi hành"*. Dựa vào dân, làm theo lợi ích của dân, đó là nguyên tắc bất di
bất dịch trong chủ trương đường lối cũng như trong chỉ đạo thực hiện. Vì , như Bác đã chỉ rõ : "Dân
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra"*.


- Như thế là trọng dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh vô bờ của dân là
điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động của Hồ Chí Minh, nhất quán trong hành trình tư
tưởng của Hồ Chí Minh, là điều sáng rõ trong tư duy của Hồ Chí Minh. Toàn bộ quyền lực thì chỉ
thuộc về dân, dân trao quyền đó cho Nhà nước mà Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Cần lưu ý rằng "cao nhất" chứ không phải "tất cả". "Tất cả" thì chỉ có ở DÂN! Đó chính là tư tưởng
Hồ Chí Minh. Hiểu như vậy thì khái niệm DÂN trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đi liền với DÂN
CHỦ.
- Để làm rõ thêm điều này xin gợi lên đôi nét so sánh.
- Thật ra thì từ đông, tây, kim, cổ không một thể chế chính trị nào lại không nói đến dân, không tuyên
bố phải dựa vào dân. Lại xin nhắc đến một ví dụ từng đưa ra trong một bài viết trước đây : Độc tài
như Napoléon, từng ngạo ngược mà rằng : "Nhà nước là ta", nhưng rồi vẫn phải chua chát công
nhận: "Nhà nước là gì? Không là gì cả nếu không có dư luận"!
- Ngược dòng lịch sử, là nhà tư tưởng của chế độ chuyên chế phương Đông mà Mạnh Tử dám khẳng
định : "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh"[dân là quý, xã tắc đứng thứ hai, xem vua là nhẹ].
Dân là quý, vì dân như nước, chở thuyền và lật thuyền cũng là dân. "Tranh thủ được dân chúng thì
làm thiên tử. Tranh thủ được thiên tử thì làm chư hầu, tranh thủ được chư hầu thì làm đại phu" [Đắc
hồ khâu dân vi thiên tử, đắc hồ thiên tử vi chư hầu, đắc hồ chư hầu vi đại phu. Mạnh Tử. Thiên Tận
tâm hạ] . Chẳng những thế, Mạnh Tử đã chỉ ra cách tranh thủ dân : "Việc thiên hạ có cái đạo của nó :
1


-

-

-

-

-


-

-

được lòng dân, thế là được thiên hạ. Việc được dân có cái đạo của nó : được lòng dân, thế là được
dân. Việc được lòng dân có cái đạo của nó : cái gì dân muốn thì cho dân, tập trung lại với dân, cái
gì dân ghét thì chớ có thi thố ra [Mạnh Tử, thiên Li Lâu thượng]. Mạnh Tử còn dẫn lời trong Kinh
Thi "Trời nhìn qua mắt dân. Trời nghe qua tai của dân" để giảng giải cho học trò.Thậm chí, người ta
hay nhắc đến một câu nói tương truyền là của vua Nghiêu : "Một người dân đói, hãy nói ta làm cho
người ấy đói, một người dân rét, hãy nói rằng ta làm cho người ấy rét" [nhất dân cơ, viết ngã cơ chi,
nhât dân hàn, viết ngã hàn chi].
Chỉ có điều, Nho giáo xem dân là đối tượng cai trị, là đám "dân đen, con đỏ". Người dân, theo Khổng
Tử, sinh ra là để cho người ta sai khiến vì thế, dân phải noi theo bề trên mà làm. Bởi vậy "dị sử" [dễ
sai khiến], và "do chi" [noi theo] là phẩm tính cần thiết phải có của dân. Đến như Y Doãn được Mạnh
Tử tôn là bậc thánh, thì câu nói được trân trọng nhắc đến cũng là "Vua nào chẳng là vua mà mình thờ
phụng? Dân nào chẳng là dân mà mình sai khiến" [Mạnh Tử, thiên Vạn Chương hạ]. Ngay cả việc
cho người dân học đạo cũng là để dễ sai khiến : "tiểu nhân học đạo tắc dị sử dã" [Luận ngữ. Thiên
Ung dã]. Vì thế, ngu dân là nguyên lý cai trị. Khổng Tử tuyên bố rất rành rẽ : " Dân khả sử do chi,
bất khả sử tri chi" nghĩa là : dân, có thể khiến họ noi theo, không cần khiến họ biết! [Luận ngữ. Thiên
Thái Bá]. Cho nên, Nho giáo dạy người quân tử, dạy kẻ bề trên, dạy thiên tử và chư hầu phải thương
yêu dân như thương yêu con mình. Sách Trung Dung nói đến "tử thứ dân" nghĩa là coi dân như con
đẻ của mình.
Lục tìm trong sử sách của Trung Hoa cổ đại không hề có khái niệm dân chủ. Ở triều đại nhà Chu có
nói đến hai chữ "cộng hòa". Nhưng thể chế "cộng hòa" ấy chỉ bao gồm có hai người quyết định chính
sự, và hai người ấy lại là Chu Công và Triệu Công, hai người con vua, em vua và chú vua tạm thay
vua trong một thời gian mà thôi***! Xem ra, thương dân, quý dân nhưng kỵ nhất là nói đến quyền
của dân, nói đến dân chủ!
Có hiểu điều đó mới hiểu được chữ DÂN trong tư tưởng Hồ Chí Minh gắn làm một với dân chủ. Đôi
lúc, để dễ đi vào lòng người, nhất là tầng lớp sĩ phu, Bác cũng sử dụng một số mệnh đề của Nho gia,

ví như "dân lấy ăn làm trời", nhưng đấy chỉ là phương tiện chuyển tải, chứ về bản chất thì khái niệm
DÂN trong tư tưởng Hồ Chí Minh khác một trời một vực với Khổng Mạnh.
Mà khác "một trời một vực" thể hiện ở điều cốt tử là dân chủ. Điều ấy được diễn giải trong bài "Dân
Vận" mà hôm nay chúng ta nhắc lại : "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công
việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến
xã do dân tổ chức nên "*. Cho nên, nhắc đến bài viết của Bác về dân vận mà chỉ dừng lại ở lời nhắn
nhủ : "Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà
đủ" mà "Dân vận là vận động tất cả các lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người nào,
góp thành lực lượng của toàn dân để thực hành những việc nên làm...Lực lượng của dân rất
to"..."dân vận khéo thì việc gì cũng thành công".* thì rất đúng, rất cần, nhưng chưa đủ .
Đúng hơn nữa, cần hơn nữa là nhận thức sâu để thấm nhuần và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ. Do đó mà phấn đấu thực thi nội dung của dân chủ Bác đã chỉ ra trong bài viết hàm súc và
hết sức cô đọng song lại rất cụ thể, thiết thực mà hơn nửa thế kỷ nay chúng ta vẫn chưa làm được tốt.
Quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội mà nghị quyết của Đại hội X đã nêu lên chính là quá trình đưa
những điều Bác viết ra trong bài "Dân vận" 60 năm về trước.
Nói đến dân, nói đền "dân vận" mà không thực thi những điều cụ thể này thì vô nghĩa! Nói đến dân
mà không nói đến dân chủ thì rất dễ dẫm vào vết xe của nguyên lý trị đạo của thời Khổng Khâu,
Mạnh Kha đã một đi không bao giờ trở lại! Nói dại miệng, nếu để cho cái bóng ma ấy lởn vởn đâu đó
trong đời sống tinh thần của xã hội, trong đôi điều ứng xử và những hành vi bất túc, thì quả là điều
xui xẻo, cần phải khua chuông, gõ mõ để "trừ tà" nhằm làm quang quẻ bớt đi những ám ảnh nặng nề
ấy.
Cho nên, như Bác đã viết : "chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh" mà không "thật thà nhúng tay
vào việc" , không "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm"* thì "dân chủ" và quyền
của dân cũng chỉ có thể dừng lại trong Nghị quyết, mà không đi được vào cuộc sống, không chuyển
2


được thành sức mạnh để tạo ra động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước. Điều cần phải đặc
biệt lưu tâm vào lúc này là khuyến cáo rất cụ thể và rành mạch của Hồ Chí Minh : " Có người nói

rằng : mọi việc họ đều phụ trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một
nửa. Ho phụ trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà phụ
trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân
mà làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy nếu cán bộ không phụ trách trước nhân ,
tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính
phủ"*. Thì ra, việc "đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ", một tội tầy đình, có khi lại là do
không theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh!
- Đó là gì? Là : "Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết.
Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng
cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa"*. Trên quan điểm ấy, Hồ Chí Minh thẳng thắn và
nghiêm minh đòi hỏi : "...một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó,
xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế
là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính" * .
- Hiểu rõ đây là việc không dễ dàng, chính vì vậy những lời cuối cùng Người thiết tha dặn lại trước lúc
đi xa cũng vẫn là DÂN. Và vì quá hiểu được rằng, nói đến dân thì dễ, nhưng trọng dân, tổ chưc và
giáo dục để phát huy sức mạnh vô bờ của dân để thực thi dân chủ trong đời sống xã hội thì sẽ hết sức
cam go, cho nên Bác Hồ chỉ rõ đây là "cuộc chiến đấu khổng lồ" nhằm "chống lại những gì đã cũ kỹ,
hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi"*. Mà muốn giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu
khổng lồ này thì "phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại
của toàn dân"**.
- Sẽ thấm thía hơn nỗi niềm sâu lắng trong lời dặn thiết tha ấy phải trở lại với tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong bài viết năm 1947 : "Phải đưa chính trị vào giữa dân gian". Trước kia, việc gì cũng từ
"trên dội xuống".Từ nay việc gì cũng phải từ "dưới nhoi lên"*
- Tầm nhìn của Hồ Chí Minh cách đây hơn nửa thế kỷ bắt gặp được tư duy của thời đại về sự vận động
và biến đổi, trong đó cấu trúc theo chiều dọc đang phải tự biến đổi thành ngang để tạo ra nhiều giá trị
hơn, thúc đẩy những biến động sâu rộng, nhiều chiều và khó tiên đoán.
- Dũng cảm và sáng tạo nhằm thực thi tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với nội dung rất cụ thể:
"Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" chính là thuận theo xu thế chung để chuẩn bị cho những
bứt phá của dân tộc vươn lên cùng thời đại.

CÂU 2: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HCM: LỰC LƯỢNG CỦA DÂN RẤT TO. VIỆC DÂN VẬN
RẤT QUAN TRỘNG. DÂN VẬN KÉM THÌ VIỆC GÌ CŨNG KÉM. DÂN VẬN KHÉO THÌ VIỆC GÌ
CŨNG THÀNH CÔNG
- Ngày 15 tháng 10 năm 1949 trong tác phẩm “Dân vận” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: “Lực
lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì
việc gì cũng thành công”.
- Hơn 60 năm qua quán triệt tư tưởng “dân vận khéo”, “ tất cả vì lợi ích nhân dân” của Người, Đảng và
nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở, các ngành, các cấp, các tổ chức, đoàn thể nhân dân đã có những
chủ trương, chính sách phù hợp nhằm khơi dậy sức dân và chăm lo lợi ích hợp pháp và chính đáng
cho nhân dân; sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Công
cuộc đổi mới tiếp tục thực hiện đồng bộ, toàn diện trên các lĩnh vực trong đời sống xã hội, đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước đang được Đảng và Nhà nước ta đặt vào nhiệm vụ chiến lược hàng đầu với quan
điểm: “CNH,HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế…”, “lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, động viên toàn dân cần
kiệm xây dựng đất nước…tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện nâng cao đời sống nhân dân, phát
triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.
- Tuy nhiên trên thực tế trên các bình diện của đời sống xã hội, việc phát huy nguồn lực, chăm lo lợi
ích cho các tầng lớp nhân dân việc phát huy công tác dân vận và làm dân vận khéo theo tư tưởng Hồ
3


-

-

Chí Minh đang thực sự bộc lộ những hạn chế bất cập trong việc “ nói đi đôi với làm”, tác phong, thái
độ, trách nhiệm dân vận của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang là “công bộc” của nhân
dân . Quán triệt tư tưởng dân vận khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta cần điểm lại và hiểu rằng:
cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người cũng bắt đầu bằng “dân vận”. Quyết định ra đi tìm
đường cứu nước bằng một hành trang tư tưởng lớn “yêu nước, thương dân” một ý chí, một hành động

dũng cảm lớn lao “đi ra nước ngoài xem người ta làm như thế nào để về cứu dân, cứu nước”. Tư
tưởng lớn, ý chí lớn, hành động lớn đó ở Chủ tịch Hồ Chí Minh lại bắt đầu từ những suy nghĩ, lời nói,
việc làm thật gắn bó với đời thường, với bao mong ước được tự do, cơm áo, học hành của các tầng
lớp nhân dân, cộng đồng xã hội.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói và làm đều xuất phát từ mục đích, mục tiêu cao cả đó là vì “ích quốc lợi
dân”, bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu Người cũng chỉ theo đuổi một mục đích, một ham muốn đến tột
bậc “làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành”. Trong suy nghĩ Người không bao giờ tự xưng mình là Chủ tịch
nước mà chỉ là “gánh vác chức chính phủ do đồng bào ủy thác cho tôi, giống như một người lính
xông pha ngoài mặt trận…” mà cũng chỉ với tư cách là một đồng chí già viết thư trao đổi với các
đồng chí ở tỉnh nhà và cuối cùng đó là “đồng bào yêu quý” . Tư tưởng “ích quốc lợi dân”, “tất cả vì
lợi ích nhân dân” ở Người đã trở nên động lực lớn lao khơi dậy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc
đứng lên đấu tranh giành chính quyền, xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày
nay. Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn bó hài hòa, sâu đậm trong tâm hồn nhân dân, Người đã
tìm mọi cách đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Cuộc sống đời thường của Người giản dị đến
khiêm nhường, tác phong đạo đức trong sáng đến lạ thường mà mỗi một ai cũng soi thấy mình ở
trong lòng Người và chính Người cũng có trong lòng mỗi một người dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh “nói đi đôi với làm” là “dân vận khéo”, “Cần kiệm, liêm chính” là dân vận khéo; “việc gì có lợi
cho dân thì hết sức làm, việc gì hại đến dân thì hết sức tránh” làdân vận khéo; “cùng ăn, cùng ở, cùng
làm với dân” là dân vận khéo và Người đã dạy chúng ta “chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới
yêu ta, kính ta”. Dân vận khéo trái ngược với căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, quan liêu, cậy quyền, cậy
thế, tư túng bè phái, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí…
Quán triệt tư tưởng “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay không có
nghĩa là dừng lại ở những lời kêu gọi hô hào chung chung hay chạy ở vòng ngoài của cuộc sống mà
phải đi thẳng vào cuộc sống của nhân dân để vận động xóa đói giảm nghèo, xóa tập tục, tệ nạn, chống
quan liêu, xa hoa, lãng phí….Thử hỏi rằng “ai xóa ? ”, “ai chống ? ”, phải chăng đây là sự nghiệp của
toàn dân; Trong khi dân chưa được giác ngộ, chưa hiểu biết đầy đủ; nhận thức, ý thức, trách nhiệm
của các tầng lớp, đối tượng nhân dân chưa đồng bộ mà còn có độ chênh lệch vùng miền…mà cán bộ
đảng viên lại chưa hòa mình vào quần chúng để nâng quần chúng lên ngang bằng mình” hoặc cán bộ
đảng viên “tay cầm chủ trương, đầu đội chính sách” chưa thấu đáo, chưa mẫu mực hoặc thái thái độ

trách nhiệm dân vận còn kém, vì thế mà hô hào rồi lại lặng dần, hiệu quả không tương xứng. Nói đến
cuộc sống không thể không nói đến mối quan hệ giữa nhân dân với các chủ trương, chính sách của
Nhà nước; người làm chính sách đến với nhân dân phải thực sự quán triệt tư tưởng dân vận khéo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng; chính sách phải phù hợp với đối tượng, điều kiện
hoàn cảnh và khả năng thực thi cùng với sự công minh, liêm chính, trách nhiệm tận tụy của đội ngũ
cán bộ thực sự là linh hồn của dân vận khéo. Trong thời kỳ cách mạng mới quán triệt ý nghĩa, tầm
quan trọng của phong cách dân vận khéo trong tình hình hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm
nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình công tác của mình ở mọi chức trách
lĩnh vực công việc, phải luôn bắt đầu từ : “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”;
phải làm mực thước, gần gũi, sâu sát, phải tìm mọi cách giải thích cho dân hiểu rõ ràng chủ trương,
chính sách, pháp luật… Phải có cách tiếp cận và làm việc phù hợp, phải biết tin và dựa vào dân, biết
khuyến khích, động viên và tôn vinh nhân dân. Trong thực tế đời sống xã hội sôi động đang diễn ra,
mặt tích cực có nhiều nhưng những biểu hiện tiêu cực, tệ nạn… cũng không phải là ít, mà những tiêu
cực đó đang thực sự tác động, ảnh hưởng xấu đến đời sống, tư tưởng, tình cảm trong nhân dân, niềm
tin trong nhân dân đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên đang thật sự đáng quan tâm. Nhìn thẳng
4


-

-

-

vào sự thật chúng ta không khỏi băn khoăn ở nơi này, nơi khác, ở địa phương hay từng cơ quan đơn
vị, doanh nghiệp, trường học…. Việc quán triệt tư tưởng “dân vận khéo” đang dừng lại ở các cấp độ
rất khác nhau và ở mức hình thức chung chung, còn việc chỉ đạo thực hiện những việc cần làm theo
quy trình dân vận khéo chưa được quan tâm đúng mức và đồng bộ, thậm chí còn bộc lộ nhiều hạn chế
bất cập trong thái độ trách nhiệm, thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ, coi thường,
thiếu trách nhiệm trước nhân dân. Cuộc vận động, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh”, thiết nghĩ trước hết là học tập và làm theo phong cách dân vận khéo của Người. Dân là gốc
của nước, nước lấy dân làm gốc thì hãy trở về với nhân dân với phương châm: có dân là có tất cả, hãy
thực hiện đúng quy trình “dân vận khéo” bắt đầu là nắm chắc tình hình nhân dân, tuyên truyền, giác
ngộ cho dân hiểu, dân tin, biết tổ chức, tập hợp, đoàn kết nhân dân và biết hướng dẫn nhân dân hành
động, phải biết làm kiểu mẫu cho nhân dân làm theo và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta: “Trong mọi việc phải biết dựa vào quần chúng, lấy sức quần
chúng mà vượt qua khó khăn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu một luận điểm hoàn chỉnh có tính quy luật của mọi cuộc cách mạng: "Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo
thì việc gì cũng thành công".
Công tác dân vận không chỉ là một chính sách, một chiến lược, mà còn là một công tác cơ bản quan
trọng của Đảng, của cả hệ thống chính trị, là một sự nghiệp to lớn của toàn Đảng, toàn dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng tổng kết: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong".
Một nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người đã trở thành đường lối chiến lược cơ bản lâu dài, là nguồn
sức mạnh và động lực to lớn của Đảng ta và nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng nói chung.
Về tổ chức dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong ba điều kiện
không thể thiếu được của thành công cách mạng phản đế ở một nước thuộc địa. Đó là sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, sự thành lập một mặt trận dân tộc phản đế rộng rãi, khởi nghĩa vũ trang".
Quy trình làm công tác dân vận mà Bác Hồ đã tổng kết trong bài "Dân vận"(đăng trên báo Sự Thật ra
ngày 15/10/1949) được tóm tắt như sau: Giải thích cho dân hiểu-bàn bạc với dân-tổ chức toàn dân
thực hiện kiểm tra- kiểm điểm rút kinh nghiệm-phê bình khen thưởng. Quy trình này được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI quán triệt và nêu thành phương châm"Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra".
Về tác phong người cán bộ làm công tác dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cô đọng trong 12 chữ:
"Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm". Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác dân vận nhiều năm qua, Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đã có những chuyển biến
tích cực và đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng mới, công
tác dân vận cần được đẩy mạnh với nội dung phương thức phù hợp, nhằm phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà đại hội

XI của Đảng đã đề ra. Công tác dân vận không chỉ tiến hành trong Ngày Dân vận, mà phải làm
thường xuyên hàng ngày, đưa công tác rất quan trọng này thành nếp của mỗi đảng viên, cán bộ, công
chức coi đây là tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ, đảng viên, hội viên.

CÂU 3: BẰNG LÝ LUẬN THỰC TIỂN CÔNG TÁC DÂN VẬN, HÃY GIẢI THÍCH VÀ CHỨNG
MINH QUAN ĐIỂM: “DÂN CHỦ XHCN VỪA LÀ MỤC TIÊU VỪA LÀ ĐỘNG LỰC CỦA CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI, XD VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC, THỂ HIỆN MỐI QUAN HỆ GẮN BÓ GIỮA ĐẢNG,
NN VÀ ND”
- Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về dân chủ, V.I.Lê-nin đã làm sáng
tỏ con đường biện chứng của quá trình phát triển dân chủ: “Từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ
dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa” 3. Tư tưởng của
V.I.Lê-nin về sự tiêu vong của nền dân chủ xuất hiện khi tiếp cận với dân chủ từ phương diện là một
hình thức nhà nước. Bởi vậy, tất nhiên dân chủ ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà
nước, nó tiêu vong cùng với sự tiêu vong của nhà nước. Điều đó chúng ta thấy rõ trong luận điểm sau
5


-

-

-

đây của ông: “Đương nhiên, chế độ dân chủ cũng là một hình thức nhà nước và sẽ phải mất đi khi
nhà nước tiêu vong, nhưng điều đó chỉ xảy ra khi CNXH thắng lợi hoàn toàn và được củng cố, quá độ
lên chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn” 4. Cũng như Ph.Ăng-ghen, vì tiếp cận với dân chủ từ góc độ là một
hình thức nhà nước, V.I.Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh tính giai cấp của dân chủ. Việc nhấn mạnh
phương diện này của dân chủ đã đưa V.I.Lê-nin tới quan niệm về sự cần thiết phải kết hợp giữa cuộc
đấu tranh cho dân chủ với thắng lợi của CNXH. Người xem, chỉ thông qua cuộc đấu tranh đó mới
thúc đẩy sự chín muồi của những tiền đề khách quan và chủ quan cho thắng lợi của cách mạng vô

sản. Đấu tranh cho dân chủ, theo ông, không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sau khi thiết lập chính
quyền, việc phát triển triệt để nền dân chủ XHCN là tiền đề để thực hiện thắng lợi hoàn toàn và triệt
để mục tiêu của CNXH. Bởi vậy, khi làm rõ nội dung quan điểm về sự thống nhất hữu cơ giữa dân
chủ và CNXH, V.I.Lê-nin chỉ ra rằng, mối quan hệ đó phải được hiểu trên hai phương diện: một
là, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng XHCN, nếu họ không được chuẩn bị để tiến
tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; hai là,CNXH sẽ không duy trì
được thắng lợi, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ. Qua đó cho chúng ta thấy, cũng như
C.Mác, Ph.Ăng-ghen, đối với V.I.Lê-nin, dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng XHCN. Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hoá của dân chủ, dân chủ XHCN kết
tinh trong bản thân mình toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử và nảy sinh những giá
trị dân chủ mới về chất. Ở đây, dân chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan
hệ chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của con
người, tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con
người.
Quán triệt tinh thần nêu trên của Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay, Đảng ta cho
rằng, để đẩy mạnh dân chủ hoá, cần nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân, năng lực
làm chủ của nhân dân.
Để những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời, đúng đắn, theo Hồ
Chí Minh, các quyền đó phải được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luậtvà được thực hiện bằng
những thiết chế tương ứng của Nhà nước. Ở đây, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không
bài trừ và phủ định nhau; trái lại, chúng nằm trong sự thống nhất biện chứng, là điều kiện tồn tại và
phát triển của nhau. Thực tiễn cho thấy, cả vô chính phủ lẫn độc đoán, chuyên quyền đều trái với bản
chất của nền dân chủ XHCN. Vì vậy, xét về thực chất, dân chủ gắn liền với kỷ cương, có khuôn khổ,
trong vòng trật tự; không thể có dân chủ mà lại thiếu pháp luật, kỷ cương.
Đại hội X rút ra 5 bài học, trong đó bài học thứ hai: Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào
nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân,... Đại hội khẳng định: Dân chủ XHCN
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân...
Trong quá trình đổi mới, thực hiện chủ trương dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội, chúng ta có
nhiều bước tiến quan trọng trong thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Iĩnh vực kinh tế: chúng ta đã xác lập và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế; đặt nền kinh tế dưới sự
kiểm soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân. Ta đang từng bước
hình thành cơ chế kinh tế, mà ở đó mọi người lao động đều được tham gia vào sở hữu, quản lý dưới
nhiều hình thức khác nhau. Trong khi khẳng định vai trò nền tảng của chế độ công hữu, chúng ta
cũng chủ trương đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp cổ phần, làm cho nó trở thành hình thức tổ chức
kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Chúng ta đã nỗ lực kết hợp giữa
việc thực hiện nghiêm ngặt kế hoạch của Nhà nước với việc phát huy sáng kiến của doanh nghiệp,
của người lao động. Thông qua xây dựng và vận hành quy chế dân chủ trong doanh nghiệp, quyền
tham gia của người lao động vào xác định phương án sản xuất kinh doanh, điều hành doanh nghiệp,
bảo đảm các chế độ cho người lao động... có những bước tiến đáng kể. Việc thực hiện chủ trương
giao quyền chủ động cho doanh nghiệp, quyền hành của giám đốc, của cán bộ quản lý doanh nghiệp
được xác định rõ hơn. Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp để định hướng sự phát triển
6


-

-

-

-

của thị trường, làm cho thị trường thực sự là nơi cạnh tranh trên nguyên tắc giá trị, chất lượng để bảo
đảm lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Lĩnh vực chính trị, quyền làm chủ của nhân dân bao gồm: quyền được có một Nhà nước thực sự dân
chủ. Nhà nước thực sự là công cụ thực thi những quyền chính đáng của nhân dân. Nhà nước và mọi
hoạt động của nó phải đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp và thông qua các tổ chức đại diện của nhân dân.
Nhân dân có quyền bày tỏ tín nhiệm hay bất tín nhiệm với mọi cơ quan nhà nước, công chức nhà
nước. mở rộng quyền của người dân tham gia vào công việc nhà nước. Mức độ nhân dân tham gia

vào công việc nhà nước và xã hội, hiệu quả của sự tham gia đó là thước đo trình độ dân chủ về chính
trị của nhân dân , trình độ dân chủ của chế độ chính trị. bảo đảm giữ vững định hướng XHCN, giữ
vững nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo đảm cho mọi người dân quyền
tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng mọi đại biểu của dân phải được nhân dân bầu ra
một cách thực sự dân chủ; mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật... Nhìn vào thực tế, trên
cả bốn vấn đề vừa nêu, chúng ta đều có những bước tiến căn bản, góp phần nâng cao quyền làm chủ
của nhân dân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội; từ đó, tính tích cực chính trị của nhân dân có bước
tiến mới về chất.
Lĩnh vực xã hội, chúng ta có những bước tiến quan trọng trên những vấn đề cơ bản sau: quyền công
dân, quyền con người của nhân dân không chỉ được bảo đảm bằng pháp lý, thông qua việc thể chế
hoá các quyền đó thành luật, mà quan trọng hơn, nó được bảo đảm trong thực tế. Quyền được bảo vệ
về mặt xã hội của mọi công dân có nhiều chuyển biến tích cực. Sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội,
giữa các vùng của đất nước, từng bước được khắc phục. Việt Nam đã hoàn thành chỉ tiêu xoá đói
giảm nghèo trước thời hạn so với Mục tiêu thiên niên kỷ mà Liên hiệp quốc đưa ra và được nhiều
nước xem là mẫu mực. Hình thức các tổ chức ngoài nhà nước ngày một đa dạng, phong phú; số
lượng các tổ chức ngoài nhà nước phát triển mạnh; vai trò của các thiết chế ngoài nhà nước ngày một
tăng.
Trong khi khẳng định những bước tiến quan trọng về dân chủ mà chúng ta đã đạt được qua hơn 20
năm đổi mới, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, những bước tiến đó “chưa đáp ứng yêu cầu của
nhân dân và sự phát triển của đất nước”; do đó, phải “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo đó, điều cốt lõi nhất là
phải nhận thức sâu sắc hơn nữa vai trò của dân, quyền của dân. Lâu nay chúng ta mới chỉ khẳng định
quyền của dân là: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta nhấn
mạnh vai trò to lớn của lợi ích và xem lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Theo đó, nhân dân cần
biết, cần bàn, cần làm, cần kiểm tra để họ được thụ hưởng mọi lợi ích của sự phát triển. Do vậy, theo
chúng tôi, cần bổ sung thêm một quyền quan trọng của dân: Quyền được thụ hưởng mọi thành quả
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thành quả đổi mới tư duy của Đảng đã đưa đến khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Xem xét

thành quả đổi mới tư duy từ giác độ phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, cho thấy: khi đạt
được sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc là lúc Đảng
mạnh nhất, cho phép phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Điều đó khẳng định rằng, nhân dân ta, dân
tộc ta có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ Đảng của mình. Thể hiện tinh thần đó, Đại hội X của
Đảng chỉ ra một nhiệm vụ quan trọng là: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán
bộ”5. Theo đó, hiệu quả công tác xây dựng Đảng, cần phải được thể hiện cả ở bước tiến trong việc
dân chủ hoá, không chỉ ở sinh hoạt nội bộ Đảng, mà còn là dân chủ hoá quan hệ giữa Đảng với dân.
Đạt tới đỉnh cao của dân chủ hoá trên cả hai quan hệ đó, Đảng sẽ thực sự là biểu tượng về dân chủ.
Cho nên, khi đề cập tới công tác xây dựng Đảng, cần khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh dân chủ
hoá sinh hoạt nội bộ Đảng kết hợp với dân chủ hoá mối quan hệ giữa Đảng và dân.
7


-

Ở nước ta hiện nay, Nhà nước là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân làm chủ
bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước là cơ chế có hiệu quả nhất. Xét về thực chất, Nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mọi quyền lực nhà nước đều do nhân dân uỷ quyền
cho nó. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Nhà nước
đó phải hoạt động theo nguyên tắc: “Việc gì có lợi cho Dân phải hết sức làm; việc gì có hại cho Dân
phải hết sức tránh”. Quán triệt tinh thần đó, khi đề cập phương hướng đổi mới Nhà nước, cần khẳng
định một phương hướng cơ bản là:“Đẩy mạnh dân chủ hoá Nhà nước và dân chủ hoá mối quan hệ
giữa Nhà nước và nhân dân”.Thực hiện tốt điều đó, đồng thời cũng góp phần tích cực vào việc hoàn
thiện nền dân chủ XHCN của chế độ ta.
CÂU 4: TÓM TẮT PHÂN TÍCH 4 QUAN ĐIỂM NQTW8B KHOÁ VI. Ý NGHĨA CỦA 4 QUAN
ĐIỂM TRÊN Đ/V SỰ NGHIỆP DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TA:
- Một trong sáu nội dung quan trọng được đưa ra thảo luận và quyết định trong Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI là vấn đề đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác dân vận trong tình hình mới.
- Lịch sử công tác dân vận của Đảng trong suốt 83 năm qua cho thấy có nhiều nghịquyết, văn kiện của
Đảng về vấn đề này đã ghi dấu ấn rất quan trọng. Đặc biệt, vào ngày 15/10/1949, với bút danh X.Y.Z,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo“Dân vận” nổi tiếng mà từ đó đến nay, bài báo này luôn luôn
mang tính thời sựnóng hổi và trở thành “cẩm nang” cho những người làm công tác vận động quần
chúng.
Trước tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Nghị quyết “Về đổi mới công tác vận động quần chúng
của Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân” (Nghị quyết này được gọi tắt là Nghị
quyết Trungương 8B).
Nghị quyết Trung ương 8B đã đề ra 4 quan điểm chỉ đạo rất đúng dắn, phù hợp cho cả quá trình cách
mạng nước từ đó đến nay. Sau đó, từng nhiệm kỳ Trung ương Đảng tiếp theo đều đã ban hành Nghị
quyết, Chỉ thị rất quan trọng như Chỉ thị 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở; Nghị quyết “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”; “Về công tác dân tộc”; “Về công tác tôn giáo”; các nghịquyết về tiếp tục
xây dựng giai cấp công nhân; về đội ngũ trí thức; về công tác thanh niên; về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn...
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, nhất là khi niềm tin của quần chúng, nhân
dân đối với sự lãnh đạo của tổ chức đảng; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân
bị giảm sút, có lúc có nơi rất nghiêm trọng, công tác lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận bộc
lộ những hạn chế, yếu kém.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống; mang nặng bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, chuyên quyền độc đoán, ức hiếp
nhân dân, tham ô, hối lộ, sống xa hoa, lãng phí. Các đoàn thể quần chúng ở nhiều nơi cũng bị hành
chính hóa, nội dung, hình thức và phương pháp tập hợp nhân dân chậm đổi mới; không ít tổ chức cơ
sở hoạt động thất thường, hình thức, nhiều đoàn viên, hội viên không tha thiết gắn bó vớiđoàn thể của
mình.
Để tận dụng thời cơ, vận hội, vượt qua những khó khăn, thách thức, phát huy mọi nguồn lực xã hội
và tiềm năng to lớn trong nhân dân, để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” thì Đảng phảiđổi mới, tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác vận

động quần chúng, trong đó tập trung vào một số nội dung chính sau đây:
1. Thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
trong toàn xã hội về vị trí, vai trò của công tác dân vận trong tình hình mới; nâng cao chất lượng
tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nắm vững, nhất trí với
mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận. Đổi mới, tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, động viên
các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực, phát huy chủ nghĩa
8


yêu nước, năng lực thực thi dân chủ, tinh thần sáng tạo, tự lực, tự cường, tạo ra phong trào hành động
cách mạng của toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Tăng cường
công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đấu tranh phản bác lại các luận điệu xuyên tạc, chống
đối, lôi kéo, kích động quần chúng của các thếlực thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận của các cấp chính quyền, các cơ quan
nhà nước. Ngày nay, khi chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân thì công tác dân vận của các cấp chính quyền và các cơ quan nhà nước
có vị trí cực kỳ quan trọng. Các cơ quan này vừa phải điều hành công việc theo chức năng quản lý
nhà nước đồng thời làm tốt công tác dân vận theo đúng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tất cả
cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ
trách dân vận.”
Mọi cán bộ, đảng viên đều phải có trách nhiệm nâng cao, sự hiểu biết về công tác vận động nhân dân.
Nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế độ chính sách về các quyền và
nghĩa vụ của công dân, nhất là những vấn đề về đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng. Các cơ quan
nhà nước, đặc biệt là những ngành, những đơn vị có quan hệ trực tiếp với dân, làm tốt việc công khai
các quyđịnh, các tiêu chuẩn cụ thể về trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, nhân viên
chính quyền, công bố để nhân dân biết và kiểm tra việc thực hiện. Tổ chức tốt việc tiếp dân và giải
quyết kịp thời những đơn thư khiếu tố của dân; cán bộ, đảng viên cơ quan chính quyền các cấp, nhất
là người đứng đầu thực hiệnđối thoại với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Các tổ chức, cấp ủy đảng lãnh đạo thực hiện nghiêm túc việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu

tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
3. Tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới nội dung, phương thức trong phong trào thiđua yêu nước trong các
tầng lớp nhân dân. Nhà nước bổ sung, hoàn chỉnh các chính sách khuyến khích phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tái cơ cấu nền kinh
tế, làm cho tình hình kinh tế chuyển biến ngày càng tốt hơn, đời sống nhân dân và tình hình xã hội
ngày càng ổn định.
Chính quyền các cấp quan tâm, đầu tư và cùng với nhân dân huy động các nguồn lực trong xã hội
phát triển các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, khoa học, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số nơi có nhiều khó khăn. Bằng những hành động thiết thực, chăm sóc đời
sống người về hưu, gia đình có công với cách mạng, thương binh và gia đình liệt sỹ. Phát huy vai trò
của các đoàn thể quần chúng và nhân dân tham gia đấu tranh chống tiêu cực, nhất là đối với tệ nạn
tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Gắn chặt cuộc đấu tranh chống tiêu cực trong Đảng, trong bộ máy
Nhà nước và các đoàn thểvới cuộc đấu tranh chống tiêu cực ngoài xã hội, chống tội phạm, giữ gìn an
ninh, trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng và thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội; thực hiện quy định về việc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp thường xuyên tiếp xúc, đối thoại với nhân
dân, lắng nghe ý kiến nhân dân, giải quyết hoặc phản ánh lên cấp trên và cơ quan chức năng giải
quyết kịp thời những yêu cầu chính đáng của nhân dân. Tăng cường lãnhđạo công tác thông tin, báo
chí, xuất bản kịp thời biểu dương những nhân tố mới, những kinh nghiệm tốt, những tấm gương sáng;
mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh cuộcđấu tranh chống tiêu cực, phê phán, đấu tranh kiên quyết với những
quan điểm sai trái, lệch lạc, những luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch. Gắn với
nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống
suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
5. Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân. Xác định rõ hơn chức năng nhiệm vụ, giải quyết đúngđắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý nhân dân làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội, hội
quần chúng. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh
vực củađời sống xã hội; cổ vũ các mô hình, điển hình tiên tiến; phát huy vai trò người tiêu biểu trong
cộng đồng dân cư; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân

9


dân.
Đảng lãnh đạo xây dựng cơ chế, quy định để phát huy quyền chủ động của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể trong vận động nhân dân, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng, hướng các hoạt
động về cơ sở; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác sơ kết, tổng kết về nội dung và phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, định kỳ cấp ủy đảng các cấp làm
việc, nghe báo cáo tình hình và định hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thểnhân dân; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chỉthị, nghị quyết của
Đảng về công tác vận động quần chúng, công tác mặt trận và các đoàn thể; tiếp tục đưa nội dung lãnh
đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân vững mạnh thành một trong
những tiêu chuẩn đánh giá mứcđộ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội làm nòng cốt trong việc phát huy dân chủ,
năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm công dân trong thực hiện giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
6. Quan tâm hơn nữa việc lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy đội ngũ cán bộ làm tham mưu
và trực tiếp làm công tác dân vận. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, thu hút cán bộ làm
dân vận. Kiện toàn ban dân vận các cấp đủ về số lượng, cơ cấu, chất lượng; lựa chọn bố trí cán bộ có
đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác, đủ sức làm tham mưu cho cấp ủy về công tác
vận động quần chúng. Tránh tình trạng bố trí những cán bộ năng lực kém, sắpđến tuổi nghỉ hưu hoặc
bị kỷ luật về công tác tại ban dân vận. Chỉ đạo các trường đào tạo cán bộ của Đảng, các trung tâm
chính trị xây dựng, hoàn thiện tài liệu học tập về chuyên ngành công tác dân vận; nâng cấp đào tạo
đại học và sau đại học chuyên ngành dân vận./.

10




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×