Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ ANH KHOA

CẦM CỐ TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TẠI
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒ ANH KHOA

CẦM CỐ TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TẠI
VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS Vũ Đức Long

HÀ NỘI - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồ Anh Khoa

1


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
CHƢƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẦM CỐ TÀI SẢN .................. 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm ....................................... 9

1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm ................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch bảo đảm ............................................................ 10

1.2.

Phân loại giao dịch bảo đảm ................................................................ 13

1.2.1. Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật ................................................... 14
1.2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo lãnh ............................................ 14
1.3.

Cầm cố tài sản ....................................................................................... 15

1.3.1. Khái niệm cầm cố tài sản........................................................................ 15
1.3.2. Tài sản được cầm cố ............................................................................... 17
1.3.3. Nội dung của cầm cố tài sản ................................................................... 17
1.4.

Vai trò của cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng ... 22

1.5.

Vai trò của cầm cố tài sản trong hoạt động của công ty chứng khoán
................................................................................................................ 23

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẦM CỐ TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG, CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN .............................................................................................................. 24
2.1.

Một số quy định chung của pháp luật về cầm cố tài sản trong hoạt

động của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán ........................................... 24

2.1.1. Tài sản cầm cố ........................................................................................ 24
2.1.2. Hình thức pháp lý của giao dịch cầm cố ................................................ 27
2.1.3. Một số hạn chế trong việc nhận cầm cố tài sản của tổ chức tín dụng,
công ty chứng khoán ........................................................................................... 27

2


2.1.4. Thời điểm có hiệu lực của giao dịch cầm cố và hiệu lực đối với bên thứ
ba

................................................................................................................ 28

2.1.5. Xử lý tài sản cầm cố ............................................................................... 30
2.2.

Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng ...................... 34

2.2.1. Cầm cố thẻ tiết kiệm ............................................................................... 34
2.2.2. Cầm cố giấy tờ có giá ............................................................................. 37
2.2.3. Cầm cố vận đơn ...................................................................................... 48
2.2.4. Cầm cố quyền tài sản .............................................................................. 51
2.2.5. Cầm cố tàu bay ....................................................................................... 59
2.2.6. Cầm cố động sản khác ............................................................................ 60
2.3.

Cầm cố tài sản trong hoạt động của công ty chứng khoán ............... 61

2.3.1. Cầm cố tiền gửi....................................................................................... 61
2.3.2. Cầm cố chứng khoán .............................................................................. 65

CHƢƠNG 3. RỦI RO CẦM CỐ TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ GIẢI PHÁP
KHẮC PHỤC..................................................................................................... 73
3.1.

Hoạt động của tổ chức tín dụng .......................................................... 73

3.1.1. Cầm cố thẻ tiết kiệm............................................................................................. 73
3.1.2. Cầm cố vận đơn ..................................................................................................... 79
3.1.3. Cầm cố giấy tờ có giá........................................................................................... 82
3.1.4. Cầm cố quyền tài sản ........................................................................................... 88
3.1.5. Cầm cố tàu bay ...................................................................................................... 94
3.1.6. Cầm cố động sản khác ......................................................................................... 94
3.2.

Hoạt động của công ty chứng khoán ............................................................ 95

3.2.1. Cầm cố tiền gửi...................................................................................................... 95
3.2.2. Cầm cố chứng khoán ............................................................................................ 96
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 103

3


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng có
một vai trò đặc biệt quan trọng với mỗi nền kinh tế một quốc gia. Phát triển dần

theo thời gian, tổ chức tín dụng không chỉ còn hoạt động sơ khai như thời kỳ đầu
mà mở rộng ra với rất nhiều loại hình dịch vụ tài chính, phục vụ đa dạng nhu
cầu của Khách hàng. Nhưng dù thế nào thì nghiệp vụ cho vay (nói rộng ra là cấp
tín dụng) vẫn là căn bản nhất với mỗi tổ chức tín dụng. Cho vay ra, đương nhiên
mục tiêu của tổ chức tín dụng phải là thu được nợ về (nợ gốc, lãi). Thông
thường, khi cho vay, tổ chức tín dụng đã phải trải qua những công đoạn đánh giá
khả năng tài chính của Khách hàng vay rất cặn kẽ, theo những định chế nội bộ
chặt chẽ của mỗi tổ chức tín dụng. Khả năng tài chính quyết định đến khả năng
trả nợ vay của Khách hàng. Nhưng trong quá trình sử dụng vốn vay, không phải
lúc nào Khách hàng cũng duy trì được khả năng trả nợ của mình. Khi Khách
hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ, thông thường, các tổ chức tín dụng lúc ấy sẽ phải
xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Vai trò của bảo đảm tiền vay khi ấy mới thể
hiện rõ nhất; đặc biệt là khi Khách hàng không có bất cứ nguồn trả nợ nào khác.
Trong bảy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp
luật, các tổ chức tín dụng thường sử dụng 4 biện pháp: Cầm cố, Thế chấp, Kỹ
quỹ và Bảo lãnh. Trong đó, với ưu điểm của mình, biện pháp cầm cố tài sản
được ưu tiên áp dụng (nếu có thể).
Tổ chức tín dụng không xử lý được tài sản bảo đảm, không thu hồi được
nợ thì chắc chắn khoản nợ đó đã có thể được gọi là “nợ xấu”. Và nếu tình trạng
“nợ xấu” xảy ra rộng khắp trong ngành ngân hàng thì mức độ ảnh hưởng tới nền
kinh tế nói chung là điều khó tránh khỏi. Thực tế thị trường thời gian qua đã
phần nào cho thấy điều này. Theo nhiều chuyên gia, một trong những chuyên
nhân dẫn tới tình trạng nợ xấu của ngành ngân hàng tăng mạnh chính là việc xử

4


lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng đình trệ, vướng mắc, mất nhiều thời
gian.
Công ty chứng khoán là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động cung cấp

dịch vụ đặc thù trong lĩnh vực tài chính. Vai trò của công ty chứng khoán là
không thể thiếu trong cả thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng
khoán thứ cấp. Việc công ty chứng khoán cung cấp được những dịch vụ tốt, hấp
dẫn nhà đầu tư thực hiện giao dịch, qua đó đấy thị trường đi lên là hết sức cần
thiết. Mặt khác, để công ty chứng khoán duy trì được trạng thái tài chính lành
mạnh, khai thác vốn hiệu quả, tránh những hiệu ứng có hại ảnh hưởng theo tính
dây chuyền cũng là yêu cầu đối với công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
chứng khoán nói chung, hệ thống các công ty chứng khoán nói riêng.
Hiện nay, các công ty chứng khoán cũng được pháp luật cho phép cho nhà
đầu tư vay tiền để đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ đặc thù là nghiệp vụ
giao dịch ký quỹ chứng khoán. Và để bảo đảm cho việc thu hồi nợ vay của
mình, công ty chứng khoán cũng đã sử dụng giao dịch bảo đảm để ràng buộc
nghĩa vụ trả nợ của nhà đầu tư thông qua việc nhận bảo đảm tài sản trên tài
khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng. Nhưng thực tế việc cung cấp dịch
vụ này của công ty chứng khoán còn không ít bất cập, gây khó khăn, rủi ro cho
cả công ty chứng khoán lẫn nhà đầu tư.
Trước thực tế này, việc đánh giá một cách chọn lọc, có định hướng về các
giao dịch bảo đảm đặc thù, điển hình liên quan đến hoạt động của tổ chức tín
dụng và công ty chứng khoán; để từ đó, có những phương hướng sửa đổi, bổ
sung, điều chỉnh các quy phạm pháp luật, điều chỉnh ứng xử nghiệp vụ nội bộ
của các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán theo hướng hợp lý, hiệu quả hơn
là hết sức cần thiết.
1.2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu

5


- Làm rõ tầm quan trọng của các giao dịch bảo đảm nói chung và giao
dịch cầm cố tài sản nói riêng đối với hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng,

công ty chứng khoán.
- Làm rõ mối liên hệ giữa các quy định pháp luật về cầm cố tài sản.
- Nhận định các vấn đề rủi ro pháp lý từ góc độ của các tổ chức tín dụng,
công ty chứng khoán khi tham gia các giao dịch bảo đảm trong hoạt động nghiệp
vụ; trên cơ sở việc xem xét, đánh giá thực tế các giao dịch bảo đảm điển hình
trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán.
- Đưa ra được những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật và các phương thức ứng xử nghiệp vụ của tổ chức tín dụng, công ty
chứng khoán về vấn đề này.
Hiện tại, Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu (theo nhiều cấp độ,
mức độ, loại hình,...) về giao dịch bảo đảm nói chung và cầm cố tài sản nói riêng
trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Nhưng nghiên cứu dưới góc độ hoạt động
của công ty chứng khoán thì thực sự chưa nhiều, một phần cũng vì giao dịch ký
quỹ chứng khoán của công ty chứng khoán có liên quan đến giao dịch bảo đảm
cũng còn khá mới mẻ.
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu được tiến hành đối với hoạt động nghiệp vụ thực tế của
một số tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính), công
ty chứng khoán trên cơ sở các quy phạm pháp luật hiện hành.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Giao dịch bảo đảm nói chung và cầm cố tài sản nói riêng hiện tại cũng đã
được nhiều bài viết, bài phân tích, bài đánh giá, luận văn, luận án đề cập tới với
nhiều góc độ. Nhưng nhìn nhận, phân tích, đánh giá dưới góc độ hoạt động của
các doanh nghiệp đặc thù có cơ cấu tổ chức hoạt động phức tạp như tổ chức tín
dụng, công ty chứng khoán thì thực sự chưa nhiều.

6


Từ những thực tế hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng, công ty

chứng khoán, tác giả đã cố gắng chọn lọc, đưa những vấn đề về những giao dịch
bảo đảm điển hình để nghiên cứu, đánh giá và phân tích.
Với sự tiếp thu ý kiến từ chính những cán bộ nghiệp vụ hoạt động trong
các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán lớn, có tầm ảnh hưởng trên thị
trường, luận văn hy vọng sẽ mang tới những góc nhìn mới, sâu sắc và thiết thực
về giao dịch bảo đảm trong hoạt động của những doanh nghiệp đặc thù này; đặc
biệt là các vấn đề rủi ro pháp lý liên quan đến các giao dịch bảo đảm này. Từ đó,
nhận định những bất cập trong hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những giao dịch bảo đảm đặc thù này. Qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật về cầm cố tài sản.
2. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của pháp
luật Việt Nam, bình luận những điểm phù hợp và chưa phù hợp. Ngoài ra, Luận
văn còn sử dụng phương pháp tổng hợp quy định pháp luật, thống kê thực tiễn
áp dụng các quy phạm pháp luật về cầm cố tài sản tại các tổ chức tín dụng để
đánh giá khái quát, chỉ ra những rủi ro mà tổ chức tín dụng có thể gặp phải khi
thực hiện các giao dịch này.
3. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về cầm cố tài sản.
Chương này tác giả trình bày khái quát về khái niệm, đặc điểm của giao
dịch bảo đảm và tài sản bảo đảm nói chung và cầm cố tài sản nói riêng; vai trò
của giao dịch cầm cố tài sản đối với hoạt động tín dụng, công ty chứng khoán.
Chương 2: Quy định của pháp luật về cầm cố tài sản trong hoạt động của
tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán.

7



Chương này tác giả nêu và phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về
cầm cố tài sản theo những loại tài sản nhận cầm cố; trong đó tập trung vào ba
nội dung: Bản chất giao dịch; Hiệu lực của giao dịch và Xử lý tài sản cầm cố.
Chương 3: Rủi ro cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng,
công ty chứng khoán và giải pháp.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản bảo đảm và
thực tiễn áp dụng trong hoạt động cấp tín dụng, tác giả tổng hợp, đưa ra những
dạng rủi ro đối với giao dịch cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, công ty chứng khoán. Từ đó, đề xuất giải pháp hạn chế rủi ro.

8


CHƢƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẦM CỐ TÀI SẢN
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của giao dịch bảo đảm

1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm
Giao dịch bảo đảm, hay các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
là chế định pháp lý đã xuất hiện trong những đạo luật cổ xưa nhất và luôn gắn
liền với sự phát triển, biến đổi của các giao dịch dân sự.
Theo nhiều nhà nghiên cứu [19], giữa hai hệ thống pháp luật Civil Law và
Common Law, cách thức đề cập và quy định về giao dịch bảo đảm, các biện
pháp báo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là khác nhau.
Theo đó, với các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Civil Law, pháp luật
có xu hướng quy định liệt kê các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà
không đưa ra khái niệm chung về giao dịch bảo đảm.
Các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Common Law thì không theo xu

hướng quy định hình thức mà hướng tới chức năng của các biện pháp bảo đảm
hay “lợi ích bảo đảm”. Bởi vậy, hệ thống pháp luật Common Law công nhận cả
những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác như: gửi bán thương mại;
chuyển giao nợ, cho thuê tài sản dài hạn, bán có bảo lưu quyền sở hữu; mua trả
chậm, trả dần; chuyển nhượng quyền đòi nợ; quyền cầm giữ…
Khoản 1, Điều 323 về “Đăng ký giao dịch bảo đảm”, Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định: “Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận
hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại
khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này.”
Điều 318 về “Giao dịch bảo đảm”, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy
định theo hướng liệt kê các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm:
a) Cầm cố tài sản;
b) Thế chấp tài sản;
c) Đặt cọc;
9


d) Ký cược;
đ) Ký quỹ;
e) Bảo lãnh;
g) Tín chấp. [30, Điều 318]
Trước đó, tại Bộ luật Dân sự năm 1995, khái niệm giao dịch bảo đảm
không được đề cập đến. Bộ luật Dân sự năm 1995 chỉ quy định theo hướng liệt
kê các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Khoản 1, Điều 2 về “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về
Bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng quy định:
“ 1. Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp
nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản
nợ đã cho khách hàng vay”. [12, khoản 1, Điều 2]

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về Giao
dịch bảo đảm thay thế Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về Bảo đảm tiền vay của
các tổ chức tín dụng, nhưng cũng không đưa ra một định nghĩa cụ thể về giao
dịch bảo đảm.

Tuy nhiên theo cách thức quy định tại Nghị định số

163/2006/NĐ-CP, có thể hiểu giao dịch bảo đảm cũng vẫn là một dạng giao dịch
dân sự, gắn liền với mỗi biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Có thể tạm thời khái quát về giao dịch bảo đảm như sau: Giao dịch bảo
đảm là giao dịch dân sự mà bên bảo đảm dùng tài sản hoặc không dùng tài sản
để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của chính mình hoặc bên thứ ba đối với
bên nhận bảo đả; nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có
nghĩa vụ được bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thoả thuận
thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu bên bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ theo thoả thuận.
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch bảo đảm
Giao dịch bảo đảm tiền vay có những đặc điểm chung của giao dịch dân
sự và những đặc điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất, giao dịch bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính:
10


Giao dịch bảo đảm vốn được sử dụng để bảo đảm cho việc thực hiện một,
một số nghĩa vụ dân sự nào đó. Bởi vậy, về mặt logic, giao dịch bảo đảm không
tồn tại độc lập mà luôn phụ thuộc và gắn liền với nghĩa vụ được bảo đảm. Cũng
vì vậy mà giao dịch phát sinh nghĩa vụ được bảo đảm được gọi là giao dịch
chính, còn giao dịch bảo đảm được gọi là giao dịch phụ. Việc giao dịch bảo đảm
bị vô hiệu không làm ảnh hưởng tới hiệu lực của giao dịch chính. Nếu theo
chiều ngược lại, thông thường, giao dịch chính vô hiệu thì giao dịch phụ vô hiệu

theo, nhưng trong trường hợp giao dịch phụ là giao dịch bảo đảm thì pháp luật
quy định ngoại lệ. Khoản 2, Điều 410 về “Hợp đồng dân sự vô hiệu”, Bộ luật
Dân sự năm 2005 quy định:
“2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ
trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính.
Quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự.” [30, khoản 2, Điều 410]
Thứ hai, giao dịch bảo đảm đều có mục đích nhằm nâng cao trách nhiệm
của các bên trong giao dịch dân sự. Đây là bản chất của giao dịch bảo đảm, buộc
các bên phải đề cao trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo thoả
thuận. Trong một số trường hợp, việc sử dụng giao dịch bảo đảm còn nhằm mục
đích ràng buộc trách nhiệm giao kết giao dịch dân sự của các bên, ví dụ như
trường hợp các bên đặt cọc để bảo đảm cho nghĩa vụ giao kết hợp đồng chính
thức, bên nào từ chối giao kết hợp đồng thì có thể mất cọc, trả lại cọc đồng thời
chịu phạt cọc như đã thoả thuận.
Thứ ba, đối tượng của giao dịch bảo đảm là các lợi ích vật chất.
Đối tượng của giao dịch bảo đảm là các lợi ích vật chất là phù hợp với bản
chất giao dịch bảo đảm như đã nêu. Thông thường, tham gia giao dịch dân sự,
các bên đều hướng tới lợi ích vật chất nhất định. Do vậy, để trở thành một kênh
dự phòng cho giao dịch chính, giao dịch phụ (mà ở đây là giao dịch bảo đảm)
cũng phải mang lợi ích vật chất, xuất phát từ quy luật ngang giá trong quan hệ

11


tài sản. Hiện tại, trong 7 biện pháp bảo đảm được quy định tại Bộ luật Dân sự
năm 2005, chỉ có biện pháp tín chấp là khó lý giải theo logic này.
Điều 372 về “Bảo đảm bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội”, Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá

nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng
khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ.” [30,
Điều 372]
Theo hướng dẫn tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm,
bên tín chấp không có bất kỳ nghĩa vụ vật chất nào đối với bên nhận tín chấp.
Mặc dù có thể xác định là dạng bảo đảm đối nhân, nhưng tín chấp khác hoàn
toàn với biện pháp bảo đảm bằng bảo lãnh; khi mà bên bảo lãnh có nghĩa vụ trả
nợ thay cho bên có nghĩa vụ được bảo đảm, đồng thời, bên bảo lãnh phải sử
dụng toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận
bảo lãnh.
Thứ tư, giao dịch bảo đảm có phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi
nghĩa vụ được bảo đảm.
Điều 319 về “Phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân
sự năm 2005 quy định:
“Nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp luật
không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể
cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.” [30, Điều 319]
Theo đó, trong mọi trường hợp, phạm vi của giao dịch bảo đảm đều phụ
thuộc vào phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm trong giao dịch chính. Giả sử trường
hợp hợp đồng mua bán hàng hoá, giao dịch chính làm phát sinh rất nhiều nghĩa
vụ như: Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng, Nghĩa vụ thanh toán tiền lãi phát sinh do
chậm thanh toán tiền hàng , Nghĩa vụ chi trả chi phí bảo hành, bảo trì hàng
hoá,... Nhưng nếu trong thoả thuận bảo đảm, các bên chỉ xác định nghĩa vụ được
12


bảo đảm là một, một số các nghĩa vụ trong tất cả các nghĩa vụ trong giao dịch
chính thì phạm vi bảo đảm chỉ giới hạn trong phạm vi một hoặc một số nghĩa vụ
được bảo đảm này.

Mặc dù, trong nhiều trường hợp, giá trị tài sản bảo đảm có thể lớn hơn rất
nhiều so với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.
Thứ năm, tính chất của giao dịch bảo đảm được cụ thể hoá khi có hành vi
vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm.
Với tính chất dự phòng, tăng cường trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ
đã thoả thuận của các bên, nếu các nghĩa vụ đều được tôn trọng và thực hiện
đúng thoả thuận thì đương nhiên không cần áp dụng thực tế các biện pháp bảo
đảm. Theo nguyên tắc, từ thời điểm phải thực hiện nghĩa vụ, mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện đúng nghĩa vụ thì có cơ sở để xác định bên có nghĩa vụ vi phạm
nghĩa vụ; do đó, bên nhận bảo đảm cần áp dụng biện pháp bảo đảm đã thoả
thuận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đối với nhóm các biện pháp bảo đảm đối vật, Điều 56 về “Các trường hợp
xử lý tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định các trường hợp
xử lý tài sản bảo đảm gồm:
1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước
thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định
của pháp luật.
3. Pháp luật quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ khác.
4. Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy
định. [13, Điều 56]
1.2.

Phân loại giao dịch bảo đảm

Dựa trên những căn cứ khác nhau, sẽ có nhiều cách phân loại giao dịch
bảo đảm.
13



1.2.1. Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật
Trong hệ thống pháp luật Civil Law, về mặt lý thuyết pháp lý, căn cứ vào
đối tượng của giao dịch, giao dịch bảo đảm thường phân biệt những biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành hai nhóm: Giao dịch bảo đảm đối vật và giao
dịch bảo đảm đối nhân.
Giao dịch bảo đảm đối vật là giao dịch bảo đảm mà quyền, lợi ích bảo đảm
của bên nhận bảo đảm được xác lập và căn cứ vào một, một số vật (hoặc rộng ra
là tài sản gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản, như quy định tại
Điều 163 về “Tài sản”, Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam); trong đó,
thông thường, tài sản này thuộc sở hữu của Bên bảo đảm, có thể là tài sản vô
hình hoặc hữu hình, có thể là động sản hay bất động sản.
Khi bên có nghĩa vụ được bảo đảm không thực hiện đúng những nghĩa vụ
của mình như đã thoả thuận, bên nhận bảo đảm sẽ xử lý tài sản bảo đảm để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh để hành vi vi phạm nghĩa vụ của
bên có nghĩa vụ ảnh hưởng tới mình. Trong các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, cầm cố, thế chấp,
đặt cọc, ký cược và ký quỹ là các biện pháp bảo đảm đối vật.
Giao dịch bảo đảm đối nhân là giao dịch mà bên bảo đảm là bên thứ ba
cam kết với bên nhận bảo đảm về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa
vụ được bảo đảm, khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ được bảo đảm không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. Khác với biện pháp bảo
đảm đối vật, bên bảo đảm có nghĩa vụ . Việc cá thể hóa tài sản nào được phát
mại để thanh toán cho Bên cho vay thường được tiến hành sau khi đến hạn mà
Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận. Theo
đó, với giao dịch bảo đảm tiền vay, khi xảy ra tranh chấp hoặc Bên vay không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, thì trách nhiệm cá nhân của người bảo đảm
sẽ là đối tượng được sử dụng nhằm lấy lại khoản tiền mà tổ chức tín dụng đã cho
vay. Trách nhiệm cá nhân này thường được xác lập bởi một Bên thứ ba.

1.2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo lãnh
14


Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là các phương thức bảo đảm mà khoản vay
của khách hàng tại tổ chức tín dụng được được bảo đảm bằng một loại tài sản.
Chính vì vậy, hình thức bảo đảm này sẽ hạn chế bớt rủi ro cho các tổ chức tín
dụng vì tổ chức tín dụng có thể xác lập quyền đối với một tài sản nhất định, khi
khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ, tổ chức tín dụng có căn cứ để thực hiện
việc xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ. Đây cũng là phương thức bảo đảm
phổ biến tại các tổ chức tín dụng.
Bảo lãnh là phương thức bảo đảm tiền vay mà khoản vay không được bảo
đảm bằng một tài sản. Điều 361 về “Bảo lãnh”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là Bên bảo lãnh) cam
kết với bên có quyền (sau đây gọi là Bên nhận bảo lãnh) sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho Bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là Bên được
bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà Bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có
thể thoả thuận về việc Bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
khi Bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình [30, Điều 361].
Ở đây tổ chức tín dụng có thể chọn lựa khách hàng vay của mình, dựa trên
nhiều yếu tố khác nhau để cho khách hàng vay như: Dựa trên uy tín của khách
hàng vay, uy tín của một bên thứ ba, bảo lãnh của nhà nước,...
1.3.

Cầm cố tài sản

1.3.1. Khái niệm cầm cố tài sản

Dạng quan hệ mà ở đó một người giao cho người khác một tài sản để làm
tin cho cam kết, giao ước của mình, nếu mình không thực hiện được thì tài sản
này mặc nhiên thuộc về sở hữu của người kia vốn đã tồn tại từ rất lâu trong lịch
sử các quan hệ dân sự. Theo một số nhà nghiên cứu, khái niệm “fiducia” trong
pháp luật La Mã là một trong những căn cứ pháp lý đầu tiên ghi nhận dạng quan
hệ như trên, mà hiện tại chúng ta đang gọi dưới khái niệm cầm cố tài sản.
15


Trong một số từ điển pháp lý, cũng xuất hiện khái niệm “fiduciary” với
cách hiểu là việc một người giao phó sở hữu hay quyền năng của mình vì lợi ích
của người khác.
Ở Việt Nam, trước khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời, khoản 2, Điều 2,
Nghị định số 17-HĐBT ngày 16-01-1990 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế đã quy định về cầm cố với vai trò là một biện pháp bảo đảm
thực hiện hợp đồng kinh tế như sau:
2- Cầm cố là trao động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho
người cùng quan hệ hợp đồng giữ để làm tin và bảo đảm tài sản
trong trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc cầm
cố phải được làm thành văn bản riêng, có sự xác nhận của cơ
quan công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh
doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng).
Người giữ vật cầm cố có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của vật
cầm cố; không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người
khác trong thời gian văn bản cầm cố còn có hiệu lực.
Đến Bộ luật Dân sự năm 1995, cầm cố tài sản được quy định:
“Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở
hữu của mình cho bên có quyền để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; nếu tài
sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu, thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố
vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ.” [29, Điều 329]

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tại Điều 326 về “Cầm cố tài sản” như
sau:
“Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.” [30, Điều 326]
Theo đó, có thể nhận thấy quy định pháp luật về cầm cố tài sản qua từng
thời kỳ là khá khác biệt, song về cơ bản, đặc điểm nổi bật và được giữ nguyên
trong các quy định trên đó là việc chuyển giao tài sản cầm cố từ bên cầm cố
16


sang bên nhận cầm cố; mặc dù Bộ luật Dân sự năm 1995 thừa nhận cả trường
hợp tài sản cầm cố không được chuyển giao cho bên nhận cầm cố nếu tài sản đó
là tài sản phải đăng ký sở hữu.
1.3.2. Tài sản được cầm cố
Trình bày tại mục 2.1, Chương 2.
1.3.3. Nội dung của cầm cố tài sản
1.3.3.1. Quyền của bên cầm cố
Theo quy định tại Điều 331 về “Quyền của bên cầm cố tài sản”, Bộ luật
Dân sự năm 2005, bên cầm cố có quyền sau:
- Yêu cầu bên nhận cầm cố đình chỉ việc sử dụng tài sản cầm cố trong
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 333 của Bộ luật Dân sự năm 2005, nếu do
sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị.
Khoản 3, Điều 333 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền của bên
nhận cầm cố; tại Điều này, bên nhận cầm cố có quyền sử dụng khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu các bên có thoả thuận. Nhưng
để bảo đảm quyền của chủ sở hữu đối với tài sản cầm cố, pháp luật quy định
ngay cả trong trường hợp có thoả thuận, nếu việc sử dụng, khai thác tài sản của
bên nhận cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, bên cầm cố vẫn
có quyền yêu cầu bên nhận cầm cố dừng việc sử dụng, khai thác tài sản cầm cố.

- Được bán tài sản cầm cố, nếu được bên nhận cầm cố đồng ý.
Theo nguyên tắc mặc dù là tài sản sử dụng để cầm cố, nhưng bên cầm cố
vẫn là chủ sở hữu của tài sản nên quyền định đoạt đối với tài sản vẫn thuộc về
bên cầm cố (ngoại trừ trường hợp xử lý tài sản cầm cố của bên nhận cầm cố dựa
trên các quy định của pháp luật).
Nhưng do bên nhận cầm cố cũng đã xác lập quyền của mình đối với tài
sản cầm cố, nên tuân theo nguyên tắc về thực hiện quyền sở hữu quy định tại
Điều 165, Bộ luật Dân sự năm 2005, bên nhận cầm cố có quyền quyết định đối
với việc thực hiện quyền bán tài sản cầm cố của bên cầm cố.

17


Điều 165 về “Nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu”, Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định: Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối
với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. [30, Điều
165]
- Được thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu có thỏa thuận.
Quyền này của bên cầm cố dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết,
thoả thuận trong giao dịch dân sự.
- Yêu cầu bên nhận cầm cố giữ tài sản cầm cố trả lại tài sản cầm cố khi
nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt.
Như đã phân tích phía trên, giao dịch cầm cố là giao dịch phụ, gắn liền với
giao dịch chính. Đồng thời, phạm vi cầm cố nằm trong phạm vi nghĩa vụ được
bảo đảm, cho dù giá trị tài sản cầm cố lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.
Một trong các căn cứ pháp lý để chấm dứt cầm cố tài sản là nghĩa vụ được
bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt. Khi đó, quyền của bên nhận cầm cố đương
nhiên cũng chấm dứt, quyền sở hữu của bên cầm cố không còn bị hạn chế, nên
bên cầm cố có quyền yêu cầu bên nhận cầm cố trả lại tài sản cầm cố.

- Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản
cầm cố.
Theo nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự tại Điều 9, Bộ luật Dân sự
năm 2005, khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có
quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền buộc bồi thường thiệt hại.
Bởi vậy, khi tài sản cầm cố đang thuộc sở hữu của bên cầm cố được
chuyển giao cho bên nhận cầm cố, mà bên nhận cầm cố có lỗi để xảy ra thiệt hại
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên nhận cầm cố được đặt ra.
1.3.3.2. Nghĩa vụ của bên cầm cố
Theo quy định tại Điều 330 về “Nghĩa vụ của bên cầm cố tài sản”, Bộ luật
Dân sự năm 2005, bên cầm cố có nghĩa vụ sau:
18


- Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thoả thuận.
Đây là điều kiện cần đối với giao dịch cầm cố tài sản.
- Báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản
cầm cố, nếu có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận cầm cố có
quyền hủy hợp đồng cầm cố tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì
hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố.
Nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền của bên nhận cầm cố trong giao
dịch cầm cố. Pháp luật quy định trách nhiệm công khai toàn bộ bên có quyền
pháp lý đối với tài sản cầm cố. Đồng thời, pháp luật cũng mở ra cho bên nhận
cầm cố quyền huỷ hợp đồng cầm cố tài sản nếu bên cầm cố không thông báo.
Vấn đề bồi thường thiệt cũng vẫn có thể được đặt ra.
- Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài
sản cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Xuất phát từ quan điểm nguyên tắc của bảo đảm bằng cầm cố tài sản, bên
nhận cầm cố không sử dụng giao dịch cầm cố để thay cho việc thực hiện nghĩa

vụ của bên có nghĩa vụ, mà chỉ là biện pháp nhằm tăng cường trách nhiệm của
bên có nghĩa vụ trong việc thực hiện nghĩa vụ. Bởi vậy, xét về mặt lợi ích thì khi
nhận cầm cố tài sản mà phát sinh các chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố thì
đương nhiên chủ tài sản phải có trách nhiệm chi trả.
1.3.3.3. Quyền của bên nhận cầm cố tài sản
Điều 333 về “Quyền của bên nhận cầm cố tài sản”, quy định bên nhận
cầm cố có các quyền như sau:
- Yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại
tài sản đó.
Quyền này là quyền cơ bản đối với người có quyền chiếm hữu hợp pháp
tài sản. Ở đây, bên nhận cầm cố là người nhận quyền chiếm hữu hợp pháp từ
chủ sở hữu tài sản kèm theo việc chuyển giao tài sản.
- Yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo
quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ.
19


Quyền này thể hiện tính chất dự phòng của giao dịch bảo đảm nói chung
và cầm cố tài sản nói riêng. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ
như đã cam kết, nếu đủ các điều kiện để xử lý tài sản cầm cố, bên nhận cầm cố
có quyền yêu cầu được xử lý tài sản cầm cố. Pháp luật hiện tại đã quy định một
số phương thức xử lý tài sản bảo đảm.
- Được khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ
tài sản cầm cố, nếu có thoả thuận.
Đối với quyền này của bên nhận cầm cố, pháp luật đã mở ra một phương
thức để hai bên thoả thuận về việc bên nhận cầm cố có thể khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố. Điều này mang tính chất dự trù, thực tế
có một số loại tài sản nếu không được sử dụng thường xuyên sẽ dẫn tới việc hao
mòn, giảm sút về khả năng vận hành, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới giá trị tài
sản. Bởi vậy, việc cho phép các bên thoả thuận nội dung này là phù hợp, các bên

có thể đồng thời thoả thuận cụ thể về phương thức xử lý đối với hoa lợi, lợi tức
phát sinh,...
- Được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài
sản cho bên cầm cố.
Tương ứng với nghĩa vụ của bên cầm cố, bên nhận cầm có có quyền yêu
cầu thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên
cầm cố.
1.3.3.4. Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố tài sản
Điều 332 về “Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố tài sản”, Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định bên nhận cầm cố có các nghĩa vụ như sau:
- Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản
cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố.
Điều này sẽ thấy rõ sự phù hợp khi đặt trong mối quan hệ với quyền được
thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm
cố. Chính bởi việc pháp luật quy định nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố
của bên nhận cầm cố, qua đó bảo đảm quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, mà
20


bên nhận cầm cố có quyền yêu cầu được thanh toán chi phí phát sinh liên quan
đến việc bảo quản, giữ gìn này.
- Không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố;
không được đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác.
Người nhận cầm cố có quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản cầm cố.
Nhưng các hành vi nói trên đều thuộc về quyền định đoạt tài sản. Bởi vậy, nếu
thực hiện, bên nhận cầm cố sẽ bị xác định là vi phạm; khi đó, bên cầm cố có
quyền đòi lại tài sản cầm cố, trừ một số trường hợp theo quy định tại Điều 18 về
“Trách nhiệm của bên nhận cầm cố trong trường hợp bán, trao đổi, tặng cho, cho
thuê, cho mượn tài sản cầm cố, đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ khác”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm.

Cụ thể:
Trường hợp bên nhận cầm cố bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê,
cho mượn tài sản cầm cố, đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ khác trái với quy định tại khoản 2 Điều 332 Bộ luật
Dân sự thì bên cầm cố có quyền đòi lại tài sản đó và yêu cầu bên
nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra; bên cầm cố không có
quyền đòi lại tài sản trong các trường hợp sau đây:
a) Bên mua, bên nhận trao đổi, bên được tặng cho được xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ
luật Dân sự;
b) Bên mua, bên nhận trao đổi tài sản cầm cố là động sản không
thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu và ngay tình theo quy định
tại Điều 257 Bộ luật Dân sự. [13, Điều 18]
Cũng theo quy định tại Điều 18, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao
dịch bảo đảm, trong trường hợp bên cầm cố không có quyền đòi lại lại tài sản
cầm cố thì bên nhận cầm cố vẫn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bên cầm
cố.

21


- Trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm
dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
Đây là nghĩa vụ đương nhiên của bên nhận cầm cố nhằm bảo đảm quyền
sở hữu của bên cầm cố đối với tài sản cầm cố khi giao dịch cầm cố tài sản chấm
dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
1.4.

Vai trò của cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng


Như đã nêu, hoạt động cấp tín dụng là hoạt động nghiệp vụ cốt lõi và cơ
bản của tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng nói riêng.
Khoản 14, Điều 4 về “Giải thích từ ngữ”, Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010 quy định:
“Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một
khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên
tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng
khác.” [36, khoản 14, Điều 4]
Rủi ro lớn nhất đối với hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng là rủi
ro mất vốn. Để hạn chế rủi ro này, đồng thời tăng cường khả năng thu phần lợi
tức khi khách hàng sử dụng vốn vay, khi tiếp nhận mỗi nhu cầu vay vốn, tổ chức
tín dụng đều phải qua nhiều bước nghiệp vụ nhằm đánh giá chính xác nhất về
phương án sử dụng vốn vay, hiệu suất của việc sử dụng vốn vay,..., nhận định
các rủi ro nhằm hạn chế khả năng thất thoát vốn do việc khách hàng không trả
được nợ vay. Nhưng thực tế, tất cả những công việc tổ chức tín dụng làm trước
khi cấp tín dụng cho khách hàng về bản chất đều là phỏng đoán dựa trên những
phép tính, thuật toán,...; bởi vậy mà không thể mô tả hết các sự kiện có thể xảy
ra trên thực tế ảnh hưởng tới khả năng trả nợ vay của khách hàng.
Trước thực tế đó, tổ chức tín dụng cần tới biện pháp bảo đảm tiền vay như
biện pháp sau cùng để tăng cường, hạn chế rủi ro thất thoát vốn.

22


Thông qua cơ chế xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay, tổ chức tín
dụng có thể tạo lập được những lợi ích vật chất để đối trừ với dư nợ tín dụng của
khách hàng.
1.5.


Vai trò của cầm cố tài sản trong hoạt động của công ty chứng

khoán
Là một chủ thể tham gia thị trường tài chính, công ty chứng khoán giữ
một vai trò quan trọng, quyết định khá nhiều tới sự ổn định, phát triển bền vững
của thị trường chứng khoán.
Trong các hoạt động nghiệp vụ của mình, công ty chứng khoán cũng cung
cấp tới khách hàng các dịch vụ ứng trước tiền; có thể là ứng trước tiền mua hoặc
bán chứng khoán. Mà về bản chất đều là việc công ty chứng khoán cho khách
hàng vay sau đó thu hồi nợ vay bằng phương thức khác nhau. Trong đó, nghiệp
vụ ứng trước tiền mua chứng khoán còn được biết tới bằng khái niệm nghiệp vụ
cho vay giao dịch ký quỹ (margin).
Để được thực hiện cho vay ký quỹ, các công ty chứng khoán phải bảo đảm
điều kiện nhất định và phải được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép. Sau
khi đăng ký mở tài khoản giao dịch ký quỹ tại một công ty chứng khoán, khách
hàng có thể bắt đầu sử dụng dịch vụ của công ty chứng khoán. Khi sử dụng
khoản vay ký quỹ, khách hàng sẽ sử dụng chứng khoán trên tài khoản của mình
(theo quy định thì chỉ được sử dụng chứng khoán được phép ký quỹ) làm tài sản
bảo đảm cho khoản vay ký quỹ. Khi tỷ lệ ký quỹ của khách hàng đến một mốc
nhất định, nếu không bổ sung tài sản để đưa tỷ lệ ký quỹ về mốc duy trì thì công
ty chứng khoán sẽ xử lý tài sản bảo đảm bằng cách bán chứng khoán để thu hồi
nợ vay.
Bởi vậy, giao dịch cầm cố chứng khoán có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
trong hoạt động của công ty chứng khoán. Nếu không sử dụng biện pháp bảo
đảm, sẽ rất rủi ro cho công ty chứng khoán trong trường hợp khách hàng không
trả được nợ vay.

23



×