Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VND NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.03 KB, 17 trang )

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VND NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG
MẠI TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
PGS.,TS. Nguyễn Văn Tiến
Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 là sự phát triển và lan
tỏa của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 và còn tiếp tục diễn
ra trong năm 2009. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tiêu cực đến
nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng
kinh tế chậm lại. Mặc dù Việt Nam đã chuyển hướng chính sách để đối phó
với khủng hoảng, tuy độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá cao nhưng còn
chịu tác động bất lợi trên cả 3 bình diện: thương mại, đầu tư và tài chính nên
sẽ đứng trước nhiều thách thức. Năm 2008, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đổ
vào Việt Nam chiếm 30% tổng đầu tư, đầu tư gián tiếp qua các kênh trái
phiếu chính phủ, thị trường chứng khoán chiếm tỉ trọng khá cao (39% trái
phiếu và 25% tổng mức vốn hoá của thị trường), nhưng đã có dấu hiệu suy
giảm do khủng hoảng. Báo động đối với Việt Nam là thâm hụt cán cân
thương mại đã ở mức đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với quốc
gia láng giềng Trung Quốc. Trong tổng mức thâm hụt 17 tỉ USD hàng hoá
của Việt Nam với thế giới thì riêng thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới 12 tỉ
USD, tiếp đến là thâm hụt thương mại với các đối thủ cạnh tranh là các nước
ASEAN và Hàn Quốc, chỉ thặng dư với Hoa Kỳ và EU. Như vậy, muốn duy
trì tăng trưởng, Việt Nam cần kiểm soát các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm
phát huy hiệu quả của các chính sách này đến các chỉ tiêu kinh tế, đối phó
với cuộc khủng hoảng. Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu mối
quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại với mục đích đưa ra các giải pháp
cho chính sách tỷ giá VND nhằm cải thiện cán cân thương mại trong thời kỳ
khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trước tiên, bài viết nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc sử
dụng chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại để rút ra được
những bài học kinh nghiệm và từ đó đề xuất được các giải pháp khả thi cho
Việt Nam.
1. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG CHÍNH


SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Từ năm 1997 đến ngày 21/7/2005, đồng CNY được neo cố định với
USD tại mức tỷ giá 8,28 CNY/USD. Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh
nghiệp của Mỹ (NAM), so với giá trị thực của nó, CNY đang giảm đi mất
40% và chính điều này đã tạo ra một môi trường kinh doanh không công
bằng, trong đó, hàng nhập khẩu từ Mỹ trở nên quá đắt và mất đi tính cạnh


tranh trên thị trường. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho thấy
đồng tiền CNY đang bị Chính phủ nước này “dìm giá” chính là sự tăng lên
đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là khá
thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm” thu
hút lượng lớn ngoại tệ (Bảng 1). Các chuyên gia công nghiệp Hoa Kỳ nói
rằng sở dĩ có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về
đồng tiền, được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so
với USD, như vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn.
Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung
Quốc đã gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã
phải điều chỉnh tỷ giá vào năm 2005.
Bảng 1: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ của
Trung Quốc 2002-2007

(Nguồn:
Indicators/2008/pdf/Prc.pdf )

/>
Chế độ tỷ giá của Trung Quốc từ 7/2005 đến nay: Năm 2005, Ngân
hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá.
Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các

thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố
này. Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, NHTW Trung Quốc
cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%.
Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của NHTW tại
Thượng Hải, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11
đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật
và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái
cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều.


Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa
CNY, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ
2%/ năm (B - Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl).
Có thể thấy rằng, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế
độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl Regime) - là chế độ tỷ giá dựa vào
rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì)1. So với lý
thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm.
Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương
danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn
duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn
hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của
cán cân thương mại của Trung Quốc2
1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp
nghèo nhất thế giới. Cho đến năm 1962, khi bắt đầu bước vào thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 -1966), GDP bình quân
đầu người là 87 USD đã phản ánh rằng Hàn Quốc vẫn chưa thể thoát khỏi
cảnh nghèo nàn, lạc hậu sau gần thập kỷ nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế đã
bị tàn phá nặng nề bởi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tiếp đó là
cuộc chiến Nam - Bắc Triều Tiên.

Thế nhưng chỉ hơn 25 năm sau, vào cuối thập kỷ 80, Hàn Quốc đã đạt
được những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên
sông Hàn”. Đó là một quá trình phi thường đã nhanh chóng giúp cải tạo nền
kinh tế Hàn Quốc, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của đất nước. Để
có được một Hàn Quốc như ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng
hàng loạt các biện pháp nhằm quản lý, điều tiết nền kinh tế, trong đó đặt
trọng tâm là hướng về xuất khẩu.
Chính sách hướng về xuất khẩu: Trong những năm 60, nền kinh tế
Hàn Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn lớn; không có thị trường
trong nước cho các loại hàng hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nghèo
nàn. Để đối phó với vấn đề này, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính
sách hướng về xuất khẩu với 2 bước đi quan trọng đó là khuyến khích và
tăng cường tiết kiệm thông qua việc tăng lãi suất, cải thiện thâm hụt thương
mại bằng việc phá giá đồng nội tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã
thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu như giảm thuế nhập
khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu một cách hợp lý, ưu
đãi về tài chính cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, điều chỉnh chế độ tỷ
giá linh hoạt, mục tiêu xuất khẩu được cụ thể hóa bởi Chính phủ và khen
thưởng, động viên từ Tổng thống Hàn Quốc.


Sau hàng loạt những chính sách của Chính phủ, kết quả đạt được là
hết sức khả quan. Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia có tốc độ
phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 41
triệu USD năm 1960 lên 1.048 triệu USD vào năm 1970.
Thành công từ chính sách tỷ giá: Để có được những kết quả trên, Hàn
Quốc đã khá thành công trong việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua chiến lược hướng
vào xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế. Từ thực tiễn thành công của Hàn Quốc, một số kinh nghiệm được

rút ra như sau:
Một là, Hàn Quốc là tấm gương kiên nhẫn theo đuổi chính sách phá
giá tiền tệ để tăng trưởng xuất khẩu. Đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều
vào nhập khẩu các mặt hàng máy móc, nguyên liệu, thiết bị và công nghệ
cũng như vay nợ nước ngoài để đầu tư thì việc phá giá tiền tệ có thể làm
giảm tăng trưởng do tác động làm cản trở đầu tư lớn hơn khuyến khích xuất
khẩu. Tuy nhiên, sự khôn ngoan của Hàn Quốc chính là việc mở rộng xuất
khẩu ở quy mô lớn kết hợp với các nhân tố khác làm giảm chi phí nhập khẩu
và gánh nặng nợ. Thực tế cho thấy, sau khi phá giá mạnh đồng Won, Hàn
Quốc đã tăng cường năng lực sản xuất và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nên
đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao.
Hai là, tỷ giá KRW/USD được điều chỉnh theo hướng giảm giá trị
đồng nội tệ trong một thời gian dài song song với quá trình Hàn Quốc
chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang thả nổi. Nghệ thuật phá giá tiền tệ ở
Hàn Quốc chính là nhờ sử dụng linh hoạt các yếu tố thị trường và chỉ điều
chỉnh khi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã rất chủ động tạo ra các điều
kiện thuận lợi để đảm bảo tỷ giá KRW/USD không cản trở tới hoạt động
xuất khẩu: khi USD lên giá, chính phủ để thị trường tự điều tiết, còn khi
USD giảm giá, Chính phủ đã tăng cung đồng KRW nhằm có lợi cho xuất
khẩu.
Ba là, sau việc phá giá tiền tệ, Hàn Quốc đã có biện pháp thích hợp để
loại bỏ khả năng giảm giá kéo dài của nội tệ và sau đó củng cố các nhân tố
thị trường khác giúp cho tỷ giá duy trì ở mức độ ổn định. Sự ổn định của tỷ
giá KRW/USD đạt được là do Chính phủ Hàn Quốc đã duy trì được một
biên độ dao động ổn định suốt trong thời gian dài. Điều này thực sự có lợi
cho nhà đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Vì vậy,
Hàn Quốc là một trong số ít nước vực dậy sau khủng hoảng tài chính tiền tệ
Đông Nam Á nhanh nhất và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, ứng
dụng công nghệ hiện đại nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ mục tiêu
hướng về xuất khẩu.



Bốn là, không nên neo giữ đồng bản tệ với một ngoại tệ mạnh. Kinh
nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á cho thấy, một trong
những nguyên nhân quan trong gây ra khủng hoảng trong giai đoạn đó là các
nước trong khu vực neo giữ tỷ giá đồng bản tệ với ngoại tệ duy nhất là USD.
Sự ổn định này chỉ mang tính nhất thời và có ảnh hưởng tích cực tới tâm lý
nhà đầu tư. Nhà đầu tư tin tưởng vào sự ổn định tiền tệ và nền kinh tế khi
đồng USD mất giá. Tuy nhiên, khi USD lên giá mạnh đã làm yếu đi khả
năng cạnh tranh của các nước có đồng tiền gắn chặt với USD.
1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trước khủng hoảng tài chính năm 1997, nền kinh tế Thái Lan đã trải
qua nhiều năm tăng trưởng kinh tế nhanh do có ngành công nghiệp chế tạo
phát triển giúp kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ 9,4% từ năm 1985
đến năm 1996. Có được những thành tựu đó là nhờ Thái Lan đã tận dụng
được nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào và rẻ, thực hiện chính
sách mở cửa kinh tế và phát triển mạnh theo hướng phục vụ xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan trong những năm gần đây chủ yếu
tăng được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan từ năm 19962007
ĐVT: Triệu USD

(Nguồn: />Indicators/2008/pdf/tha.pdf)
Có được những thành quả trên, Chính phủ Thái Lan đã có những nỗ
lực cải thiện cán cân thương mại như: cải thiện môi trường kinh tế, cải thiện
cơ cấu chính sách thương mại và phá giá mạnh đồng Baht và tác động đến
cán cân thanh toán quốc tế của Thái Lan. Để tập trung, bài viết sẽ phân tích
chủ yếu vào công cụ phá giá mạnh đồng Baht và tác động đến cán cân thanh
toán quốc tế. Do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên
trong giai đoạn trước khủng hoảng, các nước Đông Á neo giữ tỷ giá cố định

so với USD. Với Thái Lan, việc thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định
so với đồng USD đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht


trong khi giá trị của USD với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy
tỷ giá chính thức giữa Baht với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết
ngang giá sức mua thì đồng Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD
nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả
nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực của nó.
Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể,
tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Có nhiều
nguyên nhân làm giảm xuất khẩu của Thái Lan trong giai đoạn này bao gồm:
tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm, tỷ giá hối đoái thực của các nước
Đông Á lên giá, lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là
hàng điện tử bị suy giảm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm
1996 lên đến 7,9%GDP. Mức thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng
vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào.
Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát
các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào
Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào
Thái Lan, trong đó,vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các tổ chức tài
chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản. Bên cạnh đó, tỷ giá
được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với
thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng
tăng.
Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo
dài, mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối,
nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan
đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng
với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau

khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục
giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá
này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung,
nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập
siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng
dư là 11,973 tỷ USD năm 2007.
Ngày 2/7/1997, Thái Lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối
trong nỗ lực bảo vệ đồng Baht tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn và
buộc phải thả nổi đồng Baht. Đồng tiền này ngay lập tức giảm giá mạnh.
Phản ứng dây chuyền đã lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các
nước có những triệu chứng kinh tế tương tự như Indonesia, Malaysia và Hàn
Quốc.
Từ cuối năm 1998 - 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó
tăng nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06


năm 2004 lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm
giá. Mặc dù luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận
để tỷ giá của nội tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát
trung bình là 3% từ năm 2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức
được rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với
USD là chính sách có lợi hơn.
1.4. Bài học sử dụng chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân
thương mại đối với Việt Nam
Qua nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc
và Thái Lan, một số bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam như sau:
- Cần có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trong cải
cách. Trong chính sách tỷ giá hối đoái, việc điều chỉnh tỷ giá có ảnh hưởng
đến giá cả trong nước và quốc tế, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết
trong thay đổi chính sách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa. Tuy

nhiên, không có thay đổi trong chính sách thương mại thì việc thay đổi tỷ giá
sẽ vận hành không có hiệu quả. Trong sự phối hợp với các lĩnh vực khác của
nền kinh tế, việc điều chỉnh theo hướng thay đổi tỷ giá không mang tính chất
cứng nhắc mà được xem như là phù hợp với các giai đoạn phát triển khác
nhau của nền kinh tế.
- Phải duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn. Một chính sách tỷ giá
hối đoái được coi là phù hợp bao gồm:
+ Lựa chọn thời điểm phá giá đồng nội tệ phù hợp. Thành công trong
việc phá giá tiền tệ thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức điều chỉnh tỷ
giá hối đoái. Nhờ sự nhạy bén của các công cụ trong chính sách tỷ giá mà
Trung Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong nước và cân bằng tài chính
tiền tệ với bên ngoài. Trong khi các chính sách kinh tế khác như chính sách
tiền tệ bị vô hiệu hóa để giảm lạm phát thì chính sách tỷ giá vẫn đạt được
mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Duy trì tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển theo hướng nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy
việc duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý CNY đã tạo
ra sự phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng những biện pháp hỗ trợ
khôn khéo để giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm bảo cung ứng ngoại tệ
được duy trì thường xuyên, liên tục đảm bảo cho sự thành công trong việc
điều hành chính sách tỷ giá. Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái phải luôn
hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất khẩu, từ đó cải thiện
cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững.


+ Không nên neo giữ quá lâu đồng bản tệ với một đồng ngoại tệ
mạnh. Tỷ giá cần được xác lập trên cơ sở thiết lập một rổ ngoại tệ để tránh
được cú sốc trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính

tiền tệ năm 1997 cho thấy một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng
hoảng là trong giai đoạn đó, các nước trong khu vực về cơ bản thực hiện chủ
trương ổn định tỷ giá so với USD. Ngoài ra, cần thận trọng trong việc điều
hành chính sách tiền tệ trước những tác động bên ngoài. Khủng hoảng tài
chính tiền tệ năm 1997 cho thấy chính sự hoang mang của các nhà đầu tư đã
dẫn đến sự rút vốn ồ ạt, gây nên sự sụp đổ trong hệ thống tài chính ở các
nước này.
2. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ cán cân
thương mại VIỆT NAM
2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa tỷ giá thực song phương (RER)
và cán cân thương mại:
Để giải quyết hạn chế của tỷ giá danh nghĩa song phương (NER) là
không phản ánh được tương quan sức mua giữa VND và USD, ta đi tìm mối
quan hệ giữa phá giá và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam
thông qua chỉ số tỷ giá thực eR và tỷ lệ giá trị xuất khẩu /giá trị nhập
khẩu3.
Đồ thị 2 : Mối quan hệ giữa RER và cán cân thương mại

Nguồn: />Indicator/2008/Pdf/vie:pdf )
Theo lý thuyết, khi chỉ số tỷ giá thực eR>1, nghĩa là tỷ giá thực tăng,
VND giảm giá thực và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam
được cải thiện. Ngược lại, khi chỉ số tỷ giá thực eR<1, nghĩa là tỷ giá thực
giảm, VND lên giá thực và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt
Nam bị xói mòn. Mặc dù từ năm 1992-2007, cả chỉ số xuất và nhập khẩu
đều lớn hơn 1, điều này chứng tỏ giá trị xuất và nhập khẩu đều tăng qua các


năm. Như vậy, chúng ta chưa thể biết được liệu sức cạnh tranh thương mại
quốc tế của Việt Nam được cải thiện hay xói mòn. Vấn đề này sẽ được phân
tích chi tiết dưới đây:

Đồ thị 1 cho thấy tỷ giá RER(VND/USD) được chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: từ năm 1993-1999, tỷ giá thực giảm.
+ Từ năm 1992-1996, tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm xói mòn sức
cạnh tranh thương mại quốc tế do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn
tốc độ tăng giá trị xuất khẩu, đã làm cán cân thương mại liên tục thâm hụt.
Trong thời gian này, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống
lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm
phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá
hối đoái danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt
Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm
tới hơn 20%.
Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp
phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8%/ năm. Nhưng việc duy trì tỷ
giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được
kiềm chế, song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các
nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có
xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VND có xu hướng ngày càng bị
đánh giá cao hơn thực tế. Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được
đánh giá cao đã làm suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ
của Việt Nam, làm cán cân thương mại thâm hụt.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên
đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử
dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu mà không khai thác có hiệu quả
các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực
lao động.
Một yếu tố khác là việc phá giá đồng CNY gần 50% vào năm 1994
của Trung Quốc (từ 1USD= 5,8000CNY lên 1 USD = 8,4462 CNY năm

1994). Việc phá giá CNY đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc quá
rẻ đã tràn ngập thị trường Việt Nam qua con đường buôn bán mậu dịch và
buôn lậu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước và tăng nhập siêu của Việt
Nam từ Trung Quốc.
+ Từ năm 1997-1999, sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt
Nam bắt đầu đươc cải thiện, thể hiện ở chỉ số tỷ giá xuất khẩu lớn hơn chỉ số
tỷ giá nhập khẩu và thâm hụt của cán cân thương mại giảm. Đặc biệt, trong


năm 1999, lần đầu tiên cán cân thương mại thặng dư. Nguyên nhân là do
tháng 10/1997, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định mở rộng biên
độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên
ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm
cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây
đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt
Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999. Ngoài ra, giá cả trên thị
trường biến động không đáng kể cũng là một nhân tố góp phần cải thiện cán
cân thương mại của Việt Nam.
- Giai đoạn 2: từ năm 2000-2005, chỉ số tỷ giá thực eR>1 nghĩa là tỷ
giá thực tăng. Từ năm 2000-2005, mặc dù tỷ giá thực tăng nhưng không cải
thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam vì tốc độ tăng
trưởng của nhập khẩu lớn hơn tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu. Nguyên
nhân là do chịu tác động của hai yếu tố giá và lượng của một số mặt hàng
chủ lực như xăng dầu, sắt thép, phân bón do bị ảnh hưởng của tình hình kinh
tế, chính trị có nhiều biến động4, chiến tranh Irắc, căng thẳng về chính trị
đặc biệt ở Trung Đông, dịch bệnh SARS vv...
- Giai đoạn 3: từ năm 2006-2008, tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm
xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng
của xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu.
2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa tỷ giá thực đa phương (REER)

và cán cân thương mại:
REER được tính thông qua rổ tiền tệ gồm 11 đồng tiền các nước có
quan hệ thương mại với Việt Nam: Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Anh, Úc,
Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc và
Indonexia. Kết quả như sau:


Đồ thị 3 : Mối quan hệ giữa REER và cán cân thương mại

(Nguồn: Adb.org, wordbank.org, econstat.com, epp.eurostat.ec.europa.eu và
thống kê tài chính quốc tế tháng 5/2008)
Qua chỉ số REER tính được ở từng năm, có thể nhận thấy rằng, trong
giai đoạn 1999-2003, REER có xu hướng tăng, đã làm cho cán cân thương
mại trong giai đoạn này được cải thiện, thậm chí là thặng dư chút ít trong
một số năm.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2004-2007, REER có xu hướng giảm. Tỷ
giá thực giảm làm cho sức mua đối ngoại của VND tăng, VND lên giá thực.
VND lên giá thực làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt
Nam, thể hiện ở cán cân thương mại trong giai đoạn này thâm hụt rất lớn.
Đến đây, có một điều cần lưu ý là: tại năm 2004, REER giảm sẽ làm xói
mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam (theo lý thuyết)
nhưng thực tế, tại năm này đường chỉ số xuất khẩu nằm cao hơn đường chỉ
số nhập khẩu, nghĩa là sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam
được cải thiện. Điều này có thể được xem là do độ lệch về thời gian tác động
của tỷ giá lên xuất nhập khẩu (giai đoạn trước REER tăng).
Như vậy, khi tỷ giá REER giảm chứng tỏ giá hàng xuất khẩu trở nên
đắt hơn và giá hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn một cách tương đối, điều này
sẽ góp phần làm giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nói cách
khác, nếu không điều chỉnh chính thức một cách hợp lý sẽ không có lợi cho
cán cân thưong mại của Việt Nam .

3. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VND NHẰM CẢI THIỆN cán cân thương
mại TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG


3.1. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam và
dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô:
Theo Outlook 2009: VietNam trên trang web của Ngân hàng phát
triển Châu Á:
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế có thể làm giảm
FDI và luồng vốn vào cũng như xuất khẩu, luồng vốn vào FPI và tăng
trưởng kinh tế. Sự giảm giá toàn cầu sẽ ảnh hưởng lên giá hàng hóa thế giới
và làm giảm áp lực lạm phát.
- Tăng trưởng kinh tế được dự báo là 4,5% trong năm 2009. Nới lỏng
chính sách tiền tệ và tài khóa sẽ hỗ trợ chi tiêu công cộng và đầu tư trong
nước. Xuất khẩu ròng dự tính sẽ tăng. Tuy nhiên, tiêu dùng cá nhân sẽ tăng
chậm hơn vì thất nghiệp cao hơn và sự tăng chậm của các hoạt động kinh tế,
thị trường chứng khoán. Luồng vốn chảy vào FDI được dự đoán là giảm và
dẫn đến giảm sút trong đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng kinh tế năm 2010 đạt
6,5%. Với chính sách tiền tệ nới lỏng, sự mở rộng trong tiêu dùng và đầu tư
nội địa sẽ kích thích nền kinh tế. Dự báo sự hồi phục của điều kiện tài chính
toàn cầu sẽ làm cải thiện đầu tư nước ngoài và xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ ròng.
- Lạm phát hàng năm được dự báo là thấp (4% năm 2009) vì GDP có
thể thấp hơn dưới mức tiềm năng và giá cả hàng hóa thế giới được dự báo
thấp hơn mức giá trung bình của năm trước. Lạm phát sẽ tăng lên 5% trong
năm tiếp theo vì giá cả hàng hóa thế giới được dự tính tăng trở lại.
- Thâm hụt cán cân vãng lai được dự báo là 11,5% GDP năm 2009,
đó là do cầu nhập khẩu hàng hóa Việt Nam yếu và sự giảm giá hàng xuất
khẩu sẽ làm giảm xuất khẩu. Nhập khẩu thậm chí sẽ giảm nhiều hơn xuất
khẩu vì giá hàng nhập khẩu giảm và nền kinh tế đang tăng trưởng chậm.

Dòng vốn chảy vào FDI sẽ giảm và dòng vốn chảy vào FPI sẽ duy trì ở mức
độ thấp vì điều kiện tài chính toàn cầu khó khăn. Cán cân tổng thể có thể sẽ
thâm hụt trong năm 2009.
Năm 2010, thâm hụt cán cân vãng lai được dự báo là thu hẹp còn
9,7% GDP. Cầu hàng hóa Việt Nam và giá hàng hóa xuất khẩu cao hơn sẽ
thúc đẩy xuất khẩu. Nhưng kèm theo đó, cũng có sự gia tăng nhập khẩu vì
tăng trưởng kinh tế và giá hàng nhập khẩu cao hơn. Luồng vốn vào FDI và
FPI sẽ tăng do điều kiện kinh tế toàn cầu được cải thiện và sự phấn khích
của các nhà đầu tư. Kết quả là cán cân tổng thể thặng dư.
3.2. Một số giải pháp cho chính sách tỷ giá VND nhằm cải thiện
cán cân thương mại
- Giải pháp phá giá VND: VND tăng giá sẽ có ảnh hưởng xấu đến cán
cân thanh toán, do đó đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách quản lý tỷ giá
phải có chính sách phá giá VND tương ứng với mức giảm của tỷ giá REER,


chẳng hạn nếu ta muốn phá giá VND so với USD thì cần thiết phải tính ra tỷ
giá (TG) kỳ vọng dựa trên công thức:
TG kỳ vọng = (% thay đổi tỷ giá REER) x (TG danh nghĩa tại thời
điểm t) + (TG danh nghĩa tại thời điểm t).
Khi tỷ giá thực hiệu lực tăng thì cần phải điều chỉnh tăng giá VND lên
cũng với cơ sở như vậy.
Cân bằng kinh tế bên trong và bên ngoài: Các khái niệm cân bằng bên
trong và cân bằng bên ngoài đã được Trevor Swan (1955) mô tả bằng đồ thị
và được biết đến là “Swan Diagram“. Do không đề cập đến luồng chu
chuyển vốn quốc tế nên mô hình Swan Diagram coi điều kiện bên ngoài
chính là trạng thái cân bằng cán cân vãng lai, nền kinh tế Việt Nam được
phân tích theo đồ thị Swan như sau:
Đồ thị: Swan Diagram


Theo đồ thị, REER =1. Trục tung của đồ thị biểu diễn tỷ giá. Trục
hoành biểu diễn chi tiêu trong nước, bao gồm: tiêu dùng (C), đầu tư (I), và
chi tiêu của Chính phủ (G).
Theo cách tính REER của nhóm nghiên cứu, thì REER của Việt Nam
có xu hướng giảm xuống, tức là đang bị định giá cao hơn. Thâm hụt cán cân
vãng lai kéo dài dai dẳng từ năm 2002 đến năm 2008 đưa nền kinh tế Việt
Nam nằm bên phải đường cân bằng ngoại EB. Năm 2008, tình trạng thất
nghiệp của người lao động tăng cao do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu (Theo Outlook 2009, Vietnam: Năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp ở
khu vực thành thị ước tính tăng 5% và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn
cũng tăng lên mặc dù chính sách nông nghiệp đã được cải cách đáng kể). Có
nghĩa là trạng thái nền kinh tế Việt Nam đang nằm bên trái đường cân bằng
nội IB, tức tại điểm B, vùng số 2.
Để nền kinh tế Việt Nam (điểm B) trở về trạng thái cân bằng đối nội
và đối ngoại, tức tại điểm A.
Đối với mục tiêu cân bằng nội, Chính phủ phải tăng chi tiêu trong
nước, tức là tăng đầu tư, tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ, đưa nền kinh tế


duy chuyển tới điểm D. Điều này đưa nền kinh tế đến tình trạng thậm hụt
cán cân vãng lai.
Đối với mục tiêu cân bằng ngoại, Chính phủ thực hiện phá giá đồng
nội tệ, khi đó sẽ kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, do đó đưa
nền kinh tế đến điểm C, khi đó kinh tế Việt Nam sẽ đối diện với tình trạng
thất nghiệp.
Vì vậy, để đạt được cả 2 mục tiêu cân bằng bên trong và bên ngoài,
Chính phủ nên kết hợp cả 2 công cụ: phá giá tiền tệ và tăng chi tiêu trong
nước đồng bộ với nhau, không nên dùng một trong 2 phương pháp một cách
riêng lẻ.
- Xây dựng cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn: Cơ chế tỷ giá của

Việt Nam hiện nay nên là cơ chế nào? Lý thuyết về “Bộ ba bất khả thi” Impossible Trinity được sử dụng để phân tích:
Lý thuyết bộ ba bất khả thi (The Impossible Trinity hay Inconsistent
Trinity hay Triangle of Impossibility) được phát biểu rằng: một quốc gia
không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách vĩ mô5:
Sơ đồ 2: Bộ ba bất khả thi

·
Ổn định tỷ giá · Tự do hóa dòng vốn ·
Chính sách tiền tệ
độc lậpViệc lựa chọn ba mục tiêu kinh tế vĩ mô một cách hợp lý là bài toán
khá nan giải, đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế
đang phát triển.
Việt Nam là thành viên của WTO từ ngày 11/01/2007. Kể từ ngày
này, Việt Nam tiếp cận được thị trường thương mại toàn cầu nhưng sẽ gặp
những trở ngại không nhỏ trong quá trình hội nhập quốc tế. Một biểu hiện rõ
nét nhất ngay sau khi hội nhập, đó là dòng vốn nước ngoài chảy vào nhiều,
áp lực lạm phát gia tăng. Cũng như hầu hết các nước khi mở cửa hội nhập,
Việt Nam đang phải đối mặt với hiện tượng “Bộ ba bất khả thi”. Đó là, khi
dòng vốn nước ngoài vào nhiều, để ổn định tỷ giá NHNN mua ngoại tệ, qua
đó gây áp lực lạm phát (Sáu tháng đầu năm 2007, NHNN “bơm” ra lưu
thông 112.000 tỷ đồng sau khi mua vào 7 tỷ USD, đây chính là một trong


những nguyên nhân làm cho lạm phát tăng mạnh. Theo qui định của Pháp
lệnh Ngoại hối, Việt Nam đã tự do hóa giao dịch vãng lai, còn các giao dịch
vốn chưa được tự do hoàn toàn nhưng đã nới lỏng một cách tương đối. Đối
với các nền kinh tế mới nổi, nơi mà thị trường tài chính và tiền tệ còn kém
phát triển, thì hiện tượng bộ ba bất khả thi là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng.
Vấn đề đặt ra lúc này đối với Việt Nam là phải lựa chọn mục tiêu theo
đuổi trong quản lý kinh tế vĩ mô để đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững.

Trong ba mục tiêu trên, kiểm soát lạm phát là mục tiêu số một không thể loại
bỏ, còn vấn đề tỷ giá và kiểm soát dòng vốn cần có sự lựa chọn cho phù hợp
để hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi”. Vậy, chế
độ tỷ giá BBC6 có thể là một sự lựa chọn cho chế độ tỷ giá của Việt Nam
hiện nay được không?
Theo mục 2, Điều 39 Nghị định 160/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh Ngoại hối thì cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là cơ
chế tỷ giá thả nổi có quản lý do NHNN Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền
tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam
phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. Như vậy, trong bối
cảnh kinh tế hiện nay, tỷ giá VND được xác định dựa trên rổ tiền tệ (BBasket) thay vì chỉ dựa vào USD.
Ngày 25/2/1999, cơ chế tỷ giá của Việt Nam được cải cách đáng kể,
NHNN bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay thế bằng việc thông
báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Các ngân hàng thương mại
được xác định tỷ giá mua bán đối với USD không vượt quá +0,1% so với tỷ
giá bình quân liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, sau đó biên độ đã
tiếp tục được thay đổi để tạo sự linh hoạt hơn cho chính sách tỷ giá7. Ngoài
ra, hàng năm NHNN sẽ công bố mục tiêu như là một vật neo danh nghĩa
trong điều hành tỷ giá. Có thể thấy B- Band và C- Crawl là hai đặc điểm còn
lại mà NHNN đang cố gắng thực hiện.
Tóm lại, lựa chọn này sẽ phù hợp hơn trong điều kiện mục tiêu dài
hạn của Việt Nam là linh hoạt hóa cơ chế tỷ giá và liên kết chặt chẽ hơn với
các đối tác thương mại chính. Đây còn có thể là sự lựa chọn đúng hướng cho
cơ chế tỷ giá Việt Nam trong tương lai, khi Việt Nam liên kết chặt chẽ hơn
với các nước ASEAN trong một cộng đồng kinh tế chung, trong đó có yêu
cầu cố định tỷ giá giữa các nước thành viên nhằm thúc đẩy đầu tư và thương
mại nội khối, đồng thời linh hoạt hóa tỷ giá với các nền kinh tế lớn khác
nhằm đảm bảo phát triển bền vững, tránh các đổ vỡ tài chính dây chuyền khi
hệ thống tỷ giá với việc neo vào một ngoại tệ mạnh không đứng vững trước
các biến động thị trường như đã từng xảy ra năm 1997.

TÀI LIỆU THAM KHẢO*


Tài liệu tiếng Việt:1. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến: Giáo trình tài chính
quốc tế. Xuất bản lần thứ 3, NXB Thống kê, năm 2009.
2. ThS. Phạm Thị Hoàng Anh: Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung
Quốc - Lý thuyết, thực tế và những gợi ý cho Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng
số 9/2009.
3. ThS. Nguyễn Thị Kim Thanh: Chính sách tỷ giá với vấn đề tăng
trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tạp chí ngân hàng tháng 10/2008.
4. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cân bằng cán cân thương mại
của Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Đề tài NCKH, Trường Đại học
ngoại thương.
* Tài liệu tiếng Anh:
5. World Economy- Prenceton Encyclopedia, 2009
6. Outlook 2009: Vietnam
7. International statistics - IMF 5/2008
8. http://ddpext. worldbank. org/ext/DDPQQ/member. do?
method=getMembers
9. ;
10. ;
11. ;
12.
(1) Theo World Economy- Prenceton Encyclopedia, 2009: Chế độ tỷ
giá BBC dựa trên một rổ tiền tệ (Basket) chứ không phải một đồng tiền nhất
định, có biên độ dao động rộng (Band) quanh tỷ giá trung tâm, có thể là 5,
10 và 15% nhưng NHTW sẽ can thiệp ngăn cho tỷ giá thị trường không vượt
ra ngoài biên độ. Tỷ giá trung tâm sẽ bò trườn (Crawl) theo từng bước nhỏ
và có chu kỳ hơn là thay đổi đột ngột.
(2) Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung Quốc - lý thuyết, thực tế và

những gợi ý cho Việt Nam - ThS. Phạm Thị Hoàng Anh
(3) Về mặt lý thuyết, khi khối lượng xuất khẩu tăng và/ hoặc khối
lượng nhập khẩu giảm, thì ta nói rằng sức cạnh tranh thương mại quốc tế
được cải thiện. Ngược lại, khi khối lượng xuất khẩu giảm và/hoặc khối
lượng xuất khẩu tăng, thì ta nói rằng sức cạnh tranh thương mại quốc tế bị
xói mòn. Nghĩa là, sức cạnh tranh thương mại quốc tế ở đây chỉ liên quan
đến khối lượng xuất nhập khẩu, mà không liên quan đến giá trị xuất nhập
khẩu. Tuy nhiên, trong thực tế, việc sử dụng khối lượng xuất nhập khẩu để
đánh giá sức cạnh tranh thương mại quốc tế là điều không thể vì mỗi hàng
hóa lại có đơn vị đo lường khác nhau. Vì vậy, giá trị xuất nhập khẩu thường
được sử dụng để phân tích sức cạnh tranh thương mại quốc tế.
(4) Mặc dù tỷ lệ lạm phát của những năm này nhỏ, thậm chí là giảm
phát. Tỷ lệ lạm phát của các năm 2000-2005 tương ứng như sau: -1,6%;


-0,4%, 4%, 3,2%, 7,8% và 8,4%. Đặc biệt, năm 2004, do tỷ giá thực tăng
chậm lại và tỷ lệ lạm phát đột ngột tăng đã làm cho thâm hụt cán cân thương
mại càng nặng nề.
(5) Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn
tối đa 2 trong 3. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi
sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung
Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng
vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc
Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ,
nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như
Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)“- trích lời đề tặng Robert Mundell - Paul
Krugman, 1999
(6) Ưu điểm của chế độ tỷ giá BBC là: thứ nhất, chế độ tỷ giá này
giúp tỷ giá đa phương ổn định hơn. Thứ hai là bằng việc điều chỉnh tỷ giá
danh nghĩa đi theo một hướng nhất định, chế độ bù trừ giúp tỷ giá REER ổn

định. Thứ ba là với biên độ rộng làm cho tỷ giá linh hoạt hơn với các cơn
sốc bên ngoài và góp phần vào sự độc lập của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên,
chế độ này cũng gặp hạn chế là vẫn chưa đủ linh hoạt để đối phó với sự thay
đổi đột ngột của luồng vốn.
(7)0,25%(1/7/2002); ±0,5%(31/12/2006); ±0,75%(24/12/2007);±1%
(10/3/2008); ±2% (26/6/2008); ±3% (6/11/2008); ±5% (23/3/2009)



×